Nam Dao

Nam Dao

 

H́nh như, có điều ǵ...

Nguồn : Văn Học, tháng 9-10,  2006

 

 

      Không mấy ai không một lần băn khoăn, sau khi đọc, tự hỏi, h́nh như, có điều ǵ c̣n nằm sau văn bản. Với tôi, tôi gọi là phần hồn. Gọi như vậy, tôi lại chỉ định danh cho ... điều ǵ đó thật mơ hồ, có lẽ một  phần là v́ cha nuôi tôi. Đó là lần ông cho tôi bản dịch Mái Tây  của Nhượng Tống, dặn đọc kỹ lời b́nh của Thánh Thán, t́m ra phần hồn của Vương Thực Phủ. Thời gian đó là những ngày cuối đời ông, tôi qua Cali sống với ông được một tuần, và trong  lúc muốn quên đi những chia ly dẫu chẳng muốn nhưng ắt có, tôi đọc, chẳng phải đọc Mái Tây mà là đọc Ngựa Nản Chân Bon của  Nguyễn Mộng Giác. Và tôi tự hỏi, cái phần hồn, nó ở đâu ? Không có Thánh Thán b́nh văn như với Mái Tây, tôi mù tịt...và thở dài.

      Nhà văn Hoàng Khởi Phong rủ, giọng lúc nào cũng đầy thôi thúc, đi gặp Nguyễn Mộng Giác ‘‘chơi’’. Không thấy phần hồn của tác phẩm, thôi th́ đi nh́n phần xác của tác giả, biết đâu chẳng gặp. Phải nói thời đó rất ‘‘găng’’. Việt Nam chưa ‘‘đổi mới’’, đang sống đêm cuối cùng trong số ba vạn sáu trăm ngh́n đêm đen sau ngày 30 tháng tư, mà tôi th́ vẫn cứ tin vào chuyện ‘‘ ḥa hợp ḥa giải’’, dám đ̣i Phong đưa đi cho làm quen với Văn Nghệ sĩ quận Cam, và dĩ nhiên là bị từ chối (mười lăm năm sau, Cao Xuân Huy của Tháng Ba Găy Súng, cậu em rể ‘‘hụt’’, bảo lúc đó mà gặp chắc phải đấm anh vỡ mặt). Thế th́ sao Phong lại rủ gặp Giác ? Mà Giác là ai, tôi hỏi ? Anh ấy vượt biên, vợ con c̣n ở Sài G̣n, Phong đáp. À, thế th́ gay cho cái  chuyện ‘‘ḥa giải’’ đấy, nói cái chi cũng nên uốn lưỡi ít là 7 lần, tôi tự nhủ. Chúng tôi đến điểm hẹn. Một tiệm phở, dĩ nhiên. Được nhắn, hẹn đă rời. Một tiệm phở khác, dĩ nhiên. Nh́n Phong, tôi đùa, sao mà cứ như chuyện ‘‘điệp viên Z28 phá lưới’’,  hồi hộp thiệt là hồi hộp. Và chúng tôi rồi cũng gặp nhau.

      Lần gặp này là lần gặp của những phần xác. Lịch sự, có. E dè, nhiều. Phở lại không ngon lắm, mặc dù tiệm có trưng một ngọn cờ. Và tôi có cái cảm tưởng tất cả chúng tôi là những xác ướp ‘‘momies’’ vừa từ cơi âm bước lên, chưa thực sự nói được tiếng người, chỉ phát ra những âm thanh nhợt nhạt, xoay trở gượng gạo như thể c̣n đợi tay phù thủy điều khiển âm binh phà một câu thần chú để hồi  phục sau bao nhiêu dâu bể.  V́ vậy, phần hồn tôi mong t́m được qua phần xác là chi? Đi đâu ? Về đâu ? Tôi chỉ giữ được h́nh ảnh một con người chừng mực,  cái nh́n có chút bóng tối của cuộc đời, nhưng vẫn cười độ lượng dẫu có  ǵ đó tựa sự cố gắng như trong truyện Ngựa nản chân bon...

*

      Thế rồi tôi cũng chẳng mấy quan tâm đến chuyện phần hồn một văn bản : thời đó, tôi vẫn ước mơ đổi đời bằng cách xử dụng cơ chế thị trường trong một xă hội vẫn hướng đến công bằng xă hội, và gọi nó thế nào th́ cứ gọi, xă hội chủ nghĩa cũng được! Cho nên, những phút khắc khoải với hiện thực, tôi ‘‘ xả xú-bắp’’ bằng thơ, nhanh gọn, và thơ th́ cũng cho ḿnh và cho bạn bè gần gũi. Bức bách lắm, tôi chọn Thơ Đường dịch lại, rồi Chinh Phụ ngâm... Ông bạn khó tính nhưng chân t́nh của tôi ở Paris là Tạ Trọng Hiệp mắng (hay khuyên?) : ‘‘ cậu làm cái ǵ cũng trung b́nh ti tí, có lẽ v́ tham lam ôm đồm. Văn học, tí ti,  chính trị cũng tí ti...Tham vừa chứ! ’’. Bạn mắng, nhưng ăn thua ǵ. Tôi cứ thế, chẳng biết  ḿnh đi về đâu. Cho đến cái ngày gặp một số bạn trong một hầm rượu ở khu St Germain des Prés tôi mới buột miệng, để tôi viết văn xuôi cho mà xem. Cứ tưởng bốc lên nói càn, sau tôi mới hiểu là điều tôi nói đă cát cứ trong tiềm thức tôi từ lâu. Đổi đời ư, nhiều cách! Đi  đường xa, là văn hóa.

      Truyện (văn xuôi) đầu tay của tôi là tiểu thuyết lịch sử Gió Lửa. Trong tiểu thuyết này, có một phần là thời Tây Sơn (một phần thôi, hỡi các nhà phê b́nh lư luận cứ gắn Gió Lửa vào Nguyễn Huệ ? !), và khi đưa An, con gái giáo Hiến vào truyện, tôi đă e-mail cho Giác, báo tôi sẽ ‘‘mượn’’ An  của Sông Côn mùa lũ. Dĩ nhiên thôi. V́ ngay một vị anh hùng cái thế, một nhà chính trị xoay đất lật trời, hay ...một tay đầu trộm đuôi cướp lừng danh mà không có bóng dáng một mối t́nh đầu th́ làm sao ra con người được! Là con người đă, và v́ con người, nhưng cả hai nhân vật An lẫn Huệ trong Gió LửaSông Côn mùa lũ  lại rất khác. Khác v́ quan niệm tiểu thuyết lịch sử của tác giả. Khác v́ văn phong. Khác v́ Giác khác  tôi,  và tôi, khác Giác [1]. Văn chương của anh là văn chương ‘‘mái ấm’’, nhẹ nhàng, thấm thía và luôn luôn hướng về một cái ǵ đó có tính vĩnh hằng của con người. C̣n văn chương của tôi, là văn chương ‘‘sóng gió’’.  Nó sùng sục, nó ‘‘có nhiệm vụ’’ đèo bồng xă hội, nó cứ một  mực đ̣i (huyễn hăo chăng?) đổi đời  bằng một tương lai khác với quá khứ, cái quá khứ vốn rất khốn nạn của một Việt Nam đă  quá tang thương qua dâu biển đổi rời.

      Nhưng thôi. Nói nữa làm chi, tôi đă định bụng như thế. Cho  đến một buổi tối trên bờ biển Normandie, sau khi  cuốn tiểu thuyết lịch sử thứ hai của tôi là Đất Trời ra đời. Bè bạn, đám sau này là bọn Ăn Mày Văn Chương, quây quanh và bảo : Nam Dao phải viết về thời hiện đại.  Nếu không là trốn chạy, cứ ẩn vào quá khứ, vào thời Nguyễn Trăi-Lê Lợi, thời Trịnh tàn-Lê mạt để mà ‘‘ẩn dụ’’ là không dám nhận trách nhiệm nhà văn ở ngày hôm nay của ḿnh. Chao ôi, thêm một lần, tôi sẽ là điểm oanh kích tự do hay sao? Lần này, tên bay đạn lạc không phải từ hai bên mà là tứ phía. Quốc và Cộng, đă đành. Nhưng sẽ có những tay súng của thời ‘‘đổi mới (mà chưa hẳn nới cũ)’’, và thời ‘‘trước sau như một’’...Cũng đành, tên một tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu, chứ biết làm sao bây giờ.  Cũng đành, tôi viết Bể Dâu, với cái tâm nguyện tôi mượn hai câu thơ Tô Thùy Yên để diễn tả : Chút rượu hồng đây xin tưới xuống  / Giải oan cho cuộc bể dâu này.

*

      Chết chưa, thế là tôi đâm sầm vào ‘‘hiện trường’’ của Mùa Biển Động. Ôi thôi, cứ t́m những lối đoạn trường mà đi à ? Tôi đọc, và biết đừng có trùng đi lập lại một văn bản đă có, lại  được viết bởi một nhà văn thành danh. Nhưng đọc trên dưới 3 ngàn trang, tôi quên khuấy mất cái ḿnh ‘’sợ’’, nhưng hiểu ra một điều, chẳng ai giống ai đâu, trời sinh Giác khác  tôi. Và tôi, khác Giác, nên dẫu chúng tôi có viết về cùng một thời khắc lịch sử, sự khác biệt đó sẽ cho ra  đời những cách nh́n và cảm nhận hoàn toàn cá biệt. Thế là tôi t́m cách quên hẳn Ngữ, nhân vật (có chút Giác) trong Mùa Biển Động.

      Quên Ngữ nhưng tôi vẫn nhớ tính cách nhân đạo của văn bản, mặc dù một  phần thời gian Giác viết tác phẩm này có thể là thời gian khá nghiệt ngă v́ những chia cách với gia đ́nh thân thương anh tạm phải chia xa. Anh viết, như chống trả lại nghịch cảnh. Như để hoàn thành tính cách con người của ḿnh. Và tính cách đó tồn tại, bất chấp lịch sử, bất chấp xă hội, không lư luận, không tuyên ngôn, và không nhớp một chút ǵ ta thường gọi là hận thù, thứ t́nh cảm chẳng xa lạ trong một tộc người truân chuyên qua 30 năm chiến tranh, gọi là Quốc -Cộng, hay Ủy Nhiệm, hay chống Đế Quốc, hay là ǵ ǵ đó... th́ cũng  chỉ thế, là chiến tranh, mà thôi.

*

      Nói thế chưa đủ. Cách đây đâu gần 3 năm, tôi đến thăm Giác. Lần này, anh chị có cháu (h́nh như cháu nội, h́nh chụp tôi xin kèm dưới đây), và tôi nh́n tận mắt cái hạnh phúc và niềm an b́nh của anh (và cả chị) khi anh vui đùa với cháu. H́nh ảnh một con người mô phạm,  một ‘‘ông thầy’’ có truyền thống gia đ́nh trong ngành giáo dục, một nhà văn chừng mực, nghiêm túc...chợt như không c̣n. Tôi chỉ thấy Giác hồn nhiên, Giác tự hào v́ đứa cháu đĩnh ngộ, Giác tươi  cười, và Giác...thật hạnh phúc. Anh đă đi, và phải chăng anh đă đặt bước đến chốn nhân sinh ai cũng ao ước ?

      Giác cho tôi xem bản thảo của  những  tiểu thuyết trường thiên anh đă viết. Bản thảo đâu vài chục cuốn, được đóng lại, b́a cứng, gáy da. Và trong là những trang chữ viết trang trọng, rất ít gạch xóa, sạch và nghiêm, hệt như bề ngoài con người anh. Chẳng bù với tôi, tôi cũng viết tay nhưng trời ơi, đến tôi đọc lại cũng lắm lúc  đọc không nổi. Nào gạch, nào xóa, nào tẩy, và những mũi tên, có mũi bay qua hai trang nhưng vẫn ghi chú  ‘‘c̣n tiếp’’, bay, bay... đến chỗ đánh dấu X  th́ ngừng. C̣n chữ viết tay, ôi thôi, là một  nỗi kinh hoàng cho cả chính tôi . Nếu tôi không chọn (hay nàng chọn tôi ?) được một người vợ đọc ra và chịu đánh compiutơ giúp tôi th́, nói thật, chẳng có cái ǵ gọi là văn chương Nam Dao cả! Nhưng đó là một chuyện. Chuyện thứ hai làm tôi ngỡ ngàng là viết không tẩy xoá như Giác, anh chắc chắn có một thứ bố cục vững vàng trong đầu cho cả ngàn trang. Với tôi, chuyện này quá khó. Tôi thường phải sửa, chẳng chỉ văn mà cả bố cục, khi viết quá 30 trang. Truyện tôi sửa, ít cũng ba lần, trong khi tôi hỏi th́ Giác đáp,  anh viết ...là xong, không có sửa đi sửa lại ǵ. Quả ít nhất anh đă từng là thủ khoa Sư Phạm Văn ở Huế. Đầu anh là một  tổ chức hữu cơ. May mà anh không làm cái việc Tuyên Huấn của ông Nguyễn Khoa Điềm mới đây, nếu không chắc anh cũng ‘‘tổ chức’’  văn  nghệ không kém như khi anh tổ chức Mùa Biển Động hay Sông Côn Mùa Lũ. Nhắc đến đây, cá nhân tôi xin cám ơn chị Diệu Chi, người  đă cho Sông Côn vượt biên ‘’chính thức’’, vượt biên ‘’không người lái’’,  loại phở Hà Nội không thịt khi toàn dân nhịn đói ‘’chống Mỹ cứu nước’’.

*

      Thật là vô tích sự cái bọn văn nghệ văn gừng. Đầu th́ bảo đi t́m phần hồn, rồi sau, văn cứ lang bang, hệt như đám vong ‘‘được đâu trầu đấy’’ trong  dịp  cúng cháo lá đa rằm tháng bảy.  Vâng, phần hồn của văn bản. Nó là ǵ ? Nó liên quan thế nào với tác giả? Và nhất là, tôi xin nhấn mạnh, nó tương tác thế nào với người đọc? Đến đây, tôi nghĩ đến cha nuôi tô và lời ông nhắn nhủ. Tôi đọc lại tập Ngựa nản chân bon. Liệu hai mươi năm sau, tôi có khả năng nhận ra phần hồn một văn bản ? Sự thách đố này không phải chuyện đùa. Một mặt tôi làm là thỏa nguyện lời dạy chí t́nh của cha tôi, mặt kia, phần nào đáp lại cái duyên tôi có với Giác, chẳng phải qua tiểu thuyết mà qua Kịch. Như một chuyện quái dị của nền văn học sử Việt Nam, Kịch là một bộ môn bị bạc đăi c̣n quá Kiều sau 3 lần 15 năm lưu lạc, loại đĩ già chẳng ai  đoái hoài cưu mang, đă vậy c̣n  bị đồng hóa vào chuyện diễu giở ( hay giễu dở, tùy loại từ điển tra cứu). Thế mà Giác đăng Treo đầu dây quan họ  trong Văn Học mà anh là chủ biên. Và không chỉ thế. Vở Kịch thứ hai, Ta xô biển lại,  anh từ chối, bảo...v́ để giữ tiếng cho tác giả ‘‘Treo Đầu Dây...’’ . Nhưng sau đó, 5 vở Kịch tôi viết sau đều xuất hiện trên Văn Học, và phải nói, không có Giác có lẽ tôi đă chẳng tiếp tục viết Kịch Bản dưới dạng văn học.

       Biết Văn Học làm một số đặc biệt về Nguyễn Mộng Giác, tôi điện thoại cho chủ biên, nhà văn Cao Xuân Huy. Huy nói, ‘‘c̣n một tuần báo lên khuôn’’. Tôi muốn viết một bài, nhưng...Huy cắt, ‘’c̣n anh, cho anh mười ngày!’’.  A, mười ngày để t́m ra cái phần hồn tôi đă ê a nói suông chứ chẳng dám lư giải như những nhà lư luận phê b́nh văn học.  Làm thế nào đây? Trước tiên, là phải đọc. Đọc bằng mắt, dĩ nhiên. Đọc bằng tâm hồn, khó hơn, nhưng vẫn OK, vui th́ cười, buồn th́ khóc, thả lỏng gân cốt (chính kiến), thư giăn tâm tư (và bắp thịt), chớ gồng v́ bất cứ lư do ǵ, kể cả những giá trị nhân loại, những chính nghĩa quốc gia dân tộc, những ư đồ khai phóng để ‘‘hội nhập’’ vào nền kinh tế toàn cầu...Bạn đọc ơi, đọc như vậy thú lắm. Không t́m chuyện giật gân, không để chính trị thống soái, không và  không,  ta  cứ để cho câu chuyện hấp ta vào, dẫn ta đi...

      Tôi đọc, và cái phần hồn, h́nh như nó đây rồi... Chú bé khều sao trên mái chùa trong ‘‘Mẹ trong ḷng người  đi ’’  mà nhà văn của chúng ta viết những ngày trên đảo Kuku ?  Chùa xưa mái ngói cũ. Trèo lên nắm cây sào. Đêm khuya rồi không  ngủ. Kéo rụng bao nhiêu sao ?  Giác tưởng tượng một chú bé có thể thành nhà chính trị, nhưng nhắn nhủ : ‘‘Tôi thích chú trở thành một nhà thơ hơn, v́ hành động « kéo rụng bao nhiêu sao » vừa dễ thương vừa vô hại. Nhưng chú nhớ cho, đừng bao giờ kéo rụng một ngôi sao đặc biệt. Ngôi sao ấy rụng xuống, chú sẽ cô đơn hối tiếc vĩnh viễn trên đường đời...Hăy coi chừng! Chú khều rụng bao nhiêu sao sáng sao mờ cũng được, nhưng hăy lặng lẽ trân trọng cầu xin cho Ngôi sao Mẹ c̣n sáng măi trên bầu trời...’’. Đọc đến đây, hóa ra phần hồn Giác mang tính ‘‘lăng mạn’’, v́ anh thú nhận ‘‘  Kéo rụng bao nhiêu sao? Ôi, nên thơ và vô hại biết mấy, nếu chỉ là lời thơ’’. Hai chữ vô hại dễ mường tượng khi thời ấy có một nhà thơ, ông Tố Hữu, làm phó Thủ Tướng  phụ trách kinh tế. Nhưng c̣n Mẹ th́ hiểu ra làm sao. Là đất nước? Là mẹ anh, mẹ tôi, mẹ  chúng ta. Tất cả, vâng tất cả, là Mẹ, chữ M nắn nót viết hoa, với ḷng biết ơn sinh thành.

      Chẳng lẽ cái phần hồn kia nó trừu tượng đến thế ư ? Không, có lẽ khi nói tới  Mẹ, chúng ta có những bà mẹ cụ thể hơn, cư xử và hành động thế nào cho ta chẳng thể lẫn lộn với một bà mẹ khác trên cái cơi ta bà này ? Tôi lại tiếp tục t́m. Và đây, đây rồi. Lần này Mẹ đă già, trở thành Bà Ngoại. Bà đưa cháu đi vượt biên, thấy cháu kêu, thương quá nhảy xuống ghe vượt biển và bất đắc dĩ thành thuyền nhân vất vưởng trong Trại Tị Nạn đợi định cư ở một nước thứ ba. Giục cháu viết thư về, bức Thư gửi cho đám mây xa,   « ...chợt nhớ đến chuyện bên nhà,  giật ḿnh bảo cháu :

      - Hà viết xong chưa? Cháu phải viết ngay, kẻo quên th́ mang tiếng với người ta chết. Cháu viết cho má biết là hôm đi,  ngoại c̣n nợ của bà Tư Sét hai đồng bạc đường, và một đồng bạc ớt. ...Ngoại c̣n mượn cùa d́ Bảy cái dao têm trầu chưa kịp trả. Ngoại tưởng xuống đưa cháu đi xong rồi về, ai ngờ...».

      Mẹ như thế đấy, chân chất, vay trả hẳn hoi với đời, nhưng cho con cháu th́, ôi thôi, mẹ chẳng xá ǵ thân ḿnh, phận ḿnh, dẫu cho là phải vất vưởng bỏ cả đất nước mà đi. Và Mẹ,  đơn giản là cái ngôi sao ấy, ngôi sao rơi xuống là chúng ta vĩnh viễn cô đơn trên đường đời. Phải chăng, Mẹ là phần hồn nằm sau văn bản? T́m được hết những phần hồn sau toàn bộ những văn bản của một tác giả, liệu rằng ta có thể định h́nh được cái hồn của văn, và là cái hồn của người viết, trong  ngày xá tội vong nhân mà văn chương  ngày hôm nay có khác chi cháo lá đa bố thí cho những linh hồn vất vưởng.  

*

      Cuối cùng, tôi  nghĩ mẹ đă thay bà ngoại trả bà Tư Sét ba đồng và d́ Bảy con dao têm trầu. C̣n Giác, anh cũng đă trả cái nợ nhân gian qua 9 tác phẩm tôi được biết, và 2,3 tác phẩm anh  báo là chưa in, nhưng chắc rồi sẽ in. Tôi kể, như để nhắc anh, có Đêm hoang, Mây bay về đâu...Nhưng in hay không, xá ǵ ! V́ anh đă đóng góp khá nhiều cho chúng ta. Cái nh́n ở dài hạn của anh đúng. Hăy sáng tạo, và tự giá trị  tác phẩm, nó sẽ quay về nguồn, nơi có Mẹ. Sông Côn mùa lũ tái bản lần 2 ở Việt Nam và, nghe anh Vơ Phiến nói, đang chuyển ra phim bản. Nhưng  điều  đó không có nghĩa ǵ khi chúng ta nh́n bức ảnh tôi chụp: một Giác an nhiên và chứa chan hạnh phúc với con cháu. C̣n ǵ sau dâu biển đổi rời ? Được cái hạnh phúc ấy, tôi cho là phép lạ. Chỉ cầu cho phép lạ nối dài cho đến những  đời sau.

Ảnh : Diệu Chi, cháu nội, Nguyễn Mộng Giác và con trai.



[1]  Thảo Luận về Tiểu Thuyết Lịch Sử : Nam Dao- Nguyễn Mộng Giác, Văn Học, 197, 2002, tr 3-25.