HAMVAS BÉLA

 

BẢY NHÀ THÔNG THÁI

( Trích tiểu luận triết học Scientia Sacra)

 

Văn bản nói về Con Đường Của Sự Thống Trị có nguồn gốc Alexandria, nhưng thực ra bắt nguồn từ truyền thống Ai cập cổ- He basilike hodos- phù hợp với yoga-radzsa ở Ấn độ, nói rằng, con người trước tiên được sinh ra từ cha mẹ hữu hạn, trong thể xác vật chất nặng nề, trong số phận trần thế; nhưng lần thứ hai chỉ duy nhất được sinh ra từ Cha, theo luật của Bảy Trinh Nữ trong tinh thần và trong linh hồn. Đây là sự tái sinh.

Con Đường Của Sự Thống Trị, hay là yoga – radzsa nói về sự thống trị, chứ không nói về quyền lực. Việc sử dụng từ basiles, hay từ radzsa ở đây, như trong truyền thống cổ, không có ngoại lệ, trong mọi trường hợp chỉ là h́nh ảnh tượng trưng,và trong truyền thống, ở khắp mọi nơi, không liên quan đến cái Tôi cá nhân mà đến con người vĩnh cửu. Vua là linh hồn mang tính chất vua chúa đầu tiên, là linh hồn đầu tiên, mà Tạo hóa tạo ra, để thống trị thiên nhiên. Trong trạng thái cổ của linh hồn người, Adam Kadmon là vị chúa của thiên nhiên, mang tri thức thượng đế.

Hoạt động tinh thần của sự thống trị mọi giá cần tách rời thực hành chính trị của quyền lực. Quyền lực không là ǵ khác, ngoài sự điều hành một cách có hăm phanh đám đông trong thế giới của đám đông, bằng sức mạnh của luật pháp, bằng vũ khí, bằng bạo lực, như nó có thể, như một sự cưỡng bức, là mệnh lệnh của ananké.

Quyền lực là hành động vật chất dữ tợn, trong bản thân nó không có cả ư nghĩa lẫn sự thật. Cần linh thiêng hóa quyền lực trong tinh thần của sự thống trị. Và nếu không linh thiêng hóa, quyền lực vô nghĩa, độc ác, bất công và phi tinh thần. Sự thống trị chứng thực quyền lực: bởi v́ sự thống trị ǵn giữ sự ủy thác cao hơn dành cho thực hành của hành động.

 Quyền lực và sự thống trị nằm trong thiên nhiên vật chất và v́ vậy trong cộng đồng của con người lịch sử chúng không bao giờ trùng nhau: đây là sự khủng hoảng không bao giờ giải quyết nổi của chính quyền và sự thống trị, là một vết thương vô phương cứu chữa.

Khi văn bản nói về vị vua, về basiles, radzsa của sự nhập định, cần hiểu là nói về vị vua của sự thống trị chứ không nói về sự biểu hiện cũng như nhân vật nhân cách hóa của quyền lực trần thế. Nói về tinh thần của vua. Tinh thần của vua không mang gốc rễ vật chất.

Con người ban đầu sinh ra từ các bậc sinh thành hữu hạn: đây là con người thiên nhiên; khi con người tái sinh, chỉ sinh ra từ Cha theo luật của Bảy Trinh Nữ. Sự sinh ra mang tính vật chất cùng lắm mang lại quyền lực, nhưng tính chất vua chúa đích thực: không ngự trị trên quốc gia và dân tộc, mà trên cả thiên nhiên và thế gian.

Đây là điều trước hết cần phải hiểu. Giờ đây có thể nói đến khái niệm bí ẩn Bảy Trinh Nữ.

Số bảy là con số trinh nguyên. Số của Athene Parthenos, Athene Trinh nữ là số bảy. Là bảy nữ thần của  Erekhtheion ở Akropolis. Số của Sophia phái Ngộ đạo (gnostikus) cũng là bảy. Tên Palestin của Sophia là Hohma và số của nàng cũng là bảy. Athene, Sophia, Hohma, Trinh nữ Thế gian- Kore Kosmou- không sinh ra từ mẹ. Sự ra đời theo định luật Bảy không phải sự ra đời từ mẹ; Pallas Athene vọt ra từ đầu cha, thần Zeus. Nữ thần được phôi thai từ tư tưởng, và bước vào thế gian như tư tưởng.

Một chương trong kinh Kabbala có nói đến ư nghĩa tâm linh của bảy chân đựng nến. Tất cả các cây nến tượng trưng cho mỗi một cái Tôi của con người. Cây nến đầu tiên bên phải là thân xác vật chất nặng nề; cây nến thứ hai (được gọi là) thân xác thần kinh; cây nến thứ ba là nguyên tố cổ có trong thân xác, sự vô thức. Từ bên trái cây nến đầu tiên là thân xác khí, cây nến thứ hai là linh hồn, cây nến thứ ba là tinh thần. Ở giữa, đứng giữa hai nhóm ba là cái Tôi thượng đế, tia lửa của Thần, Ngọn lửa bất tử.

Kinh Kabbala nói: sáu cái Tôi ai cũng có. Nhưng cái thứ bảy, tia lửa của thượng đế bất tử không phải trong ai cũng cháy. Và trong kẻ tia lửa này cháy cũng chỉ lập ḷe, ở tận sâu thẳm của con người, chỉ leo lét. Sự nhập định theo thứ tự tước đi từng cái Tôi của con người và khêu gợi tia lửa từ sâu thẳm biến thành ngọn lửa.

Nó giải phóng ngọn lửa nhỏ từ bản chất của Tạo hóa, con số bảy. Đấy là cây nến thứ bảy đứng giữa, h́nh ảnh tượng trưng của bản chất chân chính của con người. Khi con người sinh ra từ luật thứ bảy ngọn nến thứ bảy được khêu cháy.

 

2.

 

Bảy vị thông thái của Hy lạp cổ, từ csiradzsivi của Iran, từ sapta risi của Hindu và từ truyền thống có nhiều nhóm thông thái bảy quen thuộc, mà h́nh ảnh tượng trưng của nó trên trời sao là bảy ngôi sao và bảy hành tinh của cḥm Bắc Đẩu, mang ư nghĩa bảy nơi ở của các nhân vật không tồn tại thời lịch sử.

Bảy vị thông thái là chức vị con người một ai đấy đạt được khi sức lực, ánh sáng, bản chất linh thiêng của thực thể người đă nâng cao vượt hơn hẳn mức độ của người thường, là kẻ đă bùng cháy trong nó ngọn nến thứ bảy. Đấy là thực thể đă tái sinh theo định luật của bảy, là kẻ ngôi sao sâu thẳm nhất, rạng rỡ nhất của con người đă bùng cháy giữa những cái Tôi vật chất, thiên nhiên, khí và những cái Tôi khác.

Bảy không có nghĩa là ngẫu nhiên có bảy vị thông thái tồn tại, không phải là con số tự t́m ra, bởi v́ số bảy đối với kẻ chưa nhập định cũng là một cái ǵ đó, giống như ba và mười, mang ư nghĩa tượng trưng. Trong truyền thống Hy lạp dưới cái tên bảy vị thông thái có mười-mười hai nhân vật cổ được biết đến. Theo truyền thống Ấn độ từng có bảy tổ chức, như thượng nghị viện, trong hàng thế kỷ từng đứng trên cả các nhà nước và các quốc gia, như một hội đồng cao nhất. Các Risi cứ mười hai năm một lần họp nhau lại và đưa ra các quyết định.

Gắn với bảy nhà thông thái trong thời cổ chỉ có nghĩa như sau: như đạt tới một mức độ nhập định cao nào đó. Ở Ấn độ có thời gắn với Hội đồng Thiêng là bảy mươi brahman, và thành viên hội đồng chỉ có thể là kẻ đă nhập định, kẻ phải trải qua một kỳ thi gắt gao. Theo một ghi chép người ta chỉ chọn người đàn ông trên bảy mươi tuổi vào hội đồng, người đó trước tiên phải chứng minh sức mạnh đàn ông của ḿnh.

Nếu đứa con sinh ra từ trinh nữ nhà thờ, người ta đặt nó vào một cái sọt và thả xuống sông. Người ta chú ư đến số phận cái sọt: nếu nước đẩy nó về phía nhà thờ, đứa trẻ sẽ nhận một sự giáo dục đặc biệt và nó được nhập định một cách bí mật nhất. C̣n nếu cái sọt trôi sang bên kia bờ sông, đứa trẻ sẽ thành một kẻ trong đẳng cấp thấp (chandala). Ở Ai cập câu chuyện về Mozes cũng chứng minh phong tục giống như vậy.

Trở thành một trong bảy nhà thông thái có nghĩa là đạt tới mức độ thứ bảy của sự nhập định. Đây là điều mà nhóm Pitago gọi là sự”hoàn thành bổn phận”. Đây là epiphania, sự hoàn thành bổn phận của các sức mạnh thần thánh. Ở mức độ này cần hiểu điều này: con người không mệt nhọc trong sự thực hiện cái Tôi cá nhân: trong sự ưu tư đắm ch́m, trong các thực hành khổ hạnh, trong thiền định, mà nhập định từ hoạt động nhập vào lịch sử và sự sống của nhân loại.

Bảy nhà thông thái là con người”vũ trụ”, con người tham dự vào sự sáng tạo thế gian, như kinh Veda nói”trong sự thêu dệt nên thế gian”. Họ đưa ra lời khuyên cho vua và nhà nước, như ở Ấn độ, Iran, Judea, Ai cập. Sáng tạo ra nhiều bộ luật cho các thành phố và các nhà nước mới, như ở Hy lạp, ở Solo và Bias. Trong các trường hợp nhất định bên cạnh sự thống trị họ c̣n lĩnh lấy cả quyền lực, như Phereküdés.

 Trường học của Pitago không là ǵ khác ngoài việc nâng các học tṛ lên mức thứ bảy của sự nhập định: để thực hiện các khả năng của con người phổ quát được giải tỏa trong việc chữa bệnh, trong khoa học, trong xă hội, trong thi ca, trong âm nhạc, trong tôn giáo và trong sự điều khiển nhà nước.

Trong Đại-Hy lạp những người theo nhóm Pitago muốn thành lập một thượng nghị viện –bảy nhà thông thái như thế, một hội đồng tinh thần phổ quát đứng trên các nhà nước, các dân tộc, các chủng loài, các tôn giáo, là một tổ chức theo một ghi chép Hindu, không bị ràng buộc bởi bất kỳ ràng buộc trần thế nào, và như vậy có thể giải quyết các sự vụ của nhân loại một cách tự do và khách quan.

Theo dấu vết của Pitago, Platon cũng muốn đào tạo một loại người cai trị mang tính chất con người phổ quát: một nhà vua triết gia, kẻ không là ai khác ngoài bảy vị thông thái thời cổ: là tinh thần và là cái đầu của nhân loại.

Ở Ai cập kư hiệu của số bảy là cái đầu người. Trinh nữ Athene vọt ra từ đầu thần Zeus.

Mức độ nhập định mà thời cổ gọi là sự hoàn thành bổn phận, khi tiếp cận con người chỉ có thể hiểu nếu ta hiểu rằng, bằng khả năng nhập định, sau sự sinh ra trong tri thức-noera genesis- linh hồn con người cuối cùng đă thành tĩnh lặng và vĩnh cửu. Quay trở về với cội nguồn: với Tạo hóa. Con người từ bỏ sự sống vật chất, rút vào chờ đợi một cách b́nh thản, lặng lẽ, và khi thời gian của nó đến, nó trút bỏ thân xác vật chất nặng nề, để có thể giải thoát. Đây là sự cô độc b́nh yên kiên nhẫn, tránh xa những đông đúc hỗn loạn và nhu cầu - luân hồi và anake - tránh xa số phận ch́m nổi cá nhân và chung của nhân loại, đây là tiền sảng của trạng thái hạnh phúc đă tinh thần hóa.

Và khi một kẻ nào đó được gọi đi từ niềm hạnh phúc yên b́nh đơn độc, và được yêu cầu quay trở lại trần thế, điều này không thể so sánh với nghề nghiệp của một con người, kẻ mệt mỏi đờ đẫn trong bản năng tăm tối của thiên nhiên vật chất, trong dục vọng cá nhân, trong đam mê rối loạn, trong sự bận rộn, trong các hạn chế , trong sự nghèo nàn tinh thần, trong những đám mây mờ ảo của linh hồn nông nổi và bẩn thỉu. Với một thực thể như thế quyền lực thật quyến rũ và ngọt ngào. Bởi v́ càng quyền thế, càng có thể thỏa măn nhiều hơn các đam mê, các bản năng các dục vọng. Con người này đi từ dưới lên và đạt tới quyền lực như vậy.

Những kẻ đă nhập định đi từ trên xuống. Quyền lực không quyến rũ kẻ đă nhập định. Kẻ nào đă thắng được sự thống trị, với kẻ đó quyền lực là gánh nặng. Họ không vui ḷng từ bỏ sự đơn độc yên b́nh. Họ không sẵn ḷng quay trở lại thế gian của hỗn loạn và nhu cầu. Nhưng khi quay trở lại, họ gánh lấy quyền lực, bởi điều khiển nhân loại sống trong thiên nhiên vật chất chỉ có thể bằng sức mạnh của quyền lực, họ hoàn thành sứ mệnh từ ư thức trách nhiệm và nghĩa vụ hướng về nhân loại.

Sự thực hành quyền lực ở họ không là đam mê, không là giấc mộng và mục đích công danh, mà: là nghĩa vụ nghi lễ. Truyền thống Hindu gọi là karma. Một dạng chuộc tội mang tính tôn giáo. Không với con người mà với Thượng đế. Con người sau khi thoát khỏi số phận, một lần nữa nhận lấy nó một cách có ư thức. Một cách thận trọng, từ xa, từ quan điểm kết án một cách thản nhiên và hành động. Không có sự thiên vị. Không có tốt-xấu cá nhân, dân tộc, giống loài.

 Chỉ một nỗ lực duy nhất: Đấng Hóa công sẽ làm ǵ trong vị trí của nó. Nó làm điều đó. Nếu dân chúng không hài ḷng, hoặc nó nhún vai rồi bỏ đi, hoặc nói như sau: cần phải làm như thế, không có sự khoan nhượng, cần phải làm đến cùng. Tinh thần của những kẻ lập pháp thời cổ: Menes Ai cập, Manu Hindu, Minos Kréta, Chamuragga Babilon Hoàng đế Trung Quốc như thế, như thể các bóng ma đến từ bầu thiên hà, họ không nh́n thấy ǵ hết, không muốn thấy mà chỉ muốn sự thật.

Đấy là tinh thần của luật pháp- thứ không nhân loại, không cắt rời, không mềm yếu. Mà c̣n cao hơn nữa. Nhà thông thái đă đi xa, nhưng nếu quay trở lại đời sống một lần nữa, tự gánh phần như một nạn nhân, nhưng cùng lúc cũng gánh chịu hậu quả một cách hoàn hảo, không bỏ sót, không sai lầm, giống như con người tuyệt đối: homo aeternus.

 

3.

 

Để hiểu tác phẩm vĩ đại của sự nhập định không ǵ bằng ví dụ về bảy nhà thông thái. Sự nhập định trong đời sống con người mang ư nghĩa quyết định duy nhất. Là tác phẩm lớn, những kẻ giả kim gọi là magnum opus, c̣n có tên là sự tạo dựng con người tinh thần, một phức tạp bất tử, lâu dài, khó khăn và thượng đẳng. Sự nỗ lực tương tự điều này nhân loại thời lịch sử chưa biết đến.

Bản chất thực sự của con người, nói theo ngôn ngữ của những kẻ giả kim, vứt vào ḷ nung chảy: sống-chết, bằng những quyết định không rút lại- để-một lần nữa bằng ngôn ngữ giả kim- vàng chảy ra từ nó. Vàng không là ǵ khác ngoài tia lửa bất tử, Ngọn Lửa thứ bảy, cái Tôi thần thánh. Không kể, công việc này duy tŕ hàng tháng hay hàng năm trời, cần từ bỏ, cần đặt bản thân hoàn toàn dưới sự dẫn dắt của người thày nhập định, cần tách rời khỏi gia đ́nh, cần duy tŕ tiếp sự mặc tưởng khổ sở và nguy hiểm, cần cố gắng đến một mục đích duy nhất và chỉ được phép nh́n thấy một mục đích mà thôi.

Giống như từ các lĩnh vực của truyền thống, ở đây cũng cần hiểu ư nghĩa tượng trưng của lời giải thích. Toàn bộ các h́nh ảnh tượng trưng không thể t́m thấy trong một truyền thống duy nhất. Trong thời cổ mọi bằng chứng cho thấy ở Ấn độ, Trung Quốc, Ai cập, thậm chí ở Peru, Yucatan và Mexico từng có đầy đủ một tri thức hoàn chỉnh.

 Các kiến thức của các vị thần hộ mệnh truyền thống ở Ai cập chắc chắn có nhiều hơn các kiến thức phổ quát trên nền tảng sự dẫn nhập về thời cổ. Việc giảng dạy về truyền thống trong thời nay giống như những cái khác, đều chỉ là vỏ bên ngoài. Muốn có một h́nh ảnh tổng thể toàn diện chỉ bằng cách thu thập các nguyên tố của sự thống nhất thời cổ của nhiều dân tộc, tôn giáo. Và ở đây luôn luôn có sự đe dọa là con người phân tích, hiểu một cách sai lầm về những phần nào đấy, làm méo mó hoặc giải nghĩa sai chệch.

Có một sự việc chắc chắn: Dưới cái tên bảy nhà thông thái ẩn dấu bảy mức độ nhập định. Và bảy mức độ c̣n có nghĩa bảy lần xa rời linh hồn Thần của linh hồn con người sống trong thiên nhiên vật chất. Đây là sự cắt nghĩa về bảy cây nến Kabbala: buổi ban đầu Thượng đế tạo ra linh hồn con người, ra tia lửa bất tử, ra cái Tôi vĩnh cửu. Tất cả cái mà con người mang trên nó, chỉ là tấm chăn phủ của cái Tôi, hoặc là tia chiếu, là sự mờ mịt, tính chất bị vật chất hóa của nó.

Sau khi ra khỏi đời sống, những tấm chăn này tan ra, các tia chiếu tắt. Trong quá tŕnh ngụp lặn ở thế giới bên kia từ từ các lớp vỏ rơi khỏi thực thể người, bởi tất cả đều hữu hạn: chỉ cái Tôi vĩnh cửu quay trở lại với Tạo hóa. Khi kẻ học tṛ đi trên con đường nhập định, gần như nó cũng cần đi lên các bậc thang như linh hồn sau cái chết. Đây là sự nguy hiểm vô biên của sự nhập định, rằng con người chỉ có thể hồi sinh nếu trước đấy, chết. Cần phải bước qua ngưỡng cửa của cái chết, và cần phải chịu đựng sự chết.

Ở Ai cập cái chết nghi lễ mang một ngoại h́nh đáng sợ. Sau sự chuẩn bị cần thiết người ta khóa người học tṛ vào nhà mồ và tác động một cách nhân tạo để người học tṛ trải qua việc bước qua ngưỡng. Huyền bí Mithras và Eleusis là một h́nh dạng mờ nhạt của sự nhập định thời cổ.

Tia sáng đầu tiên của tia lửa bất tử là tinh thần, tia sáng thứ hai là linh hồn. Tinh thần và linh hồn cùng tia lửa sống cùng nhau trong lớp chăn phủ cơ thể khí. Đây là cơ thể khí mà con người bước ra khỏi trong khoảnh khắc chết đi và bắt đầu dấn thân vào thế giới vô h́nh.

Kẻ nhập định cần nhận biết riêng rẽ tính chất của tinh thần, tính chất của linh hồn và tính chất của cơ thể khí. Cần nhận biết riêng rẽ về chúng, như Veda nói: không phải cái này, không phải cái này. Cần phải học để đừng nhầm lẫn tinh thần với bản chất thật của linh hồn, và đừng nhầm lẫn đồng nhất chúng (adhjasa).

Không phải cái này, không phải cái này- chỉ có nghĩa như sau: cái Tôi thật sự của tôi không phải cái này. Cái Tôi thật sự vượt qua các chất lượng, h́nh dáng, là thứ không nắm bắt được, không thể hiểu được, vô h́nh. Nhưng đấy là ai, kẻ nào là hiện thực chân chính để so với nó tất cả chỉ là maja- phép thuật, ảo vọng, các lớp vỏ, các lớp chăn phủ.

Từ đời sống trần thế có vẻ như cái Tôi thật sự này xa vời nhất? Tại sao? Bởi v́ sự sống trần thế là phép thuật và đời sống trần gian chỉ là một giả tưởng (adhjasa). Con người trần thế đồng nhất chính nó, bởi sự bắt buộc và bởi các nhu cầu (anake), nó đồng nhất chính nó với thân xác vật chất nặng nề, với thiên nhiên, với thân xác thần kinh, với kư ức vô thức, với thân xác khí, với linh hồn, với tinh thần. Cho dù tất cả những điều này chỉ là gánh nặng. Kẻ nhập định cần nhận biết tất cả những sự nhầm lẫn này. Cần phải hiểu, cái Tôi thật sự gần nhất. Cái Tôi thật sự chính là nó.

Nhận thức không phải là một hoạt động b́nh thản, phi cá nhân, vô lợi ích, mang tính chất lư thuyết hay quan điểm, mà là sự nỗ lực ở mức độ cao nhất của toàn bộ sức mạnh. Mọi tầng, lớp, mọi chăn phủ, và trên ngưỡng của của mọi cái Tôi đều có một sự bảo vệ. Sự bảo vệ này là Daimon. Daimon là thần hộ mệnh.

Các vị thần hộ mệnh theo truyền thống cổ được lấy tên từ các tinh tú. Không ngẫu nhiên. Con người từ bảy tầng rơi ch́m xuống sự sống vật chất, và cần thanh lọc bảy ṿng để quay trở lại. Bảy ṿng này trong vũ trụ cần phù hợp với bảy ṿng của các tinh tú. Chiêm tinh học nằm trên nền tảng này. Nhưng vũ trụ và linh hồn con người không tách riêng biệt.

 Sự tạo dựng vũ trụ xảy ra trong tim con người- một văn bản Hermes nói vậy. Mặt Trăng là thân thể vật lư (phüsikon) Merkus (sao Thủy) là tri thức và sự phát minh (hermeneutikon) Vệ nữ là thân thể của linh hồn (epithümetikon) mà người Hindu gọi là prana, Mặt trời là sự nhận thức (aisthétikon) Mars (sao Hỏa) là sức mạnh đời sống ( thümikon) Jupiter (sao Mộc) là sự hành động (praktikon) Saturnus (sao Thổ) là tư duy và quan điểm (theoretikon, logistikon)

Việc thanh toán, việc nhận thức và tinh thần hóa ba tầng đầu tiên: thân xác nặng nề, thân xác thần kinh và cái vô thức là những nhiệm vụ dễ. Ba tầng này lỏng lẻo, giống như áo quần, gắn với sự sống trần thế, và cái chết sẽ làm tan nó ra từ con người. Nhưng việc thanh toán nó cũng không dễ dàng.

 Người thày cần sự cẩn trọng và chú ư vô bờ bến để có thể theo rơi đường đi của người học tṛ. Mọi bước đi cần phân tích, bằng giải mă giấc mộng pḥng ngừa trước. Con người như khi sống trên trần thế, chỉ là prima materia. Đây là con người tự nhiên với những nguyên tử hỗn loạn trộn lẫn trong nó.

Bản thân người thày cũng không biết có ǵ ẩn dấu trong nó. C̣n người học tṛ đợi nhập định tất nhiên biết càng ít hơn. Nhưng thời cổ đă t́m ra một phương pháp không thể đánh lừa để t́m ra bí mật của bản chất ban đầu của con người. Phương pháp này là sự liên quan giữa các khả năng con người và các tinh tú. Nền tảng của sự liên quan này là số bảy.

Đây là bảy cây nến của Kabbala, bảy lần đường mà con người cần tiến hành để biến thành vật chất nặng nề, và là cái cần làm nếu muốn quay trở lại cội nguồn. Chiêm tinh học chỉ ra con đường linh hồn con người đi. Nếu người thày t́m ra con đường này, sẽ có thể nói người học tṛ cần đi con đường nào để quay ngược lại. Nhưng cũng nói cả điều, ở đâu, sẽ gặp thần hộ mệnh nào, ở đâu, cần giao chiến trận đấu nào, cần vượt qua những vực sâu nào.

Chiêm tinh học không đơn thuần chỉ là cá tính học như có thể tin từ tâm lư học hiện đại. Nhân chủng học vũ trụ- trong kích thước khoa học tự nhiên, hay cho dù là khoa học tinh thần đi nữa hoàn toàn vô nghĩa và không thể đạt tới. Chỉ trong mối quan hệ lớn nhất và sâu sắc nhất mới hiểu nổi và không thể thiếu được.

Kẻ nhập định cần làm quen với các daimon của ḿnh để có thể chống trả lại chúng. Cuộc chiến đấu này các huyền thoại nói đến nhiều, và bằng những hoang đường bên ngoài thêu dệt truyền thống. Các huyền thoại thời cổ đầy rẫy các văn bản nói về cuộc chiến giữa linh hồn và daimon.

Nhưng cuộc chiến này không hề mang tính hội họa, văn học hay sân khấu hấp dẫn. Daimon, như ở Ấn độ người ta thường nói, là thiên thần nghiệp của linh hồn, ngăn không cho linh hồn quay lại. Thần hộ mệnh của số phận bắt con người phải sống đời sống theo lệnh của nó. Và nếu ai muốn bỏ trốn, nó trả thù. Huyền thoại đầy rẫy các daimon trả thù.

 Cuộc chiến hoàn toàn bên trong, hoàn toàn vô h́nh và hoàn toàn trải qua từ kỹ thuật phép thuật của sự nhập định. Bản thân các kỹ thuật này dễ gọi tên. Rất dễ, bởi nơi nào trong số phận của ḿnh con người gặp khó khăn, trong mọi trường hợp chỉ duy nhất một thứ cứu được. Duy nhất một thứ: Lời. Logos. Logos hăm phanh daimon. Nó rút lui và buông thả khi Lời vang lên. Nếu người học tṛ nhận ra và đặt tên cho daimon, sẽ thành nô lệ của nó.

Sự nỗ lực một giây lát cũng không hề nh́n thấy. Nó tiếp diễn bên trong, người thày và học tṛ không ai nh́n thấy và không ai biết ǵ hết. Sự  thể hiện quá tŕnh quay vào bên trong, cái nh́n bên trong và sự nhạy cảm là tri thức đầu tiên đánh dấu sự nhập định.

Người học tṛ trước hết cần học: cái ǵ là cái nh́n ra ngoài phủ mất thế giới của Thần; đây là katabazis, là sự từ bỏ thế giới vật chất nặng nề thông qua bảy ṿng vũ trụ, cho đến khi nó xuống đến đất, ṿng tăm tối nhất, nặng nề nhất và bên ngoài nhất, đi vào vật chất, vào sự tăm tối bên ngoài. Đây là sự thất bại, là sự lao xuống.

Cái nh́n ra bên ngoài này trái ngược với con đường Thần của con người, là nhăn quan thứ yếu, hỗn loạn. Chừng nào con người không biết nh́n vào bên trong, anabazis, con đường đi xuống chưa mở ra, nó không thể bước tới.Chừng nào nó chưa biết giải thoát khỏi sự tăm tối.

Một trong những thứ nguy hiểm nhất của các nhầm lẫn (adhjasa) là tưởng nhăn quan bên ngoài là nguyên thủy và tưởng sự tăm tối của thiên nhiên vật chất là sự sáng sủa. Con người đui mù trong những cái bên ngoài đến mức nó không nh́n thấy cái ǵ ở bên trong hết. Bước đầu tiên của người học tṛ là lấy lại cái nh́n nguyên thủy. Trước khi sự nhập định bắt đầu, người học tṛ bằng câu nói của Horus quay sang người thày, Hermes Trismegistos như sau:  „Con đến, để t́m những đôi mắt của con.”

 

4.

 

Truyền thống Hermes gọi bảy ṿng tinh tú là bảy hơi thở của Tạo Hóa (hepta epithümata). Con người biết, bảy hơi thở không là ǵ khác ngoài là bảy nốt nhạc, bảy màu của cầu vồng, bảy bước của sự nhập định, không khó khăn ǵ để hiểu bảy mức độ huyền bí của Mithras trong mối quan hệ này.

Những điều bên ngoài của phép huyền bí Mithras đáng kể, đáng ngạc nhiên như các quá tŕnh nghi lễ của nhập định Ai cập. Bảy cái hang mở ra nối tiếp nhau tượng trưng cho bảy  mức độ. Con đường mở vào bên trong- ngược với hướng thế giới bên ngoài: từ sự tăm tối bên ngoài đi vào ánh sáng bên trong.

Mức độ đầu tiên nhấc người học tṛ từ đất và nâng cao nó lên trong không khí. Đây là bước đầu tiên của niềm cảm hứng ekstazis- Ekstazis có nghĩa là: sự mở rộng ra của ư thức. Trạng thái ở ngoài bản thân, hay c̣n gọi là bước rút ra khỏi cái Tôi vật chất.

Mức độ thứ hai là sự chuyển dời từ không khí vào ṿng quay của các tinh tú. Bước thứ ba, người học tṛ bước ra khỏi ṿng của các tinh tú và đến Sao Bắc Cực. Bước thứ tư do Mặt Trời chỉ lối. Mặt trời là sự sáng sủa của trời. Ở bước thứ năm con người gặp các Trinh nữ- Số Phận đợi đạt đến sự nhập định. Đây là các daimonmoira trong h́nh dáng đàn bà, ở đây người ta t́m thấy nhiều liên quan họ hàng với Athene, Parthenos, Sophia, Hohma, Trinh nữ Thần.

 Ở mức độ thứ sáu linh hồn con người gặp thần hộ mệnh của sao Bắc Cực. Mức độ thứ bảy là mức độ cao nhất của niềm hứng khởi, ư thức hoàn toàn nâng lên và nhập vào thế giới Thần: vào mức độ siêu nhiên của thế giới cao hơn từ sao Bắc Cực. Thần Mithras hiện ra và nhận lấy linh hồn con người quay trở lại. Đấy là sự cứu rỗi.

Bảy bước của phép huyền bí Mithras gần như đồng nhất với bảy cấp độ chiêm niệm Bonaventura thời trung cổ và bảy cấp độ vasistha của yoga Ấn độ cổ, nhưng cũng đồng nhất với bảy lĩnh vực vũ trụ của Jamblikhos và bảy đẳng cấp của sự sống.

Về mức độ đầu tiên không có ǵ để nói. Đây là thế gian vật chất và trần tục. Cái mà linh hồn người nh́n thấy và kinh nghiệm, và cái mà trong đời sống tự nhiên nặng nề ai cũng tự nguyện tin rằng đấy là hiện thực duy nhất,  chính là thế giới của các giác quan: các sự vật , các sự việc, thiên h́nh vạn trạng thể hiện vật chất, có thể thấy bằng mắt, nghe bằng tai, sờ bằng tay.

Mức độ thứ hai sâu hơn. Đây là góc độ tinh thần. Là cái nh́n trí thức. Con người bằng tri thức nh́n thấy mối quan hệ và sự liên quan của các sự vật, sự việc, các hiện tượng giác quan. Khi nó xác định sự giống nhau và khác nhau, lúc đó không bằng các giác quan nữa, mà bằng tư duy tri thức. Tính chất quy luật và sự bất thường của sự vật cũng do tri thức nhận ra. Đây là bậc thang logic, là bậc thang của tư duy tri thức.

Mọi con người, những kẻ không hoàn toàn sống đui mù trong sự tăm tối bên ngoài, đều đạt tới cấp độ thứ hai. Những người suy nghĩ tỉnh táo đều nhận ra mối quan hệ, sự giống nhau, sự khác biệt, và tính quy luật của sự vật, sự việc.

Nhưng đạt đến mức độ thứ ba đă hiếm hoi phi tỷ lệ. Ở đây không phải tri thức thấy nữa mà là cảm giác bên trong. Tiếng Sanskrit gọi là: manas. Guenon dịch từ này ra là sens interne. Nhăn quan bên trong bắt đầu từ cấp độ này. Khi Horus nói: tôi đến để t́m những đôi mắt của tôi- là bắt đầu t́m ở đây.

Cảm giác bên trong thật nhầm lẫn khi đặt tên nó là tâm lư. Manas không chỉ thấy mà c̣n sản sinh ra thường xuyên các h́nh ảnh. Cũng như các giác quan không chỉ là nhăn quan bên ngoài, mà c̣n là ảo ảnh vật chất nữa; tri thức không là ǵ khác ngoài sự sản sinh ra của các mối quan hệ và sự liên kết  nhận thức.

Cũng có lúc- thường xuyên- ở nơi có h́nh ảnh, sự liên kết nhận thức, nhưng tuyệt đối không thấy sự vật đâu. Từ manas (cảm giác bên trong) tràn ngập các h́nh ảnh, như thể nó là trung tâm thường xuyên của giấc mộng và sự tưởng tượng, và từ đây là các ảo ảnh không thể hiểu được, không thể nắm bắt được, như từ một nguồn tuôn chảy không thể dừng.

Nhăn quan từ cấp độ đầu tiên khó tin tưởng nhất. Di sản của các nhà tư tưởng châu Âu cho thấy nhăn quan của các giác quan không mấy gần gũi so với hiện thực. Đây là sự phù phép rành rành của thế giới vật chất, cái mà từ đó không có ǵ đúng.

Mức độ thứ hai đă hiện thực hơn một chút. Tựa hồ như một cái ǵ đó bắt đầu le lói: sự hợp nhất, dự cảm của một viễn cảnh tinh thần trong sạch xuất hiện trong lối tư duy có tri thức. Nhưng bộ năo của con người vẫn run rẩy. Mức độ thứ ba càng hiện thực hơn nữa. Những h́nh ảnh vô nghĩa và phi lư đối với óc tỉnh táo, và các giác quan là chủ nhân thực chất của số phận con người. Bởi v́ quyền lực thật sự từ con người không phải của thế giới h́nh ảnh giác quan, không phải của tri thức, mà là của thế giới h́nh ảnh bên trong.

 Trong thế giới của manas những sự nhầm lẫn khủng khiếp đă xảy ra. Ở đây là những nhân tố phi tư duy, chỉ là các h́nh dạng như trong mơ, khôn lường, siêu nhiên, đồng nhất và biến đổi, những thứ  mà cái Tôi của con người liên tục đồng nhất với chính nó. Những h́nh ảnh của kư ức tồn tại ở đây, không chỉ trong đời sống cá nhân con người, mà cả những kỷ niệm thu thập chung trong đời sống nhân loại.

Các t́nh cảm h́nh thành ở đây chính dưới tác động của những quyến rũ thất thường và các mối ác cảm. Đây là các h́nh ảnh, các t́nh cảm, các bản năng, sự đồng hóa, sự nhầm lẫn dẫn dắt con người vào số phận.

 Tính hiện thực của ṿng manas không thể so sánh  với ṿng của các giác quan hay của trí óc đi chăng nữa. Nó đúng hơn, như giấc mộng đúng hơn lúc tỉnh, như linh hồn đúng hơn so với thể xác. Các h́nh ảnh trong ṿng manas một mặt vẫn c̣n liên quan vật chất đi xuống, nhưng mặt khác đă mang tính liên quan tinh thần đi lên.

 Thiên nhiên vật chất trong manas chỉ là hệ thống của các dấu hiệu để thể hiện và để hiểu chính ḿnh. C̣n cái Tôi bên trong lên án các sự kiện của thiên nhiên vật chất. Bói toán, xem tương lai, ngoại cảm, dự đoán tương lai là ở ṿng này. Ṿng giác quan hoàn toàn mang tính cá nhân; là sự phụ thuộc của cái Tôi cá nhân hoàn toàn.

Ṿng nhận thức đă bắt đầu phổ quát hơn. Ṿng manas trở nên ngày càng phổ quát hơn. Ư nghĩa của các h́nh ảnh bên trong đối với tất cả mọi người đă chung hơn, tổng quát hơn, như h́nh ảnh của giấc mộng và của thế giới tưởng tượng.

C̣n huyền thoại lại càng đứng ở mức độ phổ quát cao hơn nữa. Mức độ thứ tư này so với manas  hiện thực hơn, sâu sắc hơn, sống động hơn. Hiệu lực của thế giới huyền thoại không chỉ lan truyền trong cả nhân loại, mà c̣n trong mọi thời gian và trong mọi mức độ của sự sống.

Giác quan không biết ǵ khác ngoài các đồ vật và các hiện tượng của thế gian vật chất; trí óc không biết ǵ ngoài các liên hệ và tính quy luật của tự nhiên; manas không biết ǵ khác ngoài những kỷ niệm chất nhặt trong đời sống nhân loại và các kinh nghiệm lọc ra từ các kỷ niệm ấy.

Huyền thoại đă vượt qua nhân loại. Nhăn quan huyền bí đă biết đến các con quỷ, các vị thần, các thiên thần, các quái vật, thế giới bên kia, những người âm, các sinh linh chưa sinh ra. Huyền thoại sáng sủa bất tận, thông thái hơn, tỉnh táo hơn, nhậy cảm hơn, so với các giác quan, trí óc hay cảm giác bên trong.

Mức độ thứ năm là thế giới của các ư tưởng và h́nh ảnh ư tưởng. Mối quan hệ của các ư tưởng với huyền thoại giống như nhận thức với kinh nghiệm giác quan. Con người sống trong thiên nhiên vật chất tưởng rằng hiện thực duy nhất là kinh nghiệm giác quan; và họ nhận thức điều này một cách trừu tượng. Con người sống trong thiên nhiên vật chất bằng đường nọ-cách kia thu thập khái niệm về ư tưởng và huyền thoại, họ cho rằng huyền thoại và ư tưởng cũng trừu tượng nốt. Đây là một trong những ví dụ về sự nhầm lẫn điển h́nh cho con người sống trong sự tối tăm bên ngoài.

Nhận thức không là ǵ khác ngoài việc nhận ra và thấu tỏ những nguyên lư, những quy luật cơ bản của thế giới giác quan; ư tưởng không là ǵ khác ngoài nhận thức những nguyên lư và quy luật cơ bản của thế giới h́nh ảnh vũ trụ huyền thoại. Ư tưởng ngoài ra c̣n dẫn dắt cả thế giới h́nh ảnh vũ trụ quay trở lại cội nguồn của nó. Các ư tưởng không phải là các huyền thoại nhợt nhạt, như người ta thường ưa thích nói, mà huyền thoại là các ư tưởng đă tháo gỡ, đậu xuống và đánh mất cường độ của chúng.

 Huyền thoại vẫn c̣n mang tính chất h́nh ảnh trong cái toàn bộ của nó. Nhưng trong ư tưởng, h́nh ảnh đă không c̣n; cái giống như thứ c̣n mang tính h́nh ảnh, trong suốt pha lê là h́nh tượng. Ư tưởng theo quan điểm này, là: h́nh tượng rạng rỡ. So với huyền thoại nó phổ quát hơn, tinh thần hóa hơn, nguyên thủy hơn, cao hơn và sáng sủa hơn.

Mức độ tiếp theo, từ mức độ thứ sáu,  tất cả những ǵ linh hồn người từ năm bậc thang trước kinh nghiệm được trong trạng thái giải tỏa, giờ chỉ nh́n thấy như một sự lơ lửng chậm răi, từ tốn, với những đường nét lờ mờ, rất ít tính chất h́nh ảnh, chỉ như hơi nước trắng bạc run rẩy, sáng hơn hẳn hiện trên bầu trời xanh.

Trong ṿng này mà người ta hay gọi là ṿng thần bí hoặc tiền sảng của tinh thần trong sạch, linh hồn người bằng cú sốc kinh ngạc  nghiệm ra sự tan vỡ của mọi nhận thức. Bởi v́ nhận thức đă trải qua từng bậc thang, dù khó khăn vẫn theo được. Nó hiểu được thế giới của manas, của huyền thoại, của ư tưởng. Nhưng đến đây mọi nhận thức bất lực. Hoạt động song song cùng nhận thức là quan điểm, đến đây cũng bất lực nốt.

Bởi v́ các h́nh ảnh manas, huyền thoại,và  ngay cả trong thế giới của ư tưởng, linh hồn người cũng nhận thức ra và ghi giữ. Nhưng ở đây, trong thế giới Thần, phi nhận thức, phi quan điểm, giữa lơ lửng phi vật chất,  linh hồn đứng ngơ ngác: nó không thấy h́nh thức, tri thức, không hướng xác định, không mục đích, chỉ thấy trong ánh sáng chói ḷa, các thân thể ánh sáng không đường nét, luôn thay đổi và rạng ngời chuyển động nhẹ nhàng và trong suốt.

Ở cấp độ thứ bảy xảy ra điều này. Sự rạng ngời chiếu sáng phi h́nh thức và phi nhận thức: Sự Tuyệt đối. Không thân thể, không h́nh dạng, không chuyển động, bất biến, không nh́n thấu, không cái Tôi, chỉ một sự sống không thể đo nổi từ các cấp độ đă trải, sâu sắc và thấu suốt hơn. Và linh hồn càng tiến sâu vào càng nhẹ đi, càng cảm thấy ḿnh gần nhà hơn, hạnh phúc hơn, tươi tỉnh hơn, lặng lẽ hơn. Giờ đây sau cùng nó đă an b́nh. Trong thế giới Thần nó đă có thể thở ra nhẹ nhơm: trong những tia sáng lơ lửng nó cảm thấy nhà của nó gần hơn.

Giờ đây trong sự sống bất biến tuyệt đối, phi h́nh hài, vô bờ bến, nó biết rằng nó đă cập bến. Giờ đây nó có thể thả nó ra. Và điều kinh ngạc: nó không tan ra. Ṿng tuyệt đối này là một sự sống sâu sắc đến mức không một  tiêu cực nào tồn tại: không có sự tan ra, không có sự biến mất, không có sự hấp thụ. Đây là ṿng, nơi tất cả: . Đây là sự viên măn của sự sống rạng ngời, là an b́nh cân bằng của sự sống trong suốt. Đây là hiện thực tuyệt đối, là cái có từ linh hồn, và là chính bản thân linh hồn.

 

5.

 

Con đường của basileusradzsa không phẳng lặng, đơn giản hay oanh liệt như nền tảng cơ bản của các văn bản truyền thống cho thấy. Bởi v́ khi khái niệm hóa và để lại cho các thế hệ sau, văn bản  không  ghi chép lại tỷ mỉ con đường của nhà vua. Không thể;

Con đường của tất cả mọi người đều khác nhau - trong số phận của mọi con người các nguy hiểm khác nhau đe dọa- các sức mạnh khác sống ở những nơi khác với động lực khác- những cái bẫy bí ẩn gài ở những chỗ khác và những bức tường ngăn cản dựng lên ở chỗ khác.

Chỉ kẻ hiểu con đường biết rằng: chủ thể  có nghĩa là con đường của linh hồn- không là ǵ khác ngoài chính bản thân linh hồn; khi linh hồn tiến lên, nó tiến lên từ bản thân nó; ánh sáng soi rọi con đường là ánh sáng tự thân của linh hồn; mục đích không là ǵ khác, ngoài là chính bản thân linh hồn; và khi đạt đến, nó đă đạt đến chính nó.

Nhưng khó khăn lớn nhất không phải điều này.

Trong các ṿng, trong các vương quốc ảnh hưởng trên con đường, như giác quan, nhận thức, manas, huyền thoại, ư tưởng, trong các thế giới Thần, linh hồn biến đổi, nhận lấy đặc tính và tính chất của các thế giới ấy. Con đường không phải là một sự hành hương, nơi kẻ hành hương luôn luôn và ở khắp nơi cùng là một cá nhân. Con đường là sự hóa thân (metamorfozis); và trong mọi ṿng đều chứa đựng một đe dọa là sự bất lực của linh hồn: linh hồn sau cùng biến đổi, mắc kẹt và đứng lại.

Dấu hiệu đầu tiên của sự đứt đoạn với thế giới giác quan- một văn bản Hermes viết- là linh hồn biến thành quỷ’. Trong thế giới vật chất, nó biến thành vật chất, trong thế giới nhận thức biến thành nhận thức, trong thế giới manas thành h́nh ảnh mộng, trong thế giới huyền thoại biến thành sinh linh daimon. Nhưng đấy cũng vẫn chưa phải đe dọa lớn nhất.

Hiểm nguy lớn nhất, như thời trung cổ người ta vẫn từng biết, „Mi đặt bao nhiêu bước chân về phía Thượng đế, quỷ Santan đặt bấy nhiêu bước chân về phía mi.” Nói theo ngôn ngữ siêu h́nh học: Tất cả mọi bước chân trên con đường dẫn tới ánh sáng đều trích dẫn thêm sự tối tăm sâu đậm hơn nữa.

Người học tṛ sắp nhập định không biết những đáng sợ này. Lời dạy bảo không nói tới. Không thấy ghi chép ở đâu. Không ai nói đến bao giờ. Cũng không thể nói ra, cũng không thể viết ra, cũng không thể dạy dỗ. Đây là tri thức cá nhân của người thày dạy nhập định, bất truyền.

 Người thày mang trên ḿnh số phận của học tṛ, trải qua, thấy thay học tṛ, chịu đựng, xua đuổi ma quỷ, giữ ǵn và bảo vệ. Đấy là điều mà truyền thống nói, người thày là Cha, và khi học tṛ tái sinh, một ḿnh từ Cha, trong tinh thần và trong linh hồn sinh ra một lần nữa.

Các văn bản viết về các mức độ, các tầng, hay về các đẳng cấp và các vương quốc, không viết về con đường của người học tṛ chờ đợi nhập định, mà chỉ tuyên bố ư nghĩa bảy màu sắc, bảy âm thanh, bảy ngày, bảy tinh tú, bảy cây nến của thế gian.

Về, bảy bậc thang cần phải hiểu như thế nào, các văn bản không nói đến. Con người lịch sử, khi có thể đạt tới một cách dễ dàng bảy năm trung học, cảm thấy như bị lừa. Bảy mức độ ở Ấn độ phù hợp với bảy bậc thang trên con đường dẫn ra khỏi cộng đồng người tự nhiên.

Mức độ đầu tiên: chủ gia đ́nh (grihastha) người lập gia đ́nh, công dân, người làm việc trong cộng đồng; mức độ thứ hai là con người đă dâng hiến đời sống cho quyền lợi của một mục đích nào đó (purohita); thứ ba, là kẻ hăm phanh bản chất xác thịt của ḿnh (fakir); thứ tư là người tín đồ rút vào rừng (sannjasin); thứ năm là kẻ hành hương đă tặng lại tất cả tài sản, cắt đứt mọi ràng buộc con người (nirvánis); thứ sáu là kẻ chiêm nghiệm trong bất động hoàn hảo (yogin); thứ bảy là kẻ mà phái Pitago nhận biết như một kẻ đă hiện thực hóa tinh thần của Thần, đă làm tṛn bổn phận, trải qua epiphani, đây là brahmatma.

Phù hiệu của brahmatma là cây gậy tre bảy mấu: bảy mấu là bảy mức độ của nhập định. Việc đạt tới từng mức độ là một nhiệm vụ lớn riêng biệt. Nhưng tất cả mức độ cũng dừng lại trong bản thân nó. Đa đa số con người không bao giờ sẽ và cũng không thể nào khác, ngoài grihastha; fakir sống sót ít hơn là purohita; nirvanis c̣n ít hơn nữa so với sannjasin; và brahmatma lại càng ít hơn nữa so với yogin.

Có như vậy, bởi v́ người thày của sự nhập định từ chối phần lớn học tṛ.” Nếu trong kẻ nào khát vọng giải phóng thức tỉnh sớm hơn thời gian của nó đến, -sách luật của Manu nói- và nó theo con đường đi lên, kết quả sự cố gắng của nó sẽ là, lao xuống sâu hơn vào tăm tối.”

 

6.

 

Trong đời chúng ta đạt được quá ít- Baader nói- bởi v́ chúng ta không thể nhân bản thân chúng ta lên lũy thừa bảy. Con người lịch sử, đặc biệt trong thời hiện đại, nhất là khi sống trong sự vô thức về bản chất sự sống của nó, mặc kệ bản thân, không thể hiểu nổi nghĩa là ǵ nếu một người nâng bản thân ḿnh lên đến lũy thừa bảy.

Tri thức vật chất trắng trợn thay thế tổ chức của sự nhập định. Vật chất được hấp thụ không bao giờ có thể nâng lên cấp lũy thừa. Học tập là quá tŕnh bên ngoài, ở giữa các thế giới, là một thứ đọng sâu nhất, đậm đặc nhất, nặng nề nhất; đây là sự tăm tối bên ngoài. Sự học tập không là ǵ khác ngoài một dạng của sự mơ hồ.

Sự nhập định, khi được tiến hành trọn vẹn trên con đường của các vị vua, nhập vào radzsa-yoga- khi theo định luật của Bảy Trinh nữ, giết chết con người tự nhiên, và chuẩn bị cho sự tái sinh của con người tinh thần, phi dạy dỗ, phi giáo dục, phi nuôi dưỡng.

Sự nhập định là sự dẫn dắt ngược trở lại của linh hồn con người vào chính bản thân nó và vào trạng thái cổ: là sự thức tỉnh của ư thức thống trị, tính chất vua chúa vốn có. Bảy mức độ là sự giải phóng của linh hồn con người khỏi số phận hành tinh, khỏi ṿng của bảy tinh tú; là sự chiến thắng bảy vị thần của số phận, bảy daimon. Đây là sự ra đời của sinh linh cổ- ousiodes genesis. Đây là lũy thừa bảy.

 Là, con người nâng bản thân ḿnh lên lũy thừa bảy có nghĩa là lên trên bảy ngưỡng  khủng hoảng, nhân lên bảy lần sức mạnh của chính bản thân, sự sáng sủa, sự tỉnh táo, sự sống của ḿnh; nó đi lên trên bảy bậc thang, chính là bảy bậc thang nó đă tụt xuống khi rơi ch́m vào thiên nhiên vật chất.

Nó bảy lần làm bản thân ḿnh tự do hơn, nâng lên bảy lần khả năng của ḿnh cho có hiệu quả hơn, phong phú hơn. Làm tinh thần của nó bảy lần sáng sủa hơn, làm linh hồn bảy lần nhạy cảm hơn, làm nhận thức bảy lần sắc sảo hơn, làm t́nh cảm bảy lần ấm áp hơn, làm trí tưởng tượng bảy lần phong phú hơn, làm trực giác tâm linh bảy lần sâu sắc hơn.

Con đường của sự nhập định bởi v́ thế nguy hiểm và khủng hoảng, bởi v́ cái xảy ra trong lúc nhập định, trong suốt một cách vô tận. Sự khó khăn ở chỗ, nó đơn giản. Khủng hoảng ở chỗ con người đă đi quá xa bản tính cội nguồn. Bởi v́ cái nó cần thu thập được, không phải là một cái ǵ xa lạ và đặc biệt, mà dễ hiểu, tự thân và tất nhiên.

Sự nhập định, như Sankara viết: „Linh hồn phát hiện ra ư nghĩa của sự lầm lẫn trong u mê và nhận ra bản chất tự do và bất tử của chính bản thân nó.” Điều dễ hiểu đơn giản, tất nhiên và tự thân, chính là không cần làm bất kỳ cái ǵ: „Sự giải thoát không phải là kết quả của ngôn từ, của các tư tưởng và sự hoạt động”. „ Không phải  đổi thay, lẫn  hoạt động nói lên sự giải thoát…sự giải thoát không đạt tới; sự tự do này trong bản chất thật sự của cái Tôi chân chính của con người sống một cách hiên thực, có từ vĩnh cửu, chứ không phải là một cái ǵ cần phải tranh đấu mới có.”

„Cái Tôi chân chính của con người không thể đặt dưới quan điểm, đặt dưới hoạt động, đặt dưới sự thay thế- bởi v́ lúc đó cái Tôi này trở thành đối tượng của một cái ǵ đó, của một cái gọi là quan điểm, sự hoạt động, sự thay thế. Cái Tôi chính là cá nhân tuyệt đối, là chủ thể không bao giờ có thể biến thành sự vật.”

Nói theo ngôn ngữ của Sankara: Khi con người nhân bản thân ḿnh lên lũy thừa bảy, trong ảo ảnh của các h́nh ảnh, các giấc mộng, các ư tưởng, các nhận thức, nó tưởng hoạt động này dẫn đến sự giải thoát. Không. Sự hoạt động này hoàn toàn dẫn tới nơi khác. Dẫn đến sự phi hoạt động; đến sự tĩnh lặng; đến sự tránh xa các biến đổi; đến phi nhận thức; đến việc chấm dứt các nỗ lực.

Sự giải thoát không phải là kết quả của thay thế, tư duy, thể hiện sức mạnh, hoạt động, mà là sự nghiền ngẫm nhận ra mọi tư duy đều là nhà tù, mọi tư tưởng đều là cạm bẫy, mọi nỗ lực đều là xiềng xích trên con đường giải thoát. Tôi chỉ có thể giải thoát, nếu tôi từ bỏ mọi kích động, giác quan, nhận thức, tư duy, sự tưởng tượng, trực giác, sự hoạt động từ chính bản thân tôi, bước ra khỏi bảy ṿng quay của bảy daimon, từ bỏ thế gian như mọi ảo vọng không có thật, và điều chỉnh lại nhăn quan trực tiếp về hiện thực (saksatakara), là nhăn quan cội nguồn của linh hồn con người.

Con người lịch sử không dấu nổi ngạc nhiên khi các ngôn từ của ư nghĩa truyền thống cổ, các ngôn từ của sự nhập định, không ngoại lệ, đều là những h́nh ảnh tượng trưng. Ư nghĩa của chúng liên quan đến một cái ǵ hoàn toàn khác với cái tưởng rằng chúng nói đến, và chỉ ra một hướng khác so với cái tưởng chúng chỉ ra, đưa ra dấu hiệu.

Ngôn ngữ tượng trưng này chỉ ra điều mà Sankara đă nói : sự hoạt động, sự biến đổi, sự chuyển biến, sự hoàn hảo, sự tỉnh táo, về các bậc thang, các mức độ. Tất cả đều mang ư nghĩa tượng trưng của ngôn từ. Thực ra chẳng có ǵ xảy ra hết, chỉ linh hồn rơi vào u mê nhầm lẫn bản thân ḿnh với những h́nh ảnh được dựng lên về chính bản thân.

 Giải thoát chỉ có ngần này ư nghĩa: không lẫn lộn nhầm các h́nh ảnh, thậm chí chỉ có thế này: không ảo vọng. Giải thoát là” nhận thức ra ư nghĩa bến mê của linh hồn và nhận biết bản chất tự do, bất tử của chính bản thân linh hồn nó.” Con đường của các vị vua, hodos basilike cũng là cái mà huyền bí trung cổ gọi là via negativa. Đấy là metanoia, là metathesis. Đây là mahajana. Đây là Đạo. Là CON ĐƯỜNG. Nhưng đây là con đường ngăn ngừa các bước đi đến tất cả những con đường khác.

Con người cần bước lên bảy bậc thang, để đạt tới mức  không bước đi tới bất kỳ nơi nào nữa- và khi nó biết điều này, rằng không cần phải đi đâu tiếp, nó cập bến và giải thoát. Con người cần nhân bản thân ḿnh lên bảy lần, đến chừng nào nó hiểu rằng cần từ bỏ tất cả mọi hoạt động- và khi nó hiểu ra  không có ǵ để làm nữa, nó giải thoát.

Csiradzsivi, sapta risi - chức vị tinh thần của bảy nhà thông thái là sự giải thoát này. Người nào nâng bản thân lên lũy thừa bảy, đạt đến nhiều thứ- đạt đến tất cả. Đạt đến sự giải thoát. Đạt đến tự do vĩnh viễn là của nó, đạt đến sự bất tử vĩnh viễn là của nó. Đạt đến một cách sau đó nó không cần sờ đến nữa, bởi nó biết điều này nằm trong nó, từng nằm trong nó và là cái Tôi chân chính.

Mức độ nhập định của bảy nhà thông thái không phải là mục đích cuối cùng của đời sống người. Con người được giải thoát biết rằng, nếu tự do này nó chỉ giữ trong bản thân, để hưởng thụ, nó sẽ đánh mất, bởi nó sẽ rơi vào sự cầm tù của  tự do của nó. Bảy nhà thông thái lập pháp, cai trị, tư duy. Đây là mức độ epiphania, khi con người bằng hành động thực hiện những sức mạnh của Thượng đế. Như ở Ấn độ người ta thường nói: không bị ràng buộc bởi liên hệ trần gian nào.

Một lần nó được giải thoát, nhưng giờ đây quay trở lại và cuộc đời của nó là của nhân loại. Rơi vào giữa bảy nhà thông thái không mang ư nghĩa là sự kết thúc của một số phận đời sống, mà có nghĩa là bắt đầu một hành động chân chính.

Nguyễn Hồng Nhung dịch từ nguyên bản tiếng Hung

( Budapest. 2013-02-27)