MaraiVaTacPham

 

Nhà văn Hungary Márai Sándor và tác phẩm của ông

 

Márai Sándor sinh tại Kassa, ngày 11 tháng 4 năm 1900. Cha ông là luật sư Grosschmid Sándor, em trai ông, một đạo diễn phim có tên tuổi trên  thế giới,  tác giả cuốn phim nổi tiếng” Một nơi nào đó ở châu Âu” với bí danh Radványi Géza.

Ông học hết chương tŕnh trung học tại Kassa và Eperjes, sau đó đi làm ở thủ đô, tại báo Nhật kư Budapest, bên cạnh nhà văn Török Gyula. Năm 1919 các bài báo của ông xuất hiện trên tờ Vörös Újság (báo Đỏ), thơ của ông đăng trên các báo ở Kassa.  Tháng 10 năm 1919 với sự tán thành của cha, ông qua Viên sang Berlin rồi chuyển đến Frankfurt để tiếp tục theo học đại học. Ông là cộng tác viên cho tờ Frankfurter Zeitung. Ngoài ra ông đều đặn gửi về tổ quốc các tiểu phẩm, truyện ngắn bằng tiếng Hung và các bài dịch, cho những tờ báo ở Kassa. Ông là dịch giả Franz Kafka đầu tiên, là một trong những người đầu tiên viết về Kafka. Ông có mối liên hệ đều đặn với các nhà văn Hung như Füst Milán và Komlos Aladár.

1923 ông cưới bà Matzner Ilona; họ chuyển đến Paris, từ đây ông vẫn đều đặn viết cho các báo Đức. Năm 1925, tờ Báo ra đời, từ đó các bài viết của ông xuất hiện thường xuyên nhất ở đây; ông viết với tư cách một cộng tác viên từ Paris, sau này ông trở thành người phát ngôn có tác động lớn của tư tưởng tự do thị dân. Năm 1927, được sự ủy nhiệm của tờ báo, ông tiến hành một cuộc hành tŕnh dài hơi đến vùng cận đông, từ các ấn tượng của chuyến đi, cuốn ghi chép hành tŕnh Theo dấu vết Thượng đế ra đời.

Năm 1928 ông trở về quê hương, là hàng xóm của nhà văn nổi tiếng Kosztolány Dezső trong phố Mikó. Tiểu thuyết thử nghiệm đầu tiên của ông in tại Viên (Ông hàng thịt,1924), chỉ từ cuối  những năm 20 trở đi ông mới đều đặn quan tâm đến thể loại này. Theo những lời tự thổ lộ của ông, hiện thực và cách giải quyết các t́nh huống tạo dựng gây cho ông nhiều khó khăn nhất. Thomas Mann, người quen biết thân thiết từ khi ông c̣n ở Đức, gây ảnh hưởng nhiều nhất đến nhân sinh quan của ông, và thế giới mơ mộng của Krudy Gyula.

Trong những tiểu thuyết đầu tiên thực sự thành công, ông miêu tả những khả năng nổi loạn chống lại cái truyền thống  và sự thất bại của nó, với những yếu tố tâm lư học. Năm 1930, cùng với bạn bè ông đă nghĩ đến việc xuất bản một tờ báo chống đối lại tờ Nyugat (Phương Tây) theo mô h́nh báo Pháp  Marianne được ưa chuộng.

Năm 1933 tờ báo của ông được gửi đến Berlin, tại đây nó theo sát sự kiện Hitler nắm chính quyền. Bằng  ḷng dũng cảm đáng tin cậy, ông miêu tả hiện thực của chủ nghĩa phát xít: bài viết Messiás trong chiếc áo choàng thể thao là một trong những bài báo chống phát xít nổi tiếng, đồng thời là bức biếm họa về Hitler.

Năm 1934 phần thứ nhất của tác phẩm chính trong sự nghiệp Márai Tự sự của một thị dân ra đời, một tác phẩm văn xuôi tuyệt tác, được các nhà phê b́nh lừng danh nhất thừa nhận như một tác phẩm tiểu sử; được xếp cùng hàng với tác phẩm miêu tả xă hội học của Illyés Gyula Dân miền hoang dă và tiểu thuyết Cuộc đời một con người của Kassák Lajos.

Sau cái chết của nhà văn Kosztolányi Dezső Márai trở thành người cộng sự của tờ Tin Tức Pest. Những phóng sự chủ nhật (tuyển tập năm 1943) được nhiều người t́m đọc. Năm 1941 sau khi Kassa sát nhập lại đất nước, ông đă về thăm quê hương, những ǵ thu thập được ông ghi lại trong”những đội tuần tiễu”, sau thành công của vở kịch Phiêu lưu 1940, ông được nhận  giải thưởng Vojnits.

Từ năm 1945 ông chính thức là viện sỹ Viện Hàn lâm Hungary. Trong những năm cuối cùng của thế chiến, ông sống ẩn dật, sống chủ yếu cho văn chương. Ông viết liên tục tập Nhật kư 1946. Khi thành phố bị tấn công ông sơ tán về Leányfalu.

Năm 1945-1946 ông tiến hành một cuộc hành tŕnh Tây Âu dài hơi. Trở về, ông cho xuất bản tiểu thuyếtNhững kẻ bị xúc phạm 1947-1948 nhưng phần thứ ba của tác phẩm bị tịch thu

Năm 1948 ông sang Thụy Sỹ. 1950 ông sống ở Ư, 1952 ông định cư tại New York. Năm 1957 ông nhận quốc tịch Mỹ. Ông không tham dự vào hoạt động của các nhóm văn học Hung tại  phương Tây. Thời gian ông dành đi lại nhiều giữa châu Âu và Mỹ.

Nghe tin cuộc cách mạng tháng mười năm 1956, ông sang München, tại đây ông nghe tin về sự can thiệp của quân đội Nga. Từ 1968 ông sống ở Salerno( Ư), từ 1979 ông sống ở San Diegó. Những năm cuối đời ông hoàn toàn rút vào sống ẩn dật, sau cái chết của vợ và con trai, ông sống trong cảnh nghèo nàn, bệnh tật, v́ ốm yếu ông hầu như không tự lo được cuộc sống của ḿnh.

Ngày 21 tháng 2 năm 1989, ông tự kết liễu đời ḿnh tại San Diegó-Mỹ

Năm 1989 ông được phục hồi lại danh hiệu Viện sỹ Viện hàn lâm. Năm 1990 ông được tặng giải thưởng Kossuth.

Cho dù ông bắt đầu như một nhà thơ trữ t́nh, nhưng ông hoài nghi đánh giá thơ ḿnh. Trong cuốn Thơ 1945, có những bài đặc biệt xuất sắc, nhưng phải đến bài thơ Tang phúng 1950 mới thực sự là một kiệt tác của nền thi ca Hungary, đây là tiếng kêu đau đớn cùng cực của nỗi đau không tổ quốc và bị ruồng bỏ

. Trong các bài báo, ông viết theo lối truyền thống, mà Kosztolányi Dezső  là người đại diện xuất sắc, gần như ông viết về tất cả các sự kiện văn hóa đáng kể, và đặc biệt quan tâm đến những thay đổi của đời sống chính trị châu Âu. Truyền thống tự do của tầng lớp thị dân thấm nhuần vào thế giới quan của Márai, ông kiên tŕ đấu tranh bảo vệ sự sống c̣n của những giá trị thuộc về giai cấp tư sản thành phố.

Trong các ấn phẩm sân khấu của ông, Nhà hát quốc gia đă dựng vở Cuộc phiêu lưu, năm 1942, vở Những thị dân Kassa.

Các tiểu thuyết của ông đều có tầm cỡ. Những kẻ nổi loạn 1930, Tự sự của một thị dân, Những kẻ ghen tuông Những kẻ bị xúc phạm làm nên một chuỗi tác phẩm. Trong những tác phẩm này, ông đặt niềm tin bên cạnh vai tṛ của tầng lớp thị dân, ông miêu tả mạnh mẽ tác động tàn phá của bạo lực và của quyền lực đám đông. Cuối đời với tuyển tập Garrenek (1-2 Toronto, 1989) ông đă tập hợp các tác phẩm trên lại thành bộ.

Giữa các tiểu thuyết của ông, người ta bắt gặp một vài cuốn thật sự mang phong cách riêng độc đáo của Márai , như Szindbád về nhà 1940, và Một vai diễn ở Bolzano 1940

Những cuốn Nhật kư đă viết nên nhiều chương  khác biệt trong sự nghiệp văn chương Márai, trong những cuốn này, bằng đôi mắt mù ḷa một nửa, ông để lại cho hậu thế những phân tích sắc sảo về nghệ thuật, một lần nữa ông trực diện đối mặt với văn hóa đám đông, với văn minh quảng cáo và sự bắt chước giả dối trong văn hóa nghệ thuật. Đặc biệt ông khẳng định lại tư tưởng chủ đạo của cuộc đời ḿnh: người nghệ sỹ không thể là kẻ phản bội.

Trước hết ông kể về những hoàn cảnh, sự việc, ấn tượng sống của cá nhân ông với những suy luận  hậu quả  của nó. Ông vật lộn nhiều khi xây dựng không gian và hành động cho tác phẩm văn xuôi của ḿnh, trước hết v́ ông rất khó khăn với việc tách rời hiện thực, cũng như với sự trung thực của cốt truyện. Cho đến tận cuối đời ông luôn bị nỗi phân vân giằng xé: không hiểu ông đă viết  những tiểu thuyết và truyện ngắn có tầm cỡ thực sự hay không? Và có đúng tự sự mới là không gian văn chương đích thực của ông?.

Tiểu thuyết Hoàng hôn phương Tây chịu ảnh hưởng nhiều của Spengler, Márai cho rằng ông có nghĩa vụ bảo vệ và giữ ǵn những giá trị của thế giới thị dân. Trong những bài viết sắc sảo, ông phê phán mọi biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia, thói phân biệt chủng tộc, và nêu lên tính độc lập của nhà văn bên cạnh các sự kiện. Cùng lúc ấy, ông cảm nhận rằng, các nhà nước Tây Âu tự cho ḿnh là tự do đă phạm những sai lầm nghiêm trọng với chính sách thuộc địa của họ. Cuốn ghi chép hành tŕnh Theo dấu vết Thượng đế 1927 bằng cặp mắt của một người viết báo, nhưng với linh cảm tương lai thông thái, ông ghi chép lại những sự kiện của vùng cận đông. Trong cuốn sách này đă xuất hiện lối hành văn đẹp đẽ, có chọn lựa, đầy chất thơ tuyệt tác, với sự chín muồi tài năng hoàn toàn của Márai.

Từ Pháp trở về, ông sống ở Buda, trong khu phố  Krisztina. Thành phố chôn rau cắt rốn và khu phố này nhiều lần xuất hiện trong không gian hậu trường các tác phẩm của ông.

Giữa các tiểu thuyết ban đầu, Những kẻ nổi loạn 1930 là tác phẩm chín muồi nhất, ông đề cập tới một trong những đặc trưng tiểu biểu nhất của văn học châu Âu thời bấy giờ- sự nổi loạn của tầng lớp thanh niên-  ông đă từng nhận định: không thể t́m ra được, đâu là nguyên nhân chính sinh ra tác phẩm, và tác phẩm này đúng là xa lạ với nhà văn.

Ông coi ngôn ngữ  là tổ quốc đối với một nhà văn sáng tạo Hungary từ quan điểm về  ngôn ngữ tiếng Đức và Slav, coi văn học là một bí ẩn thiêng liêng. Vấn đề tính độc lập đă được Marai nghiêm túc đề cập, qua tác phẩm Csutora 1932, cuốn tiểu thuyết quen thuộc về một chú chó nhỏ.

Marai miêu tả sự chiếm lĩnh không gian thế giới của chủ nghĩa Hitler bằng ng̣i bút lật tẩy những vấn đề này, đă được khái quát hóa trên phương diện dân tộc, trong các bài viết cho tờ báo Báo, với nội dung cơ bản là sự bảo vệ đời sống tinh thần đang bị đe dọa và việc tỉnh táo giữ khoảng cách với tất cả các h́nh thức xuất hiện của sự tàn bạo.

Ư tưởng này lần đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm tiểu sử tổng quát Tự sự của một thị dân 1934-35Đây là một viên đá tảng trong sự nghiệp của Márai, ông đă hoàn thành điều mà Kassák Lajos trong Cuộc đời một con người, và Illyés Gyula trong Dân miền hoang dại đề cập tới: bằng những miêu tả xă hội học, cùng lúc bằng sự rung cảm chân thành cao độ, ông thổ lộ sự chung thủy nghĩa vụ đối với giai cấp, với tầng lớp thị dân của ḿnh. Người thị dân của Márai, chăm chỉ, run rẩy, ẩn nấp sau những tháp ngà sách vở, người thị dân độc lập, muốn xây dựng một đất nước không thể mất, có lẽ chưa bao giờ tồn tại trong hiện thực cuộc sống. Trong h́nh bóng người thị dân này, có thể nhận ra những kinh nghiệm sống ông thu nhặt được, và cả nỗi hy vọng của ông nữa, rằng tầng lớp tạo ra và tổ chức nền văn hóa ấy sẽ không bao giờ rời sân khấu  lịch sử”      (Rónay László)

Tự sự của một thị dân- là sự tôn vinh và phê phán   mô h́nh sống thị dân. Phần thứ nhất miêu tả xă hội, cùng lúc là cuốn tiểu thuyết được phát triển lên  và là một lời thổ lộ. Đây là câu chuyện, được phản ánh bằng những miêu tả xă hội học chính xác về cuộc sống của một thành phố chưa đặt tên, và về những mối quan hệ xă hội của nó, nhưng thực chất về một cá nhân đi t́m con đường của ḿnh, con đường mà đích cuối cùng là t́m ra bản thân ḿnh.

Márai đă”tiểu thuyết hóa” cũng những  khẳng định trên trong tác phẩm Những kẻ ghen tuông 1936. Từ phương diện khác, tiểu thuyết này đánh dấu một bước ngoặt vô cùng quan trọng của nhà văn: nghệ thuật xây dựng tượng trưng trong văn của ông được bộc lộ hoàn toàn chín muồi. Cho dù trong các sự kiện nhân vật, ta nh́n thấy một gia đ́nh, mà, sự hấp hối và cái chết của người chủ gia đ́nh đă làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống cũng như các mối quan hệ tương tác của các thành viên trong đó, ít nhất đă chỉ ra được sự quan trọng biết nhường nào của hệ thống quan hệ phức tạp,  gắn bó các thành viên gia đ́nh với Thành phố, là nơi gắn chặt với quá khứ và hiện tại của họ. Dân cư Thành phố, như dân chúng được chọn lựa của Thánh kinh, đă bị những kẻ lạ chinh phục, cuộc sống của họ từ lúc ấy, như thể sau khi phạm tội lỗi, bắt đầu quay cuồng, nhưng những ai lấy lại được sức lực từ quá khứ, họ biết, tội ác có thể bị đánh gục, và họ có thể đạt tới một trạng thái trong sạch, mà âm nhạc là biểu hiện tượng trưng. Một yếu tố quan trọng của tiểu thuyết này là sự bí ẩn thấp thoáng sau thực tại, thứ cũng chi phối suy nghĩ và hành động của các nhân vật, như những nhân tố của cuộc sống hàng ngày.

Những kẻ ghen tuông là một trong những tiểu thuyết trữ t́nh nhất của Marai, nhưng đỉnh cao lại là tác phẩm Vai diễn ở Bolzano và tiểu thuyết Szindbád về nhà làm sống lại không khí đặc biệt trong ngày cuối cùng của Krudy Gyula, hai tác phẩm này đều viết trong những năm 40. Những tác phẩm khác trong khoảng thời gian này chỉ là những cuộc thử giọng của nhà văn, trong những năm chiến tranh, ông cũng không xây dựng được những tác phẩm đáng kể hơn, cho dù Những ngọn nến cháy tàn 1942 trở nên cực kỳ nổi tiếng và quen thuộc với chúng ta ngày nay. Cuốn tiểu thuyết nhỏ đă được dịch ra rất nhiều thứ tiếng với giới hạn là một cuộc tṛ chuyện thâu đêm,  miêu tả lại một quá khứ, một câu chuyện t́nh yêu.

Trong thời kỳ chiến tranh, khẳng định của ông-đă vang lên trong”những đội tuần tiễu” trước đó- càng ngày càng rơ nét hơn: châu Âu già nua cũ kỹ đă lĩnh đủ những vết thương chết người, giờ đây câu hỏi lớn là phải chăng cái”mới” đă bảo vệ cái ǵ và bảo vệ bao nhiêu những giá trị truyền thống?  Việc đặt ra câu hỏi này đă đưa ông đến việc tạo dựng bản năng một h́nh thức thể hiện mới, có khả năng ngay lập tức tiếp cận với các sự kiện, và bảo vệ khoảng cách tiếp cận chưa phê phán.

Tập Nhật kư (1946) đă được viết với chủ ư này. Phần đầu tiên ghi lại những biến cố từ 1943-1944, ông đă miêu tả bằng một sự chân thành không van vỉ những nhận xét, suy nghĩ ư kiến h́nh thành từ các sự kiện của ḿnh. H́nh thức ghi chép văn học này được ông duy tŕ đến tận cuối đời. Người viết nhật kư Márai cũng nổi tiếng như nhà văn tiểu thuyết Márai vậy.

Các tập Nhật kư của ông là những tác phẩm có hơi hướng văn học. Bằng chứng là ông sàng lọc rất kỹ chất liệu viết. Đấy là sự mỉa mai châm biếm đuợc ghi chép kỹ lưỡng, là những hồi tưởng ngày càng nhiều, mà ông đă nghiêm khắc phê phán khi hướng về đất nước của ḿnh. Ghi chép lại những sự kiện ngày thường, những buổi gặp gỡ, những tác phẩm được đọc, những phản ứng của nhà văn đều mang tính văn học chân chính, cái không gian tinh thần đơn độc của ông là thành tŕ bảo vệ những hành vi kiên định của nhà văn. Trong thế kỷ của chúng ta có rất ít nhà văn làm được như thế. Thành tŕ cuối cùng của Márai là văn học, là văn hóa, là những thứ mà giá trị thu thập hàng thế kỷ của nó bị bỏ rơi trong  một thế giới tiêu dùng và thực dụng hóa. Sau sự lưu vong 1948, ông sống ở châu Âu hàng năm trời, rồi định cư tại Mỹ, nhưng ông không thể thích nghi với lối sống và quan điểm sống ở đây. Không phải ngẫu nhiên mà tiểu thuyết duy nhất được viết tại Mỹ lại gợi nhớ đến một vùng đất Ư Máu của San Gennaro 1951, trong đó một kẻ lạ mặt bí hiểm là trọng tâm, nhưng xung quanh kẻ này có thể nhận ra được những ngày thường, dân chúng, và những diệu kỳ ẩn náu của một thành phố nhỏ bên bờ biển, như máu của Thánh Januariusz trong một ngày duy nhất của năm bỗng sôi lên sùng sục. Tác phẩm này của Márai là một trong những tác phẩm cuối cùng viết theo kiểu tiểu thuyết truyền thống châu Âu.

Các tác phẩm của ông là những tư liệu đặc biệt về t́nh yêu đối với châu Âu và con người châu Âu.

Đất! Đất! 1971 là đầu đề cuốn tự sự của Marai, trong đó ông vẫn không xa rời khung cảnh theo lối kể chuyện truyền thống của ḿnh, nhưng tác phẩm này được coi là một trong những đỉnh cao sáng tạo văn chương của ông, là sự chất chồng của những tập nhật kư. Trong Đất! Đất! tập hợp đầy đủ những ảnh hưởng, đă giúp nhà văn h́nh thành cái riêng của ḿnh, và đă tự chứng minh trước nhà văn, rằng ông quả là cần thiết rời bỏ đất nước Hungary, nơi mà cách suy nghĩ phương đông và nền độc tài đă cắt đứt h́nh thức tồn tại thị dân, đồng thời phủ nhận những truyền thống, được coi như một giá trị tiên phong. Bằng những hồi tưởng kư ức lặng lẽ ông chia tay với cái môi trường bị hủy diệt giá trị bởi chiến tranh, nơi vô cùng quen thuộc đối với ông, nơi ǵn giữ những kỷ niệm đẹp đẽ về các đường phố, nhà cửa, quảng trường, nơi có những bạn đọc vô h́nh nhưng chung thủy, nơi gắn bó quan hệ một cách bí ẩn giữa nhà văn và người đọc. Chính mối quan hệ này mang ư nghĩa viết cho nhà văn. Khi ư nghĩa này bị cắt đứt, chẳng thà ông lựa chọn một tổ quốc khác, một dạng tự do day dứt, một tồn tại không đối thoại, một kiểu sống chỉ sách vở và kỷ niệm an ủi được một phần nào. Những cuốn sách, những kinh nghiệm, ông ghi lại trong các tập nhật kư, đă làm nên một thế giới cá nhân con người cô độc. Một dạng con người không bao giờ giảng ḥa với chủ nghĩa nhân đạo nhân tạo của nền văn minh hóa, và bằng hành vi sống kiên định của ḿnh, ông bảo vệ những lư tưởng của châu Âu.

Giờ đây tôi đă hiểu, rằng tôi- trong môi trường này, trong giới hạn viết chật hẹp này- tôi chưa bao giờ cảm thấy ḿnh ở nhà. Tôi t́m kiếm một cái ǵ đó, một cái ǵ luôn luôn thiếu. Cái ǵ vậy? trong thế giới riêng của tôi, để tôi được thở không khí riêng của tôi. Đấy là điều thiếu vắng, có thể v́ thế tôi luôn luôn hành tŕnh trong nhiều năm, khi có thể; liên tục, hàng chục năm trời. Nhưng, giờ đây tôi hiểu, tôi đă cập bến. Và tôi chăm chú dơi theo cái không gian trống rỗng, nơi  đọng lại cái không có ǵ.” ( Đất! Đất!)

Nguyễn Hồng Nhung dịch từ nguyên bản tiếng Hungary

Nguồn: http://www.mini.hu/magyarok/