Max Weber

Max Weber

Đạo đức Tin lành và Tinh thần của chủ nghĩa tư bản

NXB Tri thức, 2007

 

Lời giới thiệu

Trần Hữu Quang

Bùi Văn Nam Sơn

 

    Max Weber (tên đầy đủ là Maximilian Carl Emil Weber) (1864-1920), nhà xă hội học người Đức, là một trong số ít tác giả có tầm ảnh hưởng lớn lao trong ngành xă hội học, và được xem là một trong những ông tổ của ngành khoa họcxă hội này, bên cạnh những tác giảtên tuổi như Karl Marx, Emile Durkheim, Vilfredo Pareto, Georg Simmel... Một số luận điểm và công tŕnh nghiên cứu của ông đă và vẫn c̣n tiếp tục là đề tài gây tranh luận trong giới học thuật, kể cả về phía những người ngưỡng mộ lẫn về phía những kẻ phê phán. Kể từ khi có bản dịch đầu tiên sang tiếng Nga cho tới những bản dịch sang tiếng Nhật sau này, các công tŕnh của ông đă không ngừng gây ảnh hưởng lớn lao tới các bước phát triển của ngành xă hội học ở hầu như tất cả các nước trên thế giới.

    Nhưng Weber không chỉ là một nhà xă hội học, ông c̣n được biết đến như là một nhà triết học, nhà luật học, nhà kinh tế học và nhà sử học với những kiến thức và lư giải uyên thâm. Khối lượng công tŕnh đồ sộ của Weber có thể được xếp làm bốn loại chính sau đây : (a) các công tŕnh phương pháp luận trong khoa học xă hội và triết học, (b) các công tŕnh sử học, (c) các công tŕnh xă hội học về tôn giáo, và (d) công tŕnh quan trọng nhất của Weber là quyển Wirtschaft und Gesellschaft (Kinh tế và xă hội) (1922).[1] Vốn được coi là một trong những nhà sáng lập của bộ môn xă hội học, Weber đă để lại những dấu ấn đặc trưng về mặt tư duy phương pháp luận xă hội học. Cũng giống như Georg Simmel (1858-1918), một nhà triết học và xă hội học Đức và cũng là bạn của ông, Max Weber c̣n được coi là một nhà tư tưởng về tính hiện đại (Modernität) – tínhhiện đại xét như là hệ quả của quá tŕnh lư tính hóa (Rationalisierung) toàn bộ đời sống xă hội trong quá tŕnh chuyển từ các xă hội cổ truyền sang các xă hội tư bản chủ nghĩa hiện đại ở châu Âu.

    Theo nhà xă hội học người Mỹ Talcott Parsons, người ta thấy nổi lên hai mối bận tâm chính trong toàn bộ sự nghiệp khoa học của Weber : đó là mối bận tâm về phương pháp luận và về việc xây dựng lư thuyết trong khoa học xă hội, và mối bận tâm về việc làm sao hiểu được cấu trúc xă hội và đặc điểm phát triển của nền văn minh Tây phương hiện đại.[2]

    Theo Weber, thuật ngữ “xă hội học” thường bị sử dụng một cách khá mơ hồ. Trong công tŕnh Wirtschaft und Gesellschaft (Kinh tế và xă hội) (1922), ông định nghĩa xă hội học là “một môn khoa học nhằm thông hiểu bằng cách lư giải [deutend verstehen] hành động xă hội và nhờ đó giải thích một cách nhân quả sự diễn tiến và các tác động của nó.”[3] Định nghĩa này đă nêu ra ba giai đoạn trong lối tiếp cận của Weber : thông hiểu (verstehen), lư giải (deuten), và giải thích (erklären). Trước hết, chúng ta cần hiểu hành động xă hội của các cá nhân bằng cách chú tâm tới ư nghĩa mà họ nhắm đến – với một thái độ phương pháp luận khách quan và trung tính. Sau đó, để có thể sắp xếp lại cái thực tại vô cùng đa dạng, chúng ta cần áp dụng nguyên tắc xây dựng “loại h́nh-lư tưởng” (Idealtypus) vốn có chức năng chính là giúp chúng ta lư giải thực tại. Và cuối cùng, chúng ta cần đi t́m nguyên nhân nhằm giải thích được thực tại – đây vốn là mục tiêu tối hậu của ngành xă hội học.[4]

    Đối với Weber, xă hội học phải là một bộ môn khoa học “thông hiểu” (verstehende Soziologie) về “hành động xă hội” (soziales Handeln). Weber cho rằng chỉ khi nào thông hiểu được các hành động xă hội của các cá nhân, thông hiểu được ư nghĩa mà các cá nhân gán cho hành động của họ, th́ chúng ta mới có thể giải thích được một cách thấu đáo các sự kiện xă hội hay các hiện tượng tập thể. Quan niệm này đối lập với lập trường phương pháp luận của nhà xă hội học Pháp đương thời là Emile Durkheim (1859-1917), vốn quan niệm xă hội học phải trở thành “một ngành khoa học thực chứng” (science positive).

    Chính v́ có lối tiếp cận ấy mà Max Weber đă viết vào năm 1904-1905 công tŕnh nổi tiếng mang tên là Die protestantische Ethik und der Geist des Kapitalismus (Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản, từ đây viết tắt là ĐĐTL). Đây không phải là một công tŕnh nghiên cứu xă hội học về tôn giáo theo đúng nghĩa của chuyên ngành này, v́ đối tượng nghiên cứu của nó không phải là một vấn đề tôn giáo, mà là mối quan hệ giữa nền đạo đức Tin lành và “tinh thần” của chủ nghĩa tư bản. Trong quyển sách này, Weber khảo sát quan niệm đạo đức và động cơ ứng xử của các cá nhân thuộc các giáo phái Tin lành, cũng như ư nghĩa mà̀ họ gán cho hành động xă hội của ḿnh, nhằm đi đến giả thuyết cho rằng  nền đạo đức Tin lành có một mối liên hệ “tương hợp chọn lọc” [Wahlverwandtschaften] với “tinh thần” của chủ nghĩa tư bản, và do vậy đă tạo ra một số động lực tinh thần cần thiết và thuận lợi cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở châu Âu.

    Thực ra, Max Weber không phải là người đầu tiên nêu câu hỏi : đạo Tin lành có dính líu ǵ và ở mức độ nào với chủ nghĩa tư bản ? Vào đầu thế kỷ XX, đă có một loạt học giả Đức bàn về vấn đề này (mà Weber đều có quen biết) như Eberhard Gothein, Werner Sombart, Georg Jellinek và Ernst Troeltsch. Cơ hội trực tiếp khiến ông quan tâm đặc biệt đến vấn đề là vào tháng 4-1903 nhân “Hội nghị của sử gia Đức” (Deutscher Historikertag) ở Heidelberg và ông được nghe Georg Jellinek phê phán rất mạnh bộ Chủ nghĩa tư bản hiện đại (Der moderne Kapitalismus) (hai tập) (1902) của Werner Sombart. Trong quyển ĐĐTL này, Weber có ư muốn lư giải chủ nghĩa tư bản khác với Sombart mà ông đă nhiều lần phản bác. Cũng trong năm 1903, ông đă sang Hà Lan để t́m thêm tư liệu về đạo Tin lành. Và ông đă phát hiện mối quan hệ giữa “một số quan niệm Puritanist [Thanh giáo]” và sự ra đời của “tinh thần” của chủ nghĩa tư bản. Kết quả sơ khởi này được ông nêu trong phần đầu của công tŕnh nghiên cứu về “Roscher und Knies und die logischen Probleme der historischen Nationalökonomie” (Roscher và Knies và các vấn đề lôgic của khoa lịch sử kinh tế quốc dân), trong đó ông đưa ra ư tưởng như sau : “Một nghiên cứu sâu hơn có lẽ sẽ cho thấy rằng sự phân ly này [giữa nền kinh tế tư nhân và hoạt động công cộng] có nguồn gốc từ một số quan niệm Puritanist nhất định, vốn đă có ư nghĩa rất lớn đối với 'sự ra đời của tinh thần tư bản chủ nghĩa'.”[5]

    Ư tưởng đó h́nh thành dần dần trong bài “Die 'Objektivität' sozialwissenschaftlicher und sozialpolitischer Erkenntnis” (“Tính khách quan” của nhận thức khoa học xă hội và chính trị-xă hội) đăng vào năm 1904 trong Archiv für Sozialwissenschaft und Sozialpolitik, tập XIX, tức một tập trước khi công bố luận văn đầu tiên của ĐĐTL (tập XX, 1904). Trong bài báo đó, Weber nhấn mạnh đến sự cần thiết phải “phác thảo một 'ư niệm' về nền văn hóa tư bản chủ nghĩa” (“Zeichnung einer 'Idee' der kapitalistischen Kultur”) cũng như đă đề cập đến sự phân biệt rất cơ bản giữa “giáo hội” (“Kirche”) và “giáo phái” (“Sekte”), và tầm quan trọng của niềm tin vào sự tiền định (Prädestinationsglauben) trong giáo thuyết của Calvin.

    Trong số các trước tác của Weber, chính quyển ĐĐTL này đă làm cho giới nghiên cứu hao tốn nhiều giấy mực nhất kể từ khi xuất bản lần đầu cho tới ngày nay. Max Weber có lẽ là một trong số rất ít tác giả xă hội học, nếu không muốn nói là người duy nhất, đă coi các nhân tố tôn giáo như có vai tṛ trung tâm trong sự h́nh thành của các nền văn minh và đặc biệt là trong sự ra đời của tư duy duy lư Tây phương. Trong những công tŕnh nghiên cứu khác về các tôn giáo lớn trên thế giới như Do Thái giáo cổ đại, Lăo giáo, Khổng giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo (mà ông bắt đầu nghiên cứu kể từ năm 1911), ông đă t́m cách xác định vai tṛ của các nền văn hóa tôn giáo và các nền đạo đức tôn giáo với tư cách là những nhân tố thúc đẩy hay ḱm hăm sự phát triển của nền văn minh công nghiệp tư bản chủ nghĩa cận đại.

    Người ta có thể đồng ư hay không đồng ư với giả thuyết của ông về vai tṛ chủ yếu của nền đạo đức khổ hạnh Tin lành trong sự sinh thành của tư duy duy lư tư bản chủ nghĩa Tây phương, nhưng đáng chú ư là trong lịch sử khoa học xă hội hiện đại, hiếm có luận đề nào gây ra những cuộc tranh căi sôi nổi kéo dài hơn một thế kỷ và cho đến nay vẫn c̣n kích thích mở ra nhiều cuộc nghiên cứu mới.[6]

I. Chủ nghĩa tư bản theo Weber

    Xét về mặt nào đó, có thể nhận định như một tác giả rằng toàn bộ các công tŕnh của Max Weber đều mang thao thức về vấn đề nguồn gốc của chủ nghĩa tư bản : tại sao và làm thế nào mà cuối cùng chủ nghĩa tư bản đă được xác lập không chỉ như một mô h́nh ứng xử kinh tế thống trị, thậm chí duy nhất, mà nh́n chung c̣n là một mô h́nh văn hóa ghi dấu ấn lên trên toàn bộ các lĩnh vực đời sống xă hội, tinh thần cũng như vật chất ở châu Âu cận đại và đương đại ?[7]

    Đề cập tới chủ nghĩa tư bản xét như là “sức mạnh mang tính chất quyết định nhất trong đời sống hiện đại của chúng ta[8] (tức là ở các xă hội Âu châu), trong bài “Vorbemerkung” [“Lời nhận xét mở đầu”] mà ông viết vào cuối năm 1919, Max Weber nhấn mạnh rằng, trái ngược với quan niệm ngộ nhận thông thường, chủ nghĩa tư bản hoàn toàn không phải là hệ quả của ḷng hám lợi hay máu tham tiền vốn là những hiện tượng mà người ta có thể bắt gặp ở bất cứ xă hội nào vào bất cứ thời đại nào. Ông viết : “ ‘Ham muốn chiếm hữu’, ham muốn ‘chạy theo doanh lợi’, chạy theo tiền bạc, càng nhiều tiền càng tốt, tự chúng không có liên quan ǵ tới chủ nghĩa tư bản. Ham muốn ấy đă từng tồn tại và đang tồn tại nơi những người hầu bàn, người bác sĩ, người đánh xe ngựa, người nghệ sĩ, người đàn bà lẳng lơ, người công chức tham ô nhũng lạm, người lính, kẻ trộm cắp, kẻ viễn chinh, kẻ cờ bạc, kẻ ăn mày. (…) Ḷng hám lợi vô độ không hề giống chút nào với chủ nghĩa tư bản, và lại càng không mảy may liên quan ǵ tới ‘tinh thần’ của nó.”[9]

    Ngược lại, chủ nghĩa tư bản, theo Weber, “chính là sự chế ngự [Bändigung], hay chí ít là sự điều tiết bằng lư tính, cái bản năng phi lư tính ấy”.[10]

     Weber h́nh dung chủ nghĩa tư bản như là sự hiện diện và sự hoạt động của những doanh nghiệp mang mục đích làm ra lợi nhuận tối đa và có lối tổ chức thuần lư đối với lao động và sản xuất. Ông viết : “Thật vậy, chủ nghĩa tư bản đồng nghĩa với việc đi t́m lợi nhuận trong những doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa liên tục và thuần lư : đi t́m một lợi nhuận luôn luôn tái sinh, đi t́m ‘tính sinh lợi’. V́ nó buộc phải như thế. Khi mà toàn bộ nền kinh tế nằm trong trật tự tư bản chủ nghĩa, th́ bất cứ một doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa riêng lẻ nào không tự định hướng ḿnh theo mục tiêu đạt được tính sinh lợi th́ chỉ có nước tiêu vong.[11]

    B́nh luận về điểm này, nhà xă hội học người Pháp Raymond Aron (1905-1983) lưu ư thêm rằng, thực ra, ở đây Weber coi đặc trưng cấu thành then chốt của chủ nghĩa tư bản không phải là việc đi t́m “lợi nhuận tối đa” (profit maximum), mà là việc tích lũy bất tận (accumulation indéfinie). Từ xưa tới nay, thương nhân nào cũng muốn kiếm lời tối đa qua mỗi vụ buôn bán. Nhưng đối với nhà kinh doanh tư bản chủ nghĩa th́ nét đặc trưng không nằm ở chỗ ông ta không hạn chế ham muốn doanh lợi, mà ở chỗ ông ta luôn nung nấu ham muốn tích lũy không ngừng ngày càng nhiều, và do vậy mà ư chí sản xuất của ông ta cũng trở nên không có giới hạn. Chính là sự kết nối giữa ham muốn lợi nhuận với tính kỷ luật thuần lư và lối tổ chức thuần lư mới tạo nên nét đặc trưng của chủ nghĩa tư bản Tây phương.[12]

    Raymond Aron nhấn mạnh rằng, theo quan niệm của Weber, không phải chỉ có một, mà là có nhiều dạng chủ nghĩa tư bản trong lịch sử thế giới. Nói cách khác, mỗi xă hội tư bản chủ nghĩa có những nét đặc trưng không giống với các xă hội tư bản chủ nghĩa khác. Và chính v́ thế mà Weber áp dụng phương pháp “loại h́nh-lư tưởng” để xác định thế nào là chủ nghĩa tư bản, nghĩa là xây dựng khái niệm chủ nghĩa tư bản dựa trên một số nét đặc trưng nhất.[13]

    Weber viết : “(…) theo những tư liệu kinh tế mà chúng ta biết được cho đến nay, ở tất cả các nền văn hóa đă từng có 'chủ nghĩa tư bản' và những doanh nghiệp 'tư bản chủ nghĩa' dựa trên một [mức độ] lư tính hóa nào đó trong việc hạch toán đồng vốn. Ở Trung Hoa, Ấn Độ, Babylon, Ai Cập, ở vùng Địa Trung Hải thời cổ đại, vào thời trung đại cũng như vào thời cận đại.[14] Trên khắp thế giới, ở đâu cũng có thương nhân, bán sỉ hay bán lẻ, những người cho vay, những nhà kinh doanh thực dân, những ông chủ đồn điền sở hữu nô lệ, sử dụng lao động khổ sai trực tiếp hoặc gián tiếp, những kẻ đầu cơ “chuyên đi săn mọi cơ hội để kiếm tiền”, những “kẻ phiêu lưu tư bản chủ nghĩa”… Và phần lớn hoạt động của những loại người này “đều mang tính chất thuần túy phi lư tính và đầu cơ, hoặc là thiên về cách chiếm hữu bằng bạo lực, nhất là chiếm đoạt chiến lợi phẩm thông qua chiến tranh, hay dưới h́nh thức chiến lợi phẩm tài chánh, nghĩa là thông qua việc bóc lột những người bị trị”.[15]

    Theo Weber, đấy chỉ là những loại h́nh “chủ nghĩa tư bản thương mại, hoặc hướng đến chiến tranh, đến chính trị, hay đến chính quyền” hoặc “chủ nghĩa tư bản phiêu lưu”. Ông cho rằng “trong thời kỳ cận đại, Tây phương đă biết đến một dạng phát triển của chủ nghĩa tư bản hoàn toàn khác và chưa có ở bất cứ nơi nào trên trái đất : [đó là] cách tổ chức thuần lư tư bản chủ nghĩa đối với lao động tự do (về mặt h́nh thức) mà người ta chỉ có thể bắt gặp ở dạng thô sơ ở các nơi khác.”[16]Weber gọi dạng chủ nghĩa tư bản này là chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp dân sự[“bürgerliche Betriebskapitalismus”].[17]

    Bên cạnh việc nh́n nhận vai tṛ quan trọng của những yếu tố như thị trường và kỹ thuật, Max Weber c̣n đặc biệt nhấn mạnh tới vai tṛ cũng như quá tŕnh lư tính hóa của luật pháp và của bộ máy hành chính [Verwaltung]. Ông viết : “Cấu trúc thuần lư của luật pháp và của bộ máy hành chính lẽ tất nhiên là điều quan trọng. Thật vậy, chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp thuần lư hiện đại đ̣i hỏi phải có sự tiên liệu có tính toán, không chỉ về mặt kỹ thuật sản xuất, mà cả về mặt luật pháp, cũng như một bộ máy hành chính với những qui tắc h́nh thức rơ ràng. Không có những yếu tố này, th́ chắc chắn sẽ chỉ có thể nảy sinh thứ chủ nghĩa tư bản phiêu lưu và thương mại đầu cơ, cũng như đủ mọi loại chủ nghĩa tư bản chịu sự chi phối của chính trị, chứ không thể nảy sinh loại h́nh doanh nghiệp thuần lư được điều khiển bởi sự chủ động của cá nhân với một số vốn thường trực và sự tiên liệu vững chắc.[18]

    Chúng ta có thể tóm tắt một số yếu tố đặc trưng của chủ nghĩa tư bản Âu châu cận đại mà Weber đă đề cập tới như sau : sự hiện diện của những doanh nghiệp mang mục tiêu tích lũy không có giới hạn đối với lợi nhuận và có lối tổ chức thuần lư đối với lao động tự do ; khả năng tính toán thuần lư và khả năng tiên liệu ; một thị trường lớn mạnh được tạo ra bởi những “mối lợi” kinh tế ; tính chất thuần lư của các ngành khoa học và của nền kỹ thuật đặt cơ sở trên đó ; cấu trúc thuần lư của luật pháp và của bộ máy hành chính.

    Nhà xă hội học người Mỹ Talcott Parsons (1902-1979) b́nh luận rằng, theo cách hiểu của Weber, khái niệm “chủ nghĩa tư bản” cần được nh́n nhận không phải chỉ như một h́nh thái tổ chức kinh tế, mà phải coi nó như “mô thức riêng biệt” (distinctive pattern) của toàn bộ một xă hội – theo cách nói của Parsons. Weber không chấp nhận dừng lại ở những tiêu chuẩn kinh tế thông thường mà người ta hay sử dụng để định nghĩa và hiểu thế nào là chủ nghĩa tư bản. Thực ra, ông cũng không đưa ra một định nghĩa nào cụ thể và minh nhiên, nhưng qua các công tŕnh của ông, toát lên rơ ràng ư định của ông khi đề cập đến khái niệm chủ nghĩa tư bản là “chuyển từ chỗ nhấn mạnh chính khía cạnh kinh tế sang nhấn mạnh những yếu tố thông thường vốn nằm bên dưới [khía cạnh kinh tế] lẫn bên dưới những khía cạnh khác của xă hội chúng ta”.[19]

    Weber đặt ra một câu hỏi mấu chốt trong lối đặt vấn đề của ông là tại sao các quá tŕnh đặc trưng của chủ nghĩa tư bản Âu châu cận đại chỉ xảy ra ở châu Âu, chứ không xảy ra ở các nền văn hóa khác : “Tại sao các lợi ích tư bản chủ nghĩa ở Trung Hoa hay ở Ấn Độ đă không làm giống như thế ? Tại sao ở đó sự phát triển khoa học, nghệ thuật, chính trị lẫn kinh tế đều không lèo lái theo các con đường lư tính hóa vốn là đặc trưng riêng của Tây phương ?[20]

    Từ đó Weber đề cập tới giả thuyết khoa học chính của ḿnh : “(…) nếu tư duy duy lư kinh tế, trong sự ra đời của nó, phụ thuộc vào nền kỹ thuật thuần lư và luậ̣t pháp thuần lư, th́ nó cũng phụ thuộc nói chung vào năng lực và tâm thế của con người khi họ chọn những lối sống thuần lư nào đó trong thực tế. Khi lối sống này vấp phải những ḱm hăm về tinh thần, th́ sự phát triển của ứng xử kinh tế thuần lư cũng sẽ gặp phải những trở lực nội tâm nặng nề.”[21] Điều đáng chú ư ở đây là Weber đề cập tới những con người cá thể và “lối sống” cũng như “tâm thế” (Disposition) của những con người ấy với tư cách là một trong những nhân tố quan trọng cần nghiên cứu nhằm góp phần giải thích sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản ở châu Âu.

    Trước khi bàn tiếp về giả thuyết trên, chúng ta hăy dừng lại để t́m hiểu thêm về phương pháp luận cá nhân (hay nói một cách đầy đủ là “phương pháp luận quy về cá nhân”) (methodological individualism) của Max Weber – người thường được coi là cha đẻ của phương pháp luận này.

II. Phương pháp luận cá nhân

    Như mọi người đều biết, khái niệm “hành động xă hội” (soziales Handeln) là một trong những phạm trù chính trong tư duy xă hội học của Max Weber. Khi t́m hiểu chủ nghĩa tư bản, ông khởi sự bằng cách đưa ra định nghĩa về hành vi kinh tế tư bản chủ nghĩa : “Chúng tôi gọi hành vi kinh tế 'tư bản chủ nghĩa' là hành vi dựa trên hy vọng đạt được doanh lợi bằng cách tận dụng những cơ hội trao đổi, nghĩa là dựa trên những cơ may chiếm hữu một cách ḥa b́nh (về mặt h́nh thức).”[22] Như vậy, nói như Alain Bihr, “chủ nghĩa tư bản” đối với Max Weber trước hết không phải là, hay không chỉ là, một hệ thống kinh tế, ít ra vào lúc ban đầu của quá tŕnh nhận diện khái niệm này, như các nhà kinh tế học thường quan niệm. Dưới cách nh́n độc đáo của Weber, khái niệm này trước hết nói đến một mô h́nh ứng xử kinh tế đặc thù ; mô h́nh ứng xử này một khi đă trở nên phổ biến và ổn định th́ lẽ tất nhiên sẽ dẫn đến chỗ h́nh thành một hệ thống kinh tế, nhưng theo Weber, người ta chỉ có thể hiểu được hệ thống này nếu qui chiếu nó về các hành vi và hoạt động của các cá nhân vốn tạo nên động lực thúc đẩy sự vận hành của cả hệ thống.[23] Ở đây, Weber đă vô h́nh trung nhấn mạnh tới những điều kiện chủ quan cần thiết cho sự h́nh thành “tinh thần” của chủ nghĩa tư bản và từ đó thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.[24]

    Diễn tŕnh phương pháp luận mà Weber tiến hành trong quyển ĐĐTL gần như đối lập, hay đúng hơn là khác hẳn, so với quan điểm mà Emile Durkheim đă tŕnh bày cách đó hơn 10 năm trong quyển Những qui tắc của phương pháp xă hội học (1894). Theo nhà xă hội học người Pháp này, người ta chỉ có thể giải thích một hiện tượng xă hội này bằng một hiện tượng xă hội khác, và do đó cần tập trung chú ư tới các “sự kiện xă hội” (fait social) khách quan ở bên ngoài chứ không cần quan tâm tới những động cơ hay ư định chủ quan của các cá nhân. “Mỗi lần mà một hiện tượng xă hội được trực tiếp giải thích bằng một hiện tượng tâm lư, người ta có thể chắc chắn rằng lối giải thích này là sai lầm.”[25] Durkheim nêu ra một trong những nguyên tắc phương pháp luận xă hội học như sau : “Phải đi t́m nguyên nhân quyết định của một sự kiện xă hội nơi các sự kiện xă hội xảy ra trước đó, chứ không phải nơi các trạng thái ư thức cá nhân.”[26]

    Theo mạch suy nghĩ của Max Weber, không thể nhận diện các sự kiện xă hội giống như các sự kiện vật lư, bởi lẽ các sự kiện xă hội luôn luôn được h́nh thành hay được xây dựng “từ bên trong” (construits de façon endogène) bởi những tác nhân xă hội, và chính do sự tự xây dựng này (autoconstruction) mà các sự kiện xă hội mới có thể hiện hữu, mới có thể xảy ra ; và cũng do vậy mà chúng ta cần hiểu được “ư nghĩa nội sinh” (sens endogène) của các hành động xă hội.[27] Ở đây, chúng ta cần lưu ư rằng “loại h́nh-lư tưởng”, theo phương pháp luận của Weber, không nhằm đến những cấu trúc đă được vật hóa (structures chosifiées), mà là nhằm đến những mối quan hệ ư nghĩa (rapports de signification)[28] – tức là những mối quan hệ giữa các hành động xă hội có ư nghĩa của các cá nhân. Nói cách khác, cái “loại h́nh-lư tưởng” của chủ nghĩa tư bản ở xă hội Âu châu cận đại theo Weber trước hết cần được đi t́m nơi những tâm thế, lối sống hay “hành vi kinh tế tư bản chủ nghĩa” của những con người sống trong xă hội này.

    Trong quyển Wirtschaft und Gesellschaft (Kinh tế và xă hội), Weber phát biểu rơ rằng chỉ có thể giải thích được các cấu trúc xă hội nếu hiểu được và giải thích được cách ứng xử của các cá nhân – một quan điểm mà giới khoa học xă hội ngày nay thường gọi là “phương pháp luận [qui về] cá nhân” (methodological individualism) –, mặc dù ông vẫn không phủ nhận vai tṛ nhận thức luận cần thiết của những “cấu trúc xă hội” (soziale Gebilde). Ông viết : “(…) đối với việc lư giải hành động theo hướng thông hiểu mà bộ môn xă hội học tiến hành, những cấu trúc ấy[29] chỉ là những kết quả [Abläufe] và những tập hợp kết nối [Zusammenhänge] của những hành động đặc thù của những con người cá thể [einzelner Menschen], bởi lẽ những con người này mới chính là những tác nhân duy nhất [mà chúng ta] có thể hiểu được – [những tác nhân] của một hành động hướng đến ư nghĩa. Nhưng dù vậy, ngành xă hội học, kể cả v́ mục đích riêng của ḿnh, vẫn không thể bỏ qua những khái niệm tập thể ấy [kollektiven Gedankengebilde] vốn xuất phát từ những lối tiếp cận khác.”[30]

    Tuy nhiên, phương pháp luận cá nhân của Weber hoàn toàn không có liên quan ǵ với lư thuyết về sự chọn lựa thuần lư (rational choice theory) trong ngành kinh tế học vốn h́nh dung cá nhân như con người đơn lẻ (atome) và ích kỷ, cũng “không phải là một bước lùi trở lại t́nh trạng trước Hegel với một quan niệm cá nhân chủ nghĩa-nguyên tử về xă hội”[31]. Mặt khác, trong số ba nghĩa của khái niệm “individualisme” (cá nhân luận) mà nhà xă hội học người Pháp Raymond Boudon phân biệt, chỉ có nghĩa thứ ba mới đúng là phương pháp luận của Max Weber : (a) cá nhân luận “xă hội học” (individualisme “sociologique”) là khái niệm dùng để chỉ lối ứng xử của các cá nhân trong ḷng một xă hội vận hành dựa trên nguyên tắc b́nh đẳng (chẳng hạn những xă hội “cá nhân chủ nghĩa” [sociétés “individualistes”] đối lập với những xă hội “đẳng cấp” [sociétés “hiérarchiques”]) ; (b) cá nhân luận “đạo đức” (individualisme “éthique”) là khái niệm dùng để chỉ một học thuyết cho rằng cá nhân là điểm qui chiếu tối hậu của các chuẩn mực, các định chế và các chọn lựa giá trị trong xă hội (đối lập chẳng hạn với “chủ nghĩa tập thể” [“collectivisme”]) ; và (c) cá nhân luận “vềphương pháp” (individualisme “méthodologique) (ở đây chúng tôi dịch là “phương pháp luận [qui về] cá nhân”) là lối tiếp cận được dùng để giải thích các quá tŕnh xă hội bằng cách xuất phát từ các cá nhân (đối lập với khuynh hướng “tổng thể luận” về phương pháp [“holisme” méthodologique]).[32]

    Theo Weber, các nhà khoa học xă hội trước hết cần tiến hành việc qui giản (reduction) những hiện tượng tập thể (nh́n bên ngoài tưởng chừng như là một thực tại độc lập) vào những hành động của những con người cá thể. Ông cho rằng, đối với ngành xă hội học, khi nói đến “nhà nước” chẳng hạn th́ hiện tượng này “không nhất thiết chỉ bao gồm hay chủ yếu bao gồm những yếu tố quan trọng xét về mặt pháp lư”. Ông viết tiếp : “Và trong bất cứ trường hợp nào, đối với [ngành xă hội học], không hề có nhân cách tập thể nào 'hành động' ['handelnde' Kollektivpersönlichkeit]. Khi [xă hội học] nói tới 'nhà nước', 'dân tộc', 'công ty cổ phần', 'gia đ́nh', 'lực lượng quân đội' hay những 'cấu trúc' tương tự, th́ ngược lại, nó chỉ đơn giản nhắm đến một kết quả nào đó của những hành động xă hội đă xảy ra hay được kiến tạo là có thể xảy ra của những [con người] cá thể.”[33]

    Trong một bức thư gởi cho R. Liefmann vào tháng 3-1920, Weber khẳng định lập trường của ḿnh như sau : “Nếu cuối cùng tôi trở thành một nhà xă hội học, th́ đó chủ yếu là nhằm đặt một dấu chấm hết đối với những cách thực hiện đặt nền tảng trên các khái niệm tập thể vốn vẫn luôn ám ảnh. Nói khác đi, ngay cả ngành xă hội học cũng chỉ có thể được tiến hành bằng những hành động của một, hay vài, hay nhiều cá nhân riêng biệt. Chính v́ thế, nó phải áp dụng một cách chặt chẽ những phương pháp cá nhân.”[34]

    Nhưng chúng ta không nên ngộ nhận rằng thao tác qui giản về hành động cá nhân này mang một ư nghĩa bản thể luận, v́ nó chỉ mang ư nghĩa phương pháp luận : theo Weber, “con người cá thể” hay cá nhân được xem xét ở đây không hề được quan niệm như là những đơn vị đơn lẻ, biệt lập nhau, mà chỉ được coi như những dữ kiện cuối cùng mà chúng ta có thể và cần phải “thông hiểu” và lư giải để có thể giải thích được các hiện tượng xă hội.[35] Và chính Weber c̣n nói rơ thêm rằng “cần phải loại bỏ sự ngộ nhận khủng khiếp cho rằng phương pháp 'cá nhân luận' ['individualistische' Methode] cũng có cùng một nghĩa như một sự đánh giá cá nhân chủ nghĩa ['individualistische' Wertung]”.[36]

III. Khái niệm Beruf và tư duy duy lư khổ hạnh của đạo Tin lành

    Hăy trở lại với câu hỏi là tại sao chủ nghĩa tư bản Âu châu chỉ ra đời và phát triển trong xă hội Tây phương thời cận đại, chứ không ở bất cứ nơi nào khác. Giả thuyết mà Weber đề xướng là : có một số yếu tố của đạo Tin lành đă tạo ra được những động cơ thuận lợi cho sự h́nh thành của chế độ tư bản chủ nghĩa. Weber cho rằng chính cái thái độ đặc trưng đối với lao động – một thái độ vốn chịu ảnh hưởng quyết định bởi nền đạo đức Tin lành, và điều này chỉ có ở phương Tây – có khả năng giải thích diễn tiến lịch sử đặc thù ấy của phương Tây, khác với tất cả các nơi khác trên thế giới.

    Nền đạo đức Tin lành mà Weber phân tích trong quyển sách này chủ yếu là quan niệm giáo thuyết của phái Calvin mà sau đây là tóm tắt năm điểm chính, dựa trên bản Tuyên tín Westminster năm 1647 :

    - Có một đấng Thiên Chúa tuyệt đối, siêu việt, đă tạo nên và cai trị trời đất, nhưng nằm ngoài khả năng hiểu biết của trí tuệ hữu hạn của con người.

    - Đấng Thiên Chúa toàn năng và huyền bí này đă tiền định sự cứu độ hay sự kết án đối với mỗi con người chúng ta, và chúng ta không thể thay đổi ǵ được điều này bằng các sự nghiệp của ḿnh.

    - Thiên Chúa đă tạo dựng ra thế giới v́ sự vinh quang của chính Người.

    - Con người, cho dù được cứu độ hay bị kết án, đều có nghĩa vụ lao động cho sự vinh quang của Thiên Chúa và tạo dựng nên vương quốc của Người ngay trên thế gian này.

    - Những công việc trần thế, bản tính con người, và thân xác, tất cả đều thuộc về trật tự của tội lỗi và của sự chết, và đối với loài người, sự cứu độ chỉ có thể là một món quà tặng không của ân huệ Thiên Chúa.

    Theo Weber, thực ra những yếu tố trên đây cũng xuất hiện tản mạn trong giáo thuyết của các tôn giáo khác, nhưng chỉ duy nhất trong đạo Tin lành mới có sự nối kết của tất cả các yếu tố này ; và điều này sẽ dẫn đến những hệ quả hết sức quan trọng. Người tín đồ theo giáo phái Calvin không thể biết được là ḿnh sẽ được cứu độ hay sẽ bị kết án, và đây là điều làm cho họ cảm thấy lo âu, khắc khoải. Để thoát ra khỏi nỗi lo âu này, do xu hướng tâm lư tự nhiên, họ sẽ đi t́m trong thế giới này những dấu hiệu chứng tỏ ḿnh được chọn. Weber cho rằng chính v́ thế mà một số tông phái Calvin cuối cùng đă t́m ra chứng cớ rằng ḿnh được Thiên Chúa chọn thông qua thành quả và sự nghiệp của ḿnh trong thế gian, trong đó có sự thành công về mặt kinh tế. Do vậy, cá nhân bị thúc đẩy đến chỗ phải cần cù làm việc để vượt qua nỗi khắc khoải là không biết ḿnh có được cứu rỗi hay không. 

    Weber viết : “Thay vào chỗ của những kẻ tội lỗi đầy ḷng khiêm hạ vốn được Luther hứa hẹn ân sủng nếu họ tự phó thác ḿnh cho Thiên Chúa trong một ḷng tin sám hối, xuất hiện 'các vị thánh' tự tin mà chúng ta có thể bắt gặp nơi các thương gia Puritanist với ư chí sắt thép của thời kỳ anh hùng của chủ nghĩa tư bản, và kể cả ngày nay nơi một số gương mặt điển h́nh. Mặt khác, để đạt tới sự tự tin này, cách thức thích hợp nhất được khuyến khích là hăy làm việc không ngơi nghỉ trong một nghề [rastlose Berufsarbeit]. Điều này, và chỉ điều này thôi, mới xua tan được nỗi hoài nghi về mặt tôn giáo và đem lại sự tin chắc về ân sủng.”[37]

    Khái niệm Beruf mà Weber sử dụng ở đây, theo ông, do xuất phát từ quan niệm thần học của đạo Tin lành, không phải chỉ có nghĩa đơn giản là “nghề nghiệp” (như chữ “profession” hay “job” trong tiếng Anh, chỉ một loại lao động để kiếm sống), mà c̣n mang ư nghĩa “thiên chức” – ông nhắc tới từ “calling” trong tiếng Anh (đồng nghĩa với chữ “Berufung” [sự kêu gọi] trong tiếng Đức) – hay một “phận sự” (Aufgabe) do Thiên Chúa chỉ định, và v́ thế nó đi đôi với khái niệm “bổn phận” (Pflicht). Weber cho rằng đây chính là sản phẩm hết sức mới mẻ của cuộc Cải cách của đạo Tin lành, khác hẳn so với quan niệm của đạo Công giáo truyền thống về “đời này” (đối lập với “đời sau”) và về các công việc trần gian. Ông viết : “(…) cho rằng bổn phận được thực hiện thông qua các nghề nghiệp trần thế, rằng bổn phận ấy là hoạt động đạo đức cao nhất mà con người có thể đảm nhiệm ở đời này – đó chắc chắn là điều mới mẻ. Như vậy, một cách tất yếu, hoạt động thường ngày mang một ư nghĩa tôn giáo, chính từ đó mà khái niệm 'Beruf' mang ư nghĩa [thiên chức] ấy. Ư nghĩa này biểu lộ tín điều trung tâm của tất cả các giáo phái Tin lành vốn bác bỏ sự phân biệt các điều răn đạo đức nơi người Công giáo thành các praecepta [mệnh lệnh] và các consilia [lời khuyên].”[38]

    Và Weber tóm tắt quan niệm đạo đức của giáo phái Calvin như sau : “Cách duy nhất để có một cuộc sống đẹp ḷng Thiên Chúa không phải là vượt lên trên nền đạo đức của đời sống trần thế bằng lối sống khổ hạnh trong tu viện, mà chính là chu toàn trong thế gian các bổn phận tương ứng với chức phận mà cuộc sống dành cho mỗi người trong xă hội – chính v́ thế mà các bổn phận trở thành 'thiên chức' [Beruf] của mỗi người.”[39] Đặc trưng tư tưởng của giáo thuyết Calvin là nhấn mạnh tới nỗ lực của cá nhân chứ không coi trọng vai tṛ của các định chế, và loại trừ những xu hướng huyền bí, những xu hướng nặng về nghi thức – nói khác đi, đây chính là lối tư duy dẫn đến quá tŕnh “giải ma thuật” (Entzauberung) và quá tŕnh lư tính hóa lối sống của người tín đồ Calvin.

    Chính ở điểm này mà, theo Weber, có một sự gặp gỡ hết sức quan trọng giữa một số yêu cầu trong lôgic thần học Calvin với một số yêu cầu của lôgic tư bản chủ nghĩa – hay giữa tư duy duy lư khổ hạnh Calvin với tư duy duy lư của nhà kinh doanh tư bản chủ nghĩa.[40] Nền đạo đức Tin lành khuyến cáo các tín đồ của ḿnh phải cảnh giác và dè chừng đối với của cải thế gian và phải có một lối sống khổ hạnh (Askese). Trong khi đó, làm việc một cách duy lư nhằm tạo ra doanh lợi và không tiêu xài hoang phí doanh lợi này – đây chính là lối ứng xử cần thiết cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, bởi nó có nghĩa là không ngừng tái đầu tư số lợi nhuận mới được tạo ra. Chủ nghĩa tư bản cần lối tổ chức thuần lư đối với lao động, và giả định rằng phần lớn lợi nhuận không được tiêu xài hết mà phải được tiết kiệm nhằm có thể tiếp tục phát triển các phương tiện sản xuất. Chính đây là nơi bộc lộ sự “tương hợp chọn lọc” giữa quan niệm và lối sống của đạo Tin lành với “tinh thần” của chủ nghĩa tư bản.

    Theo Talcott Parsons, khái niệm “tinh thần của chủ nghĩa tư bản” – một cụm từ đặc trưng mà Weber sử dụng thường xuyên – không phải chỉ nói về sự chiếm hữu hay hành động chiếm hữu đơn thuần như nhiều tác giả thường lầm tưởng, mà trước hết và chủ yếu bao hàm “tính lư tính” (Rationalität) hay tư duy lư tính (Rationalismus) – hiểu như là một tâm thế mở luôn hướng đến những cách giải quyết vấn đề mới, đối lập với óc thủ cựu (Traditionalismus) ; một thái độ tận tâm và chuyên cần đối với công việc v́ chính công việc chứ không v́ mục đích nào khác, thái độ mà Weber diễn giải trong một khái niệm kép là nghề nghiệp-thiên chức (Beruf trong tiếng Đức, hay calling trong tiếng Anh).[41]

    Weber viết như sau : “Một trong các bộ phận cấu thành của tinh thần tư bản chủ nghĩa hiện đại, và không chỉ của tinh thần này, mà cả của chính nền văn hóa hiện đại, tức là lối sống thuần lư dựa trên ư tưởng Beruf, đă được phát sinh từ tinh thần của nền khổ hạnh Ki-tô giáo – đó chính là điều mà các tŕnh bày của chúng tôi muốn chứng minh.”[42]

    Ở đây, để hiểu rơ hơn ư tưởng của Weber, chúng ta có thể đọc thêm đoạn văn sau đây trong một công tŕnh khác của ông, khi ông so sánh giáo thuyết Puritanist (Thanh giáo) ở châu Âu với tư tưởng Nho giáo (Khổng giáo) ở Trung Hoa : “Sự đối lập giữa [tư tưởng] Nho giáo và [tư tưởng] Puritanist cũng làm cho chúng ta hiểu rằng sự tiết độ và óc tiết kiệm, kết hợp với 'ham muốn doanh lợi' và 'óc quí trọng của cải' c̣n lâu mới có thể đại diện hay có thể làm nảy sinh được 'tinh thần tư bản chủ nghĩa'. Nhà Nho điển h́nh chi tiêu những khoản tiết kiệm ấy lẫn những khoản tiết kiệm của gia đ́nh để có được một nền học thức, để dùi mài kinh sử nhằm trải qua các kỳ thi và nhờ đó đảm bảo cho ḿnh cơ sở xă hội của một cuộc sống giàu sang. Người tín đồ Puritanist điển h́nh kiếm được nhiều tiền, tiêu xài ít, và do bị thúc bách phải tiết kiệm bởi tư tưởng khổ hạnh, nên tái đầu tư các khoản lợi nhuận của ḿnh dưới h́nh thức tư bản vào các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa thuần lư. 'Tư duy duy lư' – và đây là bài học thứ hai đối với chúng ta – chi phối cả hai nền đạo đức ấy. Nhưng chỉ có nền đạo đức duy lư của phái Puritanist, vốn hướng đến một đời sau, mới dẫn đến chỗ h́nh thành một tư duy duy lư kinh tế ở ngay trong đời này với tất cả những hệ quả cuối cùng của nó, chính là bởi v́ tự nó, không c̣n có ǵ là xa lạ đối với nó nữa, chính là bởi v́ lao động trong thế gian này đối với nó chỉ là biểu hiện sự theo đuổi một mục tiêu siêu việt. (…) Tư duy duy lư Nho giáo hàm nghĩa là một sự thích nghi duy lư với thế gian ; c̣n tư duy duy lư Puritanist là một sự làm chủ duy lư đối với thế gian.”[43] Theo Weber, sở dĩ ở Trung Hoa không phát triển được chủ nghĩa tư bản là do thiếu những điều kiện và tâm thế thuận lợi cho quá tŕnh này, hay nói chính xác hơn là do khuôn khổ quá cứng nhắc và tù đọng của các nghi thức và tập tục, nói khác đi là do xu hướng bảo thủ của tư tưởng Nho giáo.[44]

IV. Lư thuyết của Weber về mối liên hệ nhân quả

    Theo Raymond Aron, không ít người ngộ nhận rằng Max Weber đă t́m cách bác bỏ chủ nghĩa duy vật lịch sử khi ông ta giải thích những nhân tố kinh tế bằng những nhân tố tôn giáo. Aron cho rằng hoàn toàn không phải như vậy. Trong công tŕnh ĐĐTL, Weberchỉ muốn minh chứng rằng người ta chỉ có thể hiểu được các ứng xử của con người trong các xă hội khác nhau nếu đặt chúng trong khuôn khổ nhân sinh quan hay thế giới quan của họ. Các tín điều tôn giáo và cách giải thích các tín điều này là một bộ phận nằm trong nhân sinh quan và thế giới quan ấy, và v́ thế chúng ta cần phải hiểu chúng để có thể hiểu được ứng xử của các cá nhân và của các nhóm xă hội, nhất là ứng xử kinh tế của họ. Max Weber muốn chứng minh rằng những quan niệm tôn giáo thực sự là một nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đối với các lối ứng xử kinh tế, và do đó, là một trong những nguyên nhân của những chuyển biến kinh tế của các xă hội.[45]

    Weber nói rơ rằng mục tiêu của ông trong quyển sách này chỉ giới hạn vào chỗ lư giải vai tṛ của nhân tố tinh thần, trong “vô số” những động lực khác, đối với quá tŕnh phát triển của chủ nghĩa tư bản. Ông viết : “Như vậy công cuộc nghiên cứu sau đây có lẽ cũng là một đóng góp khiêm tốn vào việc cho thấy bằng cách nào các 'ư tưởng' trở thành những sức mạnh hữu hiệu trong lịch sử. (…) Chúng tôi chỉ muốn làm sáng tỏ cái phần của các động lực tôn giáo trong vô số những động lực cá biệt trong lịch sử vốn đă góp phần vào sự phát triển của nền văn minh hiện đại của chúng ta, vốn đặc biệt hướng về đời này. Vấn đề chúng tôi đặt ra chỉ nhằm định rơ, trong một số nội dung đặc biệt của nền văn minh này, những nội dung nào có thể được quy kết là do tác động của cuộc Cải cách [Tin lành] với tính cách là nguyên nhân lịch sử.”[46] 

    Câu hỏi mà Weber nêu ra là “một số niềm tin tôn giáo đă quyết định như thế nào đối với sự h́nh thành của một 'năo trạng kinh tế', hay nói khác đi là 'ethos' của một h́nh thái kinh tế ?” Để trả lời cho câu hỏi này, ông nói “chúng tôi đă dùng làm thí dụ những mối liên hệ giữa cái ethos của đời sống kinh tế hiện đại với đạo đức thuần lư của đạo Tin lành khổ hạnh.” Và ông khẳng định “như vậy, chúng tôi sẽ chỉ quan tâm tới một phương diện mà thôi của mối liên hệ nhân quả.”[47]

    Điều mà chúng ta cần lưu ư ở đây là Max Weber không hề có một quan điểm cực đoan và đơn-nguyên nhân (monokausal) về mối liên hệ nhân quả khi giải thích thực tại xă hội, và ông cũng chưa bao giờ nghĩ một cách giản đơn rằng chủ nghĩa tư bản chỉ là “sản phẩm” của nền đạo đức Tin lành. Ông viết rơ như sau : “(…) cũng tuyệt nhiên không có chuyện bảo vệ cho một luận điểm giáo điều và phi lư như là cho rằng 'tinh thần của chủ nghĩa tư bản' (…) chỉ có thể ra đời như là kết quả của một số tác động nhất định của cuộc Cải cách [Tin lành], hay thậm chí c̣n khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản với tư cách là một hệ thống kinh tế là một sản phẩm của cuộc Cải cách [Tin lành]. Ngay sự kiện một số h́nh thức quan trọng của doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa đă có trước cuộc Cải cách [Tin lành] khá lâu cũng đă đủ để bác bỏ luận điểm này. Ngược lại, mối quan tâm duy nhất của chúng tôi sẽ là định rơ trong mức độ nào các tác động tôn giáo đă góp phần tham gia vào việc gây dấu ấn về chất và sự bành trướng về lượng của 'tinh thần' này trên thế giới ; ngoài ra, định rơ những phương diện cụ thể nào của nền văn minh dựa vào cơ sở tư bản chủ nghĩa đă nảy sinh từ đó.”[48]

    Trong một bài viết vào năm 1910 mang tên là “Chống lại sự phê phán liên quan tới 'tinh thần' của chủ nghĩa tư bản” nhằm phản bác lại những lời công kích của nhà sử học người Đức Felix Rachfahl (1867-1925), Max Weber nhắc lại rằng ông quan niệm những động lực tinh thần xuất phát từ nền đạo đức Calvin “chỉ là một yếu tố cấu thành của 'tinh thần' của chủ nghĩa tư bản”. Ông viết : “Tôi đă từng nói một cách hết sức quyết liệt rằng tôi không hề chịu tránh nhiệm ǵ về việc các tác giả khác đă tuyệt đối hóa các nhân tố tôn giáo ấy – những nhân tố mà tôi đă gọi một cách rơ ràng và nhấn mạnh tối đa như là một thành tố đặc thù –, và về việc họ đồng hóa chúng [tức là các nhân tố tôn giáo ấy – N.D.] với 'tinh thần của chủ nghĩa tư bản' nói chung hay thậm chí c̣n coi chủ nghĩa tư bản như là xuất phát từ chúng.”[49]

    Cũng giống như trường phái mác-xít, Max Weber luôn nh́n nhận “vai tṛ quan trọng căn bản của kinh tế” và ông luôn “chú ư trước hếttới các điều kiện kinh tế khi t́m cách giải thích các thực tại xă hội. Tuy nhiên, và đây là điểm độc đáo trong lối tiếp cận của Weber, ông nhấn mạnh rằng cũng phải đồng thời lưu tâm tới “những mối tương quan nhân quả ngược lại” – nói khác đi, tác động nhân quả theo Weber không phải là tác động một chiều, đơn giản, mà thực ra là một sự tương tác vô cùng phức tạp trong thực tại xă hội mà nhiệm vụ của nhà nghiên cứu là phải làm sáng tỏ. Ông phát biểu điều này khi bàn về chuyện đi t́m nguồn gốc của tư duy duy lư (Rationalismus) Tây phương hiện đại : “Mọi nỗ lực giải thích theo chiều hướng này đều sẽ phải nh́n nhận vai tṛ quan trọng căn bản của kinh tế, và chú ư trước hết tới các điều kiện kinh tế. Nhưng đồng thời, cũng phải chú ư tới những mối tương quan nhân quả ngược lại. Bởi lẽ, nếu tư duy duy lư kinh tế, trong sự ra đời của nó, phụ thuộc vào nền kỹ thuật thuần lư và luậ̣t pháp thuần lư, th́ nó cũng phụ thuộc nói chung vào năng lực và tâm thế của con người khi họ chọn những lối sống thuần lư nào đó trong thực tế.”[50]

    Raymond Aron cho rằng toàn bộ tư duy về mối tương quan nhân quả của Weber được thể hiện trên cơ sở xác suất hay “khả năng xảy ra”. Đối với Weber, không thể có một yếu tố nào đó có thể quyết định một cách đơn-nguyên nhân (monokausal) hay một chiều đối với toàn bộ đời sống xă hội, cho dù đấy là yếu tố kinh tế, yếu tố chính trị hay yếu tố tôn giáo. Aron giải thích rằng Weber quan niệm các mối tương quan nhân quả trong ngành xă hội học chỉ như là những mối tương quan “cục bộ” và “có khả năng xảy ra” (“relations partielles et probables”). Nói cách khác, một bộ phận này của thực tại xă hội có thể là, hay không là, nguyên nhân của một bộ phận khác của thực tại xă hội – chứ không bao giờ có thể là nguyên nhân của toàn bộ thực tại xă hội. Và những mối tương quan nhân quả này luôn luôn mang tính chất xác suất, nghĩa là có thể xảy ra hay không xảy ra – chứ chúng không bao giờ mang tính chất quyết định tất yếu. Và chính tính chất bất định này trong thực tại xă hội là điều mà các nhà nghiên cứu khoa học xă hội phải quan tâm[51], để có thể đi đến chỗ giải thích được rằng tại sao một hiện tượng xă hội lại xảy ra ở nơi này, trong xă hội nà̀y, chứ không xảy ra ở nơi khác, trong các xă hội khác.

    Theo Raymond Aron, lư thuyết về tương quan nhân quả của Weber chính là một nỗ lực nhằm phản bác lại cách hiểu máy móc và thô thiển về chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chẳng hạn, khi so sánh các dữ kiện lịch sử, Weber đă từng đặt vấn đề như sau : tại sao tại ngay những trung tâm phát triển tư bản chủ nghĩa như Florentia (Ư) vào các thế kỷ XIV và XV, lại không thể xuất hiện quan niệm về việc kiếm tiền thông qua nghề nghiệp như một mục đích tự thân, hay như một “chức phận”, một “thiên chức” (Beruf), vốn là đặc trưng quan trọng nhất của “tinh thần” của chủ nghĩa tư bản ? Trong khi đó, tại sao điều này lại có thể xảy ra ở những khu rừng của Pennsylvania (Mỹ) vào thế kỷ XVIII, nơi mà các hoạt động kinh doanh lúc ấy vẫn c̣n hết sức lạc hậu ? Từ đó, ông nhận định rằng “ở đây mà nói đến sự 'phản ánh' các điều kiện 'vật chất' lên trên 'thượng tầng kiến trúc tư tưởng' th́ là điều hoàn toàn vô nghĩa”.[52] Weber cho rằng chính bối cảnh tư tưởng của giáo thuyết Calvin “đă dẫn tới chỗ coi loại hoạt động xem ra chỉ nhằm tới lợi nhuận này như là một thiên chức [Beruf] mà đối với nó, cá nhân cảm thấy ḿnh có bổn phận luân lư”, “đă tạo ra nền tảng và sự biện hộ về đạo đức cho lối ứng xử 'kiểu mới' của nhà kinh doanh”[53], và chính nhờ đó mà nó đă góp phần tạo ra những động lực tinh thần và những lối ứng xử thích hợp và cần thiết cho tiến tŕnh phát triển của chủ nghĩa tư bản.

    Theo nhà xă hội học người Mỹ Robert Nisbet (1913-1996), vấn đề mà Max Weber đặt ra không phải là đi t́m nguồn gốc tuyệt đối và tối hậu của sự chuyển biến xă hội, ông không t́m cách xây dựng một lư thuyết theo đó chỉ có một nhân tố duy nhất mang tính chất quyết định toàn bộ đời sống xă hội.[54] Weber không phủ nhận vai tṛ quan trọng của các tiến bộ kỹ thuật và kinh tế trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhưng ông là người đặc biệt chú tâm tới vai tṛ của động lực cá nhân trong các quá tŕnh chuyển biến xă hội. Nói cách khác, ông đă nỗ lực đưa những yếu tố như các giá trị xă hội, các động lực ứng xử và các cấu trúc tinh thần vào trong một khuôn khổ lư thuyết giải thích sự chuyển biến xă hội. Mặt khác, cũng cần nhắc lại rằng Weber không t́m cách “giải thích” chủ nghĩa tư bản xét một cách tổng thể bằng giáo thuyết Calvin, mà thực ra ông chỉ t́m hiểu cái “tâm thế” của nền đạo đức Calvin vốn cho rằng lao động, của cải và lợi nhuận không những được chấp nhận và được đề cao, mà thậm chí c̣n trở thành một sức mạnh thúc bách về mặt đạo đức và thống trị về mặt luân lư[55] – điều mà ông cho là có một sự “tương hợp chọn lọc” (Wahlverwandtschaften) với “tinh thần” của chủ nghĩa tư bản, hay với những yêu cầu về mặt phẩm chất và tính cách của một nhà kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Khái niệm “quan hệ tương hợp chọn lọc” là một khái niệm độc đáo mà Weber sử dụng khi ông nhận định về mối quan hệ tương tác giữa nền đạo đức Tin lành với tinh thần của chủ nghĩa tư bản[56].

    Ở cuối công tŕnh của ḿnh, Weber minh định lập trường phương pháp luận của ḿnh như sau : “Dù có thiện chí đến đâu, bản thân con người hiện đại, nh́n chung, thường không đủ khả năng h́nh dung hết tầm quan trọng của các ư tưởng tôn giáo đối với các cách ứng xử, văn hóa và tính cách dân tộc. Nhưng lẽ tất nhiên chúng tôi không hề có ư định thay thế một lối lư giải nhân quả 'duy vật' phiến diện [einseitig] bằng một lối lư giải duy linh [spiritualistische] về văn hóa và lịch sử, thực ra cũng không kém phần phiến diện. Cả hai [lối lư giải này]đều có thể làm được, nhưng nếu cả hai không tự xem ḿnh như là bước sơ khởi của sự t́m ṭi mà lại có tham vọng cho rằng ḿnh mang lại kết luận [của sự t́m ṭi], th́ cả hai đều không phục vụ tốt cho chân lư lịch sử.”[57]

    Ngay sau khi ra đời, tác phẩm ĐĐTL đă được các nhà thần học đồng t́nh rộng răi, nhưng lại bị các sử gia và các nhà kinh tế học phê phán mạnh mẽ : nhiều bài điểm sách đă lập tức ngộ nhận rằng Weber đưa ra một lối lư giải “duy tâm chủ nghĩa” và “tâm lư học” về lịch sử. Các phê phán sau đây c̣n ảnh hưởng đến hiện nay, dù Weber đă trả lời nghiêm túc và cặn kẽ.

    Karl Heinrich Fischer(1879-1975) (nhà triết học về lịch sử) viết bài “Kritische Beiträge zu Professor Max Webers Abhandlung 'Die protestantische Ethik und der Geist des Kapitalismus' ” (Các đóng góp phê phán về công tŕnh ĐĐTL của GS Max Weber)[58], trong đó ông xem công tŕnh của Weber nói chung là một cống hiến, nhưng phê phán Weber đă có một cách lư giải lịch sử “duy tâm chủ nghĩa và tâm lư học” : việc Weber xem đạo đức Tin lành là cơ sở tư tưởng cho Beruf [nghề nghiệp-thiên chức] là không có sức thuyết phục và sự trùng hợp giữa đạo Tin lành và chủ nghĩa tư bản không phải ở đâu cũng có về mặt lịch sử (Max Weber đă trả lời ngay trong tập XXV ấy, tr. 243-249). Sau đó, Fischer lại viết thêm một bài đăng trong số kế tiếp : “Replik auf Herrn Professor Max Webers Gegenkritik” (Đáp lại lời phản-phê phán của GS Max Weber)[59] để chứng minh rằng luận điểm của Max Weber chỉ đúng nếu có thể “loại trừ hết mọi yếu tố khác của sự ra đời của chủ nghĩa tư bản”.

    Felix Rachfahl(sử gia) trong bài “Kalvinismus und Kapitalismus” (Giáo thuyết Calvin và chủ nghĩa tư bản)[60] đă chủ yếu phê phán khái niệm “tinh thần tư bản chủ nghĩa” là không thích hợp để nắm bắt động lực kinh tế dẫn đến chủ nghĩa tư bản, và, chủ nghĩa tư bản vẫn có mặt ở những nơi không có “tinh thần” này.

    Nh́n chung, cả hai cách phê phán khá tiêu biểu ấy đều có đặc điểm chung là không hiểu rơ và ngộ nhận về khái niệm Idealtypus (loại h́nh-lư tưởng)được Max Weber tŕnh bày trong bài về “Tính khách quan…” nói trên. Rachfahl phê phán đúng vào điểm mà Weber lấy làm nguyên tắc cho việc nghiên cứu : chỉ nghiên cứu một yếu tố của sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, và các “loại h́nh-lư tưởng” – được xây dựng nên để t́m hiểu yếu tố này – không nhất thiết phải có thật trong thực tế lịch sử. V́ thế, trong một bài trả lời ngắn, Weber trách Rachfahl là “đă phạm nhiều sai lầm thô bạo do đọc một cách hời hợt”.[61]

    “Loại h́nh-lư tưởng” là một công cụ phương pháp luận đặc thù của Max Weber, xuất phát từ yêu cầu thấu hiểu về “hành động xă hội” hơn là về “cấu trúc xă hội”, bởi, như đă nói, theo ông, hành động xă hội là trung tâm của việc nghiên cứu xă hội học, và chỉ có nhờ sự thấu hiểu những ư đồ, ư tưởng, giá trị và ḷng tin đă thúc đẩy con người hành động, ta mới hiểu được xă hội cũng như cấu trúc của nó. Nhận thức này bắt đầu từ khi Max Weber đọc được hai tác phẩm quan trọng của Heinrich Rickert (“Die Grenzen der naturwissenschaftlichen Begriffsbildung” [Các giới hạn của việc xây dựng khái niệm khoa học tự nhiên], và “Kulturwissenschaft und Naturwissenschaft” [Khoa học văn hóa và khoa học tự nhiên], 1896/1902). Ông cho rằng hai tác phẩm ấy là “rất hay” và ông “đă nghĩ tới cho dù chưa đạt đến mức triển khai về lôgic như thế”.[62] Rickert phân biệt tự nhiên và văn hóa : tự nhiên là “cái được ta suy tưởng độc lập với giá trị”, nó là sự tồn tại “không có ư nghĩa”, “chỉ được tri giác thôi”. Ngược lại, mọi quá tŕnh văn hóa đều là “hiện thân của một giá trị được con người thừa nhận : chính v́ giá trị đó mà quá tŕnh văn hóa đă được người ta hoặc tạo ra, hoặc, nếu nó đă có mặt, th́ vun bồi, chăm sóc”. Như thế, những đối tượng văn hóa gắn liền với những giá trị, và ta gọi chúng là “những thực tại có giá trị”, hay “những tài sản văn hóa” (Güter), nhưng đồng thời phải phân biệt chúng với bản thân những giá trị này, bởi những giá trị này không phải là những thực tại và ta có thể không cần xét tới. Khoa học xét những đối tượng tự nhiên không phải như những thực tại có giá trị, trái lại, tách rời chúng với những giá trị, v́ thế, “nếu, trong tư tưởng, ta tách rời giá trị ra khỏi một đối tượng văn hóa, th́ có thể nói, nó trở thành tự nhiên đơn thuần hay có thể nghiên cứu nó một cách khoa học như một đối tượng tự nhiên”.

    Việc phân biệt giữa tự nhiên và văn hóa như thế đ̣i hỏi một sự thay đổi về phương pháp luận : khi nghiên cứu các quá tŕnh và các đối tượng văn hóa, ta phải nắm bắt nguồn gốc của mọi văn hóa, của hành động con người về mặt khái niệm và phương pháp ; nói cách khác, phải xây dựng một phương pháp khái quát hóa nhưng không làm tổn hại đến đặc điểm quan trọng nhất của chúng là biểu hiện của những cá nhân có lư tính và có ư thức về giá trị hoặc không hy sinh đặc điểm này do sự cưỡng bách của phương pháp. Tất nhiên, theo Rickert, các “khoa học văn hóa” cũng phải đi đến những kết luận khái quát hóa có giá trị phổ biến, nhưng “không phải theo cách” của các khoa học tự nhiên, v́, khác với các khoa học tự nhiên, chúng quan tâm đến cái cá biệt lẫn cái đặc thù của một hiện tượng lịch sử. V́ thế, Rickert đề ra “phương pháp cá thể hóa” (individualisierendes Verfahren) của khoa lịch sử, đối lập lại với phương pháp “khái quát hóa” (generalisierendes Verfahren) của khoa học tự nhiên. Rickert đồng ư về cơ bản với sự phân biệt của Wilhelm Windelband (“Sử học và khoa học tự nhiên”, 1894) giữa phương pháp “cá biệt hóa” (idiographisch) của sử học và phương pháp “quy luật hóa” (monothetisch) của khoa học tự nhiên. Nhưng, theo Rickert, đấy mới chỉ là sự phân biệt “tiêu cực” (khoa học văn hóa không phải là khoa học tự nhiên), nên cần bổ sung thêm phương pháp “tích cực” mà ông gọi là việc “đặt quan hệ với giá trị” (Wertbeziehung). Theo đó, bất kỳ sự tŕnh bày nào về lịch sử cũng phải đặt đối tượng của ḿnh vào mối quan hệ với một giá trị có hiệu lực phổ biến. Các giá trị có hiệu lực phổ biến khi chúng “đ̣i hỏi sự thừa nhận trong thực tế của mọi thành viên trong một cộng đồng nhất định”. Đó là “các giá trị xă hội phổ biến có tính quy phạm” hay “các giá trị văn hóa”. Nguyên tắc “thuần túy lư thuyết” này chỉ có một mục đích là nh́n cho ra chỗ quan trọng đối với hiện tượng văn hóa, và đặt nó vào một trật tự có ư nghĩa, nhưng điều hệ trọng không kém là : bản thân nhà nghiên cứu phải đặt các giá trị mà bản thân ḿnh yêu thích hay tôn thờ ra bên ngoài công việc nghiên cứu. Ông nói ngắn gọn : “Cho dù môn sử học làm việc với những giá trị, nhưng nó không phải là một khoa học định giá trị. Nó chỉ khẳng định những ǵ đang là.[63]

    Max Weber tiếp thu nồng nhiệt quan niệm này của Rickert về cả hai yêu cầu : một mặt, yêu cầu “không đưa ra phán đoán giá trị” (Werturteilsfreiheit) để có thể có được sự kiểm tra vô tư, liên chủ thể về kết quả nghiên cứu ; mặt khác, “đặt đối tượng trong mối quan hệ với giá trị” (Wertbeziehung) để thỏa ứng đặc điểm của đối tượng văn hóa-lịch sử. Max Weber mở rộng nguyên tắc phương pháp luận này vào xă hội học : ông tin rằng xă hội học có thể học được từ khoa học tự nhiên “việc nghiên cứu những sự kiện thuần túy như là những sự kiện” (Fakta eben rein als Fakta behandeln), đồng thời phản đối việc “tuyệt đối hóa một số h́nh thức trừu tượng hóa của khoa học tự nhiên thành chuẩn mực cho tư duy khoa học nói chung” và thấy “xă hội học đang bị các nhà kỹ trị được đào tạo theo kiểu khoa học tự nhiên cưỡng hiếp”.[64] Điều ấy phải thay đổi và đồng thời đặt ra cho các ngành khoa học xă hội một vấn đề lớn : làm sao vừa có thể “ganh đua” được với khoa học tự nhiên về tính chính xác, vừa không mô phỏng máy móc quan niệm về quy luật của khoa học tự nhiên.

    Theo Max Weber, khoa học tự nhiên lẫn khoa học xă hội-nhân văn (“khoa học văn hóa”) đều đứng trước một hiện tượng giống nhau, đó là “tính phức hợp không thể nh́n thấu hết và ngày càng tỏ ra cứ lớn dần lên” (khiến Rickert trước đó đă nhận ra “sự bất lực của khái niệm”[65]). Ông rút ra kết luận : dùng “tinh thần hữu hạn của con người” để cố nắm bắt tính phức hợp của thực tại vốn vô tận về nguyên tắc này sẽ nhất định thất bại, nếu ta không tiền-giả định một cách mặc nhiên rằng ta chỉ nên lấy một bộ phận hữu hạn của thực tại làm đối tượng cho sự lĩnh hội khoa học và xem nó là “cơ bản” theo nghĩa là “đáng để biết”.[66] Để có thể xác định “bộ phận hữu hạn” nào của thực tại vô tận là “cơ bản”, các khoa học xă hội cần một “thước đo” (Maßstab). Thước đo ấy được Max Weber gọi là “loại h́nh-lư tưởng” (Idealtypus).

    Thật ra, không phải tất cả đều bắt nguồn từ bản thân Max Weber. Ta đă biết rằng Max Weber tiếp thu quan niệm “đặt đối tượng trong quan hệ với giá trị” (Wertbeziehung) và “không đưa ra phán đoán giá trị” (Wertfreiheit) từ H. Rickert, c̣n “loại h́nh-lư tưởng" là thuật ngữ của Georg Jellinek, đồng nghiệp của ông ở Heidelberg, nhưng từ một lĩnh vực áp dụng khác : luật học. Max Weber tận dụng thuật ngữ “loại h́nh-lư tưởng” của G. Jellinek sau khi ông gặp khái niệm “loại h́nh-nghiêm ngặt” (strenge Typen) hay c̣n gọi là “loại h́nh-hiện thực” (Realtypen) của Carl Menger, nhà kinh tế học quốc dân ở Wien để chỉ các h́nh thức hợp quy tắc diễn ra thường xuyên và lặp đi lặp lại trong thực tại mang đặc điểm chính xác của quy luật. Theo C. Menger, chúng được tạo ra bằng cách cô lập hóa các yếu tố cơ bản nhưng thường bị che giấu của hành động kinh tế. Weber nh́n thấy trong các “loại h́nh-hiện thực” này một khuôn mẫu để ông xây dựng nên các “loại h́nh-lư tưởng” của ḿnh. Chỗ mới mẻ của Max Weber là đă xây dựng được mô h́nh đối lập và áp dụng rộng răi vào trong khoa học xă hội và nhân văn nói chung. Ông giới thiệu “loại h́nh-lư tưởng” lần đầu tiên trong bài “Tính khách quan của nhận thức khoa học xă hội và chính trị-xă hội” năm 1904, và về sau, một cách có hệ thống, trong quyển Kinh tế và xă hội (1918, 1920). Theo đó, loại h́nh-lư tưởng là một “h́nh ảnh lư tưởng” hay một “h́nh ảnh của tư tưởng” mang “tính chất của một sự không tưởng” (Utopie), và, về cơ bản, là một sản phẩm của sự “tưởng tượng” (Phantasie) nhưng được “rèn luyện” và “hướng đến thực tại”. Loại h́nh-lư tưởng được h́nh thành bằng cách “cường điệu một hay một số phương diện và bằng việc tập hợp vô số những hiện tượng riêng lẻ khá hỗn độn và rời rạc (nơi nhiều nơi ít và có khi không hề có) vào dưới các phương diện được nêu bật một cách cường điệu nói trên thành một h́nh ảnh thống nhất của tư tưởng” (và không được có mâu thuẫn nội tại).[67]

    Trong tính thuần túy ấy của khái niệm, “loại h́nh-lư tưởng” hay “h́nh ảnh thống nhất của lư tưởng” này không thể t́m thấy ở đâu cả trong thực tại. Nó không phải là “thực tại lịch sử”, thậm chí không phải là thực tại “đích thực”, và cũng không nhằm phục vụ như một “sơ đồ” (Schema) để thực tại được “sắp xếp vào đó như một “mẫu điển h́nh” (Exemplar).[68] Đúng hơn, nó mang ư nghĩa của một khái niệm giới hạn thuần túy có tính lư tưởng (rein idealer Grenzbegriff) “để thực tại được đo, được so sánh với nó, hầu làm sáng tỏ các bộ phận cấu thành nào là có ư nghĩa quan trọng trong nội dung thường nghiệm về thực tại”.[69] Ông c̣n viết : “Các loại h́nh-lư tưởng càng được cấu tạo một cách sắc bén và dứt khoát bao nhiêu, tức càng xa lạ với thế giới [weltfremd] bao nhiêu, th́ trong nghĩa này, chúng càng làm tốt nhiệm vụ của chúng về mặt thuật ngữ và phân loại cũng như về mặt lợi ích cho nghiên cứu [heuristisch].”[70] Thêm nữa, v́ lẽ các loại h́nh-lư tưởng luôn được áp dụng vào thực tại, nghĩa là, những “sự kiện” phải được đo với chúng, nên rút cục nếu chúng không phù hợp với “sự kiện” th́ chúng không được xem là “bị bác bỏ”, mà đúng hơn, chính việc sự kiện đi lệch khỏi chúng sẽ phải được giải thích.

    Trở lại với việc sử dụng hai “loại h́nh-lư tưởng” là “tinh thần của chủ nghĩa tư bản” và “sự khổ hạnh bên trong thế gian” trong quyển ĐĐTL, ta thấy phân tích của Max Weber chủ yếu xoáy vào ba cấp độ : (a) cấp độ của các cấu trúc kinh tế-xă hội (“chủ nghĩa tư bản”) ; (b) cấp độ của những cá nhân hành động (“nhà doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa”) và (c) cấp độ của tín ngưỡng (“Tin lành”). Giữa các cấp độ này có những sự trung giới (Vermittlungen/médiations) của hai loại h́nh-lư tưởng (Idealtypen) nói trên. Ở đây, Max Weber không đề ra một tương quan nhân quả theo kiểu quy luật của khoa học tự nhiên mà một quan hệ “có ư nghĩa” (sinnhafte), nghĩa là, ông không bảo : nếu A (= Tin lành) tồn tại th́ tất yếu có B (chủ nghĩa tư bản), mà chỉ nói : nếu A (= quan niệm thiên chức về nghề nghiệp [Berufsethos], sự khổ hạnh bên trong thế gian) và B (chủ nghĩa tư bản) trùng hợp với nhau th́ có “cơ may” (Chance) là chủ nghĩa tư bản sẽ trở thành h́nh thức kinh tế thống trị mà không bị nhiều cản trở về mặt tinh thần. Sự trung giới giữa cấp độ (a) và cấp độ (c) diễn ra thông qua các tiến tŕnh xuất phát từ cấp độ (b) và liên quan đến cấp độ (b), tức là cấp độ hành động của những cá nhân riêng lẻ. Những tác nhân ấy không phải là những sản phẩm trừu tượng của đầu óc như các “loại h́nh-lư tưởng” mà là những con người cụ thể, gắn một ư nghĩ chủ quan (subjektiver SinnSinn ở đây là “ư nghĩ”) vào cho hành động của ḿnh. Khởi đầu của một tiến tŕnh phức tạp như chủ nghĩa tư bản tất yếu cần có các “chủ thể xă hội” (soziale Träger). Khởi đầu ấy không phải là đạo Tin lành, giáo thuyết Puritanist hay giáo thuyết Calvin mà là những con người cá biệt, có những xác tín nhất định và chuyển chúng thành hành động. Nhưng Weber, với tư cách là nhà xă hội học, không dừng lại ở những cá nhân (chẳng hạn nơi h́nh tượng Benjamin Franklin vốn được xem như là loại h́nh-lư tưởng [Idealtypus] của con người cá nhân tư duy tư bản chủ nghĩa) mà quan tâm đến những nhóm xă hội, từ đó, ông xét “tầng lớp trung lưu tư sản” như chủ thể xă hội (Träger) hiện thân cho những “ư nghĩ” chủ quan ấy. Những ư nghĩ chủ quan dần dần phát triển thành một “Gesinnung”, “Ethos”, và bản thân “tâm thế” này, đến lượt nó, lại là “sản phẩm của một tiến tŕnh giáo dục lâu dài”. Khía cạnh hấp dẫn nhất đối với Max Weber là ở chỗ : những ư nghĩ chủ quan này đă thoát ly một cách không chủ định ra khỏi những cá nhân hành động để biến thành những chuẩn mực ràng buộc trong hành động (kinh tế) thường ngày. Chỉ có tiến tŕnh “biện chứng” giữa những động lực tinh thần (“ư nghĩ chủ quan”) và những cấu trúc kinh tế xă hội tự tổ chức (chủ nghĩa tư bản hiện đại) mới làm lộ diện ư nghĩa văn hóa của những tư tưởng (tôn giáo) (cũng tức là làm lộ rơ chức năng “lư giải” của hai “loại h́nh-lư tưởng” trên đây). “Ư nghĩ chủ quan” của những người tín đồ liên quan đến việc dùng các phương tiện để đạt được sự cứu rỗi hay để minh chứng việc được ân sủng ; nhưng ư nghĩ đó lại biến thành một sự nối kết ư nghĩ khách quan trong các h́nh thức tổ chức đang tự h́nh thành của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hiện đại. Chính trên miếng đất tư bản chủ nghĩa ấy mà các ư nghĩ chủ quan trở thành những chuẩn mực phổ biến của hành động xă hội, và có thể thoát ly khỏi nguồn gốc ra đời mang tính tôn giáo của chúng. Chủ nghĩa tư bản hiện đại, khi đă trở thành h́nh thái kinh tế thống trị, không cần đến các xác tín tôn giáo để “hợp thức hóa” hay “chính đáng hóa” (Legitimation) cho nó nữa, thậm chí chủ nghĩa tư bản có thể quay lại chống chúng. Trong những điều kiện nhất định, chính những ư tưởng (tôn giáo) tạo ra những tác động, rồi những tác động này trở thành nguyên nhân phá hủy ngay chính những ư tưởng ấy !

    Việc ư nghĩ chủ quan chuyển hóa thành những hậu quả xă hội (nhiều khi ngoài ư muốn và ngược lại với ư muốn) là điều đă được Adam Smith, Kant, Hegel… nhận thấy, chẳng hạn khi động cơ vị kỷ của những cá nhân cũng có thể phục vụ, hay thậm chí, là điều kiện để phục vụ cho cái “phúc lợi phổ biến” của xă hội.[71] V́ thế, như Gregor Schöllgen nhận xét : “Ở đây, đúng là Max Weber đă đứng vào truyền thống của triết học thực hành từ Kant đến Hegel, khi ông luôn biết xem xét bất kỳ hành động nào dưới hai khía cạnh : một mặt là tra hỏi về ư nghĩa mà người hành động gán cho hành vi của ḿnh, nhưng đồng thời, mặt khác, chú ư đến diễn biến thật sự ra bên ngoài của hành vi vốn không phải bao giờ cũng lường trước được do một người quan sát ghi nhận. Nhiệm vụ của nhà khoa học văn hóa [nhà khoa học xă hội và nhân văn] là ở chỗ suy nghĩ cả hai khía cạnh này một cách tổng hợp, một nhiệm vụ mà theo Weber có thể hoàn thành được một cách thích đáng nhờ dựa vào loại h́nh-lư tưởng.”[72]

    Tóm lại, theo Max Weber, không phải “những tất yếu của sự vật” hay “những quy luật lịch sử” điều khiển một cách đơn-nguyên nhân [monokausal] các quá tŕnh tác động của những ư tưởng lên trên hành động của những cá nhân và những nhóm xă hội, mà chính những con người hành động thúc đẩy các quá tŕnh này. Song, mặt khác, những “ư nghĩ chủ quan” của người hành động bao giờ cũng ra đời trên những cơ sở vật chất nhất định. Chủ nghĩa tư bản hiện đại không thể h́nh thành nếu không có một nền đạo đức tương ứng với nó, nhưng nền đạo đức này cũng không thể được thiết lập mà không có chủ nghĩa tư bản làm cơ sở. Với Max Weber, hiện thực lịch sử là một hiện thực do con người cấu tạo nên và có thể tác động được, nhưng đồng thời hiện thực ấy cũng là điều kiện và giới hạn cho những khả năng hành động của con người.

    Max Weber viết : “Chính những lợi ích (vật chất và tinh thần) – chứ không phải những ư tưởng – mới trực tiếp thống trị hành động của con người. Nhưng, 'các h́nh ảnh về thế giới' do những 'ư tưởng' tạo ra lại rất nhiều khi giữ vai tṛ như kẻ đặt đường ray [chúng tôi nhấn mạnh – N.D.] để xác định con đường trên đó động lực của những lợi ích thúc đẩy hành động đi tới.”[73]

    Raymond Aron nhận xét rằng, hơn bất cứ tác giả xă hội học lớn nào khác như Emile Durkheim hay Vilfredo Pareto, cho đến nay Max Weber vẫn có thể được coi là một nhà xă hội học “đương thời” với chúng ta. Theo Aron, giá trị của quyển ĐĐTL nằm ở chỗ đă đặt ra hai câu hỏi có ư nghĩa hết sức lớn lao. Câu hỏi thứ nhất là một câu hỏi mang tính chất lịch sử : các giáo phái Tin lành hay nói chung tư tưởng của đạo Tin lành đă ảnh hưởng mức độ nào đến sự h́nh thành và sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ? Câu hỏi thứ hai là một câu hỏi lư thuyết xă hội học : việc “thông hiểu” các ứng xử kinh tế buộc phải được qui chiếu về các niềm tin tôn giáo, về nhân sinh quan của các tác nhân xă hội trong chừng mực nào hay theo chiều hướng nào ? Theo Aron, trong tư duy của Max Weber, không hề có sự đứt đoạn hay ngăn cách giữa con người kinh tế và con người tôn giáo. Chính v́ phụ thuộc vào một nền đạo đức nhất định nào đó mà con người bằng xương bằng thịt trong những t́nh huống cụ thể nhất định mới trở thành một homo oeconomicus. Raymond Aron cho rằng công lao của Weber là đă nỗ lực phân tích cấu trúc của hành động xă hội nhằm phân loại các lối ứng xử, và từ đó ông đi đến chỗ so sánh các hệ thống tôn giáo, kinh tế, chính trị, xă hội.[74] C̣n theo đánh giá của Talcott Parsons, sự đóng góp độc đáo nhất của Weber là “đưa vào trung tâm của sự chú ư những khía cạnh (…) đă bị che khuất trong phần lớn các tư tưởng xă hội và kinh tế, và cho thấy tầm quan trọng lớn lao của những khía cạnh này đối với xă hội của chúng ta”.[75] Theo Aron, cho dù luận đề của Weber có thể đúng hay sai, và cho dù nó có thể bị phản bác đến mức độ nào đi chăng nữa, th́ vấn đề và lối đặt vấn đề của ông ngày nay vẫn c̣n nguyên vẹn ư nghĩa thời sự.[76]

xXx

    Từ năm 1911, Max Weber nghiên cứu về các tôn giáo lớn trên thế giới (Nho, Lăo, Ấn độ giáo, Phật giáo, Do Thái giáo) như là “tiêu chuẩn so sánh” cho luận điểm về vai tṛ của đạo Tin lành đối với chủ nghĩa tư bản. Từ chỗ kiểm tra câu hỏi : phải chăng ở đâu không có đạo Tin lành, cũng không có chủ nghĩa tư bản, Max Weber phát triển thành một công cuộc nghiên cứu toàn diện mà ông đă không thể kết thúc về tiến tŕnh “lịch sử phổ quát” của việc “lư tính hóa” mọi lĩnh vực đời sống trong mọi nền văn hóa. Từ các nghiên cứu bộ phận, nhất là từ năm 1916 khi ông đặc biệt quan tâm đến yếu tố “giải ma thuật” (Entzauberung) và sự “tiên tri thuần lư” của Do Thái giáo, ông đi đến chỗ nhận định : lư tính hóa hay hợp lư hóa là “số phận của thời đại chúng ta” (das Schicksal unserer Zeit), v́ nó là phổ quát (universal) và không thể ngăn cản được (unaufhaltsam). “Lư tính hóa” theo nghĩa rộng nhất là sắp đặt có trật tự, có hệ thống theo những tiêu chuẩn của con người. Nó không chỉ tác động đến các lĩnh vực kinh tế, pháp quyền, khoa học, kỹ thuật, tổ chức nhà nước, tức “tổ chức bên ngoài của thế giới” mà cả các lĩnh vực vốn thuộc về cái ǵ “phi lư tính”, “hỗn độn”, “vô trật tự” như tôn giáo, đạo đức, nghệ thuật, văn hóa, t́nh dục, tức các lĩnh vực điều tiết “tổ chức bên trong của thế giới”. Nhưng, tiến tŕnh “lư tính hóa”, theo Max Weber, không phải là một sự phát triển đơn tuyến (unilinear), hợp quy luật, mà luôn có những phát triển trái chiều, đầy hiểm họa. Ông mô tả nó bằng rất nhiều thuật ngữ vừa tích cực vừa tiêu cực : “quản lư chuyên nghiệp/quan liêu hóa (Bürokratisierung), “công nghiệp hóa”, “trí tuệ hóa”, “chuyên môn hóa”, “phương pháp hóa”, “kỷ luật hóa”, “giải ma thuật”, “thế tục hóa”, thậm chí “phi nhân hóa” (Entmenschlichung), “vật hóa” (Versachlichung), “phi nhân cách hóa” (Verunpersönlichung), “tước bỏ linh hồn” (Entseelung)… V́ thế, Dirk Kaesler viết : “Một lư thuyết về hiện đại hóa theo nghĩa một 'lư thuyết tiến hóa' theo đó thế giới – hay ít ra là lịch sử loài người – được tŕnh bày như một sự tiến lên không ngừng nghỉ đến chỗ hoàn thiện của việc thống trị thế giới một cách lư tính là một sự ngộ nhận kỳ quặc về toàn bộ sự nghiệp của Max Weber.”[77] Chính những cái “bất ngờ”, “ngẫu nhiên”, những sự phát triển “phản-lư tính”, “vô-nhân đạo” nơi tiến tŕnh lư tính hóa, những cái “giá phải trả” (Kosten) của tiến tŕnh phức tạp ấy là điều Max Weber đặc biệt quan tâm và ông có cái nh́n tỉnh táo, cảnh báo về nhiều nguy cơ, chứ không phải là người biện hộ (Apologet) vô điều kiện cho tiến tŕnh ấy như không ít người lầm tưởng. “Tinh thần chức nghiệp”, như đă nói, sớm tách rời khỏi cơ sở tôn giáo của nó và từ một sự quyết định tự do lúc ban đầu đă trở thành sự tất yếu, thậm chí một sự cưỡng bức : “Người Puritanist đă muốn làm một con người-nghề nghiệp, c̣n chúng ta th́ phải làm.”[78] Theo một nghĩa nào đó, “lư tính ở trong lịch sử” – như cách nói của Hegel – đă được chứng thực trong thực tế, nhưng không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với “vương quốc của sự Tự do”! Từ viễn tượng chính trị (nhuốm màu bi quan), ông không thấy có lối thoát ra khỏi “cái lồng của sự lệ thuộc” (Gehäuse der Hörigkeit)[79], ra khỏi việc “ấu trĩ hóa con người” (Entmündigung), ra khỏi sự “tha hóa” (Entfremdung) ḥng làm cho tính thuần lư – đă bị thoái hóa thành mục đích tự thân – trở lại là phương tiện để phục vụ cho con người và cho các quan hệ xă hội của con người. Ông luôn lo sợ : “Trước bước tiến lên không ǵ ngăn cản nổi của chủ nghĩa tư bản và sự 'quan liêu hóa', không biết c̣n có thể cứu văn phần c̣n sót lại nào đó của một sự tự do vận động theo một nghĩa 'cá nhân chủ nghĩa' hay không, và làm sao nền 'dân chủ' c̣n có thể có được trong tương lai.”[80] Chính qua các nhận định từ rất sớm giữa khói lửa của cuộc Thế chiến thứ nhất, Max Weber xứng đáng là một trong những “bậc thầy tư tưởng” (maître-penseurs) của thế kỷ XX bên cạnh những Adorno, Horkheimer, G. Lukács… về “biện chứng của sự Khai minh”.

xXx

    Quyển sách mà độc giả đang cầm trên tay bao gồm công tŕnh chính là Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản mà Max Weber viết vào năm 1904-1905 (in trong Archiv für Sozialwissenschaft und Sozialpolitik, tập XX, 1904, quyển 1, tr. 1-54, và tập XXI, 1905, quyển 1, tr. 1-110), và có sửa chữa, bổ sung vào năm 1920. Ngoài ra c̣n có thêm một bài mang tên là “Các giáo phái Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản” (Die protestantischen Sekten und der Geist des Kapitalismus) – đây là một bài mà Weber đă bổ sung thêm nhiều, khởi sự từ một bài báo của ông đăng trên tờ Frankfurter Zeitung, số ra vào dịp Phục sinh năm 1906, sau đó bài này ông được mở rộng và đăng trên tờ tạp chí Christliche Welt (1906) với tựa đề là “Các giáo hội và các giáo phái” (“Kirchen und Sekten”). Ở ngay phần đầu quyển sách này là bài “Lời nhận xét mở đầu” (Vorbemerkung) mà Weber viết vào cuối năm 1919 để mở đầu cho một bộ sách gồm ba tập mang tên là Gesammelte Aufsätze zur Religionssoziologie (Tập hợp các luận văn về xă hội học tôn giáo) – bộ này chỉ được xuất bản sau khi Weber qua đời vào năm 1920. Chúng tôi dịch thêm cả hai phần này để bạn đọc có thêm tư liệu nghiên cứu.

    Quyển sách này được dịch từ nguyên bản tiếng Đức, có tham khảo các bản dịch tiếng Pháp và tiếng Anh, bởi một tập thể dịch giả thuộc nhiều chuyên ngành khoa học xă hội-nhân văn khác nhau bao gồm Bùi Văn Nam Sơn (triết học), Nguyễn Nghị (sử học, văn hóa Kitô giáo), Nguyễn Tùng (xă hội học, dân tộc học) và Trần Hữu Quang (xă hội học). Nguyên bản tiếng Đức được sử dụng là ấn bản Die protestantische Ethik und der Geist des Kapitalismus của nhà xuất bản C. H. Beck, do Dirk Kaesler ấn hành, München, 2004.

    Được dùng để đối chiếu tham khảo trong việc dịch thuật là bản dịch tiếng Pháp của Jacques Chavy, L’éthique protestante et l’esprit du capitalisme (suivi d'un autre essai), Paris, nhà xuất bản Plon, 1964, và bản dịch tiếng Anh của Talcott Parsons và Anthony Giddens, The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism, London và Boston, nhà xuất bản Unwin Hyman, 1930. Bản dịch đầu tiên ra tiếng Anh này không có “Lời nhận xét mở đầu” và cũng chưa có bài “Các giáo phái Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản”. V́ thế, chúng tôi cũng đă tham khảo thêm bản dịch tiếng Anh của Stephen Kalberg đối với “Lời nhận xét mở đầu” của Max Weber (“Prefatory Remarks” to Collected Essays on the Sociology of Religion) và bài “Các giáo phái Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản”, in trong quyển The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism, xuất bản lần thứ ba, Los Angeles, nhà xuất bản Roxbury Publishing, 2002.

    Nhằm cố gắng tôn trọng nguyên vẹn các ư tưởng của Max Weber, bản dịch tiếng Việt này cũng đă dịch tất cả các chú thích trong bản gốc. V́ văn phong tiếng Đức của Weber đôi khi khá dài ḍng, nên trong những trường hợp ấy, bản dịch này đành phải cắt những câu nào quá dài thành những mệnh đề ngắn hơn, nhằm diễn đạt sáng sủa hơn ư tưởng của tác giả mà vẫn cố gắng trung thành tối đa đối với văn phong cũng như những thuật ngữ của tác giả. Số trang ghi ở ngoài lề mỗi trang là theo ấn bản gốc tiếng Đức (tập I quyển Gesammelte Aufsätze zur Religionssoziologie, Tübingen, Nhà xuất bản J.C.B. Mohr [Paul Siebeck], 1920), để tiện trích dẫn thống nhất theo thói quen của giới nghiên cứu về Max Weber.

    Cuối cùng, chúng tôi xin được phép thay mặt nhóm dịch giả chân thành cám ơn Quĩ dịch thuật Phan Châu Trinh, Nhà xuất bản Tri thức, Tủ sách Tinh hoa Tri thức Thế giới, ông Chu Hảo cùng tất cả những anh chị làm việc trong tủ sách này đă ủng hộ chúng tôi về tinh thần cũng như vật chất, hết ḷng động viên chúng tôi hoàn thành công tŕnh dịch thuật này. Bản dịch này chắc hẳn không tránh khỏi những sai sót, lỗi lầm, nên chúng tôi rất mong được quí độc giả ân cần chỉ giáo. Chúng tôi cũng hy vọng rằng quyển sách sẽ góp phần nhỏ bé vào việc bồi bổ tri thức khoa học xă hội ở nước ta. Và nếu nó gợi được một vài ư tưởng ǵ mới mẻ chăng cho người đọc th́ đấy là điều chúng tôi không mong mỏi ǵ hơn.

 

TPHCM, ngày 24-5-2007

T.H.Q., B.V.N.S.

*



[1] Đây là cách xếp loại của Raymond Aron. Xem Raymond Aron, Les étapes de la pensée sociologique (Các giai đoạn phát triển của tư tưởng xă hội học) [1967], Paris, Nxb Gallimard, 1993, tr. 499.

[2] Xem Talcott Parsons, “Introduction”, trong Max Weber : The Theory of Social and Economic Organization (Max Weber : Lư thuyết về tổ chức xă hội và kinh tế) [1947], (Phần I quyển Wirtschaft und Gesellschaft [Kinh tế và xă hội] của Max Weber), (A. M. Henderson và Talcott Parsons dịch), với lời giới thiệu của Talcott Parsons, New York, Nxb The Free Press, 1964, tr. 78.

[3] “Soziologie (im hier verstandenen Sinn dieses sehr vieldeutig gebrauchten Wortes) soll heißen : eine Wissenschaft, welche soziales Handeln deutend verstehen und dadurch in seinem Ablauf und seinen Wirkungen ursächlich erklären will.”

[4] Xem Laurent Fleury, Max Weber, Paris, Nxb Presses universitaires de France, “Que sais-je ?”, 2001, tr. 21.

[5] Gesammelte Aufsätze zur Wissenschaftslehre, 3. Aufl. Tübingen 1968, tr. 32.

[6] Xem thêm Michael Löwy, Heinz Wismann, “Introduction” (Bài giới thiệu cho chủ đề “Max Weber, la religion et la construction du social” [Max Weber, tôn giáo, và việc kiến tạo tính xă hội]), Archives des Sciences sociales des Religions, số 127, 2004, tr. 5-8.

[7] Xem Alain Bihr, “Les origines du capitalisme selon Max Weber” (Các nguồn gốc của chủ nghĩa tư bản theo Max Weber), Interrogations, số 2, tháng 6-2006, tr. 111.

[8] Max Weber, “Lời nhận xét mở đầu”, bản gốc trang 4.

[9] Như trên, tr. 4.

[10] Như trên, tr. 4.

[11] Như trên, tr. 4.

[12] Xem Raymond Aron, sđd, tr. 531.

[13] Xem Raymond Aron, sđd, tr. 530-531.

[14] Max Weber, “Lời nhận xét mở đầu”, bản gốc trang 6.

[15] Như trên, tr. 7.

[16] Như trên, tr. 7.

[17] Như trên, tr. 10. Bản tiếng Anh của Stephen Kalberg dịch cụm từ “bürgerlichen Betriebskapitalismus” ở đây là “middle-class industrial capitalism” [chủ nghĩa tư bản công nghiệp trung lưu] (Max Weber, The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism, Los Angeles, Nxb Roxbury Publishing, 2002). Bản dịch tiếng Pháp của Jacques Chavy th́ dịch là “capitalisme d'entreprise bourgeois” (Max Weber, L’éthique protestante et l’esprit du capitalisme [suivi d'un autre essai], Paris, Nxb Librairie Plon, 1964). Trong khi đó, Talcott Parsons dịch cụm từ “bürgerlichen Kapitalismus” ở một đoạn khác là “bourgeois capitalism” (Max Weber, The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism, London và Boston, Nxb Unwin Hyman, 1930).

[18] Max Weber, “Lời nhận xét mở đầu”, bản gốc trang 11.

[19] Talcott Parsons, “Introduction”, bài đă dẫn, tr. 79.

[20] Max Weber, “Lời nhận xét mở đầu”, bản gốc trang 11.

[21] Như trên, tr. 12.

[22] Như trên, tr. 4.

[23] Xem Alain Bihr, bài đă dẫn, tr. 112.

[24] Xem Alain Bihr, bài đă dẫn, tr. 115.

[25] Emile Durkheim, Les règles de la méthode sociologique (Những qui tắc của phương pháp xă hội học) [1894], Paris, Quadridge, Presses universitaires de France, 1992, tr. 103.

[26] Emile Durkheim, sđd, tr. 109.

[27]Endogène” và “sens endogène” là những thuật ngữ mà Patrick Pharo dùng để diễn dịch và giải thích ư tưởng của Weber. Xem Patrick Pharo, “Problèmes empiriques de la sociologie compréhensive”, Revue française de sociologie, XXVI, Janvier-Mars 1985, tr. 121.

[28] Patrick Pharo, bài đă dẫn, tr. 146.

[29] Tức là những “cấu trúc xă hội” như nhà nước, các hợp tác xă, các công ty cổ phần hay các hiệp hội mà Weber vừa nói tới ở câu trước.

[30] Max Weber, Wirtschaft und Gesellschaft (Kinh tế và xă hội) [1920]. Xem bản dịch tiếng Pháp Economie et société, tập 1, Paris, Nxb Plon 1971, Pocket tái bản, 1995, tr. 41. Xem bản dịch tiếng Anh Max Weber : The Theory of Social and Economic Organization, A. M. Henderson và Talcott Parsons dịch và giới thiệu, sđd, tr. 101.

[31] Gregor Schöllgen, Max Weber, München, Nxb C.H. Beck, 1998, tr. 62.

[32] Dẫn lại theo Laurent Fleury, sđd, tr. 19.

[33] Max Weber, Wirtschaft und Gesellschaft, bản dịch tiếng Pháp đă dẫn, tr. 41, và bản dịch tiếng Anh đă dẫn, tr. 102.

[34] Trích lại theo Alain Laurent, L'individualisme méthodologique, Paris, Nxb Presses universitaires de France, “Que sais-je ?”, 1994, tr. 64.

[35] Xem Alain Laurent, sđd, tr. 64-66.

[36] Max Weber, Wirtschaft und Gesellschaft, bản dịch tiếng Pháp đă dẫn, tr. 46-47.

[37] Max Weber, Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản (sau đây sẽ viết tắt là ĐĐTL), bản gốc trang 105-106.

[38] Max Weber, ĐĐTL, bản gốc trang 69.

[39] Như trên, tr. 69.

[40] Xem thêm Raymond Aron, sđd, tr. 538-540.

[41] Xem Talcott Parsons, bài đă dẫn, tr. 33, và 81.

[42] Max Weber, ĐĐTL, bản gốc trang 202

[43] Max Weber, Sociologie des religions (Xă hội học về các tôn giáo). Dẫn lại theo Alain Bihr, “Les origines du capitalisme selon Max Weber (suite et fin)” (Các nguồn gốc của chủ nghĩa tư bản theo Max Weber [tiếp theo và hết]), Interrogations, số 3, tháng 12-2006, tr. 120.

[44] Xem thêm Laurent Fleury, sđd, tr. 53-55.

[45] Xem Raymond Aron, sđd, tr. 530.

[46] Max Weber, ĐĐTL, bản gốc trang 82.

[47] Như trên, tr. 12.

[48] Như trên, tr. 82.

[49] Max Weber, “Anticritique à propos de l' 'esprit' du capitalisme” (1910), in trong quyển Max Weber, L’éthique protestante et l’esprit du capitalisme (kèm theo một số công tŕnh khác), Paris, Nxb Gallimard, 2003, bản dịch của Jean-Pierre Grossein, tr. 344-380.

[50] Max Weber, ĐĐTL, bản gốc trang 12. Max Weber c̣n nói thêm rằng trong công tŕnh này, ông khảo sát “các quá tŕnh thích nghi lẫn nhau cũng như các mối quan hệ qua lạigiữa sựphát triểnkinh tế cácư tưởngtôn giáo. Ông nhấn mạnh rằng “các ư tưởng tôn giáo tuyệt nhiên không thể được diễn dịch đơn thuần từ các điều kiện 'kinh tế', bởi lẽ “các ư tưởng tôn giáo này (...) có một quy luật phát triển riêng và có một sức mạnh cưỡng chế riêng của chúng” (xem đoạn cuối của chú thích số 83 của Weber, ĐĐTL, bản gốc tr. 192).

[51] Xem Raymond Aron, sđd, tr. 517-519.

[52] Max Weber, ĐĐTL, bản gốc trang 60.

[53] Như trên, tr. 60.

[54] Xem Robert A. Nisbet, La tradition sociologique (Truyền thống xă hội học) [1966], bản dịch tiếng Pháp của Martine Azuelos, Nxb Presses universitaires de France, Quadridge, 1993, tr. 318. Xem thêm Anthony Giddens, Sociology, Cambridge, Nxb Polity Press, 1990, tr. 638-639.

[55] Xem Robert A. Nisbet, sđd, tr. 319-320.

[56] Thật ra từ rất sớm, Karl Marx cũng đă nhận ra tiến tŕnh chuyển hóa “từ tiền thành tư bản” và vai tṛ quan trọng của nền “đạo đức Tin lành” trong tiến tŕnh này. Ngay trong tập I của bộ Tư bản (Kapital I, MEW, Bd23-25, tr. 93), Marx đă viết : “Đối với một xă hội của những người sản xuất hàng hóa mà quan hệ sản xuất phổ biến của họ là ở chỗ hành xử với những sản phẩm của ḿnh như là những hàng hóa, tức như là những giá trị, và trong h́nh thức vật chất này, những lao động riêng tư của họ quan hệ với nhau như là lao động con người giống nhau, th́ Kitô giáo với việc tôn thờ con người trừu tượng, – nhất là trong sự phát triển dân sự của nó –, và với đạo Tin lành, Thượng đế luận v.v.… là h́nh thức tôn giáo thích hợp nhất”. Về “tinh thần đạo Tin lành” trong tiến tŕnh lư tính hóa lao động được Weber chỉ ra sau này, th́ Marx cũng đă xem “tinh thần ấy có một vai tṛ quan trọng trong sự h́nh thành tư bản qua việc chuyển đổi hầu hết mọi ngày nghỉ lễ truyền thống thành ngày làm việc” (sđd, 292, chú thích 124). Nếu Weber xem nền đạo đức Tin lành là động lực của việc “tích lũy tư bản”, th́ Marx cũng giải thích “tính chất Kitô giáo của việc tích lũy nguyên thủy” bằng sự “đắc lực tỉnh táo của đạo Tin lành” (nüchterne Virtuosen des Protestantismus) (sđd, 781). Chỉ khác ở chỗ Marx không hề xem đạo Tin lành là đă được “giải phóng” ra khỏi nền tảng của đạo Công giáo (Tư bản, tập III, tr. 606) và, theo ông, giống như mọi tôn giáo khác, nó mang tính chất ḱm hăm sự tiến bộ lịch sử (dẫn theo G. Schöllgen, Max Weber, München, 1998, tr. 87-88).

[57] Max Weber, ĐĐTL, bản gốc tr. 206.

[58] Archiv für Sozialwissenschaft und Sozialpolitik, tập XXV, 1907, tr. 232-242.

[59]  Archiv für…, sđd, tập XXVI, 1908, tr. 270-274.

[60] Internationale Wochenschrift für Wissenschaft, Kunst und Technik, 1909.

[61] Max Weber, “Antikritisches Schußwort zum 'Geist des Kapitalismus' ” (Archiv für Sozialwissenschaft und Sozialpolitik, tập XXXI, 1910, tr. 554-559). Ngay Talcott Parsons, khi làm luận án năm 1925 ở Heidelberg về “Các lư thuyết về chủ nghĩa tư bản trong Max Weber, K. Marx và W. Sombart”, cũng xem quyển sách này của Max Weber là sự “bác bỏ học thuyết Marx trong một trường hợp lịch sử nhất định”, và đă tạo nên một h́nh ảnh về Max Weber như là “Anti-Marx” (kẻ chống Marx) trong khu vực Anh Mỹ.

[62] Lebensbild, tr. 273.

[63] Heinrich Rickert, Die Grenzen der naturwissenschaftlichen Begriffsbildung (Các giới hạn của việc xây dựng khái niệm khoa học tự nhiên), tr. 87.

[64] Max Weber, “Các luận văn về học thuyết khoa học”, tr. 400-402.

[65] Heinrich Rickert, sđd, tr. 30.

[66] Max Weber, “Die 'Objektivität' sozialwissenschaftlicher und sozialpolitischer Erkenntnis” (“Tính khách quan” của nhận thức khoa học xă hội và chính trị-xă hội), Archiv für Sozialwissenschaft und Sozialpolitik, tập XIX, 1904, tr. 171.

[67] Max Weber, “Tính khách quan…”, bài đă dẫn, tr. 190-194.

[68] Chúng tôi xin nhấn mạnh thêm rằng mặc dù chữ Ideal trong tiếng Đức (hay ideal trong tiếng Anh hay idéal trong tiếng Pháp) được dịch là “lư tưởng”, nhưng thuật ngữ “loại h́nh-lư tưởng” của Max Weber ở đây hoàn toàn không có hàm ư ǵ liên quan tới ư niệm lư tưởng theo nghĩa thông thường, mà có nghĩa là “loại h́nh-ư tưởng” hay “loại h́nh-ư niệm”. Trong bài “Die 'Objektivität' sozialwissenschaftlicher und sozialpolitischer Erkenntnis” (“Tính khách quan” của nhận thức khoa học xă hội và chính trị-xă hội) viết năm 1904, Weber nói rơ rằng cần phân biệt giữa việc nhận thức thực tại (tức là “so sánh thực tại với những loại h́nh-lư tưởng về mặt ư nghĩa lôgic”) với việc phán đoán giá trị về thực tại ấy (dựa trên những lư tưởng). Để lấy thí dụ, Weber nói rằng loại h́nh-lứ tưởng về “nhà thổ” không phải là một nhà thổ hoàn hảo hay một nhà thổ lư tưởng, mà chỉ là một ư niệm về “nhà thổ” mà chúng ta xây dựng trong đầu của ḿnh ; như vậy, có thể có nhiều loại h́nh-lứ tưởng khác nhau về “nhà thổ” : loại h́nh-lư tưởng của lực lượng cảnh sát về “nhà thổ” chắc hẳn phải khác biệt so với loại h́nh-lư tưởng về “nhà thổ” nơi những nhóm xă hội khác.

[69] Như trên, tr. 190-194.

[70] Max Weber, Kinh tế và Xă hội, tr. 4.

[71] Xem Hegel, Hiện tượng học Tinh thần, Đức hạnh và ḍng đời §381-393 ; Chú giải dẫn nhập của Bùi Văn Nam Sơn, 7.4.3, Hà Nội, Nxb Văn học, 2006, tr. 805-806.

[72] Xem Gregor Schöllgen, Handlungsfreiheit und Zweckrationalität. Max Weber und die Tradition praktischer Philosophie (Tự do của hành động và tính lư tính mục đích. Max Weber và truyền thống triết học thực hành), Tübingen, Nxb Mohr, 1984. Gregor Schöllgen, Max Weber, München, Nxb C.H. Beck, 1998, tr. 62-63.

[73] Lời tựa cho tập luận văn về Xă hội học tôn giáo năm 1920/21, Tuyển tập, ấn bản Kroner, tập 23, tr. 590.

[74] Xem Raymond Aron, sđd, tr. 564-565.

[75] Talcott Parsons, bài đă dẫn, tr. 79.

[76] Xem Raymond Aron, sđd, tr. 565.

[77] Lời tựa cho ấn bản Die protestantische Ethik und der Geist des Kapitalismus của nhà xuất bản C. H. Beck, do Dirk Kaesler ấn hành, München, 2004, tr. 53.

[78] Max Weber, ĐĐTL, bản gốc tr. 203.

[79] Xem thêm ư tưởng về “chiếc lồng thép” của Max Weber trong đoạn viết ở trang 203 (bản gốc) của quyển ĐĐTL này.

[80] Max Weber, Zur Politik im Weltkrieg. Schriften und Reden 1914-1918 (Về chính trị trong thế chiến. Các bài viết và các bài nói chuyện 1914-1918), Toàn tập I, tập 15, Tübingen 1984, tr. 465.