nam dao
Thương nhớ Hữu Loan
Vào 7 giờ 00 tối 17-03-2010, thi sĩ Hữu Loan đă qua đời tại tư gia ở thôn Vân Hoàn, xă Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, hưởng thọ 95 tuổi.
…người đi, ừ nhỉ người đi thật ( Thâm Tâm). Nhưng với những ai biết Hữu Loan, ông vẫn đấy, sừng sững như một nhân cách, và sau mới là một nhà thơ. Xin chép lại Mầu Tím Hoa Sim, và một bài viết của Nguyễn Duy, để thương, nhớ, và kính trọng một Hữu Loan tưởng đă ra đi, nhưng vẫn c̣n đó, trong ḷng người.
Nhà thơ Hữu Loan và vợ tại nhà riêng ở Thanh Hoá năm 2008.
Màu Tím Hoa Sim
Hữu Loan
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
có em chưa biết nói
khi tóc nàng đang xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đ́nh
yêu nàng như t́nh yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đ̣i may áo cưới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
mấy người đi trở lại
Nhỡ khi ḿnh không về
th́ thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê..
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người em gái nhỏ hậu phương...
Tôi về
không gặp nàng
Mạ tôi ngồi bên mộ con
đầy bóng tối
Chiếc b́nh hoa ngày cưới
thành b́nh hương
tàn lạnh vây quanh...
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi !
Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông thấy nhau một lần
Ngày xưa...
nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một ḿnh
đêm khuya
bóng nhỏ
nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưạ
Một chiều rừng mưa
Ba người anh
từ chiến trường Đông Bắc
được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về
rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
ngỡ ngàng trông ảnh chị
khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chị
Chiều hành quân
qua những đồi hoa sim
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Nh́n áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
" Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chết sớm mẹ già chưa khâu "...
Màu tím hoa sim, tím t́nh trang lệ rớm
Tím t́nh ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
(1949)
Nguyễn Duy
NGƯỜI THƠ BẬN VIỆC LÀM NGƯỜI
Ông là nhà thơ đàn anh, người đồng hương xứ Thanh của tôi, nơi nổi tiếng “địa linh, nhân kiệt”. Ông cũng thuộc lọai “nhân kiệt”, không chỉ là “hào kiệt” mà c̣n là “cùng kiệt”, một thường dân kiệt quệ theo nghĩa đen.
Hồi c̣n ở quê, Đ̣ Lèn, huyện Hà Trung, giáp với huyện Nga Sơn quê ông, tôi chỉ biết ông qua lời đồn và giai thọai. Cha tôi từng đẩy xe thồ suốt những năm 60 thế kỉ trước, từng quen biết với ông Tú Loan, tức nhà thơ Hữu Loan một thời. Có lần cha tôi hỏi, mày đi học có biết thơ của ông xe thồ này không? Tôi nói không, (nhà trường hồi đó không dạy thơ Hữu Loan). Cha tôi nói ông Tú Loan hay chữ lắm, đỗ tú tài Tây, làm quan cách mạng thời khởi nghĩa bốn lăm, thời kháng chiến chống Pháp, làm thơ nổi tiếng, nhưng rồi chỉ v́ cái tính ngang tàng, ngang bướng mà bỏ về làm dân đen, cũng bị bắt chẹt, bị nghèo đói xơ xác, đi thồ đá, thồ dưa, thồ chiếu, đủ thứ…Cha tôi cũng là dân nhà giàu phá sản sau thời ḱ “cải tạo kinh tế” nên rất thông cảm với ông Tú Loan và tỏ vẻ kính nể ông xe thồ này lắm…Cho đến đầu thập niên 70, sau mấy năm làm lính, khi theo học khoa Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội, tôi mới được đọc thơ Hữu Loan. Rồi gần hai mươi năm sau tôi mới được gặp ông…
Thành phố Hồ Chí Minh, một ngày thu năm 1988. Tôi đang điều hành cuộc họp cơ quan thường trú của báo Văn Nghệ, tại trụ sở 43 Đồng Khởi, chợt có người đến t́m gặp, xưng là nhà thơ Hữu Loan, từ quê vào. Lật đật chạy xuống pḥng khách, tôi thấy một ông già hom hem, râu tóc lam nham, áo quần xốc xếch, hao hao giống đười ươi thi sĩ Bùi Giáng, ngồi co một cẳng lên ghế. Cái cách đó, đích thị Hữu Loan rồi, theo h́nh dung của tôi. Tôi ôm chầm lấy ông như người quen thân lâu ngày chưa gặp. Ông nói tuy chưa gặp tôi nhưng có đọc thơ tôi và rất vui mừng v́ xứ Thanh bây giờ có “đứa” làm thơ được như vậy. Ông có thằng con đang làm thợ ở Đồng Nai, vào thăm con, rồi đạp xe đi lang thang thăm những ai mà ông muốn gặp… Tôi xin ông ngồi uống trà, chờ cho tôi kết thúc cuộc họp trong chốc lát nữa. Chừng mười lăm phút sau, tôi trở lại pḥng khách cơ quan, thấy lăo thi sĩ đang nằm thẳng cẳng trên ghế xalông, đầu gối lên cái cặp giả da to đùng, ngáy ngon lành. Chiếc xe đạp lấm láp của ông dựng giữa pḥng khách và cạnh đó có đôi dép nhựa sứt quai.
Tôi gọi cho mấy người bạn văn nghệ, những người sùng bái thơ Hữu Loan. Chúng tôi quyết định đăi ông một bữa trưa sao cho ông thích thú. Hồi đó, ở công trường Mê Linh, trước tượng đức Thánh Trần, có một nhà hàng đặc sản, chuyên các món rùa và rắn. Hỏi, ông có sợ món rắn hổ mang bành không, rắn độc đấy. Ông nói rắn đâu có độc bằng người, người độc “tau” chả sợ, sợ chi rắn độc. Thế là, nhà hàng cho biểu diễn màn múa vờn rắn độc, một con rắn hổ cỡ hai kí, ngóc cổ, bành mang, phun khe khè… Sau đó, rượu huyết rắn, mật rắn, quả tim rắn đập thoi thóp trong cái li nhỏ dành cho ông nuốt sống, và các món khác mà ông gọi chung là một bữa tiệc “hùng vĩ”. Tiếp đến tiệc trà. Chúng tôi ngẩn ngơ nghe ông đọc thơ vanh vách, giọng sang sảng. Một bữa tiệc thơ “dữ dội”, những Đèo cả, Màu tím hoa sim, Hoa lúa, Những làng đi qua … Bài Vè Thanh Hóa “Khu bốn đẩy ra/ khu ba đẩy vào/ muốn chạy sang Lào/ th́ Lào không nhận…” là do ông truyền cho tôi bữa đó. Rồi Hữu Loan kể vắn tắt về những năm tháng ông sống, cả trong kháng chiến, sau ḥa b́nh, và nhất là thời gian cực ḱ gian nan, lận đận ở chính quê nhà, sau khi ông bỏ Hà Nội về làng. Một cuộc đời thật ngang tàng, ngang trái mà cũng thật hiên ngang. Một cuộc đời tất tả, bận rộn. Chúng tôi hỏi, ông bận việc ǵ nhất? Ông thản nhiên: “Bận việc làm người”…
Sau này, tôi đă mấy lần thăm ông tại quê, chuyện đời, chuyện thơ dài dài lắm, nhưng lần gặp đầu tiên năm 1988 ấy để lại trong tôi ấn tượng mạnh nhất. Cũng sau lần gặp đó, tôi có làm bài thơ bốn câu tặng ông mà đến nay mới có dịp chép lại:
THƠ TẶNG CỤ TÚ LOAN
Ngang tàng… ngang trái… nghênh ngang
Hồn sim tím một chiều hoang bên đời
Người thơ bận việc làm người
Một mai thánh hóa lên trời làm sao
Tp. HCM, 19.3.2010
Nguyễn Duy