SỰ KIỆN MỚI BÊN TRỜI TÂY

                          SỰ  KIỆN  MỚI  BÊN  TRỜI  TÂY

              ( La Praxis du Dr. Yov – Bác sĩ Yov, Kẻ Thực Tiễn )

 

 

   Chúng ta lại phải chạy theo cuốn tiểu thuyết mới của Đỗ Kh..Trong các tiểu thuyết bằng Pháp ngữ của ông, nước Việt Nam luôn luôn hiện diện. La Praxis du Dr Yov  cũng chẳng vi phạm qui tắc ấy bởi lẽ Bruce – nhân vật chính trong tiểu thuyết - v́ các biến cố diễn ra vào các ngày tháng cuối khi gă c̣n sống ở VN mà  Bruce phải đâm đầu vào một cuộc phiêu lưu kiểu Ulysses đến tận Beyrouth, về hướng Tây của Sài G̣n.

 

   Có thật Bruce đi t́m Lan, rồi Zena sau đó ? Hay đấy chỉ là cái cớ để lấp đầy cuộc sống tẻ ngắt của gă (“ không có chi lư thú là nhản hiệu cầu chứng cho sự hiện hữu của hắn ta”),

ăn không ngồi rồi và vô chí hướng. Gă sống theo kiểu “bụi đời” (poussière de vie), lang thang, nhưng dù sao cũng trôi nổi khắp thế giới! Không nghề nghiệp ǵ ra hồn: chỉ là mấy việc vờ vịt hay tạm bợ.

 

  Trước tiên ta hăy đặt cuốn truyện vào khung cảnh lịch sử và địa lư. 1982 là năm bản lề của cuộc Nội Chiến Libăng (1975-1990). Beyrouth, xưa là bến tàu nhỏ của dân Phênixi nay trở thành thương cảng, trung tâm văn hóa lớn nằm bên phía Đông Địa Trung Hải vừa là thành phố hưởng lạc của các thủ lĩnh bộ tộc sa mạc, bị cắt đôi bởi cái vạch Xanh (ligne Verte) : phía Tây là các phe Hồi giáo với chiến sĩ Palestin với sự chỉ huy của PLO (Tổ chức Giải Phóng Palestin), c̣n phía Đông là vùng đất của dân Thiên Chúa Giáo. Do Thái

can thiệp  vào ngày 6-6-1982 (Chién dịch Hoà B́nh cho Galilê) và tám hôm sau tiến quân đến tận Beyrouth. Phía tây thủ đô này như thế bị Do Thái bao vây với sự tiếp viện của các lực lượng Phalăngzít Libăng.

 

  Các biến cố được thuật lại trong tiểu thuyết diễn ra từ khi Do Tháp bắt đầu hiện diện ở Beyrouth  đến lúc xảy ra vụ tàn sát ở Sabra và Chatila bị quân Do Thái vây bọc và đám Phalăngzít thanh tẩy.

 

   Beyrouth sau bảy năm xung đột đă bị hư hại nặng, trong khi một bộ phận dân chúng giàu sang trốn tránh sang các nơi thanh b́nh hơn ở châu Âu, tại các nước vùng Vịnh hay ngay trên đất nước Libăng. Nhưng dân tị nạn Hồi giáo lại tràn vào t́m chỗ nương náu bên phía Tây Beyrouth. Như vậy là Bruce rơi vào một thành phố nơi mà các dịch vụ công cộng chẳng c̣n hoạt động b́nh thường và dân t́nh chấp nhận trạng huống đó với óc khôi hài vừa phó mặc cho số mệnh.

 

  “Thiên hạ phàn nàn suốt buổi chiều về đám khói do vụ hoả hoạn nhỏ gây ra bởi lẽ quả bom CBU cũng đă tạt ngă vài b́nh ga nhà bếp cột gắn không cẩn thận. Bọn cứu hỏa đă đến và tháo tung ṿi rồng, rồi bỏ đi sau đó v́ nước không đến được cột trụ chữa cháy.

Đám đông đă cười lăn như vừa chứng kiến một màn hài thành công làm các tay cứu hỏa kia rất mất ḷng. Đúng là dân không chịu chơi dù đă được người ta báo trước là trong quận hạt không c̣n t́m ra nước!

 

   Vậy mà trong khung cảnh bất tiện và khó khăn như thế, thói làm dáng lại sinh động hơn trước – như một cách chống cự lại hiện tại :

 Dù hoàn cảnh thế nào, Marwan vẫn chăm kỹ bộ vó. Lúc nào gă cũng cố gắng diện cho được sơ mi chẽn với quần dài  xếp gấp, điệu đến mức hễ được là moi khẩu súng lục trong túi ra tránh cho mấy cái túi quần  khỏi bị nhăn nhúm,”

 

   Hướng Tây Beyrouth bị đám dân quân palestin và các nhóm tiến bộ chiếm đóng - ở đây các liên minh cũng tụ tan một cách không thể đoán trước tương tự những cuộc dội bom do Israel, đám phalăngít hay giữa các phe nhóm dân quân chơi nhau. Các dấu hiệu của đời sống b́nh thường biến thành những loan báo cho biết bom đạn tạm ngưng chốc lát :

 

   Hoda mỉm cười. Đây là một tin tốt lành hơn sự thông báo không biết lần  thứ mấy của Philippe Habib. Một rồi hai đứa gái, quả là hay hơn tṛ đếm ô buưt nổ. Con chó chạy ngoài đường, ba người ngồi nơi bậc cửa uống cà phê, bốn thằng nhóc chơi đá bóng, thế là thanh b́nh trở lại, hay gần như thế.”

 

   Bruce là sản phẩm từ một cuộc lai giống sinh học và văn hóa lớn: con một phụ nữ gốc Bordeaux với người bố Mỹ vùng Middle West gốc Balan-Lituani. Sinh ra tại Đức, gă từng du lịch nhiều nơi dù với điều kiện hạn chế, có vốn văn hóa sâu rộng, thêm kiến thức thuần lư thuyết về các vũ khí chiến đấu và am tường môn nhiếp ảnh về mặt thực hành v́ gă cho đấy là nghề của ḿnh. “Bruce theo tinh thần quốc tế như theo nghiệp chụp ảnh, ung dung như đút tay trong túi và chỉ làm bán thời gian” và “Bruce tự coi ḿnh là công dân thế giới”.

 

   Vài ngày trước khi Ság̣n sụp đổ, túi tiền sắp cạn, Bruce được người ta đề nghị làm hứa hôn giả với Lan để mang cô gái, gia đ́nh và anh trai cô ta rời Việt Nam - một dự án bất thành. Quay về quê nhà, Bruce dành hết thời giờ đi t́m Lan nơi các khu dân cư Việt trên đất Mỹ vừa gửi tin nhắn t́m người quen cho nhiều tổ chức khác nhau cho đến ngày gă gặp phải Zena, một cô libăng trẻ, trong một cuộc biểu t́nh phe tả ở Los Angeles. Từ đó nảy sinh mối quan hệ giữa hai người cho đến khi Zena bất ngờ biến mất. Thế là Bruce quyết định sang Beyrouth đi t́m nàng ( có lẽ để khỏi truy lùng cô ấy trong các vùng libăng  ở Mỹ). Nhưng khi đến Beyrouth th́ gă quên nhanh cô gái gă vẫn giới thiệu là vị hôn thê của ḿnh để hướng sự chú ư đến các thiếu nữ khác, đặc biệt là Hoda đă trợ giúp và t́m chỗ cho hắn nương thân noi theo truyền thống hiếu khách của Trung Đông.

 

   H́nh như sự chặt đứt quan hệ bất ngờ và toàn diện với một người đàn bà đối với Bruce đă trở thành một lư do để  trám lấp cuộc sống tẻ nhạt của ḿnh. Có thể tóm lược câu chuyện của gă với Lan, Zena và Hoda vào hai câu thơ của Trịnh Công Sơn -thi sĩ sáng tác các ca khúc Việt :

 

Không hẹn mà đến

Không chờ mà đi

 

 

   Dù chứng kiến các biến cố lịch sử trọng đại Bruce chả thu hoạch được bất cứ điều chi đáng kể. Gă khoe ḿnh là nhiếp ảnh gia và diễu bộ với đủ loại máy ảnh không giống với các tay phó nḥm khác nhưng chẳng sản sinh được tấm ảnh nào khiến cho ḿnh nổi tiếng hoặc hái ra tiền. Đúng là Fabrice Del Dongo thất trận ở Waterloo !

 

   Nhưng gă cũng biết khai thác mặt này để thỉnh thoảng lợi dụng cái sự từng trải qua các thời điểm ấy :  

 

  “Các bạn chưa sống ở Việt Nam ? Bruce hỏi. Không, trong đám có mặt chẳng có mống nào ‘được biết mùi VNam’. Điều này tức khắc nâng cao vị thế của Bruce trong bọn họ.

Kể từ đây, gă hoàn toàn xứng đáng được hưởng cốc rượu rosé mà trước đó người ta mời hắn chỉ v́ ḷng tốt xă giao. ‘Lúc Sài G̣n sụp đổ, tôi có mặt ở đó’ Bruce khiêm tốn nói.”

 

   Giống như Fabrice Del Dongo cứ nhắc tới nhắc lui rằng hắn đă từng bị nghe thống chế Ney “mắng mỏ” trong trận Waterloo để được thiên hạ chú ư. Được kề cận sự tiếng tăm đôi lúc có thể trợ giúp tạm thời những kẻ không có dịp may nổi đ́nh nổi đám. 

 

   Đạo văn Stendhal bàn về Fabrice – ta có thể cho rằng chàng Bruce của chúng ta “ chả có ǵ là anh hùng” trong cuốn truyện. Dù sao dưới mắt tôi, gă không phải không có những điểm đáng lưu tâm v́ tính chất bi kịch của ḿnh bởi lẽ , theo cách nói của Georgy

Lukács, Bruce “có một tâm hồn trải rộng hơn mọi thứ định mệnh có thể trao hiến cho gă:

Tâm hồn ấy, trong niềm tin tự phát vào chính ḿnh, đă thay cho thực tại duy nhất, thậm chí là yếu tính cho thế gian này.

 

   Hai mươi hai chương sách là hai mươi hai mẩu chuyện được nối kết một cách lô gich bởi người thuật truyện Đỗ Kh. -  kẻ biết vận dụng óc hoạt kê, sự phớt tỉnh và đôi khi

chất đểu giả với vẻ ung dung bất cần đời rất tự nhiên với ít nhiều thi vị. Và chủ yếu dùng kỹ thuật độc thoại nội tâm để chiếu rọi tính cách các nhân vật.

 

   Ta có thể cảm thấy tiếc là mối quan hệ giữa Bruce với Hoda ( cô gái đă chứa chấp gă ở Beyrouth) phần nào đă bị “ nghẻn hơi” ( chắc chắn là bởi tiếng ô buưt nổ ), và không được tàc giả khai triển thêm. Thuật tranh tối tranh sáng “sfumato” không chắc là thích hợp với mọi người và phần kết không được mở gút khiến cho đoạn chung cuộc có vẻ

tùy tiện – trao quyền cho người đọc tinh tế thêm thắt vào các chỗ khiếm hụt của tiểu thuyết gia.

 

   Với Đỗ Kh. viết văn là cuộc tṛ chuyện vui thích với “cô nhân t́nh tuổi vừa mười tám” như lời Guez de Balzac từng đặt tên cho văn chương. Dù ông từng lang thang qua nhiều vùng địa lư và văn hóa, đối với Đỗ Kh. theo tôi th́ “cuộc đời thật, cuộc đời sau rốt được khám phá và chiếu sáng đó là Văn Chương - cuộc đời duy nhất ta thực sự trải nghiệm được”, mượn lời của Proust trong quyển Le Temps Retrouvé. Bởi v́ văn chương đă dẫn dắt ông trên con đường t́m hiểu con người cùng những thế giới ông đă kinh qua. Và ông đă thuật tả chúng với nhiều chất thơ, óc trào lộng và tính chính xác trong quyển sách này.

 

   Như với nhân vật Tintin, tôi không nghi hoặc chi về sự ra mắt sắp tới của “Bruce ở Afghanistan”, “Bruce bên Irắc” hay là “Bruce ở Syria”.

 

PHẠM TÙNG CƯƠNG

Tháng 8 -2015

 

(CHÂN PHƯƠNG dịch từ nguyên văn tiếng Pháp)