Thiên nga đen

 

“Hiểu” và “giải thích”: hai phương trời cách biệt?

SGTT.VN - Trước những thảm hoạ như động đất, sóng thần, con người không thể phê phán hay khuyên nhủ ǵ đối với giới tự nhiên được cả (hay phải chăng chính tự nhiên đang cảnh cáo con người!), mà chỉ có thể giải thích, dự đoán và pḥng tránh. Nhưng, ta lại có thể chia sẻ (hiểu) và đánh giá (lên án hoặc ca ngợi) cách ứng xử của con người trước thảm hoạ. Đó chính là một trong những sự khác biệt cơ bản giữa khoa học tự nhiên và khoa học xă hội.

Nhất nguyên về phương pháp?

Ta thường phân biệt giữa các khoa học tự nhiên như vật lư học, hoá học, sinh vật học với các khoa học xă hội như sử học, xă hội học v.v. Có chăng một phương pháp luận thống nhất cho cả hai lĩnh vực như chủ trương của các nhà nhất nguyên luận, hay giữa việc “giải thích” và “hiểu” là một hố thẳm không thể vượt qua theo quan niệm nhị nguyên luận?

Karl Popper và Thomas Kuln – ta đă làm quen trong các bài trước – cho rằng lư thuyết kiểm sai có thể áp dụng cho cả hai lĩnh vực. Theo đó, giống như trong khoa học tự nhiên, phương pháp luận trong khoa học xă hội, về nguyên tắc, cũng đề ra một phỏng định (giả thuyết), rồi t́m cách kiểm sai nó. Phỏng định nào đứng vững, sẽ được tạm thời chấp nhận. Phỏng định nào không đứng vững th́ xem như đă bị kiểm sai và bác bỏ.

Đi xa hơn, Popper cho rằng việc kiểm sai cũng là tiêu chuẩn để xem một lư thuyết trong khoa học xă hội có xứng danh là “khoa học” hay không. Theo ông, một lư thuyết trong lĩnh vực xă hội mà về nguyên tắc không thể kiểm sai được (theo ông, chẳng hạn đó là một số phỏng định trong lư thuyết Marx và trong phân tâm học của Sigmund Freud) th́ không phải là khoa học “đích thực”. Nhưng, nếu hiểu như thế, Popper cũng thấy rằng ắt ta sẽ đứng trước một t́nh thế lưỡng nan: lư thuyết nào có thể kiểm sai, th́ về nguyên tắc, đă bị kiểm sai, tức bị bác bỏ, c̣n lư thuyết nào không thể kiểm sai th́ không phải là khoa học. Kết quả là: hiếm có lư thuyết nào trong khoa học xă hội là đúng đắn và có giá trị khoa học cả!

Tránh thái độ “duy khoa học” trong lĩnh vực xă hội

Các nhà nhất nguyên luận cũng thừa nhận những sự khác biệt rất lớn giữa khoa học tự nhiên và khoa học xă hội (chưa nói đến khoa học nhân văn!): các hệ thống xă hội bao hàm nhiều tiểu hệ thống, quá phức tạp, không thể lặp lại tuỳ thích theo yêu cầu của thí nghiệm khoa học; rất khó đề ra những quy luật phổ biến trước tính đa dạng về văn hoá và sự khác biệt giữa nhiều xă hội khác nhau; bản thân đối tượng và người nghiên cứu cũng biến đổi trong quá tŕnh nghiên cứu và trở thành những biến số khó nắm bắt; không thể giữ được sự dửng dưng, không thể không tỏ thái độ đánh giá về phía người nghiên cứu lẫn đối tượng nghiên cứu.

Tuy nhiên, trong việc đi t́m “quy luật” (mục tiêu cao nhất của hoạt động khoa học), họ cho rằng ta không được lẫn lộn tính phổ biến của định luật với sự bền vững và bất biến của chúng. Ngay định luật tự nhiên cũng chỉ có giá trị phổ biến theo nghĩa những điều kiện ngoại biên của chúng c̣n hiệu lực, chứ không phải những điều kiện ấy là bất biến. Như thế, sự khác biệt giữa tự nhiên và xă hội có chăng là ở tốc độ thay đổi chậm hay nhanh của những điều kiện này hơn là ở tính chất phổ biến của bản thân quy luật.

Thừa nhận khả năng t́m ra những “quy luật” (hay đúng hơn, những “quy tắc”) xă hội trong một phạm vi và mức độ nào đó, ít ra về mặt định lượng, ta không quên rằng mô h́nh giải thích quen thuộc trong khoa học tự nhiên gặp những khó khăn và tranh căi rất lớn khi áp dụng vào lĩnh vực xă hội. Như đă giới thiệu, mô h́nh giải thích trong khoa học tự nhiên (mệnh danh là mô h́nh Hempel-Oppenheimer) luôn t́m cách quy những sự kiện đặc thù đang xảy ra vào một nguyên tắc hay định luật đă biết để giải thích chúng. Áp dụng vào xă hội, chẳng hạn, để giải thích một hiện tượng kinh tế đặc thù nào đó (ví dụ: khủng hoảng chứng khoán ở Wall Street), người ta có thói quen đi từ hiện tượng ấy đến nguyên tắc chung rằng mọi khủng hoảng đều bắt nguồn từ cấu trúc tư bản chủ nghĩa của xă hội Mỹ. Mô h́nh giải thích này tỏ ra thuận tiện và… lười biếng, bởi nó chứa đựng nguy cơ giản lược. Đẩy đến chỗ cực đoan và máy móc, mô h́nh giải thích này ắt sẽ giản lược mọi lĩnh vực vào một lĩnh vực duy nhất: xă hội học có thể bị quy giản thành tâm lư học, rồi tâm lư học vào sinh vật học, và sau cùng, sinh vật học vào vật lư học. Cách quy giản này có thể có mức độ hợp lư nào đó trong các khoa học tự nhiên, nhưng khó mà phù hợp đối với những lĩnh vực “lỏng lẻo” hơn như lịch sử và chính trị. Bị quy giản như thế, hành động tự do của con người trở thành chuỗi nhân quả đơn thuần trong vật lư học! Hai hệ quả quan trọng có thể rút ra từ nhận định này:

Trách nhiệm và phê phán

Dù có nhiều khác biệt, khoa học tự nhiên và khoa học xă hội có cùng một tính khoa học, nhưng trong lĩnh vực xă hội, cần đặc biệt thận trọng khi tiến hành những tiến tŕnh bất khả văn hồi, và ưu tiên đi t́m những lựa chọn khác, an toàn hơn.

Một ngộ nhận cực kỳ nguy hiểm khi nhầm tưởng rằng các tiêu chuẩn rất cao của khoa học tự nhiên có thể áp dụng trực tiếp vào lĩnh vực quy hoạch xă hội mà không thấy hết tính mong manh và dễ tổn thương của lĩnh vực này. V́ thế, trong khoa học luận hiện đại, như nhận định của GS. Wolfgang Detel, hầu như có sự đồng thuận rằng: trong những tiến tŕnh bất khả văn hồi thuộc phạm vi xă hội (chẳng hạn: điện nguyên tử, khai thác tài nguyên, thay đổi hệ sinh thái hay chạy đua vũ trang v.v.), có một sự bất đối xứng về yêu cầu lập luận. Chính những kẻ ủng hộ, chứ không phải những người phản đối các tiến tŕnh ấy phải gánh bổn phận và trách nhiệm chứng minh – theo những tiêu chuẩn phương pháp luận cao nhất – rằng quyết định của họ không dẫn đến những hậu quả tai hại, và do đó, luôn phải sẵn sàng thay đổi “chiến lược”: ưu tiên đi t́m những lựa chọn khác, an toàn hơn.

Thêm nữa, sự khác biệt quyết định giữa định luật tự nhiên và quy tắc xă hội chính là ở chỗ: ta có thể phê phán những quy tắc xă hội, bằng cách dựa vào những chuẩn mực đạo lư, và nhất là có thể thay đổi chúng được, theo đúng ư nghĩa cao đẹp của từ “cách mạng”. Nói khác đi, chính bản thân con người – với những t́nh cảm, khát vọng, mục đích, với ư thức ngày càng cao về sự tự do của ư chí và hành động – lại trở thành những điều kiện khung và ngoại biên khả biến, có thể làm thay đổi những quy tắc xă hội, trong khi khó có thể cưỡng lại sức mạnh lạnh lùng của định luật tự nhiên.

Bùi Văn Nam Sơn - minh họa: Hồng Nguyên