HienDaiThuHaiVaNenVanHoaCongLuan-BVNS

 

“ HIỆN ĐẠI THỨ HAI ” VÀ NỀN VĂN HOÁ CÔNG LUẬN

Bùi Văn Nam Sơn

 

Thế giới kết thúc thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI bằng một sự kiện đặc biệt : hội nghị Copenhagen về biến đổi khí hậu được tổ chức rầm rộ chưa từng có với kết quả… đáng thất vọng ! Cái “ Realpolitik ” (“ chính trị thực tế ”) v́ lợi ích trước mắt của các quốc gia dường như vẫn c̣n thắng thế trước các mối hiểm hoạ toàn cầu. Tuy nhiên, ở b́nh diện khác, hội nghị ấy vẫn mang tầm vóc lịch sử, v́, dù muốn hay không, nó là một dấu hiệu xác nhận các dự báo lư thuyết của nhiều nhà nghiên cứu xă hội vào những năm giao thời giữa hai thiên niên kỷ : sự chuyển biến khách quan của công cuộc hiện đại hoá thứ nhất sang thời kỳ hiện đại hoá thứ hai với một loạt các khái niệm mới mẻ như : xă hội - nguy cơ, xă hội - thế giới và nền văn hoá công luận… Có đủ lư do để chúng ta, khi đón Xuân mới, thử tiếp cận với hệ vấn đề mới mẻ này, hay, nói đúng hơn, trở lại với vấn đề hiện đại hoá.

 

1. Từ “ Hiện đại hoá thứ nhất ” đến “ Hiện đại hoá thứ hai ”

 

Hiện đại hoá (thứ nhất) là một phức hợp những biến đổi bắt đầu từ thế kỷ XVIII ở phương Tây với các tiến tŕnh công nghiệp hoá, đô thị hoá và cá nhân hoá. Luận điểm chủ yếu hiện nay : chúng ta đang là những chứng nhân của một sự đứt găy của tiến tŕnh hiện đại hoá, v́ tiến tŕnh ấy từng bước thoát ly khỏi các khuôn khổ của xă hội công nghiệp cổ điển để mang dấu ấn của một h́nh thái mới, gọi là xă hội - nguy cơ. Nếu trong ba thế kỷ qua, hiện đại hoá đă làm tan ră xă hội nông nghiệp lạc hậu và h́nh thành cấu trúc của xă hội công nghiệp th́ công cuộc hiện đại hoá (thứ hai) ngày nay lại bắt đầu phá vỡ các khuôn khổ của xă hội công nghiệp để h́nh thành một h́nh thái xă hội mới. Đặc trưng để phân biệt giữa hai thời kỳ sẽ là sự thay thế “ lôgíc của việc sản xuất sự giàu có ” bằng một “ lôgíc ” mới đang ngày càng chiếm ưu thế : “ lôgíc của việc sản xuất nguy cơ ”, đồng thời cũng là sự biến đổi từ “ lôgíc của việc phân phối sự giàu có ” thành “ lôgíc của việc phân phối nguy cơ ”.

Trong xă hội tiền - hiện đại, nguy cơ chủ yếu gắn liền với thế giới tự nhiên : đói kém, bệnh tật, động đất…; c̣n ngày nay nguy cơ chủ yếu do chính con người tạo ra : sản xuất thừa, bất công, thất nghiệp, ô nhiễm với các dạng nguy cơ điển h́nh : hạt nhân, hoá học, sinh học và môi trường. Xă hội nguy cơ do nhân tai dần thế chỗ cho xă hội bất trắc do thiên tai.

Xă hội - nguy cơ, theo cách gọi của nhà xă hội học Ulrich Beck, sẽ mang nhiều đặc tính chưa từng có trước nay :

- các bất trắc của xă hội tiền-hiệnđại và các khuyết tật của xă hội công nghiệp cổ điển dễ được nhận diện và xử lư. Trái lại, các nguy cơ ngày nay không dễ dàng nhận thấy, không ai quản lư nổi và ảnh hưởng lâu dài đến các thế hệ tương lai : chẳng hạn, phóng xạ, hoá chất độc hại, ô nhiễm không khí, thực phẩm biến đổi gien

- mâu thuẫn trung tâm của xă hội hiện đại : những đại nguy cơ do chính con người tạo ra nhưng lại rất khó quy lỗi cho ai và không biết phải xử lư làm sao, v́ chúng không thể bù đắp được bằng tiền bạc và cũng không thể bảo hiểm. Nói khác đi, đó là một “ sự vô trách nhiệm có tổ chức ” !

- trong xă hội công nghiệp, tác động của sự bóc lột, nghèo đói, bất công… được cảm nhận khác nhau tuỳ theo vị trí xă hội, trong khi đó, các nguy cơ của xă hội hậu-côngnghiệp không c̣n được phân chia hay sắp xếp theo trật tự giai cấp : người giàu, kẻ mạnh đều không thoát nạn : “ sự túng quẫn th́ có tính đẳng cấp, c̣n ô nhiễm không khí th́… dân chủ ! ”.

- các nguy cơ vượt ra khỏi ranh giới mọi quốc gia ; xă hội nguy cơ cũng đồng thời là xă hội nguy cơ toàn cầu.

- cấu trúc của sự bất công xă hội trong mỗi quốc gia và trong phạm vi thế giới c̣n lâu mới có thể thay đổi, nhưng xă hội nguy cơ sẽ làm biến đổi sâu sắc những điều kiện sống vật chất lẫn văn hoá. Vị trí kinh tế trong xă hội không c̣n nhất thiết đi liền với sự dị biệt về đẳng cấp như trước đây nữa. Hệ thống phúc lợi xă hội hiện đại, tính cơ động trong điều kiện sinh hoạt và làm việc của mọi người, nhất là của phụ nữ, sự bùng nổ của nền giáo dục suốt đời, việc mở rộng liên tục những quan hệ cạnh tranh… sẽ thúc đẩy mạnh mẽ tiến tŕnh cá nhân hoá. Thật thế, trước đây, trong quá tŕnh công nghiệp hoá, con người trở thành một bánh răng trong bộ máy, một con số bị quản lư, cá nhân là một cá nhân thụ động, bị tổn thương (theo cách nh́n của Weber, Adorno, Horkheimer, Foucault…). Trong thời kỳ công nghiệp phát triển, từ một cách nh́n khác (Durkheim, Parsons, Luhman…), con người được giải phóng để trở thành cá nhân chủ động, thậm chí trở thành cá nhân nguy hiểm, cá nhân ph́ đại (hyper-individual), có khả năng gây tổn hại cho sự cố kết xă hội. Trong thời kỳ hiện đại hoá thứ hai đang và sẽ diễn ra, tiến tŕnh cá nhân hoá không khỏi mang lại một loại h́nh cá nhân khác nữa : cá nhân nước đôi, cá nhân nguy cơ, với tất cả… thách thức lẫn cơ hội không lường trước được. Sự mất an toàn sẽ thay chỗ cho sự khan hiếm. Cộng đồng nhu cầu chuyển thành cộng đồng lo âu. Trong thời kỳ hiện đại thứ nhất, ư tưởng chi phối xă hội là ư tưởng về sự (bất) b́nh đẳng và đ̣i hỏi phúc lợi ; trong xă hội nguy cơ, sẽ là ư tưởng về sự an toàn. Động lực của xă hội trước đây là : “ Tôi đói ! ”, c̣n động lực của xă hội tương lai sẽ là : “ Tôi sợ! ”. “ Giấc mơ của xă hội phân chia giai cấp là ai ai cũng muốn và cần giành được một phần của chiếc bánh. C̣n trong xă hội nguy cơ, giấc mơ là làm sao cho ḿnh tránh khỏi bị đầu độc ” !

 

Các nguyên tắc của Hiện đại thứ nhất

Bị giải thể bởi

Các diễn tŕnh thay thế

Phương hướng khắc phục trong Hiện đại thứ hai

Nhà nước dân tộc

Toàn cầu hoá

Tính toàn cầu

Toàn cầu hoá

Chủ nghĩa toàn cầu

Chính trị toàn cầu

Xă hội tập thể, xă hội các nhóm lớn

Cá nhân hoá

Các h́nh thức gia đ́nh da dạng

Thay đổi quan hệ giới tính

Chủ nghĩa cá nhân được định chế hoá

 

 

 

 

 

Xă hội công dân (Bürgergesellschaft / citizen-society)

Xă hội lao động làm thuê và doanh nghiệp

Hợp lư hoá / xă hội nguy cơ / “hiệu ứng thang máy” (toàn xă hội cùng lên một tầng cao hơn nhờ cải thiện thu nhập, nhưng không thay đổi cấu trúc xă hội).

Linh động hoá các h́nh thức lao động

Thất nghiệp thời vụ

 

Dị biệt: Xă hội / Tự nhiên

Nguy cơ của các đại công tŕnh kỹ thuật; khủng hoảng môi trường

biến đổi khí hậu

các nguy cơ môi trường

các tai nạn kỹ thuật lớn với hậu quả khôn lường

Dân chủ hoá (cấu trúc) khoa học và kỹ thuật

 

2. Hiệnđại-phảntư và xăhội-thếgiới

 

Trong xăhội-nguycơ, người ta đứng trước nghịch lư : sự lạm phát của những nguy cơ được cảm nhận lại dễ dàng dẫn đến sự dửng dưng, v́ khi tất cả đều có thể trở nên nguy hại th́ dường như chẳng c̣n có ǵ là thực sự nguy hiểm nữa. Thêm vào đó, giới khoa học – với trách nhiệm xă hội cố hữu là phát hiện và cảnh báo – cũng thường bất lực trước sức ép và các thủ đoạn che đậy, xuyên tạc của các nhóm lợi ích. Do đó, sự thức tỉnh và phản tư cần phải được đặt ra trong một khuôn khổ và phạm vi sâu rộng hơn trước nhiều. Tiến tŕnh hiện đại hoá chỉ trở nên phản tư, khi có đủ sức lấy chính ḿnh và những nguy cơ do ḿnh tạo ra làm chủ đề và vấn đề. Khi nh́n nhận rằng vấn đề không c̣n chỉ là tận dụng giới tự nhiên để giải phóng con người khỏi những cưỡng chế và thiếu thốn theo kiểu truyền thống mà là quan tâm đến những hậu quả của bản thân sự phát triển kinh tế - kỹ thuật th́ chủ đề bàn luận là hiểu rằng tiến tŕnh hiện đại hoá – xét như tiến tŕnh đổi mới – cũng sẽ cũ đi. Phương diện khác của việc cũ đi này chính là sự ra đời xăhội-nguycơ : vượt ra khỏi những cơ chế kiểm soát và an toàn của xă hội công nghiệp truyền thống. Trong tinh thần ấy, hiệnđại-phảntư một mặt chống lại việc tiếp tục tiến tŕnh hiện đại hoá một cách mù quáng, v́ Hiện đại thứ nhất chỉ mới là nửa hiện đại, c̣n mang đậm nhiều yếu tố tiền-hiệnđại, cần phải được giải thể và thay thế. Mặt khác, nó cũng phải tranh biện với các xu hướng hậu-hiệnđại muốn vứt bỏ hết mọi giá trị của Hiện đại. Hiệnđại-phảntư không c̣n chạy theo sơ đồ ứng xử và tư duy đơn thuần mang tính phươngtiện-mụcđích của Hiện đại thứ nhất, trái lại, bất chấp mọi sự đứt găy, vẫn giữ vững và phát huy hằng số của các nguyên tắc hiện đại ; đó là : sự bó buộc phải biện minh và lập luận, sự cạnh tranh của các lư lẽ và tôn trọng lư lẽ tốt hơn v́ không ai nắm độc quyền chân lư, và, thứ ba, thừa nhận vị trí trung tâm của cá nhân với đầy đủ những quyền tự do chính trị, xă hội, văn hoá. Về mặt cấu trúc, hiện đại thứ hai hay hiện đại phản tư vẫn tiếp tục mang tính hiện đại, nhưng là tính hiện đại khác, kiểu khác.

Nếu xăhội-nguycơ đă trở thành xăhội-nguycơ toàncầu th́ bản thân mỗi xă hội riêng lẻ cũng mặc nhiên trở thành xăhội-thếgiới. Các vấn đề toàn cầu cần đến những giải pháp toàn cầu (chẳng hạn : Nghị định thư Kyoto…), các thế lực toàn cầu (chẳng hạn các công ty xuyên quốc gia…) cần được đối trọng và kiềm chế bởi những định chế pháp lư quốc tế (nhiều người đă nghĩ đến mô h́nh “ các Nhà nước xuyên quốc gia ” v.v…). Muốn giải quyết các xung đột liên-quốcgia một cách hoà b́nh, vai tṛ của công pháp quốc tế ngày càng trở nên quan trọng và cấp bách.

 

3. Nền văn hoá công luận

 

Nhận diện xă hội công nghiệp như một xăhội-nguycơ để phê phán và cải biến nó không thể không cần đến những cuộc thảo luận, tranh luận trong chốn riêng tư lẫn công cộng. Tuy nhiên, nhận thức những ǵ trước đây là hợp lư và đúng chức năng nay đang biến thành phi lư và phản chức năng bao giờ cũng khó khăn và gặp nhiều lực cản. “ Sự biến đổi cấu trúc của công luận ” là một đề tài lớn, đă được Habermas nghiên cứu từ khá sớm và ngày càng được giới nghiên cứu đặc biệt lưu ư. Trước thế kỷ XVIII, nền văn hoá Âu Châu là nền văn hoá “ nghi vệ ” mà biểu tượng điển h́nh nhất của nó là cung điện Versailles của vua Louis XIV : sự vĩ đại của nước Pháp và của hoàng đế chế ngự cảm quan của người xem như là sự “ độc diễn ” của một phía. Sự ra đời của báo chí, các câu lạc bộ đọc sách, các quán cà phê trong thế kỷ XVIII báo hiệu sự suy tàn của nền văn hoá “ nghi vệ ” phong kiến, nhường chỗ cho nền văn hoá “ công luận ” mang tính phê phán và tự do tư tưởng. Theo Habermas, Đại Cách Mạng Pháp chính là kết quả của sự biến đổi văn hoá ấy. Nhưng rồi chính sự lớn mạnh của nền truyền thông thương măi, sự ra đời của nhà nước phúc lợi trộn lẫn nhà nước và xă hội đă biến công luận phê phán thành một công luận tiêu thụ thụ động. Nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa (chủ nghĩa tư bản cổ phần, nhà nước phúc lợi, nền văn hoá tiêu thụ đại trà) đă phổ quát hoá lôgíc của tính hiệu quả và sự kiểm soát xă hội. Ranh giới giữa công cộng và riêng tư, giữa cá nhân và xă hội, giữa hệ thống (quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế) và thế giới cuộc sống trở nên nhập nhằng : hệ thống ngày càng khống chế và “ thuộc địa hoá ” thế giới cuộc sống, các đảng phái và các nhóm lợi ích thay chỗ cho nền dân chủ tham dự, xă hội ngày càng được quản lư tinh vi, vượt ra khỏi năng lực nắm bắt của những người công dân. Và chính xăhội-nguycơ – và cùng với nó là xăhội-thếgiới toàncầuhoá – vào đầu thế kỷ XXI lại là cơ may để từng bước khôi phục và phát triển nền văn hoá công luận đúng nghĩa. Habermas tỏ ra lạc quan về triển vọng hồi sinh của “ khu vực công cộng ”. Ông nh́n thấy trong tương lai kỷ nguyên mới của một “ cộng đồng chính trị ” vượt ra khỏi khuôn khổ của các cộng đồng hạn hẹp dựa trên cơ sở quốc gia, chủng tộc và sự đồng nhất văn hoá để tiến tới một cộng đồng dựa trên những người công dân có những quyền hạn và nghĩa vụ b́nh đẳng được đảm bảo về pháp luật. Cộng đồng chính trị mang tính toàn cầu ấy đ̣i hỏi một nền văn hoá công luận tích cực, nơi đó những vấn đề thuộc về lợi ích chung có thể được thảo luận một cách công khai và ṣng phẳng, và sức mạnh của công luận có thể tác động hiệu quả đến các quá tŕnh lấy quyết định.

Tuy đă “ chạm đúng vào dây thần kinh của thời đại ” (Armin Nassehi), nhưng thật ra, các khái niệm mới mẻ như “xăhội-nguycơ”, “xăhội-thếgiới”, “hiệnđại thứ hai”… mới chỉ là những dự phóng lư thuyết, chưa thực sự ổn định và c̣n cần tiếp tục điều chỉnh, phát triển. Và ngay cả sự hy vọng của một tác giả có uy tín lớn như Habermas cũng không phải được mọi người đồng t́nh và chia sẻ. Michael Schudson (đại học California, San Diego) ngờ rằng một khu vực công (luận) dành cho sự trao đổi thực sự độc lập và thuần tuư dựa vào lư lẽ đă và sẽ không bao giờ có thật ! Nhưng, khác với nhiều dự phóng không tưởng trước đây, các nhà nghiên cứu xă hội ngày nay thường không thiếu những dữ kiện xă hội hiện thực để làm cơ sở cho những lư thuyết của ḿnh. Thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Các nhà lư thuyết nhiều khi phải chạy hụt hơi mới theo kịp hiện thực, nhưng đồng thời, nhiều dự phóng lư thuyết có cơ sở sẽ lại mở đường và định h́nh cho hiện thực, như kinh nghiệm lịch sử đă nhiều lần cho thấy. Ngay cả sự “ không tưởng ” cũng không thừa ! “ Một khi mọi ốc đảo của sự không tưởng đă trở nên khô cạn th́ chỉ c̣n lại sa mạc của sự bất lực và vô nghĩa ”. Xin mượn câu nói ấy của Habermas làm món quà Xuân gửi đến bạn đọc.

Bùi Văn Nam Sơn