Bóng mát của một vĩ nhân (*)
SGTT.VN - Sau “vai tṛ của nhà nước” và “xây dựng hệ thống giáo dục hiện đại” (Sài G̣n Tiếp Thị, 4.5.2011), vấn đề đào tạo văn hoá tổng quát và học tập suốt đời là hai chủ đề c̣n lại trong di sản của Humboldt.
Minh hoạ: Hồng Nguyên |
Vấn đề đào tạo (văn hoá) tổng quát
Yếu tố trung tâm trong triết lư giáo dục của Humboldt là việc đào luyện (Bildung) nhân cách một cách toàn diện và khuyến khích phát triển cá tính thông qua việc đào tạo (văn hoá) tổng quát. Lư thuyết giáo dục tân – nhân bản này kiên quyết không nhượng bộ trước áp lực của mọi thế lực chính trị và kinh tế, khẳng định nhiệm vụ then chốt của nhà trường là “đào tạo con người c̣n nhỏ trở thành con người trưởng thành, chứ không phải đào tạo con ông thợ giày thành ông thợ giày” (Hermann, Borsche). Yêu cầu này rơ ràng bị thực tế thử thách gắt gao. Như Ash nhận xét rất đúng rằng tuy chính sách đại học Đức luôn ca tụng và cam kết hướng theo lư tưởng của Humboldt, nhưng trong thực tế vẫn tập trung vào việc đào tạo có tính hướng nghiệp. Đă từ lâu, bên cạnh các đại học mang đặc trưng Humboldt vẫn tồn tại nhiều loại định chế đào tạo bậc cao khác (…) Nh́n chung, rơ ràng có sự quá độ dần dần sang mô h́nh kiểu Mỹ, là nơi đại học không ngần ngại tiếp cận và hợp tác chặt chẽ với giới công thương nghiệp. Lư do cơ bản của sự chuyển đổi này, theo Ash, là “bước ngoặt quản trị xí nghiệp”, xem đại học cũng là một bộ phận của guồng máy kinh tế.
Ở đây đang đặt ra hàng loạt vấn đề mới mẻ và chưa được giải quyết thoả đáng về mặt lư luận:
– Mô h́nh Humboldt (gắn liền với khuôn khổ “dân tộc” để đào tạo con người về văn hoá, chính trị, pháp lư…) ứng phó thế nào trước những thử thách của tiến tŕnh toàn cầu hoá (và nói riêng ở châu Âu, c̣n là Âu châu hoá), nhất là trước các yêu sách “tự do hoá”, “thương mại hoá” và “quốc tế hoá” giáo dục trong nhiều quy định của WTO?
– Mô h́nh Humboldt trả lời ra sao trước xu hướng tân – tự do (Friedrich von Hayek, Milton Friedman…) muốn viện dẫn Humboldt để bênh vực chủ trương tư nhân hoá các cơ sở giáo dục, thậm chí tiến tới xoá bỏ “khu vực công”, nhân danh sáng kiến chủ động và tinh thần tự chịu trách nhiệm của “người công dân trưởng thành”? (bản thân Humboldt cũng không tán thành việc học đại học miễn phí!)
- Học để biết chân lư và quư trọng cái đẹp, để từ đó giúp ta làm điều tốt - Người ta có thể hành chính hoá một nhà khoa học, chứ không thể hành chính hoá khoa học - Trường đại học phải tự hào v́ đă quyết tâm ǵn giữ di sản trí tuệ của những người đang đấu tranh v́ tự do. Hồ Đắc Di, Việt Bắc 1947 – 1949 |
– Mô h́nh Humboldt đối phó ra sao trước tiềm lực khổng lồ của những lực lượng chi phối “thị trường giáo dục” toàn cầu và công nghệ thông tin với ưu thế tuyệt đối của tiếng Anh và của các tập đoàn truyền thông hầu như chiếm địa vị độc quyền trong việc tiếp cận thông tin (AOL Time Warner, Vivendi Universal, News Corporation, Viacom, Walt Disney Co. và Bertelsmann)?
– Phải chăng đang diễn ra một tiến tŕnh hội tụ về mô h́nh giáo dục giữa châu Âu và Bắc Mỹ, một tiến tŕnh nhất định sẽ có ảnh hưởng sâu đậm đến các châu lục khác? Trước áp lực cạnh tranh của nền giáo dục Mỹ, châu Âu không thể xem nhẹ yêu cầu cung ứng nhân lực cho thị trường lao động (employability). Tính cách thực dụng thể hiện rơ rệt trong “tiến tŕnh Bologna” nhằm nhất thể hoá học tŕnh, bằng cấp đại học trong 29 nước thuộc Cộng đồng chung châu Âu, khởi động từ năm 1999, qua đó, tăng cường năng lực cạnh tranh của các nước EU. Ở chiều ngược lại, tại Bắc Mỹ, các ngành khoa học nhân văn và xă hội ngày càng được trọng dụng, v́ những người được đào tạo trong các bộ môn này tỏ ra linh hoạt, năng động và cầu tiến trong mọi vị trí công tác. Nh́n chung, đó cũng chính là nguyện vọng của bản thân Humboldt: chuyên môn sâu trên nền một văn hoá rộng; đại học nghiên cứu song hành với mạng lưới dạy nghề rộng khắp.
Học tập suốt đời
Một tâm điểm khác trong lư tưởng giáo dục của Humboldt là quan niệm con người là sinh vật nỗ lực học tập và làm việc suốt đời. V́ thế, việc đào luyện (Bildung) con người là một tiến tŕnh không kết thúc và không thể dừng lại giữa đường. Quan niệm này có hiện thực không? Liệu con người có đủ th́ giờ và sức lực để học tập suốt đời? Nếu có đủ điều kiện đi nữa, liệu số đông người có thể thực hiện và theo đuổi?
Chính xă hội thông tin và tiến bộ kỹ thuật nhanh chóng chưa từng có ngày nay đă giúp cho lư tưởng này trở thành nhu cầu thường trực. Những kiến thức thu hoạch được lúc c̣n trẻ và trong nhà trường nhanh chóng lạc hậu, khiến người ta khó đứng vững trong môi trường lao động và nghiên cứu mà không tiếp tục học hỏi và đổi mới kiến thức. Vô số các h́nh thức học tập để bổ sung và giúp cập nhật kiến thức là bằng chứng hiển nhiên.
Bóng mát của một vĩ nhân
Xét đơn thuần về đường hoạn lộ, Humboldt là một người thất bại. Ông chỉ đảm nhiệm chức vụ lănh đạo giáo dục vỏn vẹn 16 tháng, với hai lần nộp đơn từ chức (lần đầu vào ngày 29.4.1810 và lần sau vào ngày 23.6.1810) trước vô vàn lực cản từ bộ máy quan liêu. May mắn cho ông là hai người kế nhiệm (Georg H. Nicolovius – cháu rể của Goethe, và Johann W. Süven, nhà ngữ văn học) – vốn là những người cộng sự mật thiết với ông – đă vượt mọi khó khăn để thực hiện thành công kế hoạch cải cách giáo dục của ông.
Thành công này thật sự có tầm vóc lịch sử, v́ hiếm khi một ư niệm đơn thuần trong đầu óc, một lư tưởng chỉ ôm ấp trong tim (như trong Các lá thư về giáo dục thẩm mỹ cho con người của F. Schiller) lại được hiện thực hoá thành những định chế, những mệnh lệnh hành chính mà không phản bội lại lư tưởng ban đầu.
Trước sau, Humboldt giữ vững một xác tín: chỉ có con người sống đẹp mới là một con người thực sự tự do.
Trước sau, ông chỉ có một mong mỏi: nhà trường phải thực sự là nơi hiện thân của ư niệm, của lư tưởng, nơi đó tinh thần có thể được đào luyện (Bildung) trong sự an tĩnh và thanh khiết. Trước mọi sự xô bồ và khắc nghiệt của cuộc sống, nhà trường cần phải là cái đối ứng, thậm chí, cái đối cực để nuôi dưỡng lư tưởng, không để lư tưởng bị sa đoạ và suy kiệt. Nói ngắn, tuổi hoa niên và những tháng ngày được cắp sách đến trường là món quà quư báu và đẹp đẽ nhất của một đời người: hăy để cho tuổi trẻ học được cách làm chủ bản thân ḿnh và không bao giờ chịu làm nô lệ, kể cả làm nô lệ cho nghề nghiệp và cơm áo.
Lư tưởng, triết lư và mô h́nh giáo dục ấy vẫn c̣n đầy đủ tính thời sự.
Bùi Văn Nam Sơn
(*) tiếp tục bài Lư tưởng giáo dục Humboldt: mô h́nh hay huyền thoại? trong Kỷ yếu đại học Humboldt 200 năm. Có lược bỏ các chú thích.