Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng và Chuyện một Chiếc Cầu Đă Gảy
Du Tử Lê
Nh́n lại toàn cảnh 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam, người ta thấy rằng, nó không chỉ được đánh dấu bằng sự xuất hiện của những tạp chí văn học khởi nguồn vào khoảng giữa thập niên 1950. Nó c̣n được ghi dấu bằng nhiều chính sách đăi ngộ văn nghệ sĩ của chính quyền thời đệ nhất Cộng Ḥa nữa.
Một trong những chính sách đăi ngộ văn nghệ sĩ đó, là quyết định của chính phủ cho phép một số văn nghệ sĩ gia nhập hàng ngũ quân đội, được đồng hóa một cấp bậc nào đó, tùy theo bằng cấp hoặc tên tuổi của họ.
Tới giờ, nhiều người vẫn c̣n nhớ, các nhà văn như Đỗ Tốn (tác giả Hoa Vông Vang), Nguyễn Mạnh Côn, Thanh Nam... Hay các nhạc sĩ như Ngọc Bích, Anh Bằng, Đan Thọ, Nhật Bằng v.v... khi gia nhập quân đội, họ đă được đồng hóa nhiều cấp bậc khác nhau...
Tất cả những văn nghệ sĩ này đều phục vụ tại Nha Chiến Tranh Tâm Lư, thuộc Bộ Quốc Pḥng, tiền thân của Cục Tâm Lư Chiến sau này.
Khi Nha Chiến Tranh Tâm Lư trở thành Cục Tâm Lư Chiến, cơ quan này không c̣n trực thuộc Bộ Quốc Pḥng, mà nằm trong hệ thống Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH.
Ở Nha Chiến Tranh Tâm Lư, các văn nghệ sĩ được điều động về một trong hai nơi, đài phát thanh Quân Đội, hoặc Nguyệt San Chỉ Đạo.
Nguyệt San Chỉ Đạo ban đầu do nhà văn Nguyễn Mạnh Côn trông nom.
Chính nguyệt san này, bằng vai tṛ chủ bút của ḿnh, nhà văn Nguyễn Mạnh Côn đă đăng truyện ngắn đầu tay của nhà văn Duyên Anh, truyện ngắn “Con sáo của em tôi,” trước khi tác giả này nổi tiếng.
Cũng từ nguyệt san Chỉ Đạo (với thời gian được đổi tên nhiều lần như Phụng Sự, Tiền Phong...) đă là diễn đàn giới thiệu tác phẩm của các nhà thơ như Phan Lạc Tuyên, Mạc Ly Châu, Tường Linh...
Riêng nhà văn Thanh Nam được đưa về đài phát thanh Quân Đội, làm biên tập viên cho đài này.
Cùng với nhạc sĩ Ngọc Bích, nhà văn Thanh Nam là đồng tác giả ca khúc “Suy tôn Ngô Tổng Thống” (Thanh Nam phụ trách phần viết lời).
Hai ông được tổng thống khen ngợi và hỏi có muốn xin tổng thống điều ǵ chăng?
Nhạc sĩ Ngọc Bích, từ cấp bậc Trung sĩ, xin được thăng Thượng sĩ. Nhà văn Thanh Nam xin được chính thức giải ngũ, trở lại đời sống dân sự với nghề viết báo.
Chính sách ưu đăi văn nghệ sĩ bằng cách cho đồng hóa một cấp bậc nào đó, khi tham gia quân đội, chấm dứt vào khoảng cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960.
Lư do, khi ấy chương tŕnh quân dịch, động viên, bắt lính ở miền Nam được thi hành chặt chẽ. Hầu hết các văn nghệ sĩ, lần lượt bị gọi nhập ngũ.
Tiếp tục truyền thống ưu đăi văn nghệ sĩ, những nhân vật đứng đầu Cục Tâm Lư Chiến sau này, như các đại tá Vũ Quang, Cao Tiêu cũng đă xin nhiều văn nghệ sĩ về phục vụ đơn vị của ḿnh, ngay khi họ vừa tốt nghiệp ở các quân trường.
Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng nằm trong số những văn nghệ sĩ được tuyển dụng về phục vụ Cục Tâm Lư Chiến, năm 1966, pḥng Văn Nghệ - Mặc dù ông không hề quen biết, hay chạy chọt vận động như một số trường hợp khác.
Tính khí hay bản chất của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng cũng được ghi nhận là một trong những trường hợp ngoại lệ.
Tính theo đa số th́ bản chất văn nghệ sĩ thường là những người có cái “tôi” lớn hơn b́nh thường. V́ vậy, họ ưa chống đối, bất phục tùng, nói nhiều (thường là nói về ḿnh) và khi hứng lên, họ bất cần đời.
Không biết có phải v́ có một thời gian dài là một giáo viên (ông tốt nghiệp trường Sư Phạm Cấp Tốc Saig̣n năm 1958), hay bản chất tự trọng, không muốn ai nói năng, rầy rà ḿnh hay không (?)- - Mà, suốt thời gian trong quân đội, tùng sự tại pḥng Văn Nghệ cùng với nhiều văn nghệ sĩ khác, như các nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, Phạm Minh Cảnh, Anh Việt Thu, nhà thơ Phạm Lê Phan... Trầm Tử Thiêng luôn lặng lẽ làm tṛn bổn phận của ḿnh.
Thời gian này, ông cũng giới hạn sự giao du, đàn đúm với những nghệ sĩ cùng pḥng.
Những khi ra khỏi cổng trại Cục Tâm Tâm Lư Chiến, người ta cũng ít thấy ông la cà tại một số địa điểm tập trung nhiều ca nhạc sĩ, như các nhà hàng Thanh Thế, Kim Sơn, hoặc Kim Hoa...
Thời gian phục vụ quân đội của Trầm Tử Thiêng tương đối ngắn, khoảng hơn 4 năm. Nhưng ông cũng đă để lại cho đồng đội, những người lính, và những người yếu quư nhạc ông, một số ca khúc đáng kể.
Tiêu biểu nhất cho giai đoạn này, của sự nghiệp âm nhạc Trầm Tử Thiêng, là ca khúc “Chuyện một cây cầu đă gẫy!”
Trước biến cố kinh hoàng, được biết dưới tên đơn giản là “Tết Mậu Thân Huế, 1968,” một thành phố tựa mối t́nh đầu của ông, đồng thời cũng là nơi tiếp giáp quê hương Quảng Nam của ḿnh; Trầm Tử Thiêng đă sáng tác ca khúc “Chuyện một chiếc cầu đă gẫy!”
Một ca khúc ra đời từ hơn 40 chục năm trước, nay nghe lại người thưởng ngoạn vẫn c̣n cảm thấy bùi ngùi. Ngay cả khi người nghe không có một chút ấn tượng, hiểu biết ǵ về biến cố ghê rợn ấy.
Có dễ v́ âm điệu của ca khúc được xây trên nền của các câu ḥ, hoặc dân ca Huế, như Nam B́nh, Nam Ai... thích hợp với nội dung, khí hậu của bản nhạc (?)
Đă thế, ông c̣n “vẽ” lại một cách lớp lang, thứ tự như một truyện ngắn cảm động bằng âm nhạc, nên dù ai nghe, cũng khó cầm ḷng!
Ca khúc mở đầu bằng sự nhớ lại những ngày đầu tiên, khi chiếc cầu được xây dựng:
“Một ngày vào thuở xa xưa trên đất Thần Kinh - Người bỏ công lao xây chiếc cầu xinh - Cầu đưa lối cho dân nối liền cuộc đời - Khắp cố đô dân lành vui ca thành điệu Nam B́nh - Niềm vui bao lâu ước mơ giờ trên xứ thơ cầu nối liền bờ - Thỏa ḷng người dân hằng chờ có ngày hẹn ḥ t́nh đẹp như mơ.”
Rồi trải qua hàng trăm năm với mưa, nắng, buồn, vui, những cuộc đời thơ mộng, trưởng thành, qua đi, để bao thế hệ tiếp nối lại được mùa hẹn ḥ, được sống như thi ca trước sự chứng kiến của chiếc cầu nối liền hai đầu tử, sinh đó.
Trong tác phẩm của Trầm Tử Thiêng, chiếc cầu không c̣n là một kiến trúc, một vật thể làm phương tiện nối liền đôi bờ một con sông mà, nó c̣n là chứng nhân t́nh cảm, trung tín nhất của những người ra đi, gầy dựng tương lai, nhưng vẫn không quên lời nguyện thầm, trở về:
“Từng đoàn người dệt tương lai đi nắng về trưa - Dập d́u trong tay chan chứa t́nh thương - Cầu êm bóng xa xa nắng tre rập đường - Áo trắng về trắng cầu quê hương - mỗi lần chiều tan trường - Cầu quen đưa bao chuyến xe - Nhiều khi vẫn nghe buồn vui tràn trề - Âm thầm người đi, người về, trót ghi lời thề ngoài miền sơn khê.”
“Ngày nào cầu đă đưa anh qua phố t́m em - Cầu đă đưa ta sang chỗ hẹn nhau - Cầu tha thiết khuyên anh giữ trọn t́nh đầu - Nước dưới cầu trong veo - Như cuộc t́nh duyên nghèo...”
Thế rồi, bất ngờ, thảm họa xẩy ra:
“T́nh người về giữa đêm xuân chưa dứt cuộc vui - Giặc đă qua đây gây cảnh nổi trôi - Cầu thân ái đêm nay gẫy một nhịp rồi - Nón lá sầu khóc điệu Nam Ai tiếc thương lời vắn dài...”
Nhân nhắc tới ca khúc “Chuyện một chiếc cầu đă gẫy” của cố nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, tôi nghĩ có dễ ít người biết cách đây nhiều chục năm, khi được nhạc sĩ Anh Bằng đồng ư cho hát thử trong băng nhạc Dạ Lan (tiền thân của trung tâm băng nhạc Asia). Nhựt Thanh khi ấy c̣n rất trẻ, đă chọn ca khúc đó để quyết định vận mệnh đời ca hát của ḿnh...
Kết quả, một sớm một chiều, tiếng hát Trường Thanh (tức Nhựt Thanh) được nhiều thính giả đón nhận.
Thời gian đó, Trường Thanh không chỉ là một tiếng hát ăn khách, mà anh c̣n tạo lấy cho ḿnh một trung tâm băng nhạc riêng: Trung Tâm băng nhạc Trường Thanh nữa.
***
“Chuyện Một Cây Cầu Đă Gẫy” là ca khúc viết năm 1968, khi nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng đă 31 tuổi; cho nên, nó không phải là một trong những ca khúc đầu tay của ông. Theo một tài liệu được phổ biến trên mạng Bách khoa Toàn thư mở Wikipedia th́:
“Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, tên thật Nguyễn Văn Lợi, sinh ngày 1 tháng 10, năm 1937, tại Đại Lộc, Quảng Nam, nhưng trên giấy tờ ghi ông sinh năm 1940. Lớn lên ở thôn quê miền Nam, Trầm Tử Thiêng bắt đầu ca hát từ năm lên 10 ở các thôn quê miền Nam Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp từ 1945 tới 1949. Sau đó ông lên Saigon tiếp tục việc học và tham gia hoạt động âm nhạc ở các học đường và các đoàn thể trẻ.
“Năm 1958 ông tốt nghiệp lớp Sư Phạm (1) và bắt đầu đi dạy, đồng thời cũng viết nhạc. Bài Hương Ca Vô Tận được sáng tác trong thời kỳ đầu; nổi tiếng qua giọng hát Thái Thanh.” (2)
Ở tuổi trên dưới 20, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng đă hiến tặng cho đời một ca khúc tuyệt vời, như ca khúc “Hương Ca Vô Tận,” điều này cũng phải là hiếm hoi
Nhưng vào thời điểm cuối thập niên 1950, ông đă dám đưa danh từ riêng - Tên gọi một người con gái vào giữa nhan đề một ca khúc của ḿnh, theo tôi, đó là một chọn lựa cho thấy sự tự tin, đảm lược, chủ tâm làm mới của ông thật đáng khâm phục.
Thật vậy, bởi v́ tính tới tháng 4, năm 1975, trong sinh hoạt âm nhạc của miền Nam Việt Nam, vẫn c̣n một số nhạc sĩ từ chối dùng danh từ riêng trong tựa đề ca khúc của họ.
Không chỉ dùng danh từ riêng là “Hương” (tên thường được dùng cho một phụ nữ,) trong nhan đề ca khúc, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng c̣n lập lại nhiều lần, tên riêng ấy, trong ca từ của ông.
Ngày đoạn mở đầu của ca khúc, người nghe đă thấy ông tha thiết kêu tên “Hương” tới ba lần:
“Hát nữa đi Hương, hát điệu nhạc buồn điệu nhạc quê hương - Hát nữa đi Hương hát lại bài ca tiễn anh lên đường - Ngày đao binh chưa biết c̣n bao lâu - Cuộc phân ly may mắn th́ qua mau - Hát nữa đi Hương, hát để đợi chờ...”
Nếu ở ca khúc “Hương Ca Vô Tận,” Trầm Tử Thiêng/Nguyễn Văn Lợi c̣n cất lên câu hỏi như một khao khát b́nh thường của một người trẻ tuổi, sớm ư thức được thảm họa chiến tranh trên một nửa phần đất nước, qua câu hỏi “Ngày binh đao không biết c̣n bao lâu” - Với cầu mong “Cuộc phân ly may mắn th́ qua mau” - Th́ bước vào ca khúc “Kinh Khổ,” cũng là một trong những ca khúc được sáng tác ở thời kỳ đầu của sự nghiệp âm nhạc Trầm Tử Thiêng/Nguyễn Văn Lợi, đă cho thấy cái nh́n của ông về chiến tranh là một cái nh́n thẳng thắn. Không né tránh. Không lẩn trốn. Một cái nh́n nhân danh Việt Nam, đứng trên mọi chính kiến, mọi chủ thuyết chính trị...
Một cái nh́n mà cả hai phía, có thể cùng không đồng ư.
Cái nh́n của một nhạc sĩ trực diện với một cuộc chiến anh em tương tàn. Một cuộc nội chiến. Một cuộc chiến giữa trắng và đen. Giữa hận thù và thành kiến. Giữa mê muội và ảo tưởng...
V́ vậy, chúng ta không nên ngạc nhiên, nếu sau biến cố tháng 4, 1975, một số ca khúc của họ Nguyễn đă được một bộ phận thuộc chính quyền CSVN, mang về Hà Nội nghiên cứu; như nhà báo Nguyễn Ngọc Chấn đă tiết lộ trong bài viết nhan đề “Trầm Tử Thiêng; Người nhạc sĩ của thời cuộc.”
Trở lại với nội dung của ca khúc “Kinh Khổ,” dù họ Nguyễn sáng tác khi c̣n rất trẻ; nhưng với viễn kiến đi ra từ tấm ḷng nhân bản, bao dung lớn, ông đă sớm cho thấy chỉ một vũ khí t́nh yêu thương chân thật, mới đủ nhiệm mầu đă giải cứu đất nước, giải oan những lời nguyền tồn đọng hằng ngh́n năm qua trên sinh mệnh tổ quốc.
Cũng như ca khúc “Chuyện Một Chiếc Cầu Đă Gẫy” sau này; với “Kinh Khổ’ từ hàng chục năm trước, Trầm Tử Thiêng/Nguyễn Văn Lợi đă “dẫn truyện” bằng h́nh ảnh người Mẹ - Người Mẹ Việt Nam:
“Mẹ ngồi nguyện cầu hằng bao đêm - Lời kinh vọng xa thật êm đềm - Mẹ cầu cho con, vượt qua ngày tṛn - Mẹ cầu cho em tuổi trời xanh c̣n nguyên đừng biến mất...”
Dù cho thực tế:
“Người về một ngày một lưa thưa - Người đi càng đêm càng đông dần - Từng dài âu lo - Từng đêm đợi chờ - Mộng thật cam go - Miễn là mai niềm tin thành nụ cười.”
(Người đi, người về ở đây, xin hiểu đó là sự bước qua vạch phấn phân chia hai chủ nghĩa.)
Và, cũng thực tế hay, khao khát trở thành hiện thực của họ Nguyễn là:
“...Người về một ngày một đông thêm - Người đi càng giây càng thưa dần - Rồi ngày sinh ly - Rồi đêm từ biệt - C̣n lại đêm nay với ṿng tay t́nh yêu người và người.”
Khi t́nh yêu là lời cầu nguyện chung cho cả một dân tộc, một đất nước th́ kết quả đương nhiên sẽ phải là:
“...Lạnh lùng một ngày một qua mau - Lời kinh mù sương mờ trên đầu - Mộng chờ sau đêm - Ngày mai thật lạ - Thù hận anh em bỗng nh́n nhau gọi nhau thật đậm đà (...)Người về một giờ một đông hơn - Người đi càng giây càng không c̣n - Một thời điêu linh - Một phen hoạn nạn - C̣n lại hôm nay những lời kinh t́nh yêu đầy nhiệm mầu.”
Trong một tùy bút về “Thầy Thiêng” (cách gọi thân mật của Khánh Ly dành cho nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng,) đă không quên nhắc lại một số ca từ trong ca khúc “Kinh Khổ” của Trầm Tử Thiêng. Cô viết:
“...Nhạc ông viết thật nhân bản. Đầy t́nh nghĩa. Dù bao nhiêu điêu linh hoạn nạn. Ông vẫn mong có một ngày được ở với “Ṿng tay t́nh yêu người và người.” Dù t́nh người có tiêu hao qua bao loạn ly ông vẫn chờ một ngày “mai thật lạ - “Thù hận anh em bỗng nh́n nhau gọi nhau thật đậm đà.” Mơ ước không thành, ông đành ra đi, ôm theo một khối t́nh quê. Ông tự ví ḿnh như một cậu bé mồ côi. Cố vui cuộc sống nhỏ nhoi. Cố quên ngày tháng lẻ loi để lớn. Để đêm đêm nhớ về Saigon...”
(Trích “Khánh Ly, Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng”)
Về phương diện h́nh thức, nếu ở ca khúc “Hương Ca Vô Tận,” Trầm Tử Thiêng là một trong những nhạc sĩ đầu tiên, đem tên người nữ vào ca từ của ḿnh th́ ở “Kinh Khổ,” ông cũng lại là một trong vài nhạc sĩ đầu tiên, sử dụng quăng ba, chỉ gồm có ba nốt Đô, Rê, Mi để hoàn thành tác phẩm của ḿnh.
Rất nhiều nhạc sĩ cho rằng, một ca khúc thiếu những “cao trào” thường không thể thành công. Kinh nghiệm cho thấy, những ca khúc nổi tiếng, được lưu truyền từ đời này qua đời khác, thường có những quăng cách rất lớn.
Chính nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, sinh thời khi so sánh tác phẩm “Kinh Khổ” của ḿnh, với một vài ca khúc khác, cũng từng nói rằng:
“Đôi khi quăng cách đó là mười ba hay mười bốn quăng. Nó lên tới gần hai bát độ; như ca khúc “Đêm, Nhớ Trăng Saigon,” của Phạm Đ́nh Chương ở phần Coda... Nó là một thách đố lớn cho một ca sĩ có âm vực giới hạn...”
Do đó, theo các nhạc sĩ như Trần Duy Đức, Nguyễn Đức Cường th́ nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng là người duy nhất, tính tới hôm nay, đă gặt hái được sự thành công rực rỡ với một ca khúc trước sau, chỉ dùng quăng ba.
Nhạc sĩ Trần Duy Đức nói:
“Quăng ba của ông, dựa trên thang âm đều đặn của tiếng mơ...”
Phần nhà thơ kiêm nhạc sĩ Nguyễn Đức Cường th́ thêm rằng:
“...Như tôi hiểu, tiếng mơ là phông nền ắt có và đủ của những thời kinh Phật. Nói cách khác, nó chính là trái tim từ bi, yêu thương mở rộng của dân gian. Và cố nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng khi cố ư sử dụng quăng ba, căn cứ trên tiếng mơ này, chắc cũng không nằm ngoài ư niệm ấy.”
***
Ở thế hệ thứ hai của sinh hoạt 20 năm âm nhạc miền Nam, tính từ 1954 tới 1975, nếu có một người lặng lẽ nhất trong mọi sinh hoạt, khiêm tốn nhất trong mọi xuất hiện, th́ có lẽ, đó là nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng. Thuộc thế hệ âm nhạc thứ hai, thế hệ lớn lên từ xương thịt miền Nam Việt Nam, với những chói ḷa của ḍng văn chương Mai Thảo, Nguyên Sa, Vũ Khắc Khoan, Doăn Quốc Sỹ và những ca khúc trữ t́nh của Dương Thiệu Tước, Lê Thương, Phạm Đ́nh Chương, Văn Phụng, Cung Tiến, Phạm Duy, ḍng văn học nghệ thuật từ miền Bắc vượt Bến Hải, vào miền Nam; Trầm Tử Thiêng đă mở lấy cho ḿnh một lồng ngực âm nhạc mới. Những lượng khí trời canh tân, những phần máu thịt thế giới, tân kỳ, đă làm thành một Trầm Tử Thiêng/Nguyễn Văn Lợi của những ca khúc như Hương Ca Vô Tận. Như Kinh Khổ, như Chuyện Một Chiếc Cầu Đă Gẫy.
Những ca khúc mang tên họ Nguyễn xuất hiện đột ngột, rực rỡ, như có một mặt ngây ngất, choáng váng cảm thức, tâm hồn người nghe. Chỉ với tam cung, thay v́ thất cung, chỉ với ba nốt nhạc đô, rê, mi trên thang nhạc 7 bậc, Trầm Tử Thiêng, là người đầu tiên, sử dụng để hoàn tất ca khúc Kinh Khổ. Một ca khúc bất hủ. Ca khúc dựa trên thang âm đều đặn của tiếng mơ. Tiếng mơ, nhịp đập chính của trái tim Phật Giáo hay trái tim dân gian Việt Nam.
Nhưng đâu là chân dung Trầm Tử Thiêng?
Rất ít người có thể thỏa măn câu hỏi từng được cất lên ở cả hai miền Nam-Bắc trong những năm tháng đầu thập niên 60, kéo dài tới giữa thập niên 70.
Rất ít người có thể thỏa măn câu hỏi từng được cất lên trong các cộng đồng người Việt lưu vong ở khắp mọi nơi. Sau khi những ca khúc lớn lao, lồng lộng của họ Nguyễn được những thước băng nhựa chuyển tới những tâm hồn Việt Nam luân lạc như Lưu Vong Khúc Của Người Việt Nam, Có Tin Vui Giữa Giờ Tuyệt Vọng, như Một Đời Áo Mẹ Áo Em, như Hăy Vui Lên Khi Ḷng C̣n Biết Buồn... Hoặc những ca khúc họ Nguyễn viết chung với nhạc sĩ Trúc Hồ, một người trẻ, niềm hănh diện của tuổi trẻ ở hải ngoại.
Đó là những ca khúc như Bước Chân Việt Nam, Bên Em Đang Có Ta, hay Một Ngày Việt Nam, vân vân...
Câu hỏi khó được trả lời một cách thỏa đáng, bởi v́, sau bao nhiêu năm ở quê người, tài hoa và trí tuệ vạm vỡ kia, trái tim bát ngát nhân bản nọ, vẫn là một con người lặng lẽ nhất, trong mọi sinh hoạt, khiêm tốn nhất trong mọi xuất hiện.
Con người đó chính là Nguyễn Văn Lợi, người thầy giáo hiền ḥa một thời với bảng đen phấn trắng. Con người đó, chính là Nguyễn Văn Lợi sinh năm 1937 tại Quảng Nam, với bài hát đầu tiên được phổ biến rộng răi, nhan đề Rồi 20 Năm Sau (Lời của Mẹ) viết năm 1957.
Con người đó, con người Nguyễn Văn Lợi, một tên gọi khác của Trầm Tử Thiêng, trái ngược với bản chất khiêm tốn, ở lănh vực âm giai và trí tuệ, ông lại luôn là kẻ mở đường, xốc tới những cánh rừng tâm linh, nhân bản chưa người khai phá. Con người đó, con người Trầm Tử Thiêng trong Nguyễn Văn Lợi, trái ngược với bản chất lặng lẽ, lại luôn là kẻ gieo ḿnh lên đỉnh đầu những ngọn sóng quê hương, chọn đứng cheo leo trên những đỉnh dốc dân tộc và, tổ quốc.
Như khi thiên tai, khi trận băo Linda, vung lưỡi hái tử thần lên bao nhiêu ngàn đồng bào sống dọc theo ven biển miền Đông Nam tổ quốc Việt, ông đă đứng lên trên mọi ngộ nhận, mọi kiêng cữ, mọi hiểm nguy, để banh ruột phơi gan ông ra, chia sẻ cùng ruột thịt, quê nhà. Trong tinh thần chia sẻ với ruột thịt ở trong tấm ḷng mở ra cùng tận, nghiêng lắng trái tim ḿnh để chia sớt phần nào bất hạnh, Trầm Tử Thiêng viết Quê Nhà C̣n Giông Băo.
Như đă nói, trái tim họ Trầm, là trái tim chọn ở cùng những nhịp đập đất nước. Rung động của họ Trầm là những rung động cùng nhịp với ngọn triều thế sự. Trong nỗ lực đi t́m những ư nghĩa sâu thẳm của một đời người, trong lắng sâu để nghe được hơi thở tương lai, nhịp quay của lẽ tuần hoàn, thấp thoáng trong các nhạc phẩm của họ Trầm c̣n là niềm tin yêu, những tiếng cười của nhịp vui sống. Điển h́nh cho nhân sinh quan đầy tính yêu người và yêu đời này, là ca khúc Hăy Vui Lên (Khi Ḷng C̣n Biết Buồn):
Hăy vui lên khi ḷng c̣n biết buồn! Đời cỏ cây yêu mưa thích nắng, nên xanh thêm lộc mới. Và giọt lệ nhân sinh quư giá như bao nhiêu nụ cười... Cứ vui chơi đến tận cùng vũ trụ - tội t́nh ǵ quanh năm ru rú giam chân nơi hẻo lánh - hẹn một ngày anh em đánh chén say sưa trên Hỏa Tinh - Cứ quay quay theo ṿng cờ thế sự - Như người tù binh năm xưa - nay đă hiên ngang lên Đại sứ - Trở về Hỏa Ḷ nâng ly chếnh choáng, ôm vai từng kẻ thù...
Dơi theo bước chân âm nhạc, khai phá của Trầm Tử Thiêng, từ Việt Nam qua tới quê người, có dễ Trầm Tử Thiêng là một trong số ít nhạc sĩ của chúng ta, đă bắt được nhịp đập cái trái tim thời sự, trái tim đất nước, nên cơi nhạc của ông, lúc nào cũng tươi rói những dự kiện thời sự, và luôn cả những tựu thành tốt đẹp của nhân loại nữa. Nhạc sĩ Anh Bằng từng thán phục họ Nguyễn ở lănh vực này, khi ông nói:
“Trầm Tử Thiêng có một khả năng đặc biệt, hơn tôi rất xa. Đó là khả năng nhậy bén của một nhạc sĩ viết được những ca khúc giá trị cho chiến dịch...”
Riêng tôi, tôi vẫn nghĩ, Trầm Tử Thiêng không chỉ là kẻ viết sử bằng âm nhạc mà ông chính là nhân chứng của từng giai đoạn lịch sử đa đoan, tiêu biểu của đất nước.
Nếu trong âm nhạc, Trầm Tử Thiêng thường là kẻ đứng trong hàng thứ nhất, hàng ngũ dẫn đường hăm hở, nhiệt tâm th́, trong đời sống cá nhân, ông lại là kẻ đ́u hiu, cô quạnh, trong đời sống hàng ngày. Và ông càng đ́u hiu cô quạnh hơn nữa, trong đời sống t́nh cảm của ḿnh.
Rất ít người được nghe ông tâm sự về đời riêng. Những hạnh phúc/khổ đau trong t́nh trường. Phải chăng v́ thế, một người bạn thân cận với ông, đă dùng h́nh ảnh một nhà tu khổ hạnh, như dấu vết nhận dạng con người, đời sống của Trầm Tử Thiêng/Nguyễn Văn Lợi.
Nhưng sự thực không phải thế. Sự thực trái ngược hẳn. Nếu ở mặt quê hương, Trầm Tử Thiêng là kẻ chọn gieo ḿnh lên đỉnh đầu ngọn sóng quê hương, chọn đứng cheo leo trên những ngọn dốc dân tộc; là nhân cách âm nhạc Trầm Tử Thiêng, thứ nhất; th́, trong t́nh yêu, họ Nguyễn lại tự nguyện làm người t́nh thủy chung với những đổ vỡ, những bất hạnh, chia, ĺa,...
Tôi có cảm tưởng như tính thủy chung, ḷng bao dung của họ Nguyễn là nhân cách âm nhạc thứ hai của đời nhạc Trầm Tử Thiêng vậy.
Năm 1970, khi ngồi xuống, trầm ḿnh trong nhát chém t́nh yêu, mang tên hạnh-phúc- chia-ĺa; ve vuốt, âu yếm vết thương của ḿnh ông viết:
Ta nghiêng tai nghe lại cuộc đời - th́ hăi hùng hoàng hôn trờ tới - Ta nghiêng vai soi lại t́nh người - th́ bóng chiều ch́m xuống đôi môi - Đang mân mê cho đời nở hoa chợt bàng hoàng đến kỳ trăn trối - Đang nâng niu cuộc t́nh lộng lẫy - bỗng ngỡ ngàng vụt mất trong tay - Ta khổ đau một đời, để chết trong t́nh cờ - Ta t́m nhau một thời, để mất nhau vài giờ - Bàn tay làm sao níu, một đời vừa đi qua - bàn tay làm sao giữ, một thời yêu thiết tha - Mang ơn em, trao tặng một lần - là kỷ niệm dù không đầm ấm - mang ơn em đau khổ thật đầy - là nắng vàng dù nhốt trong mây - mang ơn trên cho cuộc đời ta - vài vạn ngày gió cuồng mưa lũ - trăm cơn đau, một vầng nhang khói - kéo ta về, về cơi hư vô.
Đó là ca khúc “Tưởng Niệm.” Đó là “kỷ niệm dù không đầm ấm” của Trầm Tử Thiêng. Nhưng nó cũng là tưởng niệm, là kỷ niệm của không ít những tuổi trẻ Việt Nam trong thời điểm chiến tranh đĩ.
Năm 1985, mười năm sau cuộc chia tay với người yêu v́ biến cố 30 tháng 4, năm 1975, họ Nguyễn lại ngồi xuống, lại vuốt ve, âu yếm vết thương ḿnh:
Mười năm yêu em, em thấy đời mộng mị - mười năm yêu em, ta thấy t́nh cuồng si - mười năm yêu em, ta hóa thành chiếc lá trôi theo từng cơn lũ của kiếp sống - T́nh chưa yên vui, bên sóng đời cuồng nộ - chợt đêm chia phôi, ngăn cách một đại dương - nhiều đêm gian nan, ta ngỡ ḿnh sắp đuối - nhưng em, t́nh vẫn hát từ bến chờ - Ôi ta nhớ những đêm nằm mộng biển - hồn ta bay trên đôi cánh reo mừng - giữa cằn cỗi, chợt nghe t́nh xao xuyến - ngỡ môi em thầm đợi những mùa xuân - Dường như trong Ta, em có điều tuyệt vọng - dường như trong Em, ta vẫn đầy hoài mong - Mười năm yêu em cũng sẽ là măi măi - xin em cùng ta hát để nhớ hoài...
Đó là “Mười Năm Yêu Em” của Trầm Tử Thiêng. Cũng như t́nh khúc “Tưởng Niệm,” sáng tác cách đó 15 năm năm, giữa quê nhà, t́nh khúc Mười Năm Yêu Em của họ Trầm, ở quê người, đă lập tức trở thành tiếng hát trên môi, trở thành người t́nh trong tâm tưởng của những người yêu nhạc Trầm Tử Thiêng trong và ngoài đất nước.
Để kết luận, với tôi, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng/Nguyễn Văn Lợi là một tài năng âm nhạc đặc biệt, ông là một trong những nhạc sĩ đă vượt ngoài và, vượt xa giới hạn của lănh vực t́nh khúc.
Du Tử Lê
(Tháng 2, năm 2010)
Chú thích:
(1) Nhà báo Vương Hồng Anh, tức Nguyễn Chí Khả cho biết, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng tốt nghiệp khóa Sư Phạm Cấp Tốc, Saigon. Thời gian đó miền Nam thiếu giáo chức, nên khóa học chỉ kéo dài 9 tháng.
(2) Đầu thập niên 1990, ở quê người, nữ danh ca Thái Thanh một lần nữa, ghi âm ca khúc này trong bộ đĩa “Thái Thanh Hải Ngoại,” do trung tâm băng nhạc Diễm Xưa thực hiện và phát hành.
.............................................................