LIBYE, TIẾNG GỌI CỦA BỔN PHẬN

                            LIBYA,  TIẾNG  GỌI  CỦA  BỔN  PHẬN

 

                                                                                                  Ibrahim Al-Koni

 

 

   Thế giới, đặc biệt người dân các nước lâu nay bị tước đoạt quyền tự do chính trị như Việt Nam, Miến Điện, Cu Ba, Trung Quốc, Syria… , đang chứng kiến từng giờ ngày tàn của chế độ Kadhafi. Động cơ nào đă thôi thúc những thường dân Libya, cũng như thường dân khắp nơi trên trái đất này vốn chỉ muốn sống yên lành và tránh né việc giết chóc,trỗi dậy lao vào cuộc chiến đấu mất c̣n với bạo lực độc tài? Xin giới thiệu bài viết có giá trị văn học của Ibrahim Al-Koni - nhà văn hàng đầu của Libya thuộc bộ tộc touarék hiện đang sống ở Thụy Sĩ đă gửi gấm tâm t́nh di dân xa quê hương vào những ḍng chữ thống thiết và cô đọng khả dĩ lôi cuốn người đọc vào cuộc khởi nghĩa có lẽ trọng đại nhất trong năm 2011 này.                       

 

 CHÂN  PHƯƠNG dịch và giới thiệu

 

 

  Tôi xin phép kể một câu chuyện có giá trị tiêu biểu để làm chứng cho hiện t́nh đang diễn biến tại Lybia: câu chuyện về một doanh nhân đă bị cô lập cùng với gia đ́nh trên một nước lân cận là Tunisia sau các biến động vừa qua. Trong nỗi khao khát muốn hành động để giúp ích cho cuộc cách mạng rửa nhục (la révolution-du-lavage-de-la-honte), ông ta không thể làm ǵ khác ngoài việc trợ cấp tài chính cho việc thuốc thang chăm sóc những người bị thương trong cuộc nổi dậy đă được bí mật đưa qua biên giới để khỏi phải rơi vào các bệnh viện nội địa nơi họ sẽ bị bọn tay sai của chế độ sát hại không nương tay.

 

   Nhưng hành động tiêu tiền để lo cho những kẻ chịu thương vong v́ chân lư vẫn chưa đủ theo quan điểm của ông ta nhất là khi hấp lực của cuộc chiến đấu mà ông cảm nhận được qua tiếp xúc với các người bị thương cùng nhóm khởi nghĩa bảo bọc họ cũng đă lây qua ông. Chính mắt ông đă chứng kiến họ trút hơi thở cuối cùng trong hạnh phúc, hay đúng hơn trong niềm cao hứng tuyệt đỉnh mà người dân Libya đă quên mất từ ngày họ bị biến làm con tin của một chế độ đă cắt ĺa họ khỏi chính bản thân, khỏi tổ quốc và phần c̣n lại của thế giới.

 

   Con người nói trên thỉnh thoảng gọi tôi để b́nh luận về tin tức cuộc chiến và trao đổi quan điểm về những ǵ đang diễn tiến. Mỗi lần như thế ông thố lộ với tôi nỗi cay đắng khi nh́n thấy sự chậm chạp của tiến tŕnh giải phóng, theo ông ác mộng càng kéo dài th́ các nạn nhân vô tội càng tăng. Tôi luôn luôn cố gắng t́m cách an ủi ông ta bằng cách dựa vào cái lôgích của sự vật vẫn nhắc dạy chúng ta rằng sự trừng phạt của định mệnh trước sau ǵ cũng phải đến. Nhưng lập luận này không làm cho ông hài ḷng.

 

   Thế rồi cách đây vài tuần ông ta gọi tôi cho biết ông đă quyết định sống với niềm hạnh phúc giống như những người khởi nghĩa bị thương bằng cách kín đáo trở về Libya để gia nhập mặt trận. Và khi tôi nói vặn lại rằng bỏ tiền chăm lo cho những kẻ chịu thương vong v́ chân lư cũng là tham gia mặt trận, ông ta đă cười nhạo tôi vừa cho tôi biết là ông đă cố tự thuyết phục cả trăm lần với ư nghĩ đó nhưng mà lương tâm ông - thứ phép lạ Đấng Trên Cao đă đặt trong trái tim con người … - đă gạt bỏ lập luận này, do đó ông chỉ c̣n cách là phải chạm mặt với thực tế nếu muốn biết cơi thiên đàng mà ông được nh́n thấy trên mặt những người bị thương khi họ trút hơi thở cuối cùng, cơi thiên đàng yêu cầu ta phải cầm súng giữa ḷng đất nước thiêng liêng

 

   Tôi xin ông cho tôi một ngày để suy nghĩ.

 

   Tôi xin ông ta chút tŕ hoăn không chỉ v́ tôi quí mến ông mà bởi v́ ông là một kẻ tri kỷ gần với tôi hơn là chính cả tôi xuyên suốt tất cả những năm thử thách này; với lại mang số mạng ra làm tṛ đùa một cách bốc đồng như thế chẳng phải chuyện chơi.

 

   Tôi đă đi t́m tia sáng  trên các triền rẫy núi Alpes. Tôi đi vấn ư thiên nhiên, biết rằng bà mẹ hiền minh này chưa từng một lần phản bội tôi. Ở đó, giữa những khoảng không vô cảm và sự tịch mịch nghiêm khắc, tận đáy kư ức trỗi dậy lời dạy tôi vẫn luôn luôn yêu quí của Kant mà tôi đă quên mất như tất cả bùa chú đáng lẽ chúng ta phải ghi tạc vào ḷng:

   “Chúng ta không đến với thế gian để t́m hạnh phúc, chúng ta đến để làm bổn phận.”

 

   Bổn phận ! Đây rồi phần thiếu hụt trong bộ trường thiên của hạnh phúc; đây rồi câu thần chú mở ra trái bầu tiên; đây rồi lời tiên tri cổ kính nuôi dưỡng nghi thức nghiêm trang của niềm tin.

 

   Tôi quay về trao cho ông lời chỉ dạy theo cách diễn ngôn của nhà triết gia môn đồ của thiên nhiên ấy, tất nhiên tôi thấy cần phải thêm thắt một chút ǵ của ḿnh vào thông điệp này sao cho nó được thuyết phục hơn. Tôi bảo cho ông ta điều đó có nghĩa rằng: nếu như chỉ t́m hạnh phúc mà không hoàn tất bổn phận là điều khốn nạn, thế th́ hy sinh hạnh phúc để chu toàn bổn phận của ḿnh là cực điểm hạnh phúc.

 

   Ông bạn thích cách diễn giải này, cũng như mọi lần chúng tôi ngồi lại với nhau để hưởng lạc thú đàm đạo, thực hành nguyên tắc Platon – ông hoàng của đám tiên tri - rằng trên đời này không có hạnh phúc nào sánh bằng được tṛ chuyện với một bạn hiền.

  C̣n thêm một lẽ khiến ông ta thích cách diễn giải này: cũng như tất cả những ai được ân huệ thần linh ban cho sự hiền minh mà không tặng kèm khả năng phát biểu nó thành ngôn từ, ông ta khó thể diễn tả nên lời các tư tưởng của ḿnh.

 

  

 

   Chúng tôi chuyện tṛ dông dài về bổn phận cho đến lúc ông bạn báo cho tôi biết là ngày mai ông sẽ làm cuộc “lữ vong” (exode); ông nói lữ vong không có nghĩa rời bỏ đất nước ra đi sau khi thua bại trong chiến đấu mà là cuộc lữ đưa ta rời chốn lưu đày để giành lại tổ quốc bị lưu đày; cuộc lữ vong hay đúng hơn là sự đào thoát khỏi chiếc lọ chật hẹp của ích kỷ để t́m thiên đàng của tự do. Tự do mà ông ta đề cập ở đây tôi không hiểu được chính xác đó là tự do thực hiện bổn phận hoặc tự do trong định nghĩa quá khích, cực cùng của nó, nghĩa là cái chết - mức độ tột bực của tự do theo quan niệm của  tôn sư (Kant).

 

   Ông hứa sẽ giữ liên lạc với tôi từ trong thánh địa của chiến cuộc nhưng tôi không c̣n biết ông ta ra sao từ nhiều tuần qua.

 

   Tôi đă phạm tội đối với ông bạn chăng khi ban phép lành cho việc ông làm? Sự thật là tôi đă phạm tội với chính tôi…,bởi lẽ người đứng trước nguy cơ đánh mất linh hồn ở đây  trong trường hợp có chuyện ǵ xảy đến chính là tôi trong khi ông ta chỉ đánh mất mớ xiềng xích trói ḿnh, chỉ đánh mất điều duy nhất là sự hổ thẹn của kẻ lẩn tránh lời cầu nguyện thiêng liêng nhất của con người là bổn phận. Ông chỉ đánh mất nỗi ô nhục lúc quay lại ngôi nhà đă được những ai khác giải phóng thay cho ḿnh; ông chỉ đánh mất sự đê tiện được sống trong tổ quốc của ngày mai như một món quà nhận từ bàn tay của những người anh em thay v́ chính ḿnh phải giành lại nó từ móng vuốt của ác long ! Và nếu ông vĩnh viễn không c̣n trở lại, ông không những đă tự giải phóng mà c̣n thực hiện  việc giải phóng. V́ rằng linh hồn các tổ quốc chính là những người giải phóng tổ quốc chứ không phải những cư dân đi đứng hít thở trên đất nước. Chính v́ thế mà gia đ́nh của những kẻ tuẫn quốc là gia đ́nh duy nhất có những đứa con đón nhận cái chết một cách hạnh phúc.

 

  Làm ǵ tôi dám đánh liều kể lại câu chuyện này; chẳng qua kinh nghiệm người bạn thân thiết của tôi cũng chỉ là một trong vô vàn những ví dụ đang diễn ra hôm nay tại Libya.

 

   Đó là những anh hùng đă coi nhẹ mạng sống của ḿnh, không v́ mục tiêu duy nhất là đeo đuổi một cuộc phục thù chính đáng hay t́m lại nhân phẩm đă đánh mất, mà để  khỏi chết dần chết ṃn trong sự lưu đày vốn là thực chất của mọi bạo quyền. Bởi lẽ dưới bóng bạo quyền không có ǵ thoát khỏi sự lưu đày: các loại giá trị, tổ quốc cũng như kẻ ái quốc, niềm tin không thể sống ở đâu khác trừ trái tim con người hết ḷng v́ tổ quốc, chân lư chẳng qua là bộ mặt khác của tự do - miếng mồi đầu tiên trong vô số con mồi bị nuốt vào bụng măng xà. Cho đến thiên nhiên cũng tiêu vong dưới bóng chằn tinh, sau đó là bầu trời h́nh như cũng tự xóa mất.

 

   Óc tưởng tượng của dân Libya đă tiên đoán được điều bất hạnh  khi truyền miệng rằng tương lai sẽ sản sinh một tên chăn cừu cai trị đất nước khốn khổ này trong bốn mươi năm.

 

   Lúc đầu người ta đă xem thường chẳng tin vào lời tiên tri. Sau đó, khi ác mộng kéo dài th́ họ chờ đợi. Rồi không biết đến lúc nào mới được giải thoát, họ đành cam chịu. Đến khi các bất hạnh rơi trên đầu th́ họ tha thứ. Sau đó khi đoạn kết cuộc từng được trông chờ lâu nay xảy đến th́ họ chẳng c̣n niềm tin nữa. Họ đánh mất niềm tin, không chịu tin rằng định mệnh có thể đă sai trật khi vượt qua con số nhiệm mầu lời tiên tri từng dự đoán. Nhưng rồi họ buộc phải phát giác rằng bạo quyền có đặc quyền chống lại ư muốn của chính thần tiên tri. Bởi v́ tên chăn cừu chẳng chịu noi theo gương của nhà bốc thuật Sutayh ngày xưa - vị này biết trước chính xác ngày chết của ḿnh - chịu nằm xuống nhắm mắt ra đi khi ư Trời gọi.

 

   Kể từ lúc ấy, người ta ngộ thấy rằng có cái ǵ đó trật ch́a trong vũ trụ và họ tự gánh trách nhiệm chỉnh đốn lại t́nh thế. Họ nổi dậy khi hiểu được ḿnh là nạn nhân của một sự lừa đảo kéo dài một cách vô lư suốt bốn thập niên !  Nạn nhân của một tên tiên tri giả, nạn nhân của một kẻ Giáng Thế rởm chứ không phải là Đấng Cứu Thế . Thế là họ mài đao lau súng để cắt khoét cái bướu độc đă gặm nhấm cơ thể ḿnh trong bốn mươi hai năm. Một cuộc phẫu thuật chết người bởi lẽ muốn cứu sinh phải loại bỏ lớp b́ định mệnh đă cẩn ốc vào người, bắt buộc phải cắt da ĺa khỏi thịt. Nhưng họ không kinh sợ trước việc này v́ chúng ta vẫn c̣n thấy họ huơ lưỡi dao mổ của ḿnh nơi các chốn công cộng để hoàn tất cuộc phẫu thuật lịch sử này.  

 

   Bởi đă đến lúc phải gọi tên bà - Nữ Hoàng Lịch Sử hỡi (Sa Majesté l’Histoire). Nhắc đến đây Rousseau từng nói: Nếu không có bọn bạo chúa, chiến tranh và những kẻ âm mưu dấy loạn th́ lịch sử sẽ ra sao ?

 

 

NGUỒN: Le Monde Diplomatique, tháng 7 năm 2011.