CoNguBaiNghiLuan

Bài nghị luận đầu năm lẻ một

Đề bài: Bạn viết văn, làm thơ cho ai ?

Điểm: 12/20

Lời phê: Bài có ư, nhưng nhiều chỗ viết lan man, đôi khi lạc đề. Cố gắng hoàn tất bài viết trong thời gian ấn định.

 

Bài làm:

H́nh như cuộc đời là một chuỗi những câu hỏi và câu trả lời vô tận. Những đứa bé con cứ luôn miệng hỏi tại sao, tại sao. Người lớn quay cuồng trong những câu hỏi đôi khi không có lời giải đáp thoả đáng, đại loại: tôi từ đâu đến, tôi đến giữa đời này để làm ǵ, tôi sẽ đi về đâu sau cái chết, hoặc, những câu hỏi đời thường hơn, kiểu: tối nay ḿnh ăn món ǵ, tuần tới có kiếm ra việc làm không, hè này đi du lịch ở đâu... Câu hỏi đưa ra ở đề bài không quá khó để không thể trả lời, nhưng cũng không quá dễ để có thể chọn lựa giữa có/không hoặc đánh chéo một trong bốn năm lời đáp sẵn a-b-c-d-e. Vậy, như một thách đố, cứ thử phân tích các mệnh đề, đặt phương tŕnh, t́m ẩn số và giải mă xem sao.

 

Tôi hành nghề viết. Nhưng không viết văn, mà viết những chương tŕnh điện toán. Các đồng nghiệp của tôi thường chia làm hai nhóm: bảo thủ và cách tân, tương ứng với việc làm: hoàn thiện các công tŕnh có sẵn hoặc thực hiện các đề án mới. Nhóm bảo thủ lại chia hai: bảo tŕ với vài thay đổi nhỏ trên những chương tŕnh sẵn có, hoặc, cập nhật hoá các công tŕnh cũ bằng những phương pháp, kỹ thuật và ngôn ngữ mới. Cũng vậy, nhóm cách tân cũng có hai khuynh hướng: thực hiện những dự án mới bằng lề lối quen thuộc hay "chơi bạo", liều mạng với những kỹ thuật vừa ra ḷ, c̣n nóng hổi, đưa dự án sắp thực hiện lên bàn mổ, làm vật thí nghiệm cho mọi nơi cùng học hỏi. Hai nhân hai, rồi lại nhân hai, cứ thế mà lũy thừa các « trường phái » đến vô tận, nhưng tưụ trung, có thể nói theo các ngài đệ tử của thần Lưu Linh, có bốn loại: b́nh cũ-rượu cũ, b́nh cũ-rượu mới, b́nh mới-rượu cũ và b́nh mới-rượu mới. Tôi vốn thuộc loại cực đoan, chỉ thích những ǵ mới, nhưng không phải bao giờ cũng toại nguyện: vô phúc bị ném vào làm chuyện tân trang những chương tŕnh viết cách đây gần hai mươi năm trên những hệ thống điện toán cũ kỹ và người sử dụng cũng già nua, cũ kỹ không kém, đ̣i mới với ai ? Hay bắt thực hiện một dự án ngắn ngày bằng những phương tiện quá hiện đại, với những ngôn ngữ lạ hoắc, vừa xuất hiện cách đây vài tháng, làm sao dám kham ? Do đó, mới hay cũ, có lẽ cũng phải dựa vào thiên thời-địa lợi-nhân hoà mà hành động !

 

Nhưng h́nh như, mới và cũ, cũng có tính tương đối. Những đồng nghiệp bảo-thủ-tận-chân-tóc của tôi vẫn vỗ ngực huênh hoang nhận ḿnh là người của thời đại mới, v́ đang hành nghề điện toán, một nghề mới toanh so với các ngành, nghề khác như nông dân, giáo sư hay thương gia. C̣n ông bác sĩ đầu thế kỷ hai mươi mốt đang dùng tia laser làm dao mổ trong các cuộc phẫu thuật kia, chắc đôi khi vẫn lạy bàn thờ tổ Hoa Đà, Biển Thước ? Ở những nơi tôi làm việc, mỗi khi một công tŕnh mới ra đời, không những người tác tạo phải nắm vững mọi vấn đề, mà ngay cả « người tiêu thụ » cũng phải qua một khoá huấn luyện để thành thạo cách sử dụng. C̣n những người tiêu thụ khác của các ngành nghệ thuật như âm nhạc, hội hoạ, văn chương... họ có được chuẩn bị tinh thần, trang bị kiến thức để đón nhận những trào lưu mới không ? Thử đặt một câu hỏi giản dị hơn, khoanh vùng hơn: « Bạn đọc, bạn đọc ǵ ? » và nh́n quanh thăm ḍ ư kiến xem sao.

 

Tại Paris, ngoài các thư viện, trường đại học và hiệu sách, có thể nói métro là nơi thiên hạ đọc nhiều nhất. Nhưng, họ đọc ǵ ? Loại trừ những người đọc thư từ, giấy tờ cá nhân, tài liệu, quảng cáo, chương tŕnh truyền h́nh, báo hàng ngày hoặc tạp chí đủ loại ra, số người đọc sách c̣n lại thật ít ỏi. Những tựa sách thấy được, đa số thuộc loại kinh dị, khoa học giả tưởng, dă sử, trinh thám, t́nh cảm ướt át hoặc có cốt truyện quay thành phim đang được tŕnh chiếu. Thỉnh thoảng loáng thoáng Hugo, Balzac, nh́n lên mặt người đọc, không học sinh th́ cũng sinh viên. Thơ không thấy. Tạp chí văn học, không thấy. Những tên tuổi của Nobel văn chương hoặc các giải thưởng văn học lớn của Pháp như Goncourt, Fémina, Médicis: cũng không thấy ! Có nên trách cứ người đọc của métro parisien không ? Xin hăy thông cảm cho họ một chút: bị nhồi, ép, chen, lấn, xô, lắc, đẩy, đè, làm sao người đọc có thể b́nh tâm để hiểu được những ư tưởng vi tế muốn chẻ sợi tóc ra làm tư hay lang thang cùng các ḍng ư thức miên man trôi không chấm phẩy từ trang này qua trang khác ? C̣n đang ngầy ngật chưa tỉnh ngủ giữa một buổi sáng mùa đông hay phờ rạc cả người sau một ngày căng óc căng cơ với công việc nơi sở làm, làm sao người đọc của métro parisien đồng cảm nổi với những hàng chữ đầy chất thiền của các học giả phương Đông hay rung động cùng những trang sách hoang sơ huyễn mộng của các nhà văn Phi châu đen và Nam Mỹ ? Những quyển sách thuộc loại « cao cấp », chẳng hạn « Linh sơn » của Cao Hành Kiện, « Trong ṿng tay ấy » của Camille Laurens hay « Ingrid Cavel » của Jean-Jacques Schuhl (*), đang được bày ở các nơi trang trọng nhất tại các nhà sách lớn của thủ đô, nhưng có lẽ chỉ dành cho những ai ăn nằm cùng sách, hoặc sống và làm việc thường ngày với chúng. Một anh kỹ sư trẻ, mê tranh Zao Wou-Ki, thích phim Fellini, yêu blue jazz, cũng có thể mua những quyển sách « cao cấp » kia vậy, có ai cấm đoán đâu ? Nhưng, mua th́ mua, mà đọc ở đâu ḱa, đọc lúc nào ḱa, trong một kỳ nghỉ hè bên bờ biển ŕ rào sóng hay trong một kỳ nghỉ đông cạnh ḷ sưởi tí tách lửa hồng, chứ chắc chắn không phải giữa cái đống người lộn xộn chen chúc, lúc lắc ngả nghiêng của các toa tàu métro !

 

Đọc đến đây, chắc sẽ có người chép miệng nói, người Tây họ coi sách Tây, kệ họ, ḿnh Việt Nam, lo mà xem sách Việt. Vậy th́, người Việt ở Paris, họ đọc ǵ ? Đến thăm tủ sách của Thư viện Diên Hồng và nh́n vào các phiếu mượn sách của bạn đọc được lưu trữ từ mười sáu năm nay, chúng ta tạm có thể có một cái nh́n tổng quan cho câu hỏi này. Gần năm mươi phần trăm sách được mượn là các bộ chưởng. Truyện Quỳnh Dao và các sách dịch khác chiếm hai mươi phần trăm. Ba mươi phần trăm c̣n lại tạm được chia như sau: mười lăm phần trăm dành cho sách của Tự Lực Văn Đoàn và sách in tại miền Nam trước 1975, nguyên bản hoặc tái bản; mười phần trăm dành cho các sách in tại hải ngoại sau 1975, kể cả sách của những tác giả trong nước nhưng in ngoài nước; năm phần trăm cuối cùng gồm nhạc tập, sách khảo cưú-khoa học, sử-địa, chính trị-nhân văn, tôn giáo, sách học làm người, truyện thiếu nhi... Một số độc giả được hỏi, cho biết họ vẫn đọc các tác giả và tác phẩm mới, nhưng, hoặc mua trực tiếp từ các nhà sách, hoặc đọc qua các tạp chí văn học hiện cũng đang có mặt ở Thư viện Diên Hồng như Văn Học, Văn, Thơ, Hợp Lưu, Văn Tuyển, Việt, Chủ Đề... nên không mượn tại tủ sách. Một số khác, đông hơn, trả lời rất giản dị: họ ngại đối mặt với những tên tuổi mới và cách viết mới, v́, nếu "đọc không trôi", mất công lại phải lặn lội đến thư viện đổi sách khác, mà cuối tuần th́ c̣n bao nhiêu chuyện dồn lại cần giải quyết, và những chuyện này thường cấp bách hơn chuyện mượn sách đọc trong tuần trên... những chuyến métro nhiều ! Từ mười sáu năm nay, các độc giả lớn tuổi của Thư viện Diên Hồng ít có biến động. Nhưng lứa độc giả trẻ ngày trước, nay ở khoảng tuổi 35-40, gần như ngưng hẳn việc mượn sách, hoặc v́ bận rộn công danh sự nghiệp, gia đ́nh con cái, hoặc đă hội nhập sâu vào xă hội đang sống và có nhiều thú vui khác lôi cuốn hơn chuyện đọc sách. Lứa độc giả trẻ hiện thời, tuổi từ 20 đến 30, có thể đếm được trên đầu ngón tay. Đột nhiên, từ hai năm nay, số lượng độc giả trẻ của Thư viện Diên Hồng tăng vọt, nhờ các du học sinh Việt Nam tạm trú tại Paris rủ nhau đến làm thẻ bạn đọc, và dĩ nhiên, lôi về nào Kim Dung, nào Quỳnh Dao, nào Tự Lực Văn Đoàn... - nghĩa là khá giống so với cách đọc của các độc giả khác.

 

Xem ra th́ người đọc, tây ta nói chung, có vẻ ngại với những ǵ phức tạp, khó hiểu, khác đời, lập dị. Người Pháp, dù thế nào, cũng c̣n ít nhiều máu phiêu lưu, vẫn chịu khó t́m hiểu tác giả mới, cách viết lạ. Người Việt, ngay cả khi sống ở hải ngoại, suy nghĩ vẫn c̣n bị lũy tre làng vây kín, tư tưởng vẫn c̣n bị cánh cổng làng ngăn chặn, yên phận thủ thường hơn, ai sao ḿnh vậy, quen hơi bén tiếng dù ǵ cũng vẫn dễ chịu hơn lạ nước lạ cái, ngại sóng gió, ngại biến động, ngại đổi thay, ngại phát minh, sáng tạo. Giông giống, quen quen, thuận tai, hợp mắt, ô-kê, xà va, đắc-co, khỏi cần suy nghĩ nhiều chi cho mệt !

 

Người đọc đă như thế, th́ người viết, nhất là người-viết-gốc-Việt, viết cho ai ? Viết cho người đọc chứ viết cho ai bây giờ ! Ngoại trừ Linda Lê, Kim Lefèvre và mới đây, Vân Mai, viết thẳng bằng Pháp ngữ, độc giả đọc tiếng Pháp có thể làm quen với văn chương của Nguyễn Du, Tô Hoài, Nam Cao, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Nhă Ca, Duyên Anh, Nguyễn Huy Thiệp, Bùi Minh Quốc, Phan Thị Vàng Anh... qua các bản dịch của Nguyễn Trần Huân, Kim Lefèvre, Phan Huy Đường, Liễu Trương, Georges Boudarel, Pierre Tran Van Nghiem... Từng ấy tác giả, hơn ba mươi tựa đề, bao nhiêu sách in ra, bao nhiêu sách được tiêu thụ, người đọc gồm những ai, thuộc quốc tịch ǵ, không thấy có thống kê nào nhắc đến. Người viết bằng tiếng Việt về đủ mọi thể loại từ vài mươi năm nay ở Pháp có một số lượng đáng kể, nhưng người viết dưới bốn mươi tuổi, đă có sách được in, h́nh như chỉ có... ba: Trần Vũ, Y Chi (đă định cư tại Úc sau khi ra mắt tuyển tập truyện ngắn « Chân trần ») và Nguyễn Đại Bằng (sách nghiên cưú: « Đi t́m Kinh Dịch nguyên thuỷ »). Ba người viết khác có truyện ngắn thường được đăng trên các tạp chí văn học, vừa giới thiệu tác phẩm đầu tay của ḿnh tại Paris, đều thuộc phái nữ: Miêng, Mai Ninh và Đặng Mai Lan. Người đọc họ, ngoài những ṿng sóng gần: gia đ́nh, bạn hữu, chắc chắn âm ba cũng đă lan đến những cộng đồng người Việt ở xa hơn xứ Pháp, nơi họ sống và sáng tác. Có lẽ họ không dám mơ ước: « ra ngơ gặp bạn đọc » như nhà văn Việt trong nước, nhưng những ǵ họ viết và gửi gấm trong tác phẩm, không v́ thế mà kém sâu sắc hay kém chắt lọc hơn.

 

Thế c̣n tôi ? Tôi viết văn, làm thơ cho ai ? H́nh như ngay từ đầu, t́nh yêu và niềm say mê của tôi dành cho chuyện viết văn, làm thơ, đặt nhạc, vẽ tranh, chụp ảnh, đóng kịch... đều ngang bằng nhau, cái ǵ cũng thích, nên cái ǵ cũng làng nhàng, chẳng đâu vào đâu ! Tất cả những ǵ tôi làm, đều có một đối tượng đầu tiên: cái TÔI đáng yêu, cái TÔI đáng ghét ! Tôi có hứng, tôi thích chí, tôi làm. Làm xong, ưng ư, tôi giữ lại, không hài ḷng, tôi vứt bỏ. Không ai ép, không ai buộc, không ai de doạ, không ai bán mua, đổi chác. Cái ṿng tṛn đầu tiên, mắt băo, lỗ rốn, người thưởng thức đầu tiên, chính là người tạo tác. Người ta viết nhật kư để ai đọc, nếu không phải để ḿnh tự nhận ra chính ḿnh ? Sáng tác, đối với tôi, cũng là một cách để nhận ra chính ḿnh. Đôi khi ngẫm lại một đoạn văn, một bài thơ, một bức phác hoạ đă lâu không động đến, tôi chợt nhớ lại những cảm nhận đă thấm, những suy nghĩ đă từng, những rung động đă có về bản thân, về người đối diện, về đám đông lao xao chung quanh, về cuộc sống ở một nơi chốn nhất định trong một thời điểm nhất định. Bằng sáng tác, tôi tự soi gương và biết ḿnh hiện hữu, biết ḿnh từng có và mất những ǵ, mơ ước và chối bỏ những ǵ. Bằng sáng tác, tôi muốn bày tỏ, muốn san sẻ « một phần của tôi » đến người chung quanh, đồng thời, hấp thụ trở lại, tập sống, suy nghĩ, hành động như một hoặc nhiều người khác. V́ vậy, khi đối tượng đầu tiên, bản thân người sáng tác, có thực sự yêu mến và rung động với tác phẩm, th́ may ra, tấm chân t́nh đó mới lan toả được tới những người chung quanh, tác phẩm mới t́m được mối tương giao với người thưởng ngoạn. Thế nhưng, chỉ có rung cảm nghệ thuật và tấm chân t́nh không thôi, h́nh như chưa đủ, h́nh như chỉ là sự tự phát, với khuôn dáng trong gương nh́n măi cũng nhàm, dù ai ai cũng mang trong người ít nhiều bóng h́nh của Narcisse. Người sáng tác, khó nhất là biết tự vượt qua chính ḿnh. Và chỉ có cách duy nhất để có thể thực hiện được điều này là phải học hỏi không ngừng những kỹ thuật, phát kiến mới và không ngại đem áp dụng, thử nghiệm vào tác phẩm của ḿnh. Nếu những kỹ thuật, phát kiến mới ấy lại do chính bản thân sáng tạo th́ c̣n ǵ tuyệt vời hơn nữa ! Ngạn ngữ Trung Hoa cách đây ngàn năm đă có câu: « Sự học như con thuyền ngược nước, không tiến, ắt lùi », nay, nếu c̣n không học hỏi, sự thể sẽ trôi dạt về đâu ? Mấy năm trở lại đây, các bài viết của vài nhà nghiên cứu phê b́nh văn học đăng trên một số tạp chí văn học đă thực sự khuấy động sự yên tĩnh của những người viết Việt già nua. « Già nua » ở đây không có quan hệ với số tuổi đời, mà ở cách suy nghĩ và lối sáng tác. Làng văn Việt, hay Cộng hoà văn chương Việt bắt đầu có những xáo trộn, một dấu hiệu đáng mừng, v́ bất cứ ở đâu trong thời đại này, một xă hội khép kín, tĩnh đọng là một xă hội có vẻ yên b́nh, nhưng chắc chắn không lành mạnh. Người ta có thể đi ở ẩn trên Hy-mă-lạp-sơn, hay sống đơn sơ giữa rừng rậm Amazone trong nhiều trăm năm, nhưng một khi đă quên liên lạc bằng tín hiệu khói, tín hiệu âm thanh hay bằng cách bắn mũi tên đồng vào búi tó sau gáy để truyền tin, một khi đă biết dán con tem gửi lá thư cho gia đ́nh, đă biết nhấc điện thoại thăm hỏi bạn bè, th́ không thể cứ khư khư nhất định ra bưu điện đánh điện tín trong khi mọi người chung quanh ào ào sử dụng điện thư. Dĩ nhiên, sẽ có ai đó kêu lên: « Đâu phải cái mới nào cũng hay, và chẳng lẽ, cứ phải suốt đời nhắm mắt nhắm mũi chạy theo cái mới, hay sao ? » Xin hăy chấp nhận cái mới trước đă, xin hăy thử nghiệm trước đă, rồi sự sàng lọc của thời gian và đám đông (chưa chắc đă là sự lựa chọn hợp lư) sẽ quyết định sau. C̣n trong mười ngàn cái mới, chỉ chọn một vài, sao cho phù hợp với cá tính, sở thích và khả năng của ḿnh, đă không phải là chuyện dễ dàng, đă được xem là có đầu óc cấp tiến, th́ đừng v́ dị ứng mà chùn chân, không thử bước thêm một bước về phía trước. Nhưng, nói đi cũng phải có nói lại, bước về phía trước, không có nghiă là chối từ, xoá bỏ những ǵ đă để lại sau lưng. Có ai ngợi khen « thành tích » đốt phá nhà thờ, giết hại tu sĩ của Cách mạng 1789 Pháp hay sự huỷ hoại di tích lịch sử, đền chùa miếu mạo của Cách mạng Văn hoá Trung Hoa đâu ? Một hoạ tiết trống đồng rực rỡ trên mẫu áo dài collection 2000 hay một bài thơ Haiku mang đậm tâm t́nh của thế kỷ hai mươi mốt, tại sao không ?

 

Tóm lại, như đă tŕnh bày ở phần đầu, tôi vốn chuộng cái mới, trong đời thường cũng như trong công việc sáng tác. Văn tôi viết, thơ tôi làm, v́ thế, chưa và có lẽ sẽ không bao giờ được định h́nh trong một khuôn mẫu nhất định. Cho đến bây giờ, khi viết những ḍng chữ này, tôi chưa thực sự biết những người đă đọc văn, xem thơ tôi từ mấy năm nay đă có những suy nghĩ ǵ, họ yêu, ghét, đồng t́nh hay phản đối... Hồi âm chỉ mới đến từ những ṿng sóng gần, gia đ́nh, bạn bè, bạn văn. Khen, chê và khuyến khích. Khoảng cách vẫn c̣n xa lắm giữa mắt băo trung tâm và những ṿng sóng ngoại biên. Bạn đọc, mà chân dung « mờ mờ nhân ảnh »...

 

Cổ Ngư

Choisy-le-Roi 02.2001

 

Chú thích:

- La montagne de l'âme - Cao Hành Kiện - Giải Nobel Văn Chương 2000

- Dans ces bras-là - Camille Laurens - Giải Fémina 2000

- Ingrid Cavel - Jean-Jacques Schuhl - Giải Goncourt 2000