HAMVAS BÉLA

 

HAMVAS BÉLA

 

    CHỨNG THỰC SAU CÙNG CỦA NHỮNG  ĐAM MÊ THỜI ĐẠI

                                                 ( Trích tiểu luận triết học: Patmosz I.)

 

Gần như trong toàn bộ,  tư duy châu Âu là sự chứng thực sau cùng của tinh thần mọi thời đại và của những đam mê thời đại. Các khái niệm đại cương quen thuộc của triết học và khoa học tự nhiên, những lư thuyết kinh tế học và xă hội ngoài mọi lộn xộn lịch sử từ các quan điểm nóng ra người ta không nh́n thấy ǵ khác, từ đấy người ta tư duy một cách mù quáng.

Descartes xuất phát từ mối ác cảm tôn giáo, bằng lư thuyết của ḿnh muốn hạ bệ một nền tảng hệ thống không thể phá vỡ, cho dù chúng ta biết, vấn đề không phải là tôn giáo, mà là sự thực hành quyền lực giáo hội. Descartes không muốn lập ra một hệ thống tư duy, mà tạo  nền móng cho một thực hành quyền lực khác đáng tin cậy hơn.

K. Marx xuất phát từ nỗi bức bối đối với một giai cấp tư bản tưởng tượng ( sự tức giận chống lại của cải, sự trả thù kinh tế),  muốn giải quyết những vấn đề sở hữu bằng sự chấm dứt các giai cấp, cho dù chúng ta biết,  từng chưa hề có giai cấp và sở hữu tuyệt đối không phải vấn đề của kinh tế.

Spengler mở rộng đề tài từ Nietzsche, xuất phát từ cơn khủng hoảng ngày mỗi gay gắt hơn, và tự an ủi ḿnh rằng (cái gọi là) nền văn hóa này bị tiêu diệt sẽ có một nền văn hóa mới mọc lên từ đấy.

Tất cả các hệ tư tưởng này thực ra đều là các hệ tư tưởng giả, không đúng (pszeudologia), là kết quả của hành vi hiện sinh giả dùng để chống lại những điểm nóng của khoảnh khắc lịch sử, là các lư thuyết giảm bớt sự khủng hoảng ẩn náu dưới những tư tưởng giải quyết khủng hoảng, là những lư thuyết sai lầm trong khoảnh khắc của lịch sử mà người ta không nhận ra.

Trong nửa sau của thế kỷ XX, ngoài các tác phẩm của Gúenon, giữa  trăm ngh́n cuốn sách thực ra chỉ có hai tác phẩm, một của giáo sĩ  Do thái Martin Buber và một của thiền sư D.T Suzuki  không là sự chứng thực sau cùng, không t́m kiếm sự cứu văn những sai lầm lịch sử, mà trái lại là khởi đầu thanh toán nỗi đam mê thời đại và mong muốn hiện thực hóa một trật tự sống vĩnh cửu.Có thể định nghĩa thế này, mọi cái khác chỉ là lư thuyết, chỉ hai tác phẩm này là hiện thực.

Có thể nói, sự nổ bùng đông đảo của các lư thuyết  là một thử nghiệm mạnh mẽ hiện sinh chính trị ( ksatrija) xuất phát từ khoảnh khắc lịch sử, chỉ tồn tại trong cái khung và trong khí thế của lịch sử; chỉ có cuốn sách của giáo chủ Do thái và của thiền sư  Nhật Bản là khuynh hướng brahman (tinh thần đích thực), hay nói cách khác đây là tác phẩm của con người không bị quy định bởi các đam mê, mà của  người biết thật sự cái ǵ đang xảy ra và cần phải làm ǵ.

Hiện sinh chính trị (lịch sử) trong mọi trường hợp đều bị chi phối bởi một đam mê lịch sử nào đấy, và luôn luôn thực dụng, hoặc  thiếu sự nhận biết tổng hợp xa hơn, phần lớn với ư đồ che dấu có chủ ư đặt tên cách giải quyết mang tính thực hành gần  nhất là sự thật.

Chúng ta biết, sự sống của con người là cái toàn bộ, trong đó trật tự chỉ được tạo ra  sau khi các nhân tố nền tảng được nhận thức. Tất cả những ǵ đang xảy ra là tác động của  quan điểm cơ bản của con người. Trong thời lịch sử  không có sự  giải quyết ; các lư thuyết trong thời lịch sử  theo thời gian và trong thời gian đều bị phá vỡ, phần lớn ngay trong giây phút người ta nghĩ ra, nó đă mất hiệu lực.

Hiện sinh brahman  bắt đầu xảy ra bằng việc thanh toán các đam mê lịch sử, và xây dựng một nền tảng độc lập với các đam mê,  độc lập với quốc gia, thời đại, đẳng cấp, tôn giáo,  văn minh và hiện sinh này chỉ có một trong nhân loại ( Szabó Lajos:f-system). Đấy là cái cần đặt tên status absolutus , hay nói cách khác đấy là quan điểm  cơ bản mang tính người.

ĐIỂM ĐẦU TIÊN:

 Giữa thế kỷ XX trong một trật tự sống bị phá hỏng hoàn toàn, tuyệt đối không một ai có thể  hoàn chỉnh hóa đời sống của ḿnh trong mức độ sống hư hỏng ấy, bởi vậy trên quả đất này không một nội dung sống nào  không chống lại cái trật tự sống đang có. Khẳng định này liên quan  cả đến những trường hợp đặc biệt, trong đó có những kẻ thoạt đầu tưởng họ được hưởng một lợi thế tức thời nào đó.  Không có hiểm họa  nào lớn sự thỏa hiệp với hư hỏng, và trở nên thỏa măn  giữa những môi trường hư hỏng, cùng lắm thêm một điều khác là thỏa măn với nỗi thỏa măn hư hỏng.

ĐIỂM THỨ HAI:

 Con người lịch sử vô ích t́m kiếm nguyên nhân đầu tiên của bản chất hư hỏng trong trật tự sống đă hư hỏng. Mọi khủng hoảng đă được báo trước, tất cả đă hỏng từ khởi đầu của mọi khởi đầu, trong một điểm tối nào đó. Nguyên nhân khởi điểm của trật tự sống hư hỏng là hậu quả của một sự kiện, nói theo ngôn ngữ tôn giáo là một tội lỗi cội nguồn, nhưng không hề mang tính tôn giáo,  mà là một sự kiện bản thể học (ontologia),  hay nói đúng hơn là một cái ǵ đó đă xảy ra trong sự sống: Sự phá vỡ  và làm  hỏng do chính con người tạo ra.

Từ quan điểm  để nhận thức rơ  sự tồn tại của con người lịch sử, không ư nghĩa nào quyết định hơn ngoài một khẳng định: hăy nh́n một cách tỉnh táo ư thức về tội lỗi trong  chính bản thân con người. Đây là điều kiện đầu tiên của hiện sinh đích thực mang tính người. Tư duy chỉ khi đó đáng tin cậy, nếu ư thức về tội lỗi được duy tŕ (Kierkegaard: Sự lo âu)

ĐIỂM THỨ BA:

 Liên quan đến lịch sử hiện tại không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, từ thời trung cổ tới nay người ta dứt khoát tỏ ư chống đối nhà thờ, bởi ư định chạy trốn trước ư thức  tội lỗi. Toàn bộ thời hiện đại được xây dựng từ sự phủ nhận một cách cố ư nhân tố tội lỗi, điều này bộc lộ trong sự thờ ơ đạo đức và hiện sinh được chăm bẵm một cách nhân tạo, là thứ tạo ra khoa học và sự phong thần vô danh.

Trong thời hiện đại tư tưởng về tội lỗi bị che đậy đến mức hoặc trở thành sự sợ hăi hoặc thành vụ bê bối, khi sinh vật học  nỗ lực làm nổi bật điều này như một sai phạm hữu cơ, và xă hội học chỉ dẫn  ra từ cơ cấu xă hội. Pascal cho rằng, trong việc bỏ qua tư tưởng về tội lỗi,  đến nhận thức về các hiện tượng vật lư cơ bản cũng hoàn toàn bất lực (mới đây nhất: vật lư của Heisenberg, toán học của Gödel)

Toàn bộ  nỗ lực của môn tâm lư học hướng về việc, Buber nói, thanh toán ư thức  tội lỗi của con người (lương tâm cắn rứt, sự lo âu) và xác định rằng kể cả khi ư thức này bị làm lu mờ đi nữa, bản thân tội lỗi cũng không biến mất.

Té ra sau gần một trăm năm thực hành của ngành tâm lư học, việc ứng dụng các phương pháp tâm lư không làm cho con người hài ḥa hơn, mà chỉ làm cho kỹ thuật lẩn tránh hoàn thiện hơn. Kết quả của các quá tŕnh tâm lư không làm con người thức tỉnh, mà để họ trốn tránh sâu hơn trước sự thức tỉnh.

Thay v́ cởi mở và giải thoát, các phương pháp tâm lư giúp con người học cách trốn tránh một cách hiệu quả hơn. Giờ đây bằng phân tích giấc mơ, người ta lừa được một cái ǵ đó từ vài kẻ ngây thơ ra ánh sáng; từ nền tảng phân tâm học và trắc nghiệm học những kẻ đó giờ đây trốn sâu dưới ư thức mộng, đôi khi đến xuất hiện trong giấc mơ cũng không nổi. Với những con người này vào thời điểm tận thế chắc cần phải thổi một hồi kèn đặc biệt để họ thức dậy. Cái con người học được từ tâm lư học là đừng trốn vào sự phức tạp mà vào sự trung thực. Đấy là cái chuồng từ đó con người không dụ dỗ ra được. Đấy là phân tâm học.

Số lượng nạn nhân của tâm lư học vô cùng lớn. Kẻ trải qua quá tŕnh tâm lư học này không nh́n rơ bản chất của sự sống, thậm chí cái nó học được  quay lưng lại với hiện thực thật sự của sự sống, đánh ch́m sự sống xuống và bao phủ  lên bằng ư thức về những khó khăn của sự sống. Sự ngu ngốc mang tính chất bản thể học của thời hiện đại xuất hiện như  thế đó, một kẻ nhăn nhở cười trên toàn bộ sự khó khăn của tồn tại, và cho rằng một lần và măi măi cần thanh toán hiện tại, chỉ v́ ư thức tội lỗi –  cùng trách nhiệm tu tỉnh của con người – sẽ tự nó biến  mất (bị phân tâm).  Đứng về mặt tâm lư học, con người bị rút ruột này  rơi ra khỏi cộng đồng và cùng lúc đứng ra ngoài t́nh huynh đệ người.

 Những phương pháp của tâm lư học tiếp tục được phát triển bởi chủ nghĩa hiện sinh. Khi tuyên bố sự sống mở (sự trần trụi hướng về phía tha nhân) chủ nghĩa hiện sinh dạy con người hăy cuộn ḿnh vào sự  trung thực, và chống lại sự trần trụi trung thực này bằng bảo vệ trong một sự cao cả vĩ đại; trong hiện sinh hăy cất dấu một hiện sinh giả. Rất ít các nhà tư tưởng nhận ra điều nguy hiểm này (Gabriel Marcel, Bataille, Camus, Heidegger) Phần lớn các học giả khác, như J. Sartre bằng kỹ thuật choáng lộn thực hiện những cú lộn ṿng, trong khi những vấn đề cơ bản của sự sống vẫn không động chạm tới.

Tạo vấn đề, sinh vật học hóa, xă hội học hóa, tâm lư học hóa, đạo đức học hóa, hiện sinh hóa nhân tố tội lỗi. Đôi khi người ta thành công làm mơ hồ ư thức về tội lỗi, hay đúng hơn làm cho con  người  chệch hướng với hiện thực. Kết quả là: tôn giáo đồi trụy, khoa học ngớ ngẩn và chính trị độc ác. C̣n hiện trạng: bằng một sự bất an ẩn náu trong trần trụi và mơ hồ, thiếu vắng ư thức về một hiện thực bị phá hỏng và bằng lương tâm cắn rứt không c̣n con đường nào khác, ngoài (cái gọi là) một đời sống trần thế kém cỏi, vô nghĩa, bởi trọng lượng của nó đă bị đánh mất.

ĐIỂM THỨ TƯ:

 Gần đây khoảng một trăm năm, đặc biệt ở mức độ tri thức cao, ngày càng diễn ra sự lẩn trốn vào các tôn giáo và siêu h́nh học phương Đông, với niềm tin tưởng đấy là nơi chứa đựng  nguồn gốc của ư thức về tội lỗi và bằng các bộ môn phương Đông học này sau rốt có thể giải quyết được những vấn đề - tội lỗi. Điều này không chỉ là sự phản bội thiên chúa giáo, mà c̣n là sự thiếu hiểu biết hoàn toàn về hiện thực.

Trong siêu h́nh học phương Đông (Ấn độ, Trung quốc, Irán) ư thức về tội tổ tông cũng y chang như ở người Do thái, ở Thiên chúa giáo và đạo Hồi, nhưng phương Đông không quy về đạo đức mà coi đấy là sự hư hỏng, sự mơ hồ nhận thức, sự vật vờ, mơ ngủ, mộng du. Cũng như ở Hy lạp cổ hoặc trong kinh Kabbala sự cứu chuộc tội lỗi ở phương Đông cũng y như vậy, một bắt buộc ở khắp mọi nơi.

Chủ nghĩa nguyên thủy mới gần đây nhất là một thí nghiệm về sự chạy trốn ư thức tội lỗi, sau thời của Rousseau, chạy trốn vào thiên nhiên, vào những người da đen, người da đỏ. Thí nghiệm này không chỉ sai lầm. Tiếp sau chủ nghĩa đa cảm của Rosseau người ta đặt giả thuyết, người nguyên thủy sống trong trạng thái cổ, trong sự trong sáng khởi thủy, và sự đa cảm của thế kỷ trước đă tạo lư tưởng từ sự man rợ, phi văn minh. Tư tưởng này đặc biệt trong nghệ thuật rất nguy hiểm.

Chúng ta đều biết những người nguyên thủy không sống trong sự trong trắng khởi thủy mà sống trong trạng thái tha hóa ngược lại của các nền văn minh cũ, và chính v́ thế mà sự sống ở người châu Âu không chỉ hư hỏng mà c̣n hư hỏng ở mức độ cao hơn. Ngoài ra những người nguyên thủy mang theo ḿnh ư thức về tội lỗi tổ tông bị đứt đoạn từ nền văn minh cũ, và không ở bộ lạc nào lại không thể nhận ra điều đó.

ĐIỂM THỨ NĂM:

 Tất cả sự sống người, dù ở mức độ nào cũng đều đă văn minh hóa. Mọi nền văn minh đều nhân tạo, nói đúng hơn, không tất nhiên. Trong sự nhân tạo này, thiên nhiên chắc chắn bị hành hạ. Cần đặt câu hỏi, có một nền văn minh nào, hay nói cách khác, có một trật tự được tạo dựng một cách nhân tạo nào không đặt dấu ấn lên thiên nhiên, mà để tất cả ở vị trí riêng của nó và để nó tự do phát triển? Sau cùng: Có hay không ư thức của con người về một trật tự sống cội nguồn trước khi con người phạm tội? Con người biết hay không về một sự sống có thực?

Con người biết về một trật tự cội nguồn.

Ư thức này tuyên bố trong Thiên chúa giáo, trong kinh Veda, trong Đạo Lăo, trong Hy lạp cổ đại, trong kinh Kabbala, và trong h́nh dạng như thế nào đấy truyền thống của mọi thời đại đều ǵn giữ điều này. Ư thức này thực chất là nội dung của những cuốn sách thiêng. Truyền thống không phải là truyền thuyết và tôn giáo. Tri thức về truyền thống nói về quan điểm cơ bản, về tội lỗi mắc phải từ buổi khai thủy, về sự điều chỉnh lại quan điểm cơ bản, hay c̣n gọi là sửa chữa tội lỗi.

ĐIỂM THỨ SÁU:

 Điều chỉnh lại quan điểm cơ bản của con người không phải nhiệm vụ mang tính tâm lư học, mang tính xă hội, hay sinh vật học, hay mang tính tôn giáo, triết học mà là một nhiệm vụ của sự sống trực tiếp, đơn giản, cụ thể.

1.     Duy tŕ một cách tỉnh táo ư thức tội lỗi; sửa chữa là một điều bắt buộc với tất cả mọi người. Mọi người hăy sửa chữa những tội lỗi đă gây ra của nhân loại trong chừng mực ḿnh biết và có thể, như truyền thống Ấn độ đă nói: ihamutrarthaphalaphogaviragah- vắng thiếu hy vọng nhỏ nhất về phần thưởng trong đời sống thượng đế và thế giới bên kia. Không có cách xóa bỏ tội lỗi khác ở mức độ con người; tất cả mọi người hăy trở thành Đấng Cứu Thế của tất cả mọi người; Bồ tát, Sufi (Hồi giáo mật tông) Hasid (Do thái giáo), Thiên chúa giáo.

2.    Cần phân tích và nhận thức về quan điểm cơ bản, cần ư thức về cội nguồn trước đời sống thời lịch sử, về cái b́nh thường; đây là công việc lư thuyết.

3.    Hăy bước ra khỏi thời lịch sử, thực hiện status absolutus trong sự vắng mặt của những đam mê thời đại (đây là nhiệm vụ tinh thần có thực, mang tính chất Brahman)

Tất cả các quá tŕnh phục vụ cho sự b́nh thường hóa cuộc sống, cần phải chấp nhận; tôn giáo, nghệ thuật, tư tưởng.

 Cần vứt bỏ hết tất cả các quá tŕnh chống lại sự phục hồi vị trí b́nh thường hóa cội nguồn  (sự phản bội của khoa học, bất tín tôn giáo, giả dối chính trị- bạo lực- bóc lột)

Vũ trụ hóa (sự thống nhất giữa cá nhân và cộng đồng)

Hiện sinh có thật (sự đồng nhất của tư tưởng- lời - hành động)

Sự sống Brahman đang đối diện mạnh mẽ với thời kỳ lịch sử.

 

Nguyễn Hồng Nhung dịch từ nguyên bản tiếng Hung

(Budapest 2012-08-11)