Hoà Höơu Töôøng

Nam Dao giới thiệu

 

Đinh Quang Anh Thái, một đồng môn của tôi thời học Trung học Hồ Ngọc Cẩn, từng là một nhà hoạt động xă hội chính trị từ thuở thanh niên, bị tù đầy rồi lưu lạc trong các trại tỵ nạn những năm 80 làm việc hỗ trợ những người vượt biển t́m đất sống, sau giang hồ làm đủ thứ nghề, cuối cùng trở thành nhà báo, và hiện là Phụ tá Chủ nhiệm Nhật báo Người Việt và phụ trách nhà xuất bản Người Việt tại quận Cam.  Tôi xin giới thiệu một bút kư của anh về ông Hồ Hữu Tường.

Thế hệ tôi biết ông Hồ Hữu Tường qua bộ sách Một thuở ngàn năm gồm Phi Lạc sang Tàu, Phi Lạc náo Hoa Kỳ, nghe tiếng ông là ‘’ Đệ Tứ’’, và đọc ông th́ hiểu lơ mơ, biết ông luận thế sự với cái thế cách giễu cợt, lắm khi khá tếu. Nhưng tại sao ông cứ bị bắt từ chế độ này qua chế độ khác. Xin kể một giai thoại:

Khi bị giam trong pḥng giam tập thể, một người tù hỏi Hồ Hữu Tường:

Bác Tường ơi! Thời Tây, thời Ngô Đ́nh Diệm và cả thời này nữa, thời nào bác cũng đi tù. Bác có hiểu tại sao bác cứ ở tù hoài vậy không ?

Hồ Hữu Tường nh́n anh ta, vừa cười, vừa hỏi:

Mày trả lời giùm tao đi, tại sao ?

Anh ta nhanh nhẩu đáp:

Dễ quá mà! Tên bác là “ Hữu Tường” nên bác phải “hưởng tù” dài dài!

Hồ Hữu Tường cười buồn:

Có thể thằng nầy nói đúng!

 

Giai thoại này tôi trích từ http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93_H%E1%BB%AFu_T%C6%B0%E1%BB%9Dng. Đọc, tôi biết ông Hồ Hữu Tường từng tốt nghiệp Cao Đẳng Toán (tương đương Thạc Sĩ ngày nay) ở Pháp, hoạt động chung với những vị như  Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm,Tạ Thu Thâu... Ông từ bỏ chủ nghĩa Cộng Sản vào đầu những năm 40, viết thuyết luận về Kinh Tế - Chính Trị, đề xuất một  chủ nghĩa dân tộc Việt Nam và chủ trương Trung Lập như một giải pháp chính trị cho toàn đất nước.

 

Theo nguồn đă dẫn: Sau sự kiện 30 tháng 4, 1975, Hồ Hữu Tường chưa bị chính quyền mới bắt đưa đi học tập cải tạo cho đến khi ông có sáng kiến là in một tập tài liệu gởi trực tiếp bằng đường bưu điện cho giới lănh đạo Đảng CSVN về nhu cầu bắt buộc Việt Nam phải trung lập trong bối cảnh t́nh h́nh của khu vực Á Châu, vào năm 1978[2]. Khi ông bệnh nặng, khó có thể cứu chữa th́ được trả tự do và mất vài ngày sau đó (26 tháng 6 năm 1980) tại Sài G̣n.

    Phải nói, qua tiểu sử ông, tôi chẳng thể h́nh dung được con người Hồ Hữu Tường. Cho đến khi được đọc bài bút kư của ĐQ Anh Thái th́ Bác Năm mới thành một con người có da có thịt, đầy trí tuệ, và nhất là có một tấm ḷng son sắt  với nước non.  Từ đó, Bác Năm đối với tôi không chỉ là một Phi Lạc thông minh tếu táo nữa.

Bác măi măi là một tấm gương sáng cho những người c̣n biết yêu quê cha đất tổ và tin vào một tương lai tươi đẹp.

 

Tháng Giêng nhớ bác Năm Tường.

 

Đinh Quang Anh Thái

 

 

Tháng Giêng năm 1979, trại giam T 20 Phan Đăng Lưu ồn lên những lời đồn đăi là cộng sản Tầu đang động binh ở vùng biên giới mạn Bắc để đánh cộng sản đàn em Việt Nam. Tù nhân trong trại x́ xầm bàn tán. Người th́ hy vọng là t́nh h́nh sẽ sớm thay đổi để thoát cảnh cá chậu - chim lồng; người th́ quan ngại là Tầu mà thắng th́ đất nước sẽ c̣n bi đát hơn; người th́ rửng rưng phản ảnh tâm trạng chẳng c̣n trông mong ǵ nữa. Dù sao, th́ những tin tức chẳng có ǵ là chính xác lọt từ bên ngoài do những người mới bị bắt cũng giúp đời tù bớt nhàm chán, phần nào quên đi những đói khát, ghẻ lở, nóng bức của pḥng giam nêm người như cá ṃi sắp lớp trong hộp.

Trong bối cảnh đó, một số tù ở các pḥng nhận lệnh chuyển trại.

Một buổi sáng tháng Giêng năm 79, kẻng vừa điểm báo hiệu giờ làm việc của trại, các quản giáo trại giam tay cầm danh sách đến từng pḥng đọc tên các tù nhân phải chuyển trại. Không khí ồn lên như một cái chợ. Tiếng “cục tác” vang từ pḥng này sang pḥng khác. Hầu như mọi người ai cũng ngoác miệng kêu lên thành tiếng của loài gà sắp bị đem đi làm thịt . Tiếng kêu truyền từ pḥng này sang pḥng khác nghe như âm thanh của một ḷ sát sinh. Chả là tù nhân gọi những lần chuyển trại là “bắt gà”. H́nh ảnh người ta tḥ tay vào chuồng lùa bắt từng con gà đem đi giết lấy thịt gây ra sự hoảng loạn cho loài gia cầm này ra sao, th́ cảnh của các pḥng giam mỗi khi có lệnh chuyển pḥng, hay chuyển trại y như thế. Người đi ưu tư lo lắng, không biết rồi về đâu, về đâu; c̣n người ở lại th́ bồi hồi buồn bă, v́ không biết ở là nặng tội, hay đi là nhẹ tội.

Từ pḥng 5 khu C 2, tôi và một số người nữa bị chuyển sang pḥng 2 khu A, nhập cùng với tù nhân từ các pḥng giam khác. Chuyến chuyển pḥng lần này giúp tôi rút ngắn được h́nh phạt c̣ng tay 90 ngày v́ tội đánh ăng ten.

Vừa bước chân vào pḥng giam mới, tôi vui mừng v́ gặp lại hai người bạn tù đă cùng ở với nhau những tháng trước đó ở pḥng 5 khu C 1,  là anh Hồ Chánh và anh Nguyễn văn Lịch. Cả hai đều là Cán bộ Xây Dựng Nông Thôn, từng làm dưới quyền của Đại tá Nguyễn Bé ở Trung tâm Huấn luyện Cán Bộ Quốc Gia Vũng Tầu thời trước tháng Tư năm 1975. Và cả hai anh đều pḥ bác Hồ Hữu Tường. Chưa kịp bỏ những vật dụng nhếch nhác của đời tù xuống đất, anh Lịch đă nắm tay tôi kéo về phía góc pḥng và giới thiệu với một ông già mà mới nh́n, tôi biết ngay đó là nhân vật tiếng tăm lừng lẫy Hồ Hữu Tường. Anh Lịch nói, bác Năm, thằng Thái nè, nó tức là thằng Giao mà anh Linh tính đưa đến gặp bác Năm lúc chưa bị bắt đó.

Lời giới thiệu của anh Lịch lôi tôi về cái đêm mưa gió tầm tă ở chân cầu Thị Nghè của những ngày gần cuối năm 75. Đêm đó, tôi đạp xe đến một điểm hẹn để cùng anh Linh đi gặp bác Hồ Hữu Tường. Anh Linh cũng là Cán bộ Xây Dựng Nông Thôn mà tôi đă có dịp quen khi đi sinh hoạt với Đoàn Văn Công Chí Linh do nhạc sĩ Viết Chung cầm đầu. Cái hẹn đêm đó là để t́m đường cho tôi tham gia hoạt động tổ chức của bác Hồ Hữu Tường. Gặp anh Linh, trời vẫn c̣n mưa nặng hạt như muốn phá đường, phá phố. Anh Linh bảo tôi, đêm tối gió mưa thế này mà ḷ ḍ đến nhà bác Năm th́ không an tâm lắm, v́ căn nhà trong ngơ hẻm gần rạp si nê Đa Kao của bác Năm thường xuyên bị công an theo dơi. Thế là chúng tôi chia tay, anh Linh hẹn tôi một dịp khác.

Trước đó, tôi đă nhờ Hồng Anh, một người bạn là học tṛ tiếng Tây Ban Nha của bác Năm để ư dùm tôi mọi động tịnh chung quanh nhà bác, mỗi khi anh đến nhà bác để học. Anh bạn bảo tôi rằng, chắc anh cũng phải thôi không dám đến học nữa, v́ mỗi khi ra vào, công an nơi phường bác Năm ở để ư anh kỹ lắm. Hồng Anh bây giờ làm chủ báo một tờ tuần báo rất thành công xuất bản ở Melbourn bên Úc. Năm 1994, khi tôi sang Úc chơi, gặp lại nhau, Hồng Anh nói với tôi, hú hồn, may mà anh vượt biên sớm, chứ không th́ đă oan mạng v́ vụ bác Năm bị bắt. Tôi không có dịp gặp bác Năm ngoài đời, v́ bác bị bắt trước tôi ít lâu. C̣n anh Linh th́ bỏ trốn đi đâu không biết, mà cho tới giờ phút viết bài này, tôi không biết anh sống chết phương nao.

Bác Năm vóc người có thể nói là hơi thấp, da xanh tái, hàm răng to, chắc và cáu vàng. Hai tai của Bác Năm dài, dầy, trông như tai Phật. Bác Năm nh́n tôi xoi mói. Bác bảo, thằng Thái mày ăn cơm chung với tao và hai anh Chánh và Lịch nghe, để bác Năm mày nói chuyện cho mày nghe.

“Bác Năm mày”, cách nói thân mật, xuề x̣a đặc thù của người miền Nam.

Bữa ăn chung đầu tiên, nh́n bác Năm đưa tô canh chung của cả bốn người lên húp, tôi thương bác quá đi thôi. Cái tô nứt nẻ, được vá chằng vá chịt bằng mủ ny lông, chứa một thứ nước lỏng bỏng với vài lát bí đỏ nhạt thếch. Tôi nói đùa với bác mà muốn ứa nước mắt “đời bác Năm te tua y như cái tô phải không bác”. Ông già cười bảo tôi, người ta gọi bác Năm mày là Hồ Hữu Tù mà, thời nào bác Năm mày cũng đi tù, tù Tây, tù Quốc gia, tù Cộng sản.

Ba ngày ở pḥng 2 khu A trước khi chuyển sang trại giam T 30 Chí Ḥa, bác Năm đem bàn cờ thế ra luận cho tôi nghe về thời cuộc và kể diễn tiến việc bác và các đồng chí của bác bị bắt. Bàn cờ thế là hai bên tướng đỏ đen đă lộ mặt. Bên đen, một con tốt đă qua sông chắn mặt tướng, hai xe đen kè ngang hông tướng đỏ, trong khi chân chiếu của mă đen ngay cung tướng đỏ, nên tướng đỏ hết đường lui. Bên đỏ, chỉ cần một nước chiếu xe nữa là tướng đen đi đời. Tới phiên bên đen tấn công, hai xe đen vỗ vào mặt tướng đỏ, tướng đỏ lần lượt ăn lên, nhưng lại bị chốt đen dí xuống. Tướng đỏ thua, không ăn lên chốt đen được v́ lộ mặt tướng đen. Bác Năm giải thích, hai xe đen, một là Việt Nam Cộng Ḥa, một là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Tướng đỏ là cộng sản miền Bắc, c̣n con tốt đen chính là bác Năm và tổ chức của bác Năm. Bác bảo tôi, Việt Nam Cộng Ḥa đă thua ngày 30 tháng Tư năm 75, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đă bị xóa sổ sau khi cộng sản miền Bắc vào Nam, và trong những ngày sắp tới, cộng sản miền Bắc phải nhượng quyền lại cho tổ chức tên là Việt Nam Độc Lập -Thống Nhất -Trung Lập Đồng Minh Hội do bác lănh đạo.

Câu chuyện của bác ly kỳ, hồi hộp như chuyện vơ hiệp Kim Dung vậy, nhưng tôi vẫn nghe.

Về việc bác và tổ chức của bác Năm bị bắt, bác cho biết, ngay khi cộng sản chiếm miền Nam, bác đă in một tập tài liệu của Việt Nam Độc Lập -Thống Nhất-Trung Lập Đồng Minh Hội, rồi gởi trực tiếp bằng đường bưu điện cho tất cả giới lănh đạo Đảng cộng sản, từ Bộ chính trị cho đến các Trung ương ủy viên và Tỉnh ủy các tỉnh. Trong tài liệu, bác nói rơ về nhu cầu bắt buộc Việt Nam phải Trung Lập trong bối cảnh t́nh h́nh của khu vực Á Châu. Ông già khẳng quyết rằng, Trung Lập là giải pháp duy nhất cho Việt Nam, và bác là người đầu tiên của Việt Nam kiên tŕ đeo đuổi lập trường này. Nên, một mai khi t́nh thế bị o ép, cộng sản Hà Nội phải nhượng bộ để chấp nhận Trung Lập th́ họ sẽ bắt buộc phải cậy nhờ đến bác. Bác c̣n lôi trong chiếc túi tù bộ quần áo veste cùng đôi giầy đen và nói rằng, v́ sợ t́nh thế biến chuyển mau quá, không kịp về nhà lấy quần áo mặc trong lễ tiếp nhận chính quyền từ tay cộng sản, nên bác đă nhờ công an chấp pháp về tận nhà bác mang quần áo giầy dớ cho bác. Chính v́ câu chuyện này mà nhiều bạn tù của chúng tôi đă sống với mơ ước có ngày theo chân bác thoát đời tù và dành lấy chính quyền trong vinh quang.

Ba ngày cuối cùng ở trại giam T 20, chúng tôi không được phát chiếu, muỗng chén ăn cơm. Bác Năm bảo, nó hành ḿnh trước khi thả đó. Rạng sáng ngày thứ tư, từng hai người một, chúng tôi bị c̣ng tay đưa ra xe để chuyển trại. Căn cứ vào số lượng thực phẩm là một ổ bánh ḿ mà công an phát cho mỗi người, tôi đoán là chúng tôi sẽ bị chuyển qua một trại giam nào đó rất gần, chứ nếu chuyển xa th́ khẩu phần sẽ từ 3 đến 5 ổ bánh, và được phát cả nước uống nữa. Kinh nghiệm tù giúp tôi đoán như thế.

Quả thật, chúng tôi đến trại giam T 30 Chí Ḥa vào khoảng 9 giờ. Tôi lại may mắn được ở chung với bác Năm cùng hai anh Chánh và Lịch. Tổ cơm chung của bác cháu chúng tôi vẫn thế, vẫn những lần húp canh chung trong một thau nhựa, thức ăn gia đ́nh nuôi th́ phải dè sẻn từng tí một, v́ không biết lần nuôi kế tiếp sẽ là bao giờ.

Một tuần liền, trại giam không phát chiếu, tô muỗng, không cho đi tắm. Cái nóng hầm hập làm mồ hôi tù nhễ nhại, phát điên lên v́ thèm một gáo nước xối lên người. Bác Năm bảo, tụi nó thử ḿnh trước khi thả đó, ráng chịu đựng, đừng chống đối. Bước sang tuần thứ nh́, đúng chu kỳ một năm vài lần trại giam cho tù ăn thịt heo, mỗi người chỉ được một miếng mỡ thịt bầy nhầy bằng đầu ngón tay cái với vài muỗng nước mỡ mặn chát muối, nhưng cũng đủ làm vui đời tù. Hạnh phúc hơn nữa là c̣n được phát chiếu, tô muỗng nhựa, và sướng cực kỳ là được đi tắm. Đời sống trại giam bắt đầu vào nhịp b́nh thường, nghĩa là ngày cơm hai bữa, tuần tắm hai lần, và hầu như không ai c̣n bị gọi lên văn pḥng thẩm vấn nữa, v́ chuyển qua Chí Ḥa là xem như hồ sơ đă xếp lại, án tù bao nhiêu th́ chỉ có ... Lê Đức Thọ biết.

Vậy mà bác Năm vẫn lạc quan như thường. Ông già Cái Răng – Cần Thơ này bảo tôi, tụi nó để ḿnh dưỡng sức trước khi thả đó. Đúng là khẩu khí nghịch ngợm, vui tếu, coi trời bằng vung của nhân vật mơ làng Cổ Nhuế, là tên một trong những tác phẩm của Hồ Hữu Tường. 

Những người tù ở pḥng 9 khu BC Chí Ḥa vào những tháng đầu của năm 1979 chắc hẳn không quên được h́nh ảnh của bác Năm. Ông già có thói quen, mỗi lần đi tắm, lúc nào bác cũng lượm lặt đem lên pḥng những sợi chỉ t́m thấy chung quanh bể tắm. Bác tỉ mỉ nối các sợi này với nhau và đan thành một cái găng tay với năm ngón ḷi ra ngoài. Cái găng  sù x́ đó bác đeo vào tay phải và dùng để ḱ cọ thân thể mỗi khi đi tắm. Tối đến, bác giăng mùng rồi vắt hai bên lên như một cái lều. Đó là giờ bắt đầu bác đem cờ thế ra chơi, rồi bảo hai đệ tử là anh Chánh và anh Lịch đi gọi từng người mà bác đă nhắm trước đến “lều vải” để bác luận thời cuộc cho nghe. Khi bác say sưa nói, hai anh Chánh và Lịch kính cẩn lắng nghe, như nuốt từng lời bác dậy, cho dù câu chuyện đêm nào gần như cũng cùng một nội dung: “bác Năm mày sắp được thả để ra tiếp quản chính quyền.”

Những người trẻ trong pḥng th́ có người v́ tin bác tuyệt đối nên ch́m đắm trong hy vọng vào ngày sẽ “có danh ǵ với núi sông”; có người th́ phân vân lắm, không biết thực hư ra sao. Những người tù thuộc thế hệ ít nhiều đă biết bác Năm th́ dửng dưng, thậm chí có người c̣n xa gần mỉa mai cho rằng bác Năm hoang tưởng, tếu, ngây thơ.

 

Một kỷ niệm tôi cứ nhớ hoài về bác.

Một buổi trưa. như mọi ngày, sau khi cho tù nhân lấy thùng đựng cơm để chuẩn bị cho bữa ăn chiều, công an coiu trại giam khóa  cửa sắt nơi ngăn chia những khu. Hôm đó, không biết v́ lư do ǵ, hơn một giờ trưa rồi mà kẻng báo dứt giờ nghỉ vẫn không điểm. Trại giam th́ không khí vắng lặng như tờ. Bác Năm là người phá tan cái im ắng đó. Bác phán tỉnh bơ rằng, tụi nó rút chạy rồi, anh em cần phải chuẩn bị phá cửa để về. Thế rồi bác Năm bèn triệu tập một buổi họp khẩn với đám trẻ, và bắt đầu phân công thằng này làm việc này, thằng kia làm việc kia để chuẩn bị tiếp quản chính quyền. Bác Năm giao cho tôi nhiệm vu khi ra tới ngoài phải ï huy động xe đ̣ chở anh em tù nhân của trại giam đến tập trung ở sân vận động Cộng Ḥa để chờ nghe lệnh bác. Tôi c̣n nhớ, tôi đùa với bác rằng, trong khi chưa phá được cửa pḥng giam, anh em cần phải bảo vệ bác v́ sợ c̣n thằng công an nào nó căm thù nó xả súng vào pḥng th́ chết. Tôi cùng vài anh em khác đến ngay chỗ chứa các thùng nước của toàn pḥng, nơi có bức tường si măng cao tới đầu gối, rồi cả đám chuyển các thùng nước để có chỗ làm nơi ẩn trú cho bác Năm. Tôi vừa làm vừa cười v́ biết là ḿnh đùa, c̣n những anh em khác, tâm trạng họ ra sao quả t́nh tôi không rơ. Ba giờ, sinh hoạt toàn trại trở lại b́nh thường, công an lên mở cửa từng pḥng để cho lănh cơm. Không biết lúc đó ông già Năm của tôi nghĩ ǵ.

Ra khỏi tù vào cuối năm 83, hơn hai tháng sau tôi vượt biên v́ bị công an đến nhà bắt lần nữa nhưng may quá, chúng bắt hụt! Đến Mỹ, tôi có dịp gặp nhiều người cùng thế hệ bác Năm và có người là bạn bác Năm. Nghe tôi kể những kỷ niệm trong tù với bác Năm, những chú bác này cười và bảo, Hồ Hữu Tường giả mù sa mưa để cho cộng sản nghĩ rằng ông không c̣n minh mẫn nữa và đánh giá thấp ông; chứ phải nói cho đúng, Hồ Hữu Tường là một trong những trí tuệ lẫy lừng của Việt Nam và từng ngang dọc trong suốt chiều dài lịch sử tranh đấu cận đại của đất nước ḿnh.

    T́m đọc những tác phẩm của Hồ Hữu Tường và những cuốn sách của các tác giả khác nói về bác Năm, tôi thấy rằng, quả thật, bác Tường đă để lại rất nhiều di sản cho Việt Nam trong lănh vực văn hóa cũng như trong công cuộc đấu tranh cho tự do-hạnh phúc của dân tộc ḿnh. Chứ không như h́nh ảnh bác Năm mà tôi từng hiểu không đúng thời gian ở các trại tù cộng sản.

    Đêm cuối cùng trước khi bác Năm và hai anh Chánh và Lịch bị chuyển trại, bác cầu cơ xem mọi việc sẽ ra sao. Từ bé, đây là lần đầu tiên tôi dự một buổi cầu cơ. Bác Năm dùng một mảnh gỗ nhỏ lượm được lúc đi tắm vào buổi sáng để làm vật cầu cơ. Tôi thề là không thấy ǵ lạ hết, nhưng bác bảo cơ linh lắm, cơ đang chạy và cơ nói là sắp có biến chuyển đến nơi rồi. Không khí ban đêm ở trại giam như rờn rợn khi bác nói cơ là vong người chết ngay chỗ bồn chứa nước ở trung tâm trại giam.

Cơ linh thật!

    Sáng hôm sau, một buổi sáng tháng Sáu năm 79, bác Năm và hai đệ tử cật ruột bị bắt cùng vụ là Hồ Chánh và Nguyễn Văn Lịch bị gọi tên chuyển trại cùng với một số tù nhân của các pḥng giam khác. Giờ phút chia tay, bác Năm nói với tôi, chắc chắn là tao được thả để tiếp quản chính quyền, kỳ nuôi sắp tới, mày sẽ nhận được quà của bác Năm gái mày, mày nhớ coi kỹ hũ mắm ruốc, sẽ có tin tao gởi vào.

Đó là lần cuối tôi nh́n thấy bác Năm Tường. Bác bị chuyển đi lao động ở trại giam Hàm Tân. Sau này, khi được thả ra khỏi trại giam Chí Ḥa vào năm 84, tôi được tin bác đă mất hai năm trước. Anh em bạn ở trại giam Hàm Tân được thả về nói với tôi là bác Năm bị đau nặng, công an đưa bác về nhà, xe bị lật trên đường, bác được đưa vào nhà thương chữa trị, rồi đưa về nhà.  Bác Năm vĩnh viễn ra đi với sự chứng kiến của bác Năm gái. C̣n anh Chánh và anh Lịch th́ đă gần 20 năm rồi, tôi không biết tin ǵ về hai anh.

     Bác Năm không c̣n nữa. Nhiều người cùng tù với bác cũng không c̣n nữa. Bác Nguyễn Tiến Hỷ, chú Vũ Hữu Bính chết sau khi được thả. Bác Thái Lăng Nghiêm qua Thụy Sĩ mới chết. Anh Nguyễn Đan Quế th́ bị tù nhiều lần nữa v́ cương quyết chống lại cường quyền, hiện đang sống ở Sài G̣n nhưng bị quản chế tại gia rất gay gắt. Anh Đoàn Viết Hoạt th́ đang tỵ nạn trên đất Mỹ và vẫn nhiệt huyết như ngày nào. Những người nói trên và nhiều người nữa cũng như bác Năm Tường, cả một đời tận tụy mà vẫn chưa nh́n thấy một Việt Nam tươi sáng.

    Ất Dậu sắp hết. Bính Tuất đang ngấp nghé trước cửa. Lại thêm một cái Tết xa quê nhà. Mấy hôm nay, thời tiết ở Quận Cam gió hiu hắt lạnh khiến tôi nhớ quá đỗi những cái Tết trong tù.

    Viết những gịng này, cháu nhớ thương bác vô cùng bác Năm ơi! Thương bác những ngày nghiệt ngă trong trại giam, bưng chén canh chung lên môi nuốt cùng bao nỗi cay đắng khổ cực của một phận người suốt đời mưu cầu cái chung cho dân tộc

./.