“m.E” VÀ ĐỐI THOẠI TRIẾT HỌC
Bùi Văn Nam Sơn*
1. Thi sĩ Bùi Giáng rất thâm
trầm khi bảo rằng “muốn bàn tới thơ,
diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể
phải làm một bài thơ khác”[1].
Cũng thếtheo tinh
thần đó, để bày tỏ ḷng kính mộ
đối với một người Thầy – không cùng
một chuyên ngành nên không có cái may mắn được làm
học tṛ, như trường hợp của tôi với
Giáo sư Hoàng Tụy –, tôi xin nhân dịp vui
mừng này nhớ tưởng và viết đôi
lời về một người Thầy khác mà phong cách
tư duy đă lưu lại nơi tôi dấu ấn khó
phai: Giáo
sư Gs KARL-OTTO-APEL, năm
nay bước vào tuổi thượng thọ 85như
một lời biết ơn chân thành kính gửi đến
một người Thầy cũ.
Kế
tiếp Ssau thế hệ của những
M. Heidegger, T.W. Adorno, H. Marcuse, H. G. Gadamer…, K.O.Apel – cùng
với Jürgen Habermas, bạn học và đồng nghiệp
lâu năm với nhau ở khoa Triết, Đại học
J. W. Goethe, Frankfurt/M – là hai “triết gia lớn nhất c̣n
đang sống” của nước Đức. Hai ông
đều đă về nghỉ hưu,
nhưng nay vẫn c̣n tiếp tục đứng ở
“mặt tiền” của nghị luận triết học
đương đại và hầu như đều có
mặt song đôi trong thư mục trích dẫn của vô
số sách vở và tạp chí triết học. Tôi có hứa
sẽ đóng góp vào Kỷ yếu mừng thọ GS Hoàng
Tụy một bài viết về hành tŕnh tư tưởng
của J. Habermas nhưng e… dài quá, nên xin chuyển sang
giới thiệu K. O. Apel, không chỉ v́ Thầy Apel
viết ít hơn mà c̣n nhân dịp Thầy thượng
thọ 85 tuổi.
Tôi đặt nhan đề bài viết bằng hai chữ “m.E” khá lạ mắt là cố ư gợi ṭ ṃ để hy vọng người đọc không lật vội trang sách khi nh́n thấy hai chữ … “triết học” kèm theo ! “m.E” không phải là một kư hiệu… toán học, mà chỉ là cách viết tắt quen thuộc của chữ Đức: “meines Eractens”, có nghĩa là: “theo tôi”, “theo chỗ tôi thấy”, “theo thiển ư”… Cũng như trong tiếng Việt, đó là cách nói, cách viết khiêm tốn, trang nhă thông thường, không có ǵ lạ. Lạ chăng là ở chỗ chữ này được lặp đi lặp lại quá nhiều lần trong mọi tác phẩm và bài viết của K. O. Apel khiến người đọc phải chú ư.
Trong giảng
đường, hay nói nôm na, trong một pḥng học
được xây dựng theo kiểu công năng hết
sức đơn điệu dễ gây buồn ngủ,
Thầy Apel – dáng cao gầy, mái tóc điểm bạc
chải lật sang hai bên - ngồi nghiêm nghị, khắc
khổ trước một đống sách. Thầy yêu
cầu các sinh viên ngồi bàn đầu lần lượt
đọc to từng đoạn văn trong quyển Phê
phán lư tính thuần túy của Kant cho cả lớp nghe.
Khung cảnh tựa như thầy đồ giảng bài sách ngày
xưa! Gặp đoạn nào sinh viên đọc ngắc
ngứ – nhất là… không may gặp phải sinh viên ngoại
quốc –, thầy Thầy thường
ngắt lời, giọng kim của Thầy lảnh
lót: “Kompliziert, aber klar, oder?” (“Rối nhưng rơ, phải không
nào?”). Thầy bèn giảng giải, và chữ “m.E”
lại nhiều lần được sử dụng! Cho
tới khi bắt đầu thấy càng giảng càng…
rối thêm, giọng Thầy chùng
xuống. H́nh như Thầy cảm giác có lỗi mỗi khi
thấy ḿnh khẳng định một điều ǵ quá
dứt khoát hay lỡ nói quá dài, làm ảnh hưởng
đến phần phát biểu của sinh viên. Phong thái
của Thầy đă rất khác với phong thái “khảai
thị” của Heidegger khi giảng bài! Càng quá xa với
truyền thống “độc quyền chân lư” khét tiếng
của triết học Đức, nhất là khi nhớ
đến h́nh ảnh “đáng
sợtoàn trị” đáng sợ của
Hegel dưới con mắt của Ortega y Gasset: “Nơi Hegel,
ta gặp một nhân vật siêu-trí thức hiếm hoi
nhưng lại được phú cho những phẩm tính
tâm hồn của một chính khách. Quyền uy, cha chú,
cứng rắn, phán truyền […]. Về tính khí, đúng ra
ông thuộc vào hàng ngũ những người như Xê-đda,
Diolektican,
Thành cát tư hăn, Barbarossa. Tất nhiên ông không phải là
họ nhưng đây là do lối suy tưởng của
ông. Triết học của ông là có tính đế chế, có
tính Xê-đda,
có tính Thành cát tư hăn. Và v́ thế mới có chuyện:
từ trên giảng ṭa của ḿnh, ông ngự trị nhà
nước Phổ về mặt chính trị, và ngự
trị một cách chuyên chế”[2].
Tất nhiên, ở đây, không thể không thấy sự
ngộ nhận sâu sắc của Gasset đối với
Hegel như chúng tôi đă có đề cập ở một
nơi khác[3],
nhưng, định kiến quen thuộc ấy cũng
không phải hoàn toàn không do lỗi
của Hegel gây ra! Nhưng, thật ra giữa
các thế hệ triết gia nói trên, người ta không
chỉ đơn thuần khác nhau đơn
thuần về tính khí và phong thái cá nhân. Giữa họ
là khoảng cách của cả một thời đại
tư duy hay, nói theo Thomas Kuhn[4],
là một cuộc “thay đổi “hệ
trh́nh”
(paradigm shift), nếu ta thử áp dụng thuật
ngữ về các “cuộc cách mạng khoa học” này vào cho
lịch sử triết học Tây phương bằng
sơ đồ hết sức khái quát sau đây:
Hệ h́nh |
lĩnh vực |
đối tượng |
điểm xuất phát |
câu hỏi xuất phát |
(Platon, Aristotle...) |
tồn tại/bản chất |
cái tồn tại |
sự ngạc nhiên |
Là ǵ ? |
(Descartes, Kant..) |
|
những biểu tượng |
sự nghi ngờ |
Tôi có thể biết ǵ? |
Ngôn ngữ học (Wittgenstein, Gadamer, Apel, Habermas…) |
ngôn ngữ |
những phát biểu/những mệnh đề |
sự lẫn lộn |
Tôi có thể hiểu ǵ? |
Là một trong
những đại biểu cự phách của “hệ h́nh
tư duy” thứ ba, K.O.Apel, qua phong cách tư duy và triết
lư của ḿnh, cũng theo đuổi một tham
vọng triết học không kém phần to tát so với các
đại biểu của hai hệ h́nh trước:
một sự biến đổi triết học
như nhan đề tác phẩm triết
học chính yếu của ông[5].
Bài viết ngắn sau đây thử xoay quanh khái niệm
“biến đổi” (Transformation) ấy (xem: khung 1).
KARL-OTTO-APEL (1922 - ) |
|
Karl-Otto Apel sinh năm 1922 tại Düsseldorf (Đức), học đại học tại Pháp trong thời gian bị bắt làm tù binh chiến tranh. Làm luận án tiến sĩ ở Bonn năm 1950 (“Dasein và Nhận thức: một lư giải nhận thức luận về triết học của M. Heidegger”); làm luận án “Habilitation” năm 1960 ở Mainz (“Ư niệm về ngôn ngữ trong truyền thống của chủ nghĩa nhân văn từ Dante tới Vico”). Sau mấy năm giảng dạy tại các đại học Kiel (1962-69) và Saarbrücken (1969-72) (Đức), ông giảng dạy cho đến khi nghỉ hưu tại đại học Frankfurt/M. Các tác phẩm chính: - Transformation der Philosophie/Biến đổi triết học, 2 tập, Suhrkamp, Frankfurt/M, 1994: - tập I: Phân tích ngôn ngữ, Kư hiệu học, Thông diễn học - tập II: Cái Tiên nghiệm của xă hội truyền thông - Die Erklären – Verstehen – Kontroverse in transzendentalpragmatischen Sicht/Tranh luận giữa việc Giải Thích và Hiểu từ cái nh́n ngữ dụng học siêu nghiệm nhân hội thảo về quyển Explanation and Understanding của G. H. von Wright, Suhrkamp, Frankfurt/M, 1979 - Ấn hành Tuyển tập về Charles Sanders Peirce và hai Lời Tựa được in thành sách: Der Denkweg von Charles S. Peirce/Con đường suy tưởng của C. S. Peirce, Frankfurt/M, 1975 - Diskurs und Verantwortung. Das Problems des Übergangs zur postkonventionellen Moral/Diễn ngôn và trách nhiệm. Vấn đề về sự quá độ sang nền luân lư hậu-quy ước, Suhrkamp, Frankfurt/M, 1997. Cùng với Jürgen Habermas (bạn thân
từ thời sinh viên ở Bonn và đồng nghiệp
ở Frankfurt/M), Apel là một trong các triết gia hàng
đầu của nước Đức hiện nay, có
công du nhập một cách sáng tạo triết học phân
tích (ngôn ngữ) vào truyền thống triết học Âu
Châu. Cương lĩnh “Biến đổi triết
học” của ông là tham vọng tổng hợp có
hệ thống triết |
học phân tích về ngôn ngữ, thuyết dụng hành (pragmatism), nhất là của C. S. Peirce, và Thông diễn học (Heidegger và H. G. Gadamer). Theo ông, dưới ánh sáng của các trào lưu triết học mới mẻ này, cần phải hiểu lại I. Kant theo một “hệ h́nh” (Paradigm) khác. Đặc biệt, những điều kiện cho nhận thức có giá trị liên-chủ thể không c̣n có thể lư giải dựa vào cấu trúc của ư thức hay của các quan năng nhận thức của chủ thể nhận thức xét như một cá nhân được nữa mà phải thông qua một sự nghiên cứu có hệ thống về ngôn ngữ như là môi trường của nhận thức được trung giới bằng biểu trưng. “Bước ngoặt dụng hành” (pragmatic turn), khởi đầu từ Peirce và Charles W. Morris (1901-1979) và được tiếp tục trong “lư thuyết về hành vi nói” (speech act theory) cho thấy không thể giải thích sự truyền thông đơn thuần bằng lư thuyết ngữ nghĩa. Nó phải được bổ sung bằng một nghiên cứu dụng học về mối quan hệ giữa những kư hiệu ngôn ngữ và những điều kiện được người nói sử dụng chúng. Luận điểm chính của Apel: kư hiệu học siêu nghiệm của ông mang lại một bộ những điều kiện quy phạm được tiền-giả định trong bất kỳ cuộc đối thoại hay lập luận hợp lư nào. Quy phạm trung tâm là tiền-giả định rằng: một thành viên tham gia thảo luận đồng thời là thành viên của một cộng đồng truyền thông lư tưởng; cộng đồng ấy mở ra một cách b́nh đẳng đối với mọi thành viên và loại trừ mọi quyền lực ngoại trừ sức mạnh thuyết phục của luận cứ tốt hơn. Bất kỳ yêu sách nào về nhận thức có giá trị liên-chủ thể (nhận thức khoa học hay luân lư-thực hành) đều mặc nhiên thừa nhận cộng đồng truyền thông lư tưởng này như là một “siêu-định chế” của việc lập luận hữu lư và đó cũng là nguồn gốc tối hậu của mọi việc biện minh. |
2. Biến đổi triết học
Trong các sách viết
về triết học Đức đương
đại, người ta thường có thói quen xếp K.
O. Apel – cùng với J. Habermas – vào truyền thống “Lư
luận phê phán” (“Kristische Theorie”) vốn nổi danh với
tên gọi “trường phái Frankfurt”. Nếu điều này
không hẳn đúng với Habermas th́ càng không đúng với
Apel. Tuy có nhiều điểm chung với Habermas và
thường được Habermas trích dẫn cũng
như cùng giảng dạy nhiều
năm tại đại học Frankfurt/M, Apel không thuộc
về “trường phái Frankfurt”. Những tên tuổi
lớn của trường phái này như Horkheiner, Adorno,
Marcuse hay Benjamin không ảnh hưởng ǵ nhiều đến
ông. Ông cũng khác với Habermas, người bạn và
đồng nghiệp lâu năm, ở một điểm
căn bản. Habermas vừa là triết gia và nhà xă hội
học chuyên nghiệp vừa là một cây bút luận
chiến sắc sảo, thường xuyên đề ra
nhiều sáng kiến và lên tiếng can thiệp vào các
vấn đề thời sự, và v́ thế,
được gọi là một praeceptor germaniae,
một “tôn sưông Thầy
của nước Đức”, giữ vai tṛ của
triết gia tiêu biểu cho nước Đức hiện
đại. Giữ vai tṛBảo
vệ và phát huy chức năng “giáo dục” trên tinh
thần phổ quát của Khai minh, Habermas c̣n
được tôn vinh là “triết gia của sự
cải tạo” (“Philosoph der re-education”),
góp phần rất sớm và tích cực vào việc khắc
phục di sản nặng nề của chủ nghĩa
quốc xă, cổ vũ cho một nước Đức
ḥa b́nh và dân chủ. Apel, trái lại, không thấy có chút khó
khăn nào khi tự nhận ḿnh là một triết gia
“thuần túy”, thậm chí, một triết gia “hàn lâm”,
chỉ sống và làm việc trong môi trường
đại học với lĩnh vực riêng của ḿnh. Và
mặc dù trong các tác phẩm, Apel vẫn bàn sâu về các
vấn đề khoa học luận, nhưng ông tỏ ra
không mặn ṃi lắm với việc gắn triết
học vào một khuôn khổ nghiên cứu liên ngành với
các khoa học khác [xem: khung 1]. Ông có các lư
lẽ riêng của ḿnh:
- ông vạch một
đường phân thủy rơ rệt giữa triết
học và chính trị. Theo ông, chỉ có thể h́nh dung
một “sứ mệnh” chính trị cho triết học và
khoa học nói chung là ở chỗ triết học và khoa
học được có thể
tiến hành trong một đại học
được tổ chức một cách dân chủ, không
bị nhà nước chi phối và khống chế,
để nó có thể đóng góp phần ḿnh vào công cuộc
Khai minh.
- đóng góp ấy cũng
được ông hiểu theo nghĩa thuần túy triết
học và khoa học: triết học và khoa học phải
ra sức dẹpo
bỏ những khẳng quyết giáo điều, không thể chứng minh
được và không đơn thuần dựa
vào quyền uy của bất kỳ “nhà đại tư
tưởng” nào cả.
- khi làm triết học, mỗi
người xuất phát hoặc sẽ đi đến
một tư tưởng nền tảng. Tư
tưởng này được h́nh thành nên từ sự t́m
hiểu, tranh biện với rất nhiều
những tác giả rất khác
nhau, đồng thời, tư tưởng ấy, đến lượt nó,
lại đ̣i hỏi phải đưa những tác giả
hết sức khác nhau ấy vào cuộc đối
thoại. Như ta sẽ thấy, triết học của
Apel là sự “soi chiếu” giữa nhiều quan
điểm rất khác nhau (ở đây là giữa Heidegger
và Wittgenstein, giữa Kant và Peirce…), phục vụ cho
việc triển khai tư tưởng nền tảng
của ông. (sSự “soi chiếu” ấy đ̣i
hỏi đi sâu vào các triết gia khác nhau, nên Apel
thường viết những chú thích rất dài, sử dụng
thuật ngữ của họ, khiến tác phẩm của
Apel thật sự không dễ đọc).
- thế nhưng, việc “soi
chiếu” những quan niệm triết học khác nhau không
chỉ để soi sáng tư tưởng nền tảng
của ḿnh, mà c̣n hơn thế, chính việc làm này tương
ứng với bản thân tư tưởng nền
tảng ấy. Bởi, Apel cho rằng triết học
chỉ h́nh thành bên trong một “cộng đồng
truyền thông” của những triết gia và, v́ thế,
ta không nên hướng đến các quan niệm triết
học như thể chúng là “thế giới quan của
Một-người”. Triết học, theo ông, không phải
là hành tŕnh cô đơn đi t́m chân lư như
nơi các “hệ h́nh” cũ mà là một cuộc “đại-đối
thoại”, trong đó mọi luận điểm
đều được thử nghiệm và lư giải,
để kỳ cùng, chỉ có luận điểm nào có
sức thuyết phục lớn hơn sẽ
được những người khác tạm thời
chấp nhận. Quan niệm về triết học như
là một “cộng đồng truyền thông” là quan
niệm được Apel tiếp thu từ Charles Sanders
Peirce (1839-1914), ông tổ của triết học dụng
hành Mỹ. Việc tiếp thu quan niệm này cũng sẽ
cho ta biết sơ bộ về tham vọng của Apel:
“sự biến đổi triết học”. Thế nào là
“biến đổi triết học”? Theo Apel, v́ lẽ bản
thân các triết gia không phải lúc nào cũng tự ḿnh nhận ra rằng
ḿnh [chỉ] là một thành viên tham gia vào một cuộc
“đại đối thoại”, nên vấn đề
cốt yếu là phải đưa những tư tưởng
của họ vào trong một đối thoại như
thế. Mặt khác, tư tưởng nền tảng
của mỗi triết gia phải được “đo
lường” bằng “thước đo” của cuộc
đại-đối thoại và “biến đổi”
nó theo thước đo của đại-đối
thoại này. Như thế, “sự biến đổi
triết học” khác một cách cơ bản với
việc đơn thuần “đưa” triết học – như
cái ǵ đă thành tựu, đă “có
sẵn” – vào trong khoa học và chính trị; trái lại,
theo Apel, chỉ trong sự biến đổi ấy,
triết học mới có được h́nh thái thích
hợp với nó và, trong h́nh thái này, đối
thoại triết học có
thể là một mô h́nh kiểu mẫu cho cuộc
đối thoại trong khoa học và chính trị.
(Ư tưởng này về vị trí và chức năng đặc thù của đối thoại triết học sẽ được J. Habermas triển khai sâu rộng thành quan niệm về “khu vực công cộng” nổi tiếng của ông trong một nền “dân chủ tham vấn” (Deliberative Demokratie) (xem: khung 2).
Nền dân chủ tham vấn |
||||||||||||||||
Nền dân chủ tham vấn hay nền chính trị tham
vấn (Deliberative Demokratie/Deliberative Politik) (latinh: deliberato:
cân nhắc, bàn bạc, quyết định sau khi bàn
bạc) là sự quyết định bằng thảo
luận chứ không bằng mệnh lệnh. Khác với
lư luận về định chế của khoa chính
trị học, Habermas tập trung vào vai tṛ công luận
của công dân. Bên cạnh hai nguồn lực cố
hữu của xă hội là sức mạnh kinh tế và
quyền lực chính trị, ông muốn xây dựng
nguồn lực thứ ba: sự đoàn kết, liên
đới h́nh thành từ sự truyền thông của
quần chúng. Chính chất lượng lập luận
trong tiến tŕnh này sẽ mang yếu tố “lư tính”
vào trong tiến tŕnh chính trị vốn chỉ dựa trên
các sự thỏa hiệp về lợi ích. Qua đó,
hệ thống chính trị không c̣n là đỉnh cao và
trung tâm của xă hội mà chỉ là một hệ
thống hành vi truyền thông bên cạnh các hệ
thống khác. Vị trí và tính chất của nền dân
chủ tham vấn vừa khác với mô h́nh dân
chủ pháp quyền-tự do (dựa trên những
thỏa hiệp về lợi ích riêng) lẫn với mô
h́nh cộng ḥa nhân dân (dựa trên sức mạnh
tự tổ chức của quần chúng được
chính trị hóa). Nói cách khác, bên cạnh khu vực của
thị trường và của nhà nước, Habermas
chủ trương |
xây dựng khu vực của xă hội công dân (Zivilgesellschaft/Bürgergesellschaft). Khác với chủ nghĩa tự do xây dựng trên xă hội dân sự (bürgerliche Gesellschaft/civil society), Habermas muốn xây dựng nền dân chủ tham vấn trên xă hội công dân (Bürgergesellschaft/Citizen-society) theo mô h́nh sau:
|
3. Biến đổi việc phân tích về “Dasein”[6] và thông diễn học[7] của Heidegger
K. O. Apel không đi
đến với Kkhái
niệm “cộng đồng truyền thông” của Peirce
ngay từ đầu, trái lại, sau khi đă tiếp thu và
phát triển tư tưởng của Martin Heidegger
(1889-1976). Ngay từ 1950, với luận án tiến sĩ
về Heidegger (“Dasein và nhận thức: một sự lư
giải nhận thức luận về triết học
của M. Heidegger”), Apel đă t́m cách nối kết hai
tư tưởng nền tảng của Heidegger:
- con người không phải là
những sinh vật có mặt trong thế giới, rồi sau đó, nhờ
vào tri giác và giác tính, mới quan hệ bằng nhiều cách
khác nhau với những đối tượng xung quanh,
trái lại, con người có đặc điểm là: có một
không gian ư nghĩa về một thế giới
được “khai mở” hay được “khám phá” ra cho
họ, và con người hiện hữu (“da”) ở ngay
trong không gian ư nghĩa ấy. Chỉ v́ nhờ con
người hiện hữu trong một không gian ư nghĩa,
nên con người mới có thể quan hệ với
những đối tượng riêng lẻ vốn luôn
được “khám phá” trong một không gian ư nghĩa
của thế giới đă được “khai mở”
ấy. Cho nên, khi suy tưởng về “thế giới”,
Heidegger luôn hiểu rằng đó là một “thế
giới cùng sống chung” (Mitwelt); và, trong nghĩa
đó, ta không thể hiểu con người như là
những sinh vật riêng lẻ cô lập, sau đó mới
đi vào trong các mối quan hệ với nhau, trái lạimà
ngược lại, con người luôn hướng
về nhau và hành xử với nhau trong một không gian ư
nghĩa chung[8].
- nếu trong tác phẩm “Tồn tại và Thời gian” (1927), Heidegger đă hiểu ngôn ngữ như là một yếu tố cấu trúc của thế giới, th́ trong các giai đoạn muộn hơn, ông c̣n xem bản thân ngôn ngữ như là sự khai mở ra một không gian ư nghĩa. Không gian ấy có được h́nh thái đặc thù trong việc triển khai nghị luận triết học và trong tác phẩm nghệ thuật.
Apel tiếp thu hai
tư tưởng trên đây của Heidegger (tư
tưởng về “thế giới” và tư tưởng
về bản thân ngôn ngữ như cái ǵ mở ra cả
một không gian ư nghĩa) và nối kết hai ư
tưởng này lại một cách c̣n chặt chẽ
hơn cả so
với nơi Heidegger. Với Apel, chính ngôn ngữ
mới là cái mở ra không gian ư nghĩa của thế
giới, khiến cho “thế giới” và “ngôn ngữ”
thực chất là một. Con người quan hệ và
hướng về nhau như những kẻ sử
dụng ngôn ngữ, và, cũng nhờ “tính ngôn ngữ” này mà
con người quan hệ với những đối
tượng xung quanh. Với luận điểm này, Apel
đă mặc nhiên đi đến với ư tưởng
về một “cộng đồng truyền thông” dù vốn thoạt
đầu vẫn chưa hiểu nó như một
cuộc “đại-đối thoại” giữa những
nhà khoa học theo nghĩa của Peirce. Ông thật sự
đi đến với ư tưởng này sau khi so sánh, tranh
biện với nhiều quan niệm triết học khác
nhau về ngôn ngữ, nhất là với Ludwig Wittgenstein
(1889-1951). Ông thấy giữa Heidegger và Wittgenstein có nhiều
điểm chung, nhưng, ở một điểm then
chốt, theo ông, Heidegger tỏ ra thâm thúy hơn[9].
Trong tác phẩm hậu kỳ lừng danh “Các nghiên
cứu triết học” (1955)[10],
Wittgenstein t́m cách chứng minh rằng ta chỉ hiểu
những dụng ngữ khi ta biết chúng được
sử dụng như thế nào, và chúng luôn được
sử dụng trong một bối văn cảnh,
trong một sự liên nối kết
nhất định, được Wittgenstein gọi là
một “tṛ chơi ngôn ngữ”[11]10bis. (Tuy Wittgenstein cũng gọi
các tṛ chơi ngôn ngữ ấy là “h́nh thức cuộc
sống” (Lebensform), nhưng ông chưa cho biết rơ
“cuộc sống” ở đây được hiểu như
thế nào, và ngoài ra, c̣n để mở câu hỏi: các tṛ
chơi ngôn ngữ, trong tính đa tạp của chúng, quan
hệ với nhau như thế nào. Theo Apel, hai câu hỏi
ấy dường như đều có thể
được giải đáp bằng quan niệm của
Heidegger về “thế giới”:
- với câu hỏi thứ nhất, Heidegger đă mang lại một sự phân tích cặn kẽ việc cá nhân con người “tồn tại-ở-trong-thế giới” có nghĩa là ǵ và làm sao để thực hiện “việc tồn tại-ở-trong-thế giới” ấy.
- với câu hỏi thứ hai, Apel
t́m thấy nơi Heidegger một câu trả lời, v́ Apel
gắn liền sự phân tích về thế giới với
quan niệm về ngôn ngữ của Heidegger. Apel rút ra
kết luận: những “tṛ chơi ngôn ngữ” riêng lẻ
tuy bao giờ cũng chỉ tạo lập nên một
bộ phận của thế giới, nhưng con người
lại có khả năng biến những tṛ chơi ngôn
ngữ – mà họ tham dự vào – thành chủ vấn đề,
đặt chúng trong mối quan hệ và trong sự so sánh
với nhau, bởi thế giới, xét như cái toàn bộ,
được khai mở bằng ngôn ngữ. Con
người, đến lượt ḿnhvề
phía ḿnh, lại mang nặng tính ngôn ngữ của
thế giới, bằng cách tiến hành một cuộc
đối thoại liên tục và không bao giờ kết
thúc: cuộc đối thoại của triết học.
Theo Apel, chỉ trong triết học, thế giới ngôn
ngữ mới bộc lộ trọn vẹn như một
toàn bộ, và đó chính là lư do tại sao, theo ông, triết
học cần phải “giữ ḿnh” để không
tự biến thành một khoa học bên cạnh những
khoa học khác hay trực tiếp mang tính “chính trị”. Bởi, qua đóV́
nếu thế, triết học sẽ đánh mất
nhiệm vụ đặc thù của ḿnh và không c̣n có
thể làm cho những h́nh thức khác nhau của thế
giới liên hệ với nhau trong một thử nghiệm
duy nhất và không kết thúc. Theo cách nh́n của Apel, triết
học mang theo ḿnh một nhiệm vụ bất tận,
đó là: trong đối thoại của ḿnh, tạo
dựng nên tính thống nhất và tính toàn bộ của
thế giới, và, v́ thế, phải biết giữ
khoảng cách với những h́nh thái biểu hiện khác
nhau về thế giới này.
4. Biến đổi sự phê phán ư hệ
Cho rằng triết
học cần giữ khoảng cách với những h́nh thái
biểu hiện khác nhau về thế giới ở trong
những tṛ chơi ngôn ngữ không có nghĩa là triết
học dửng dưng, không quan tâm hay xa lánh chúng. Theo Apel,
về mặt triết học, cần phải thảo
luận và kiểm tra xem những tṛ chơi ngôn ngữ riêng
lẻ và những xác quyết được nêu trong
những tṛ chơi ấy có cơ sở và có thể
biện minh được hay không. Chính đây là
điểm mà ông thấy cần bổ sung cho quan niệm
của Heidegger và cả của H. G. Gadamer, người
đă phát triển cả một môn Thông diễn
học (Hermeneutik) từ triết học Heidegger. Theo
Apel, Heidegger – và về sau là Gadamer – đă thành công trong
việc phân tích tồn tại của con người ở
trong thế giới và nhất là đă khai triển việc
“Hiểu” như là đặc điểm cơ bản
của việc tồn tại- ở- trong -thế -giới. Nhưng, cả Heidegger
lẫn Gadamer hầu như chưa phân biệt rạch ṛi
giữa việc Hiểu một cách thích đáng và không thích
đáng, cũng như chưa tra hỏi về tiêu
chuẩn hay thước đo cho việc phân
biệt ấy. Không có một tiêu chuẩn hay thước
đo như thế sẽ không thể nói về sự
tiến bộ hay sự tăng tiến trong việc
Hiểu thế giới. Và từ đó cũng không thể
tiến hành một sự biến đổi triết
học theo nghĩa của Apel, tức có tham vọng
thấu hiểu được một
triết gia hơn cả bản thân triết gia ấy
hiểu chính ḿnh, để đặt những câu hỏi
mới và đề nghị những giải đáp trong
một văn cảnh mới mẻ.
Trước khi đi t́m tiêu chuẩn hay thước đo ấy (xem: 5), Apel nhấn mạnh: cần gắn liền cuộc đối thoại vô tận của triết học như là việc khai mở những không gian ư nghĩa (Heidegger) với quan niệm về “cộng đồng truyền thông” của những nhà triết học và khoa học (Peirce). Theo ông, đây không phải là một sự kết nối tùy tiện mà xuất phát từ bản chất của vấn đề: chỉ từ việc hiểu triết học như là một cuộc đại-đối thoại vô tận th́ ta mới có cách xử lư đúng đắn đối với tính chất ngôn ngữ của thế giới. Thật thế, trong chừng mực thế giới là một “thế giới cùng sống chung” (Mitwelt) được khai mở ở trong ngôn ngữ, th́ con người – với tư cách là những thực thể ngôn ngữ – “bị kết án” (“verdammt”) là phải đi đến chỗ đồng ư với nhau[12]. Bất kỳ cuộc đối thoại nào cũng nhắm đến sự đồng ư, và sự đồng ư chỉ có thể đạt được khi thật sự xem trọng sức thuyết phục của luận cứ tốt hơn. Lập luận là một “chân trời” mà con người không thể thoát khỏi. Ngay cả khi ta từ chối lập luận và làm theo ư ḿnh th́ thực chất vẫn phục tùng sự tất yếu của lập luận: ta lập luận khi dùng việc làm để chứng minh sự lựa chọn của ta. Sự tất yếu về nguyên tắc này vẫn không hề bị suy suyển khi ta cho rằng, trong t́nh h́nh nhất định nào đó, không thể đi đến sự đồng ư, thỏa thuận. Bởi, cũng giống như ta không thể thoát khỏi chân trời của sự lập luận, ta không thể thật sự thoát ly khỏi “cộng đồng truyền thông”, v́ ta không phải là một “chủ thể” cô độc, để sau đó mới đi vào trong mối quan hệ với những “chủ thể” khác[13]. Chỉ có điều: trong bản tính nội tại của “cộng đồng truyền thông”, mọi sự xác quyết, về nguyên tắc, đều có thể bị phản bác giống như sự kiện thường diễn ra trong các ngành khoa học thực nghiệm.
V́ thế, trong một
hoàn cảnh xă hội nhất định, ta có quyền dè
dặt trước những xác quyết được ban
bố một cách phổ biến. Trong trường hợp
đó, ta giả định rằng những xác quyết
ấy không được h́nh thành từ một sự
đồng ư đích thực, và ta xem chúng là có tính “ư
hệ” (ideologisch). Giả định này,
đến lượt nó, phải được
triết học nêu lên, và, trong chừng mực đó,
với Apel, triết học cũng có thể tự
khẳng định như là sự phê phán ư hệ
(Ideologiekritik)[14].
Về phương diện này, Apel gần gũi với
lập trường của Habermas, nhưng, khác với
Habermas, Apel không xem việc “phê phán ư hệ” (cũng
như việc t́m cách đặt cơ
sở cho sự phê phán ấy bằng lư thuyết về
truyền thông) là nhiệm vụ hàng đầu
của triết học. Apel cho rằng triết học c̣n
có một nhiệm vụ cơ bản hơn, và, v́ thế,
việc phê phán ư hệ chỉ là một nhiệm
vụ và nhiệm vụ này phải đặt dưới
nhiệm vụ chung về sự truyền thông nhắm
đến việc khai mở toàn vẹn không gian ư nghĩa.
Nói khác đi, các “ư hệ” chỉ là cơ hội
để ta có ư thức về sự cần thiết
phải cùng nhau tiến hành nghị luận triết
học (xem: khung 3).
Ư hệ và Phê phán ư hệ |
|
Chữ “Ideologie/ideology” thoạt đầu do Destutt De Tracy (Éléments d’idéologie, 5 tập, 1801-1815) đề ra như một học thuyết khoa học với trọng tâm là ngữ pháp và lôgíc học và xem những “ư niệm” (Idées) là khởi điểm của nhận thức. Bị Napoléon I phê phán và chế nhạo, chữ “Ideologie” của De Tracy từ đó mang âm hưởng của cái ǵ viển vông, xa rời thực tế, hư ảo, đặc tuyển… Chính K. Marx đă tiếp thu ư nghĩa tiêu cực này của chữ “Ideologie”, và hiểu nó như là “ư hệ”, tức cái ǵ tất yếu là “ư thức sai lầm, hư ảo”. Theo Marx, do các điều kiện vật chất kém phát triển, các xă hội tiền-xă hội chủ nghĩa nhất thiết phải có một h́nh ảnh sai lầm về chính ḿnh. Đặc biệt, những lợi ích kinh tế-chính trị đặc thù của giai cấp thống trị được tuyên xưng là lợi ích phổ biến. Trong xă hội tư sản, việc vật hóa mọi quan hệ xă hội và ư thức xă hội thành h́nh thức hàng hóa biểu hiện ư thức hệ thống trị (“chủ nghĩa sùng bái hàng hóa”). Khác với cách hiểu cổ điển về “ư thức sai lầm” như là sự lừa bịp của tầng lớp thống trị, cách hiểu của Marx mới mẻ ở chỗ cho rằng bản thân giai cấp thống trị cũng không thể nhận ra sự lừa bịp của ḿnh. Chính “những quy luật vận động” hiện thực sẽ xé tan tấm màn hư ảo ấy đối với giai cấp vô sản đă trở thành giai cấp “cho-ḿnh” khi có ư thức về những điều kiện sống hiện
|
thực của họ. Tuy nhiên, những lợi ích đặc thù – được ngụy trang bằng những lợi ích phổ biến – cũng có hạt nhân chân lư của chúng. Chẳng hạn, xă hội tư sản đă đề ra các yêu sách về “tự do, b́nh đẳng, bác ái” như là các mục tiêu chính trị mà cuộc cách mạng vô sản sẽ biến chúng thành phổ biến ở trong hiện thực. Vậy, bất kỳ “ư hệ” nào cũng hứa hẹn những quan hệ vượt ra khỏi năng lực của bản thân nó. Và sự “phê phán ư hệ” (Ideologiekritik) bắt đầu ở ngay điểm không tưởng này. Về sau, Lênin không hoàn toàn đồng nhất hóa ư hệ với ư thức sai lầm. Theo đó, giai cấp công nhân cũng có một “hệ-tư tưởng”, nhưng nó khác với các “ư hệ” khác ở tính tiến bộ lịch sử của nó, và chủ thể của “hệ-tư tưởng" này là giai cấp công nhân với bộ tham mưu là Đảng Cộng sản. Trong các trường phái khác, người ta không đồng ư với nhau về chủ thể xă hội của sự phê phán-ư hệ. Chẳng hạn, có thể đó là các nhóm xă hội bên lề (Marcuse), phụ nữ (S. Firestore) hoặc không có chủ thể (Horkheiner/Adorno). Cũng c̣n có các quan niệm khác nữa về “ư hệ” trong Xă hội học-tri thức (A. Seidel, K. Mannheim) hoặc trong lư thuyết hệ thống (N. Luhmann, theo đó “một tư tưởng là có tính ư hệ, khi nó có thể được thay thế trong chức năng hướng dẫn và biện minh cho hành động) v.v… |
5. Biến đổi triết học siêu nghiệm
Vậy, nhiệm
vụ cơ bản của triết học là ǵ? Theo Apel,
triết học phải mang lại một sự “đặt
cơ sở tối hậu” (lLetztbegründung/ultimate
foundation) cho việc tiến hành lập luận của
chính ḿnh, và, với việc làm ấy, cương lĩnh
của ông về một sự biến đổi triết
học mới đạt được mục tiêu. “Đặt
cơ sở tối hậu” ở đây được
hiểu theo nghĩa của Kant, tức tra hỏi về điều
kiện khả thể để làm cho lập luận
nói chung, và lập luận triết học nói riêng, có
thể có được. Như thế, điều
kiện ấy phải là cái ǵ có tính “tiên nghiệm” (a
priori). Apel hiểu điều kiện khả thể
ấy chính là cái tiên nghiệm của cộng đồng
truyền thông[15].
V́ thế, thực hiện việc “đặt cơ sở
tối hậu”, tức là cho thấy rằng các bộ môn
truyền thống của triết học (tiêu biểu là nhận
thức luận và đạo đức học)
chỉ có thể có được khi ta quy chúng về cho
cái tiên nghiệm này. Trong khuôn khổ một bài viết
ngắn, ta chỉ có thể tóm lược cách
đặt vấn đề của Apel:
- đối với nhận thức luận:
Apel muốn cho
thấy rằng nhận thức luận cũng đă
trải qua một sự “thay đổi hệ h́nh”,
nghĩa là, nó không c̣n đặt vấn đề theo
kiểu “tâm thức học” (mentalistisch) như trước
đây nữa. Nói rơ hơn, nhận thức luận đă
rời bỏ việc hướng theo mô h́nh về một
thế giới bên ngoài[16]
mà ư thức luôn quan hệ bằng một cách nào đó.
Như thế, với Apel, nhận thức luận không c̣n
đặt vấn đề về một “vVật-tự
thân”
(Ding-an sich/Thing-in itself) ở bên ngoài, tác động
đến ư thức và khởi động tiến tŕnh
nhận thức nữa. V́ lẽ, nói kỳ cùng, ta chỉ
biết về những Vật-tự thân khi ta nói
về chúng, và, trong chừng mực ấy, ư tưởng
về Vật-tự thân cũng được trung
giới bằng ngôn ngữ. Cho nên, theo ông, ta chỉ có
thể giữ vững ư tưởng về một thế
giới bên ngoài bằng cách hiểu thế giới bên
ngoài như là cái ǵ thể hiện ra ở trong ngôn ngữ.
Và, v́ lẽ những sự vật chỉ đến
với ta thông qua ngôn ngữ, nên ta cũng chỉ có thể
suy tưởng về tính vững chắc của nhận
thức rằng nó tương ứng với chân lư của
những mệnh đề, của những phát biểu
của ta. Chân lư của những mệnh đề phát
biểu, đến lượt nó, lại có tiêu chuẩn
hay thước đo duy nhất là ở chỗ: những
mệnh đề phát biểu đứng vững
trước một sự truyền thông toàn diện và v́
thế, được chấp nhận một cách
phổ biến. Điều kiện truyền thông càng
bị hạn chế th́ nhận thức cũng càng bị
giới hạn về giá trị hiệu lực. Tiến
tŕnh nhận thức, theo cách hiểu ấy, không ǵ khác
hơn là tiến tŕnh của một sự “xây dựng
giả thuyết được trung giới bằng ngôn
ngữ”[17].
- đối với đạo đức học, t́nh h́nh cũng như thế
Ta biết rằng
những quy phạm luân lư có đặc điểm là
được thức thừa nhận
một cách phổ biến, và, như Apel sẽ chứng
minh, chúng chỉ có thể được thừa nhận
phổ biến khi đứng vững trước một
sự truyền thông toàn diện. V́ lẽ mọi thành viên
của một cộng đồng truyền thông
đều đề ra những yêu sách riêng của ḿnh, nên,
với tư cách là thành viên, ta mặc nhiên thấy ḿnh có
trách nhiệm thừa nhận những yêu sách của
người khác, nếu không, ta không thể biện minh cho
yêu sách của riêng ta. Ngoài ra, ta cũng mặc nhiên có trách
nhiệm phải tŕnh bày yêu sách của chính ḿnh trước
người khác. Việc tŕnh bày ấy hướng
đến mục đích t́m sự nhất trí của
người khác đối với những yêu sách của
ta, đồng thời, để nhất trí, ta lại
cần sự tŕnh bày của những
người khác tŕnh bày những yêu sách của họ.
Sự phối hợp giữa những yêu sách khác nhau
diễn ra trong những quy phạm luân lư, và v́ lẽ sự
nhất trí phải là quy phạm tối cao của một
cộng đồng truyền thông, nên sự nhất trí
chỉ có giá trị luân lư khi nó tiếp tục đảm
bảo cho tiến tŕnh truyền thông ấy được
vận hành trơn tru, nhằm hiện thực hóa một
sự nhất trí rộng răi.
Như thế, với nỗ lực đặt cơ sở cho đạo đức học, Apel đề ra yêu cầu song đôi: một số quy phạm nền tảng phải được chứng minh là có giá trị vô điều kiện, cũng như có tính ràng buộc tất yếu đối với mọi người. Apel gọi điểm xuất phát của cách đặt vấn đề này là một “nghịch lư”:
- một mặt, trước những
hậu quả nghiêm trọng của tiến
bộ khoa học-kỹ
thuậtcông nghệ, ta có nhu cầu về
một nền đạo đức học phổ quát. Con
người bị đặt trước vấn
đề sống c̣n: chịu trách nhiệm chung về những
hậu quả đối với số phận của nhân
loại nói chung. Một trách nhiệm như thế phải
được biện minh bằng hiệu lực
liên-chủ thể của những quy phạm.
- nhưng mặt khác lại có
sự phân ly giữa lư tính khoa học và yêu sách biện minh
của đạo đức học. Dựa theo tiêu
chuẩn của thuyết thực chứng lô gíc đang
thống trị tư duy khoa học, khả thể của
hiệu lực liên-chủ thể của những luận
cứ bị giới hạn trong phạm vi các khoa học
h́nh thức (toán học-lô gíc học) hay các khoa học
thường nghiệm mà thôi. Qua Từ đó,
những quy phạm luân lư hay những phán đoán giá trị
bị đẩy vào phạm vi của tính chủ quan, không
có tính ràng buộc liên-chủ thể. Để đối
phó với thuyết tương đối và thuyết
hư vô đang đe dọa cơ sở của
đạo đức học, Apel t́m cách trở lại
với một nền đạo đức học khách
quan và thuần lư: Nỗ lực ấy đ̣i hỏi
phải nhận diện những quy phạm và, sau đó,
làm rơ tính giá trị hiệu lực tối hậu
của chúng. Giá trị hiệu lực tối hậu,
như đă nói trên, có nghĩa: những quy phạm ấy
phải được thừa nhận một cách tất
yếu và phổ quát mà không cần một sự biện
minh nào xa hơn nữa. Tính tối hậu và không thể lùi
lại xa hơn nữa của lập luận hợp lư
chính là sự thừa nhận một cộng đồng
những người đang lập luận. Sự
biện minh cho một phát biểu không thể có được
nếu không tiền-giả định một cộng
đồng những người suy tưởng có năng
lực thấu hiểu và xây dựng sự đồng
thuận. Ngay cả người suy tưởng thực
sự cô độc cũng chỉ có thể giải bày và
kiểm nghiệm những luận cứ của ḿnh trong
chừng mực có năng lực nội tâm hóa cuộc
đối thoại của một cộng đồng
lập luận tiềm năng ở trong một “cuộc
đối thoại phê phán của tâm hồn với chính
ḿnh”, nói như Platon[18].
Nhưng, điều ấy lại tiền-giả
định một sự tuân thủ quy phạm luân lư
rằng: mọi thành viên của cộng
đồng lập luận đều thừa nhận
lẫn nhau như là những đối tác b́nh đẳng.
Cộng đồng lập luận được tiền giả định một cách tất yếu ấy xuất hiện dưới hai h́nh thái:
- như là cộng đồng truyền thông hiện thực, mà ta – muốn trở thành thành viên – phải “tự bản thân trở thành thành viên thông qua một tiến tŕnh xă hội hóa”.
- như là cộng đồng truyền thông lư tưởng “có năng lực, về nguyên tắc, thấu hiểu trọn vẹn ư nghĩa của những luận cứ và đánh giá được tính chân lư của chúng”[19].
Như thế, nếu ta – với tư cách là người lập luận – vốn bao giờ cũng đứng trong một cộng đồng truyền thông, và việc lập luận (dựa trên những yêu sách của nó) là h́nh thức của một sự hợp tác th́ có nghĩa: ta bao giờ cũng đă mặc nhiên thừa nhận những quy tắc của sự tương tác trong quan hệ “với nhau” giữa những con người hành động. Một khi ta không thể nghi ngờ những quy tắc ấy, ta phải thừa nhận chúng như là những quy tắc tuyệt đối tất yếu và ta có nghĩa vụ tuân thủ vô điều kiện. Apel nêu các quy phạm cơ bản ấy như sau:
a. nỗ lực lập luận một cách hợp lư để đưa đến những lựa chọn đúng đắn trong hành động;
b. mọi vấn đề
thực tiễn phải được giải quyết
trên cơ sở đồng thuận để tạo ra
một sự đồng thuận hợp lư khiến cho
kẻ tham gia lẫn những người có liên quan
hệ đều có thể
tán đồng;
c. mọi yêu sách có thể có của mọi thành viên trong cộng đồng truyền thông đều được thừa nhận, nếu chúng được biện ḿnh bằng những luận cứ hợp lư;
d. trong mọi hành vi, phải hướng đến việc bảo vệ và bảo tồn sự tồn tại của giống loài người (xét như cộng đồng truyền thông hiện thực) và biến đổi nó theo thước đo hay tiêu chuẩn của cộng đồng truyền thông lư tưởng. Đó cũng chính là hai nguyên tắc điều hành của đạo đức học do Apel đúc kết: “Thứ nhất, trong mọi việc làm và không làm, nhất thiết phải đảm bảo sự sống c̣n của giống loài người như là cộng đồng truyền thông hiện thực; và, thứ hai, nỗ lực hiện thực hóa cộng đồng truyền thông lư tưởng ở trong cộng đồng hiện thực ấy. Mục tiêu thứ nhất là điều kiện tất yếu cho mục tiêu thứ hai; và mục tiêu thứ hai mang lại ư nghĩa cho mục tiêu thứ nhất – ư nghĩa vốn đă được dự đoán (antizipiert) trong bất kỳ luận cứ nào”[20].
6. Trong những nghiên cứu
của Apel về nhận thức luận cũng như
về đạo đức học như đă lược
qua ở trên, ông luôn quy chiếu về triết học
của Kant, vànhưng,
theo ông, cần biến đổi triết
học Kant theo “hệ h́nh” mới. Thay chỗ cho vai tṛ
của “ư thức” nơi Kant (thuộc “hệ h́nh” cũ),
Apel đề nghị dùng vai tṛ của “cộng
đồng truyền thông tiên nghiệm”
để thay vào. V́ lẽ cộng đồng
truyền thông – cũng giống như “ư thức” nơi
Kant – là cái ǵ có trước mọi kinh nghiệm, nghĩa là
có tính cách “siêu nghiệm” (transzendental) hiểu theo
nghĩa của Kant là điều kiện khả thể cho
kinh nghiệm, nên Apel cũng có thể xem quan niệm
của ông về triết học là một thứ “triết
học siêu nghiệm” được thiết lập
trên cơ sở lư luận về truyền thông. Và cũng
v́ trong triết học này, vấn đề cốt lơi là
bàn về điều kiện khả thể cho hành vi ngôn
ngữ, nên Apel cũng gọi triết học của ḿnh
nói chung là “nNgữ dụng học siêu
nghiệm” (Transzendentalpragmatik), và gọi đạo
đức học quy phạm vừa tŕnh bày ở trên là “đĐạo
đức học diễn ngôn” (Diskursethik)[21].
Mặc dù Apel đi t́m
“cơ sở tối hậu” về mặt triết
học, nhưng chính v́ ông xem trọng việc lập
luận bên trong một cộng đồng truyền thông
giữa những nhà nghiên cứu, nên ta không c̣n lấy làm
lạ trước phong thái tư duy của ông như đă
nhắc qua ở đầu bài viết. C̣n Các tác
phẩm của ông không mang h́nh thức của học
thuyết mà mang h́nh thức những đề nghị,
với cách viết tắt quen thuộc: “m.E” (theo ư tôi…). Tuy
nhiên, việc kết hợp và “soi chiếu” những quan
niệm triết học khác nhau (giữa Heidegger và
Wittgenstein, giữa Peirce và Kant, giữa Habermas và Gadamer…) không
phải là xóa nḥa sự khác biệt giữa họ và để
đi tới một sự chiết trung, trái lại,
càng làm lộ rơ cương lĩnh riêng biệt của
một triết học độc lập của Apel. Trong
mọi nỗ lực “biến đổi”, bao giờ
vẫn có một cái ǵ không thể biến đổi, không
thể lẫn lộn, và chính tính không thể lẫn
lộn này là một sự “không nhất trí” cơ bản và
đáng giá trước mọi nỗ lực đi t́m
sự nhất trí, đồng thuận.
Tóm lại, trong
nhiều ư tưởng c̣n cần phải được
tranh luận, luận điểm của Apel về quan
hệ biện chứng giữa “cộng đồng
truyền thông hiện thực” và “cộng đồng
truyền thông lư tưởng” (một phiên bản khác,
thuộc về một hệ h́nh khác, của mối quan
hệ giữa “thế giới cảm tính” và “thế
giới siêu cảm tính” của nơi Kant)
cùng với ư tưởng về “hoàn cảnh nói lư
tưởng” trong “nNgữ
dụng học phổ quát” của Habermas[22] là
một trong nhiều đóng góp đáng kể nhất
của triết học đương đại. Ư
tưởng ấy cũng là lời mời gọi,
đồng thời là một sự thách thức
thường trực đối với mọi hoàn cảnh
đối thoại cụ thể trong cuộc sống
cũng như đối với mọi xă hội hiện
thực trên thế giới. Mượn một cách
nói của Marx, đó là yêu cầu liên tục thoát khỏi
“định lư” nghiệt ngă của tính không đồng
thời, tínhcủa
sự “lệch pha” với
cái đương đạigiữa
hoàn cảnh hiện thực và hệ h́nh tư duy
đương đại, để không phải than
thở như Marx về nước Đức
đương thời của ông: … “Chúng ta là những
người sống đồng thời về mặt
triết học với hiện tại, nhưng không
phải là những người sống
đồng thời về mặt lịch sử”[23].
BVNS, 10.2007
* Nghiên cứu triết học độc lập, TP. HCM.
[1] Thi ca ? trong “Bùi Giáng. Văn và Thơ”, Ngô Văn Tao tuyển trích, NXB Văn Nghệ, 2007, tr. 35.
[2] Ortega y Gasset: Hegel y América, 1930, dẫn theo F. Wiedmann: Hegel, 2003, tr. 148.
[3] “H́nh ảnh của Hegel sẽ
“dễ thương” hơn nhiều [so với cách nh́n trên
đây của Ortega y Gasset] nếu ta hiểu cái Toàn bộ
hay tính toàn thể nơi ông [Hegel] không phải như
một kết quả chung quyết, nhất thành bất
biến, như một cái Toàn bộ “được mang
lại”. Việc “dẫn đến” cái Toàn bộ nơi
ông nhắm đến tiêu điểm là sự trung
giới xét như sự trung giới hơn là
đến cái đă được trung giới,
đến cái “hạn từ thứ ba” (kết luận)
của một suy luận! Phương pháp biện
chứng chỉ đáp ứng “nhu cầu” nắm
bắt và suy tưởng về tính toàn thể nói chung,
đồng thời cho thấy tính bất khả nếu
tưởng đă đạt được nó trong một
mệnh đề đơn độc, cô lập”… (“Mấy lời giới
thiệu và lưu ư của người dịch: “Cùng
Hiện tượng học Tinh thần qua các chặng
đường thánh giá”; Hegel, Hiện tượng
học Tinh thần, BVNS dịch và chú giải, NXB Văn
học 2006, tr. XL-XLI).
[4] Thomas Kuhn: The structure of
Scientific rRevolutions, 3. edition, The University of
Chicago Press, 1996, Chương V, tr. 43 và tiếp.
[5] K. O. Apel: Transformation der Philosophie/Sự Biến đổi của triết học, 2 tập, Frankfurt/M, 1973.
[6] Phân tích về Dasein (Daseinanalytik): c̣n gọi là “Hữu thể học nền tảng” của M. Heidegger khám phá những “hằng số” của “con người” như một thực thể hiện hữu trong thế giới (“tồn tại ở đó”/Da-sein), gồm các đặc điểm:
- là một cái tồn tại chỉ có thể tồn tại khi có quan hệ với sự hiện hữu (sống thực) của ḿnh;
- có quan hệ ư hướng tính với những cái tồn tại chung quanh;
- có thể hiểu hay nói khác đi, có thể đặt câu hỏi về Tồn tại (nói chung);
- tồn tại “ở-trong-thế giới” và hiểu [ư nghĩa của] thế giới. Thông qua sự tồn tại-ở-trong-thế giới mà Dasein có khả năng lư giải ư nghĩa vốn gắn liền với từng vật dụng riêng lẻ ở trong thế giới ấy. V́ thế, Heidegger cũng gọi Dasein là một “cái tồn tại-ở-trong-thế giới”.
[7] Thông diễn học
(Hermeneutik): nghĩa nguyên thủy là nghệ thuật lư
giải văn bản (chẳng hạn môn Thông diễn
học về Thánh kinh). Với Heidegger, Thông diễn học
có được một kích thước mới. Với
ông, Hiểu không chỉ là một phương pháp hay
phương cách nhận thức của các khoa học nhân
văn mà c̣n là quy định tồn tại của con
người. “Dasein” [con người] có
tính cách của việc “hiểu tồn tại”, qua đónghĩa
là, một cách căn nguyên, con người vốn
đă có một sự thấu hiểu tiền-khoa học
về thế giới. V́ thế, nhiệm vụ hàng
đầu là tiến hành phân tích về việc hiểu
Tồn tại của Dasein, gọi là “Thông diễn học
về kiện tính” (Hermeneutik der Faktizität) như Heidegger
đă tiến hành trong tác phẩm “Tồn tại và
thời gian” (1927). Sau đó, thông diễn học được H. G.
Gadamer và Paul Ricoeur tiếp thu và phát triển mạnh
mẽ.
[8] Xem: tTổng
quan về tư tưởng Heidegger, trong: Bùi Văn Nam
Sơn: “Triết học và/về tính hữu hạn”,
Thay Llời giới thiệu nhân tái
bản quyển “Đâu là căn nguyên tư tưởng?
Hay con đường triết lư từ Kant đến
Heidegger” của GS Lê Tôn Nghiêm, NXB Văn học 2007, tr.
V-LXXII).
[9] K. O. Apel: Transformation der Philosophie/Sự biến đổi triết học, tập I, tr. 250 và tiếp.
[10] L. Wittgenstein: Philosophische Untersuchungen/Các nghiên cứu triết học; Suhrkamp, Frankfurt/M, 2003.
[11] “Tṛ chơi ngôn ngữ”: Thuật ngữ của Wittgenstein trong “Các nghiên cứu triết học” (1955) để biểu thị ngôn ngữ như là một hành vi trong những bối cảnh cuộc sống. Giống như bất kỳ hành vi nào, ngôn ngữ cũng bị gắn chặt vào trong những khung cảnh hành động và t́nh huống khác nhau, và v́ thế, bao giờ cũng là một bộ phận của những khung cảnh được Wittgenstein gọi là những “h́nh thức cuộc sống”. Tương ứng với số lượng (không giới hạn) của những h́nh thức cuộc sống, ta cũng có những h́nh thức áp dụng ngôn ngữ khác nhau, được gọi là những “tṛ chơi ngôn ngữ”, chẳng hạn: mô tả, giải thích, đặt câu hỏi, chào đón, yêu cầu, ra lệnh v.v… “Tṛ chơi ngôn ngữ” nói lên rằng việc sử dụng ngôn ngữ trong những h́nh thức khác nhau của cuộc sống tuân theo những quy tắc riêng biệt, tương ứng với những hệ thống quy tắc khác nhau, cấu tạo nên những tṛ chơi ngôn ngữ riêng lẻ. Đến lượt nó, tính quy tắc là tiền đề cho việc hiểu thông qua ngôn ngữ. Không có những quy tắc vững chắc, được học hỏi trong việc sử dụng ngôn ngữ để biết cách sử dụng một từ trong các khung cảnh xă hội th́ sẽ không có được ư nghĩa vững chắc.
10bis “Tṛ
chơi ngôn ngữ”:
Thuật ngữ của Wittgenstein trong “Các nghiên cứu
triết học” (1955) để biểu thị ngôn
ngữ như là một hành vi trong những bối cảnh
cuộc sống. Giống như bất kỳ hành vi nào,
ngôn ngữ cũng bị gắn chặt vào trong những
khung cảnh hành động và t́nh huống khác nhau, và v́
thế, bao giờ cũng là một bộ phận của
những khung cảnh được Wittgenstein gọi là
những “h́nh thức cuộc sống”. Tương ứng
với số lượng (không giới hạn) của
những h́nh thức cuộc sống, ta cũng có những
h́nh thức áp dụng ngôn ngữ khác nhau, được
gọi là những “tṛ chơi ngôn ngữ”, chẳng
hạn: mô tả, giải thích, đặt câu hỏi, chào
đón, yêu cầu, ra lệnh v.v… “Tṛ chơi ngôn ngữ” nói
lên rằng việc sử dụng ngôn ngữ trong những
h́nh thức khác nhau của cuộc sống tuân theo những
quy tắc riêng biệt, tương ứng với những
hệ thống quy tắc khác nhau, cấu tạo nên
những tṛ chơi ngôn ngữ riêng lẻ. Đến
lượt nó, tính quy tắc là tiền đề cho
việc hiểu thông qua ngôn ngữ. Không có những quy
tắc vững chắc, được học hỏi trong
việc sử dụng ngôn ngữ để biết cách
sử dụng một từ trong các khung cảnh xă hội
th́ sẽ không có được ư nghĩa vững chắc.
[12] K. O. Apel, Sđd, tập 2, tr. 247.
[13] - “Ai tham gia vào nghị luận triết học, người ấy đă mặc nhiên thừa nhận những tiền đề ấy như là cái tiên nghiệm của lập luận và không thể phủ nhận chúng mà không đồng thời phủ nhận năng lực lập luận của chính ḿnh” (Sđd, tập I, tr. 62).
- “Ngay cả ai nhân danh sự hoài nghi hiện sinh và bằng cách tự tử để có thể kiểm nghiệm chính ḿnh… nhằm tuyên bố rằng cái tiên nghiệm của cộng đồng truyền thông là ảo tưởng, th́ đồng thời cũng xác nhận rằng chính ḿnh vẫn đang lập luận” (nt).
Mượn một h́nh ảnh thần học, Apel viết: “Ngay Quỷ sứ cũng chỉ có thể làm cho ḿnh độc lập với Thượng đế bằng cách tự hủy chính ḿnh” (Sđd, tập 2, tr. 414).
[14] K. O. Apel, Sđd, tập 2, tr. 120 và tiếp.
[15] Như đă nói ở chú thích 13, theo Apel, những mệnh đề là được “đặt cơ sở tối hậu” khi: a/ chúng không thể được chứng minh nếu không lấy bản thân chúng làm tiền-giả định; và b/ không thể phủ nhận được, nếu không đồng thời khẳng định giá trị hiệu lực của chúng. Chính điều kiện thứ hai này giúp cho luận cứ không bị rơi vào sự lẩn quẩn lôgíc mà Apel gọi là “sự mâu thuẫn khi thực hiện” (performativer Widerspruch/performativ contradiction), vd: câu nói: “tôi nghi ngờ về sự hiện hữu của tôi” là phạm “mâu thuẫn thực hiện” v́ ta phải hiện hữu đă, rồi mới có thể nghi ngờ. Ở đây, sự mâu thuẫn không nảy sinh từ tư duy chủ quan, mà từ hành vi của đối thoại liên-chủ thể, nên theo Apel, chính tính liên-chủ thể là quy định tối hậu, không thể lùi xa hơn được nữa của tư duy và hành động của con người.
[16] K. O. Apel, Sđd, tập 2, tr. 175 và tiếp.
[17] K. O. Apel, Sđd, tập 2, tr. 355.
[18] K. O. Apel, Sđd, tập 2, tr. 414.
[19] K. O. Apel, Sđd, tập 2, tr. 414.
[20] K. O. Apel, Sđd, tập 2, tr. 431.
[21] Khuôn khổ bài viết không cho phép chúng tôi đi sâu hơn vào “Đạo đức học diễn ngôn” và cuộc thảo luận đang rất sôi nổi chung quanh nó, nhất là giữa Apel và J. Habermas. Xem thêm: Jürgen Habermas: Moralbewußtsein und kommunikatives Handeln/Ư thức luân lư và hành vi truyền thông; 1983, 1984; Moralität und Sittlichkeit. Treffen Hegels Einwände gegen Kant auch auf die Diskursethik zu ? / Luân lư và Đạo đức [xă hội]. Những phản bác của Hegel đối với Kant phải chăng cũng đúng với Đạo đức học diễn ngôn? Trong: W. Kuhlmann (chủ biên): Moralität und Sittlichkeit. Das Problem Hegels und die Diskursethik/Luân lư và Đạo đức. Vấn đề của Hegel và Đạo đức học diễn ngôn. 1986. (Tập hợp các tham luận hay nhất hiện nay về Đạo đức học diễn ngôn).
[22] Trong học thuyết về chân lư của ḿnh, để phân biệt giữa sự “đồng thuận đích thực” và sự “đồng thuận giả mạo”, J. Habermas đề ra khái niệm về “hoàn cảnh nói lư tưởng” (ideale Sprechsituation) có thể được tóm tắt trong bốn tiêu ngữ: tính công khai; sự phân phối quyền truyền thông công bằng; tính không bạo lực và tính thành thực. Xem J. Habermas: Wahrheitstheorien/Các Lư thuyết về chân lư. Trong: “Dự thảo và bổ sung cho lư thuyết về hành vi truyền thông”, Frankfurt/M, 1984, tr. 127 và tiếp.
[23] Marx/Engels, Werke/Tác phẩm, tập I, tr. 383: “Wir sind philosophische Zeitgenossen der Gegenwart, ohne ihre historischen Zeitgenossen zu sein”.