“Tài t́nh chi lắm cho trời đất ghen”

“Tài t́nh chi lắm cho trời đất ghen”

SGTT.VN - Trong đối thoại Protagoras, Platon kể lại câu chuyện thần thoại: Prometheus và Epimetheus nhận nhiệm vụ trang bị cho muôn loài. Epimetheus hào phóng đến mức dại dột trao hết nanh vuốt cho muông thú, rút cục, con người “trần truồng, không giày, không áo, không có vũ khí pḥng thân”. Prometheus phải lên tận trời cao, đánh cắp “tài khéo và cả lửa” từ thần Hephaistos và nữ thần Athena để ban tặng cho con người, c̣n phần ḿnh, gánh chịu sự trừng phạt khủng khiếp.

H́nh ảnh người nguyên thuỷ tại viện Max Planck (Đức): từ những công cụ đầu tiên, con người rồi sẽ sáng tạo ra những công cụ kỹ thuật vượt khỏi nhu cầu thực dụng, trở thành cái tôi thứ hai của ḿnh. Ảnh: TL

“Sinh vật thiếu thốn” và “sinh vật dư thừa”

Con người cần có kỹ thuật để bù đắp cho sự yếu kém bẩm sinh về năng lực tự vệ và chiến đấu, giống như cần có văn hoá để nâng cấp những “chương tŕnh” được cài đặt sẵn theo bản năng. Từ một “sinh vật thiếu thốn, bất toàn” theo cách nh́n nhân học của Herder và Gehlen, con người trở thành “sinh vật dư thừa” nhờ vào trí tuệ thực hành kỹ thuật dưới mắt Waldenfels.

Đối diện với thiên nhiên thù địch, con người không chỉ yếu đuối về vật chất (không có bộ lông giữ ấm, không có nanh vuốt bén nhọn và ngũ quan tinh tường) mà cả về bản năng (không dệt nổi tấm lưới như con nhện, chiếc tổ như con ong…) Thế nhưng, con người lại có thể dệt và xây vô vàn những tấm lưới hay chiếc tổ “phổ biến” (Marx) cho những mục đích hết sức khác nhau. Chính nhờ biết thoát ly khỏi bản năng, biết giữ khoảng cách với chính ḿnh, đồng thời có nghĩa là cởi mở trước thế giới, con người mới có cơ may thích nghi linh hoạt trong ứng xử và nhu cầu. Giữ khoảng cách với chính ḿnh cũng là điều kiện tiên quyết để kiềm chế dục vọng và sự hưởng thụ tức thời, có năng lực dự báo và dự pḥng, có năng lực học hỏi và kiên tŕ theo đuổi mục đích. Sinh vật yếu đuối, bất toàn ấy có quyền trở thành “chủ nhân và chủ sở hữu của thiên nhiên” như René Descartes, trong Luận văn về phương pháp (1637), đă vỗ ngực tự hào!

Kỹ thuật và các cơ quan sinh học

Theo Arnold Gehlen, một trong những nhà nhân học hàng đầu của thế kỷ 20, ở ba cấp độ phát triển – công cụ, máy động lực (đảm nhận việc áp dụng lực vật lư) và máy tự động (đảm nhận cả chức năng kiểm soát và điều khiển) – kỹ thuật đă thực hiện cả ba chức năng, giúp con người độc lập với sự yếu đuối tự nhiên: thay thế, giải phóng và tăng cường các cơ quan sinh học của con người. Lưỡi dao thay cho móng vuốt, xe hơi giải phóng đôi chân và cái búa tăng cường sức mạnh của nắm tay. Tuy nhiên, dù hơn hẳn những cơ quan tự nhiên về tính hiệu quả, kỹ thuật, xét về tŕnh độ tiến hoá, vẫn thua kém các cơ quan tự nhiên. Thiết bị kỹ thuật có tinh vi và phức tạp đến đâu vẫn không thể so sánh về tŕnh độ phức hợp của những cơ quan được chúng thay thế, giải phóng và tăng cường. Gọi thiết bị kỹ thuật là “máy móc”, “cơ giới”… không phải là không chính đáng!

Chính nhờ biết thoát ly khỏi bản năng, biết giữ khoảng cách với chính ḿnh, đồng thời có nghĩa là cởi mở trước thế giới, con người mới có cơ may thích nghi linh hoạt trong ứng xử và nhu cầu.

Thật ra, sự tương tự về chức năng giữa kỹ thuật và cơ quan sinh học theo cách nh́n của Gehlen chỉ đúng trong lĩnh vực cốt lơi nhất của kỹ thuật hiện đại mà thôi. Việc sử dụng siêu âm và toàn bộ phạm vi điện từ vượt ra khỏi những ǵ giác quan con người có thể vươn đến được, thể hiện một cái ǵ hoàn toàn mới về chất. Ngoài ra, kỹ thuật cũng không đơn thuần thoả măn những nhu cầu sinh vật, mà cả những nhu cầu có tính văn hoá – xă hội nữa. Ngay từ xa xưa, những đại công tŕnh kỹ thuật như kim tự tháp ở Ai Cập hay những đền đài khổng lồ ở Hy Lạp và nhiều nền văn hoá cổ xưa khác rơ ràng không chỉ để thay thế, giải phóng và tăng cường các chức năng sinh học, mà, theo nghĩa nào đó, là “dư thừa”, nghĩa là chỉ mang tính biểu trưng, không khác ǵ các công tŕnh “kỹ thuật cao” có tính tŕnh diễn ngày nay. Kỹ thuật, bên cạnh mục đích bảo đảm sự sinh tồn của con người, bao giờ cũng có kích thước văn hoá của sự thờ cúng, chiêm ngưỡng và tự hào. Kỹ thuật, vượt qua nhu cầu thực dụng, trong nhiều trường hợp, là cái tôi thứ hai, là cái tồn – tại – khác của con người.

V́ thế, sự tương tự giữa phương cách tác động của kỹ thuật với các cơ quan của con người như là một sự “phóng chiếu” các chức năng sinh học theo định nghĩa từ năm 1877 của nhà triết học đầu tiên về kỹ thuật, Ernst Kapp, vẫn tỏ ra quá hẹp. Không thể phủ nhận sự tương tự ấy (máy bơm và trái tim, điện tín và dây thần kinh...), nhưng khác với cơ chế sinh học tự nhiên vốn gắn liền với di sản tiến hoá, kỹ thuật là sản phẩm tự do, tự chọn lấy con đường đi riêng của ḿnh bên ngoài sự tiến hoá tự nhiên, bằng sự đột phá, tái phát hiện hay chọn lọc. Kỹ thuật có thể giúp con người bay nhanh hơn chim, định hướng chính xác hơn dơi, nh́n rơ trong bóng đêm hơn chim cú mà không cần phải trải qua hàng triệu năm tiến hoá. Kỹ thuật, kỳ cùng, là sản phẩm của trí tuệ.

Chỉ con người mới có kỹ thuật?

Một đoá hoa, một vỏ ṣ, một cánh bướm… tỏ lộ sự kỳ diệu của “kỹ thuật của tự nhiên”, theo cách nói nổi tiếng của Kant. Vấn đề là: “kỹ thuật” kỳ diệu ấy có một “logos” không? Nghĩa là, chúng không chỉ hợp quy tắc, mà c̣n được hướng dẫn bởi quy tắc? Không chỉ hợp mục đích mà c̣n hướng đến mục đích theo cách hiểu về kỹ thuật nơi con người?

Nhà nhân học Đức Arnold Gehlen (1904 – 1976). Ảnh:

Khó có thể chứng minh điều ấy nơi hầu hết các loại động, thực vật, trừ một số loài linh trưởng cao cấp! Định hướng theo mục đích là không thể phủ nhận nơi loài dă nhân: việc biết chồng những tấm đệm để hái chuối là “phát minh” hoàn toàn tương tự với con người. Sử dụng công cụ không v́ nhu cầu nhất thời mà c̣n nhằm dự pḥng cho tương lai lại là một bước tiến lớn nữa: ở những nơi hạt dẻ quá cứng, dă nhân biết mang theo đá khi đi kiếm ăn. Những viên đá, trong trường hợp này, là những “công cụ” không khác ǵ chiếc ŕu hay cái búa trong tay người tiều phu. Rồi cũng đă có mầm mống đầu tiên của việc chế tạo công cụ lao động nơi những bà con gần này của chúng ta!

Vậy, cái ǵ là đặc trưng cho tài năng kỹ thuật độc đáo của con người? Theo nhiều kết quả nghiên cứu, dường như có hai điểm: thứ nhất –con người homo sapiens không c̣n là sinh vật duy nhất “biết làm ra công cụ” cho bằng biết dùng công cụ để chế tạo ra công cụ ngày càng tinh vi hơn; và, thứ hai – không c̣n độc quyền trong việc tiên liệu và hoạt động có ư đồ cho bằng biết dự liệu dài hơi trong thời gian, biết sản xuất công cụ và vật liệu với quy mô lớn về số lượng, và kiên nhẫn chờ đợi sự thu hoạch lớn hơn nhiều lần trong tương lai xa. Việc triển hạn cái “chân trời chờ đợi”, việc “tạm hoăn sự sung sướng ấy lại” cũng chính là cốt lơi của hoạt động kinh tế và đầu tư!

Con người, như Ernst Cassirer nhận định, là “sinh vật biểu trưng” (animal symbolikum), v́ giàu trí tưởng tượng hơn tất cả. (c̣n tiếp)

Bùi Văn Nam Sơn