Giới thiệu văn hào Nhật Bản Shiba Ryôtarô

                 Biên soạn: Nguyễn Nam Trân

 

       http://www.ent-mabui.jp/user_files/schedule/23780_main.jpg  

Shiba Ryôtarô (1923-1996)

 

               Tóm lược thân thế của nhà văn

 

-1923: 0 tuổi. Shiba Ryôtarô sinh ra ở thành phố Ôsaka. Tên thật là Fukuda Teiichi. Cùng năm này, ở vùng Tôkyô xảy ra một trận động đất kinh hoàng đă đi vào lịch sử.

-1937: 14 tuổi. Chiến tranh Nhật Trung bùng nổ và chỉ kết thúc vào năm 1945 cùng với Thế chiến thứ hai.

-1941: 18 tuổi. Ghi danh học khoa Mông Cổ tại Đại học Ngoại ngữ Ôsaka lúc ấy hăy c̣n là một trường chuyên dạy ngoại ngữ. Trong thời gian Shiba theo học, Nhật bước vào Thế chiến thứ hai.

-1943: 20 tuổi. Bị tước quyền hoăn dịch và bắt buộc tạm tốt nghiệp để ṭng quân. Nhập ngũ, trực thuộc liên đội chiến xa số 19 đóng ở Kakogawa, Kôbe.

-1944: 21 tuổi. Được huấn luyện tại trường chiến xa của lục quân ở Măn châu. Sau khi tốt nghiệp được gửi về liên đội chiến xa số 1 vùng Măn châu.

-1945: 22 tuổi. Để pḥng thủ Nhật Bản, được lệnh rút lui về xứ (Niigata) qua ngơ Triều Tiên (cảng Busan). Năm đó, Nhật Bản chấp nhận tuyên ngôn Postdam, đầu hàng vô điều kiện. Giải ngũ ở Tochigi sau khi Nhật Bản bị Đồng Minh giải giới.

- 1946: 23 tuổi. Vào làm việc ở ṭa báo Shin Nihon Shinbun (Tân Nhật Bản tân văn). Cùng năm, Thiên hoàng ra tuyên ngôn tự xem ḿnh không có tính cách thiêng liêng. Tân hiến pháp ḥa b́nh hậu chiến được công bố.

-1948: 25 tuổi. Shin Nihon Shinbun phá sản, phải qua làm việc với Sangyô Keizai Shinbun (Sankei), tờ báo về kỹ nghệ và kinh tế.

-1956: 33 tuổi. Nhận giải lần thứ 8 của tổ chức văn hóa Kôdansha Kurabu với tác phẩm Perusha no Genjutsushi (Nhà ảo thuật Ba Tư). Mượn tên của tác giả Sử Kư làm bút hiệu. Shiba Ryôtarô (Tư Mă Liêu Thái Lang) hàm ư khiêm tốn là ḿnh “c̣n xa mới bắt kịp” (liêu) sử gia Tư Mă Thiên nhưng là lời hứa thầm kín sẽ sống và viết cương trực như sử gia đời Hán.

-1959: 36 tuổi. Kết hôn với nữ kư giả Matsumi Midori, một đồng nghiệp làm việc ở bộ môn văn hoá báo Sankei. Viết Fukuro no shiro (Ngôi thành của chim cú).

-1960: 37 tuổi.Fukuro no shiro đoạt giải Naoki lần thứ 42. Năm đó, cuộc đấu tranh chung quanh Anpo (Hiệp ước pḥng thủ hổ tương Nhật Mỹ) trở nên căng thẳng. Shiba trở thành giám đốc bộ môn văn hóa của báo Sankei.

-1961: 38 tuổi. Từ chức ở Sankei để trở thành nhà văn chuyên nghiệp.

-1962: 39 tuổi. Cho đăng liên tục tiểu thuyết dài Ryôma ga yuku (Ryôma xông pha) nói về cuộc đời bôn ba của nhà chí sĩ duy tân Sakamoto Ryôma.Truyện này kéo đến 1966 mới đăng trọn.

-1963: 40 tuổi. Cho đăng Kunitori Monogatari (Truyện cướp nước). Kéo dài đến 1966 mới xong.

-1964: 41 tuổi. Nhật Bản mở đường xe điện siêu tốc Shinkansen. Thế vận hội Tôkyô cũng khai mạc cùng năm.

-1968: 45 tuổi. Bắt đầu đăng Saka no ue no kumo (Vầng mây trên đầu dốc) trên nhật báo, kéo dài tận 1972.

-1969: 46 tuổi. Bắt đầu đăng Kashin (Hồn hoa) cho đến 1971.

-1971: 48 tuổi. Bắt đầu đăng Kaidô wo yuku (Đi trên đường cái) cho đến 1996 nhưng chưa kịp kết thúc.

-1972: 49 tuổi. Bắt đầu đăng Tobu ga gotoku (Như bay bổng) cho đến 1996. Năm này, Mỹ giao trả quần đảo Okinawa cho Nhật.

-1986: 63 tuổi. Bắt đầu đăng Kono kuni no katachi (H́nh thù đất nước này), bị bỏ dở dang vào năm 1996. Lúc đó, Nhật Bản bước vào thời Kinh tế bong bóng (bubble economy) dựa trên đầu cơ. Năm 1991, bong bóng vỡ và kinh tế suy thoái.

-1989: 66 tuổi. Viết Kôan no taimatsu (Ngọn đuốc của Ogata Kôan[1]) và Nijuuisseki ni ikiru kimitachi e (Thư gửi các em nhỏ của thế kỷ 21) để đăng trong sách giáo khoa bậc tiểu học. Kôan là Ogata Kôan (1810-1863), thầy thuốc, nhà giáo dục và nhà nghiên cứu Lan học (cái học Tây phương) vào cuối đời Mạc phủ.

-1993: 69 tuổi. Huân chương Thiên hoàng về Văn hoá.

-1996: 72 tuổi. Công dân danh dự thành phố Ôsaka. Bị vỡ động mạch vùng bụng và chết đột ngột.

 

                Tác phẩm chính đă viết

 

Shiba Ryôtarô có một cuộc đời sáng tác vô cùng phong phú và đa diện, từ đoản thiên qua trường thiên, tiểu thuyết lịch sử đến kịch, tùy bút lữ hành, nghị luận cũng như trả lời phỏng vấn, tham gia bàn tṛn... chưa kể rất nhiều tác phẩm của ông đă được dựng thành phim trên màn ảnh lớn lẫn màn ảnh nhỏ. Sách của ông bán rất chạy và được in đi in lại nhiều lần. Con số phát hành đến mức kinh hoàng của Ryôma ga yuku ( Ryôma xông pha, 21,2 triệu quyển), Saka no ue no kumo (Vầng mây trên đầu dốc, 14,7 triệu quyển), Tobu ga gotoku (Như bay bổng, 10,7 triệu quyển), Kaido wo yuku (Đi trên đường cái, 10,5 triệu quyển) ...là những bằng chứng hùng hồn, cho dù trước đó chúng đă từng đến với người đọc qua đăng tải trên báo ngày. Toàn tập vĩ đại của ông do nhà xuất bản Bungei Shunju ấn hành lên đến 68 tập[2].

Tuy nhiên, v́ muốn tập trung vào quan điểm lịch sử của Shiba, chúng tôi chỉ nêu ra một số tác phẩm trường thiên liên quan đến chủ đề lịch stheo thứ tự thời gian xuất bản:

 

-Fukuro no shiro (Ngôi thành của chim cú, 1959) kể về Ishikawa Gôemon, ? - 1594), một đầu lĩnh đạo tặc dưới thời Azuchi Momoyama. Đời ông ta từng được phóng tác thành tuồng hát trên sân khấu cổ điển.

-Kamikata bushidô (Vơ sĩ đạo vùng kinh kỳ, 1960) thuật lại truyện các samurai ở Keihan (khu vực Kyôto và Ôsaka).

-Kaze no bushi ( Người samurai như gió cuốn, 1961) nói về kiếm sĩ tài ba Takushoku Shingo, một nhân vật hư cấu.

-Sen.un no yume (Mộng tàn trong khói chiến, 1961) kể sự tích Chôsokabe Morichika (1575-1615), lănh chúa phiên Tosa trên đảo Shikoku, một địch thủ bất hạnh của Tokugawa Ieyasu.

-Fuushin no mon (Cánh cổng phong thần, 1962) nói về 10 người dũng sĩ nhà Sanada, một ḍng họ vơ tướng thời Azuchi Momoyama.

-Ryôma ga yuku (Ryôma xông pha, 1963-66) kể lại cuộc đời bôn ba v́ nước của nhà chí sĩ duy tân người phiên Tosa là Sakamoto Ryôma (1835-67).

-Kômyô ga tsuji (Ngă rẽ công danh, 1965) nói về chọn lựa hợp lư của vợ chồng Yamanouchi Kazutoyo (1546-1605) và Chiyo khi họ đứng về phe Tokugawa Ieyasu trong cuộc thư hùng ở Sekigahara.

-Kunitori monogatari (Truyện cướp nước, 1965-66) kể lại mưu đồ tranh đoạt của các nhân vật lịch sử thời Chiến quốc như Saitô Dôsan (1494-1556), Oda Nobunaga (1534-1582) và Akechi Mitsuhide (1528?-1582).

-Sekigahara (Sekigahara, 1966), tường thuật trận quyết chiến giữa hai binh đoàn Ishida Mitsunari (1560-1600) và Tokugawa Ieyasu (1542-1616) trên cánh đồng Sekigahara (1600) cũng như vai tṛ của tướng Shima Sakon tức Shima Katsutake (?-1600), người tư trong trận đánh một mất một c̣n này.

- Hokutô ho hito (Người của sao Bắc Đẩu, 1966) nói về cuộc đời của kiếm khách nổi tiếng thời Edo, Chiba Shuusaku (1794-1855).

-Juuichi ban me no shishi (Nhà chí sĩ thứ 11, 1967) mô tả hoạt động ám sát của kiếm sĩ Tendô Shinsuke, một nhân vật tưởng tượng.

-Saigo no shôgun (Vị Shôgun cuối cùng, 1967), nói về Tokugawa Yoshinobu (1837-1913), Shôgun cuối cùng của Mạc phủ Edo. Sách đă được dịch sang Anh ngữ thành The Last Shôgun bởi nữ dịch giả Juliette Winters Carpenter.

-Junshi (Tuẫn tử, 1967), kể về cái chết của tướng Nogi Maresuke (1849-1912) người đă tự sát sau đám tang của Thiên hoàng Meiji để chuộc lỗi lầm hao quân tổn tướng mà ḿnh đă phạm trong chiến tranh Nhật Nga nhưng được nhà vua lúc đó bỏ qua không xét.

- Kasô no fu (Khúc ca cỏ mùa hè, 1968), lại nói về cuộc đời đầy sóng gió của lănh chúa Chôsokabe Morichika.

-Shin Taiheiki (Tân Thái B́nh Kư, 1968), kể lại đoạn đường đi đến thống nhất thiên hạ của Tể tướng Toyotomi Hideyoshi (1537-1598).

-Yoshitsune (Yoshitsune, 1968) liên quan đến cuộc đời đầy kịch tính của Minamoto no Yoshitsune (1159-1189), người anh hùng bạc mệnh đă góp công xây dựng Mạc phủ Kamakura.

-Miyamoto Musashi (Kiếm khách Miyamoto Musashi, 1968) thuật lại cuộc đời của kiếm khách bất bại và thiền gia Nhật Bản Miyamoto Musashi (1584?-1645).

-Sakano ue no kumo (Vầng mây trên đầu dốc, 1969-72) nói về t́nh bạn của hai anh em quân nhân (Đại tướng lục quân Akiyama Yoshifuru, 1859-1930 và trung tướng hải quân Akiyama Saneyuki, 1868-1918)  với nhà thơ tanka đồng hương là Masaoka Shiki (1867-1902) trong bối cảnh Chiến tranh Nhật Nga và trận công phá Hạm đội Baltic năm 1905.

-Yôkai (Yêu quái, 1969) kể lại ảnh hưởng của phu nhân Hino Tomiko (1440-1496), người đàn bà đầy tham vọng và mưu lược  trên chồng ḿnh là Shôgun Ashikaga Yoshimasa (1436-1490).

-Yo ni sumu hibi (Những ngày sống trên đời, 1971) tập trung chung quanh hành trạng của chí sĩ thời duy tân là nhà giáo dục Yoshida Shôin (1830-1859) cũng như người học tṛ lỗi lạc của ông, nhà hành động Takasugi Shinsaku (1839-1867).

-Jôsai (Thành lũy, 1971-72) tường thuật cảnh công thủ thành Ôsaka trong hai chiến dịch mùa đông và mùa hè khi Tokugawa Ieyasu (1542-1616) kết liễu sự tồn tại của chính quyền Toyotomi.Tuy nhiên nhân vật chính lại là nhà binh pháp học Obata Kagenori (1572-1663), tự Kanbê, quân sư của họ Tokugawa.

-Kaido wo yuku (Đi trên đường cái, 1971-96) kư sự du hành thế giới  từ Đông sang Tây qua nhiều vùng đất theo những tuyến đường chính, có tính chất lịch sử và rất đồ sộ, gồm 43 tập.

-Kashin (Hồn hoa, 1972) nói về tinh hoa của giới sĩ phu Minh Trị mà nhân vật chính là Ômura Masujirô (1825-1869), người có công sáng lập lục quân Nhật Bản.

-Haô no ie (Ḍng dơi bá vương, 1973) nói về gia tộc Tokugawa.

-Harimanada Monogatari (Truyện vùng biển Harima, 1975) kể chuyện Kuroda Josui tức Kuroda Yoshitada (1546-1604), một lănh chúa có cuộc đời oanh liệt, từng cả gan chống đối kế hoạch xâm lăng Triều Tiên, chuốc lấy cơn giận của Toyotomi Hideyoshi.

-Tobu no gotoku (Như bay bổng, 1975-76) ghi lại lịch sử cuộc nội chiến Tây Nam giữa hai người bạn cố cựu nhưng đă khác chính kiến là Saigô Takamori (1827-1877) và Ôkubo Toshimichi (1830-1878) từ khi cuộc Minh Trị Duy Tân mà họ cùng nhau đề xướng đi đến  thành công.

-Kuukai no fukei (Chung quanh đại sư Không Hải, 1975). Tác phẩm về đời hoạt động tôn giáo đầy huyền thoại của cao tăng Kuukai (774-835) thời trung cổ Nhật Bản đă được Akiko Tanemoto dịch sang Anh ngữ dưới nhan đề Kukai, the universal scenes from his life.

-Kochô no yume (Mộng hồ điệp, 1979) chuyện liên quan đến nỗi khổ tâm của 3 nhà trí thức ngành y thời cuối Mạc phủ đầu Duy Tân: Shiba Ryôkai, Matsumoto Ryôjun và Seki Kansai. 

-Kôu to Ryuuhô (Hạng Vũ và Lưu Bang, 1980), viết lại sự tích Hán Sở tranh hùng.

-Na no hana no oki (Ngoài khơi đồng hoa cải dầu, 1982) nói về chí hướng lập nghiệp (ép dầu colza) của nhà buôn đời Edo, Takadaya Kabei.

-Hakone no saka (Dốc Hakone, 1983) nói về sự nghiệp của lănh chúa Hôjô Sôun (1432-1519), một trang hào kiệt thời Chiến Quốc Nhật Bản.

-Tarutaru shippuuroku (Con trốt Thát Đát, 1987) kể lại sự trổi dậy của người Măn châu dưới tài lănh đạo của tù trưởng Nuruhachi (Nỗ Nhi Hạp Xích, 1559-1626) và con ông là Thanh Thái Tông Hontaiji (Hoàng Thái Cực, 1592-1643) thời Minh mạt Thanh sơ.

 

Di Chúc Của Một Nhà Văn

Những bài học lịch sử Shiba Ryôtarô để lại

 

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

                            Từ bóng cây ngôi mộ bên đường,

                              Từ mái tranh bên đ́nh trong làng,

Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống...

Lê Thương (Ḥn Vọng Phu 3)

  

Dẫn nhập:

 

Bài dưới đây được soạn từ thông tin cung cấp bởi Tiến sĩ Isoda Michifumi, giáo sư Đại học văn hoá nghệ thuật Shizuoka, một học giả Nhật Bản đương đại ngành sử và cổ văn thư. Tuy hăy c̣n trẻ tuổi, Giáo sư Isoda tỏ ra rất uyên bác và bén nhạy, biết nh́n lịch sử nước ḿnh với cái nh́n thông thoáng. Ngoài sinh hoạt trên bục giảng, ông đă có nhiều trước tác ăn khách như Kinh tế gia đ́nh samurai (Bushi no kakeibo), Những người Nhật không riêng tư (Mushi no Nihonjin)[3], Truyện Ryôma (Ryômashi) ... và đặc biệt được biết đến rộng răi nhờ màn ảnh truyền h́nh, vũ khí lợi hại nhất của ông.

 

              http://rr.img.naver.jp/mig?src=http%3A%2F%2Fimgcc.naver.jp%2Fkaze%2Fmission%2FUSER%2F20160411%2F71%2F7306501%2F24%2F800x574x1f2bae7da85023002dbceabd.jpg%2F300%2F600&twidth=300&theight=600&qlt=80&res_format=jpg&op=r

              Giáo sư Isoda Michifumi (sinh năm 1970)

 

Qua bài nghiên cứu này, chúng ta thấy Shiba đă để lại cho hậu thế những bài học lịch sử quí giá, nhất là t́m ra những bất cập tai hại tiềm ẩn trong cuộc Minh Trị Duy Tân mà xưa nay, nhiều người tưởng là thần thánh. Nó vạch ra những lỗi lầm di họa đến bao nhiêu thế hệ khi một quốc gia tân hưng tỏ ra hănh tiến.

 

I)        Lời nhắn nhủ của một nhà văn tâm huyết:

 

Shiba Ryôtarô nghiên cứu sâu hơn ai hết mối tương quan giữa con người và lịch sử, ít nhất là liên hệ giữa người Nhật và lịch sử nước họ. Ta có thể khẳng định rằng ông là nhà văn Nhật Bản mà quan điểm lịch sử đă ảnh hưởng đến người cùng thời đại hơn bất cứ đồng nghiệp nào. Nhân v́ trong suốt nửa sau của cuộc đời cầm bút, ông viết toàn là văn nghị luận và phê b́nh lịch sử nên có nhiều người xem ông là sử gia hơn là người viết tiểu thuyết. Dù bản thân ông có muốn hay không, người ta thường nhắc tới Shiba shikan司馬史観 hay “cách nh́n lịch sử (sử quan) của Shiba” và đánh giá ông như một sử gia. Tuy vậy, khi nh́n toàn thể sự nghiệp văn bút, ta thấy rơ ràng bản chất của ông vẫn là người viết tiểu thuyết. 

Trong số tác phẩm đồ sộ Shiba để lại, có ba tiểu thuyết trường thiên đáng lưu ư nhất. Đó là Ryôma ga yuku (Ryôma xông pha), Tobu ga gotoku (Như bay bổng) và Saka no ue no kumo (Vầng mây trên đầu dốc). Ba tác phẩm này mô tả 3 giai đoạn tiến hoá của xă hội Nhật Bản (chuẩn bị, thực hành và đạt đến đỉnh cao) trong quá tŕnh trở thành một nhà nước cận đại. Trước tiên, chúng đề cập đến những hoạt động của Sakamoto Ryôma rồi cặp đôi Ôkubo Toshimichi và Saigô Takamori, sau nữa mới tới quần hùng của thời Chiến tranh Nhật Nga trong đó có Akiyama Saneyuki. Những người này đă giúp Nhật Bản trở thành quốc gia Á châu duy nhất có thể góp mặt với liệt cường Âu Mỹ. Ba cuốn ấy đă vẽ nên bức chân dung của Nhật Bản (NB) mà người dân Nhật khi đọc chúng, đều cảm thấy hài ḷng và tự hào.

Tuy vậy, mặt khác, Shiba cũng đă khơi gợi lên những điểm đen tối của lịch sử NB đương thời cũng như nỗi khổ tâm của các nhân vật  trong cuộc. Nó bắt nguồn từ trải nghiệm cá nhân của chính tác giả hồi chiến tranh Nhật Trung. Nước Nhật cuối đời Mạc phủ bước vào giai đoạn Duy Tân đă xây dựng được một thể chế quyền lực dựa trên sức mạnh quân sự để rồi sau đó, không những giúp nó thoát khỏi hiểm họa bị trị bởi chế độ thực dân mà c̣n có đặc quyền đứng về phía kẻ đô hộ người khác. Thế nhưng đặc quyền này đă làm cho tuổi thanh xuân của Shiba vô cùng đen tối và cay đắng, nói cách khác, nó đă dẫn đến cuộc chiến tranh hết sức bi thảm vào thời  Shôwa.

Trong bài viết này, chúng ta sẽ sử dụng nhiều tác phẩm của Shiba để t́m hiểu lịch sử Nhật Bản kể từ thời Chiến quốc (Sengoku, thế kỷ 16), giai đoạn cuối Mạc phủ đầu Duy Tân (thế kỷ 19), chiến tranh Nhật Nga (1904-05) cho đến Shôwa tiền kỳ (1926-45), một thời kỳ kinh hoàng (mà Shiba gọi là thời kỳ đẻ ra “quái thai” (kitai)) và dừng lại ở thời điểm 1945. Tất cả những tri thức đó có thể giúp ta kiểm điểm lại cách đánh giá về đất nước và con người NB thời hậu chiến.

Ngoài ra, như ta đă nhận ra trong tiểu sử, Shiba Ryôtarô qua đời vào năm 1996, ông hoàn toàn là người của thế kỷ 20. Buổi văn niên, theo lời yêu cầu của những người soạn sách giáo khoa cho học sinh bậc tiểu học, Shiba đă viết tác phẩm ngắn “Thư gửi đàn em nhỏ của thế kỷ 21”(Nijuuisseki ni ikiru kimitachi e) để đăng vào đó, làm như ông có linh cảm ḿnh sẽ không sống sót đến thế kỷ 21. Đúng như thế, ông đă đột ngột qua đời không bao lâu sau và bức thư kia trở thành di chúc của ông gửi cho hậu thế.

Văn chương của Shiba không phải chỉ để tiêu khiển. Nó c̣n muốn có uy lực để thay đổi cuộc đời. Những con người sống trong thế kỷ 21 - Nhật Bản cũng như ngoại quốc - như chúng ta ngày nay có thể dựa vào đó để suy ngẫm và hành động.

Có ư kiến cho rằng, khi viết văn, tác giả nào cũng đưa tất cả những ǵ muốn nói vào bên trong tác phẩm rồi nên tự thể nó là một bài nghị luận. Và như thế không cần phải bàn tán thêm làm ǵ về ảnh hưởng của nó đối với bên ngoài. Tuy nhiên văn chương của Shiba –  cũng như manga của Tezuka Osamu[4] - là những tác phẩm mà người tạo ra chúng đă dồn vào trong đó tất cả tâm tư cho nên có thể làm cho cuộc sống của người đọc tốt đẹp hơn. Chẳng những thế, xă hội mà những độc giả ấy xây dựng nên cũng có thể được cải thiện.

Theo Shiba, Shôwa tiền kỳ (1926-45) là một thời kỳ thất bại của nhà nước NB. Ông đă thu thập nhiều tài liệu về thời Shôwa nhưng rốt cục không viết được cuốn tiểu thuyết nào liên quan đến nó. Nếu như Shiba tiểu thuyết hoá được thời Shôwa, hỏi thử ông sẽ nói lên được điều ǵ hay chỉ giống như tô màu lên những bức tranh như điều chúng ta đă thấy? Thực vậy, đối với giai đoạn này, ông không miêu tả ǵ cả mà chỉ tô màu lên thôi. Thành ra ông đă để lại cho những người sống vào thế kỷ 21 như chúng ta biết bao nhiêu vấn đề cần phải suy ngẫm.

Theo Shiba th́ nhà nước NB đă bao lần lập đi lập lại những lỗi lầm theo một khuôn định h́nh (pattern). Ở Nhật, hầu như khi một luồng tư tưởng đă bám vững trong tập đoàn rồi th́ các cá nhân không c̣n duy tŕ được cách suy nghĩ hợp lư của họ nữa. Một mặt, tổ chức của xă hội Nhật Bản tuy phát huy được sức mạnh bằng cách phân bố vai tṛ cho các thành viên nhưng mặt khác, v́ không khoanh vùng trách nhiệm rơ ràng cho nên khi phải đối phó với một sự cố bất chợt th́ cơ năng lănh đạo của nó lộ ngay sự yếu kém. Ngoài ra, sau khi thu lượm được thông tin để tích trữ trong nội bộ, người Nhật có khuyết điểm là không chia sẻ được với bên ngoài tổ chức để có thể cùng hoạt động cho một mục đích chung trong tương lai. Tư thế (tatazumai, appearance) hay nói cách khác, quốc dân tính này của người Nhật không thể thay đổi dễ dàng dù với một đơn vị thời gian lâu la là một hay hai trăm năm. V́ vậy những điều Shiba viết ra cho đến thế kỷ 20, người Nhật vẫn có thể dùng để chiêm nghiệm trong hoàn cảnh của thế kỷ 21, làm tấm gương soi chiếu hành động của ḿnh. Đó cũng là điều Shiba mong mỏi khi cầm bút viết lá thư gửi thế kỷ 21 như một cách thể hiện tinh thần trách nhiệm của một thế hệ đă trải nghiệm chiến tranh đối với lớp người trẻ mai sau. Chính v́ lư do đó mà cho đến ngày nay, Shiba Ryôtarô vẫn được quốc dân Nhật Bản yêu mến và t́m đọc.

 

II) Đọc “Truyện cướp nước” (Kunitori Monogatari) để hiểu về thời Chiến Quốc (thế kỷ 16) ở Nhật Bản:

 

                    http://ecx.images-amazon.com/images/I/51rcDVcQlxL.jpg

              B́a “Kunitori Monogatari” 

 

Tuy là người viết tiểu thuyết nhưng Shiba Ryôtarô luôn luôn rà soát tài liệu lịch sử và suy ngẫm về nó nên ông c̣n đóng thêm vai tṛ của nhà nghiên cứu sử. Ông không chỉ viết tiểu thuyết lịch sử mà   tạo h́nh lịch sử qua cách tường thuật độc đáo của ḿnh. Đây là một loại nhà văn rất hiếm hoi nhưng đôi khi ta cũng thấy có. Những người này, với tư duy lịch sử sâu sắc và văn tài của ḿnh, có thể ảnh hưởng đến độc giả để thay đổi được ḍng lịch sử của những thế hệ đến sau. Có thể gọi họ là “những sử gia biết kiến tạo lịch sử”.

Người đầu tiên trong nhóm ấy mà ta có thể nhắc tới chắc phải là Kojima Hôshi[5]. Nếu nhà sư này không dùng những câu văn tuyệt đẹp của ông trong Taiheiki (Thái B́nh Kư)[6] để viết lại lịch sử thời tranh chấp Nam Bắc Triều ở Nhật (thế kỷ 14) cũng như ca tụng ḷng trung nghĩa của tướng Kusunoki Masashige[7] th́ lịch sử về sau cũng đă có thể chuyển qua một hướng khác. Khi đề cao Kusunoki và triều đ́nh phương Nam ở Yoshino, Kojima không thể nào ngờ rằng điều đó đă ảnh hưởng đến lịch sử của thời Duy Tân[8] trong việc đánh giá xem Nam hay Bắc, triều đại nào mới là chính thống.

Từ Kojima về sau, chủ yếu chỉ có 3 sử gia khác ảnh hưởng đến cách nh́n lịch sử của người Nhật. Người thứ nhất là Rai Sanyô[9]. Ông đă viết cuốn Nihon gaishi (Nhật Bản ngoại sử) khoảng 200 năm về trước. Theo nội dung sách này, ở Nhật xưa nay kẻ trị v́ là Thiên hoàng c̣n giới samurai (các Mạc phủ) chỉ là một chính quyền vay mượn, chủ trương mà dư luận thời đó không nhận thức được. Nhờ điều ông viết nên tinh thần “tôn vương nhương di” đă được dấy lên trong nước và thay đổi được ḍng lịch sử Nhật Bản cận đại theo hướng mà chúng ta đều biết. Người thứ hai là nhà văn cũng là nhà báo Tokutomi Sohô (Đức Phú Tô Phong)[10]. Sohô viết Nihon kindai kokuminshi (Nhật Bản cận đại quốc dân sử) và đă qui định được quan điểm lịch sử của người Nhật. Có thể nói từ những tư liệu lịch sử ông thu thập, Sohô đă gây được ư thức nơi người Nhật về lịch sử của việc thành lập một nhà nước quốc dân (kokumin kokka)[11] trên quê hương họ. Sohô xuất thân ở Kumamoto, từng theo học trường của phiên. Điều thú vị và rất quan trọng là một người sinh trưởng ở một vùng xa xôi hẻo lánh như Kumamoto mà lại có ư kiến về chính trị Nhật Bản cận đại đến như thế. Ngoài Sohô là kẻ đă kiến tạo ra một cách nh́n lịch sử, phải kể đến Inoue Kowashi (Tĩnh Thượng, Nghị)[12], người đóng vai tṛ quan trọng trong việc hoàn thành Hiến Pháp của Đế Quốc Nhật Bản (Dai Nihon Teikoku kenpô)[13] cũng như Motoda Nagazane[14] (cũng xuất thân từ Kumamoto) đă soạn thảo ra chiếu chỉ về giáo dục (Kyôiku chokugo)[15]. Tóm lại, 3 lănh vực căn bản của nhà nước Nhật Bản cận đại đều đă được sự đóng góp của những ngựi chỉ được theo học một trường phiên ở địa phương.

 

                  Soho Tokutomi 1 cropped.jpg

                   Tokutomi Sohô (1863-1957)[16]

 

Sử gia thứ ba đi sau Rai Sanyô và Tokutomi Sohô và để lại được ảnh hưởng lớn trong quần chúng không ai khác hơn Shiba Ryôtarô. Cần nói thêm là Sohô cũng đă ảnh hưởng nhiều đến phong cách của Shiba. Tuy viết tiểu thuyết nhưng Tokutomi Sohô thường dẫn chứng bằng sử liệu và đây là một điều hiếm thấy nơi các tiểu thuyết gia. Đi theo con đường của Sohô nhưng Shiba c̣n thu thập nhiều sử liệu hơn nữa và kể từ Sohô, ông là người đă xây dựng được một quan điểm mới về lịch sử Nhật Bản trong bối cảnh hậu chiến.

Nếu bàn về đặc tính của lịch sử Nhật Bản hậu chiến (từ sau 1945) th́ trước tiên phải đề cập đến sự phát triển cao độ của kinh tế NB trong thời gian ấy. Nói cách khác, đó là việc thực hiện được một nhà nước dân chủ. Người dân bấy giờ ham đọc loại sách bỏ túi (bunkobon)[17] và con số người đọc sách tăng lên thật nhiều, đến một mức độ chưa từng thấy. Sự tiêu dùng (consumption) phim ảnh và truyền h́nh cũng đă gia tăng một cách bộc phát. Nếu đứng từ trên cao nh́n xuống để có cái nh́n toàn thể th́ ta có cảm tưởng là trong 70 năm của thời hậu chiến, người Nhật đă hoàn toàn bị cuốn hút trong cơn hồng thủy của sách báo, phim ảnh và truyền h́nh. Trong cơn băo lốc truyền thông đó, Shiba lại là một nhà văn có sức cung cấp rất mạnh. Nhờ loại sách bỏ túi bán với giá cực rẻ và dễ mua, văn chương của Shiba đă đến với mọi tủ sách gia đ́nh. Tiếp đến, phim ảnh và truyền h́nh lại phóng tác các tác phẩm ấy nên mức độ thẩm thấu của nó vào đời sống của người Nhật trung b́nh lại sâu thêm. Qua tác phẩm của Shiba, người Nhật tiếp xúc dễ dàng hơn với lịch sử của đất nước và nhờ đó mà tạo được một quan điểm lịch sử cho riêng ḿnh. Dĩ nhiên họ có thể học lịch sử dạy ở nhà trường nữa nhưng lịch sử chép trong sách giáo khoa thường khô khan, vô vị và học sinh không tài nào nắm bắt được những nét tinh tế trong nhân cách các nhân vật lịch sử. Những ai muốn biết về các nhân vật đó một cách sống động và thú vị bắt buộc phải t́m đến hoặc trực tiếp (đọc) hoặc gián tiếp (qua phim ảnh) tác phẩm của Shiba.

 

Tính độc sáng của tác phẩm Shiba:

 

Thực ra, văn chương viết về lịch sử thường gồm có 3 thể loại lớn. Một là tiểu thuyết lịch sử (historical novel), hai là tiểu thuyết lịch sử thông tục (dă sử) (popular historical novel) và ba là một thể loại về sau này ít thấy ai viết là truyện kư về các nhân vật lịch sử tức sử truyện (biography). Nếu xét về độ chính xác lịch sử, cao hơn hết phải là sử truyện sau đến tiểu thuyết lịch sử, c̣n như dă sử th́ có phần thấp.

Tác phẩm của Shiba phần lớn nằm trong phạm vi tiểu thuyết lịch sử. Đề tài ông chấp bút, càng về gần với thời hiện đại th́ càng có phong cách sử truyện (nghĩa là chính xác hơn) v́ tư liệu lịch sử đưọc bảo tồn c̣n nhiều. Ngược lại, nếu đề tài dẫn lên tận một quá khứ xa xôi th́ nó tách khỏi phạm vi tiểu thuyết lịch sử và dễ dàng nhuốm màu sắc dă sử. Có thể nói trong các tác phẩm của Shiba th́ “Vầng mây trên đầu dốc” (Saka no ue no kumo) nói về trận chiến tranh Nhật Nga (1904-05) được xem là gần với thể loại sử truyện hơn tất cả.

Trong lịch sử văn học Nhật Bản, Shiba tỏ ra là một nhà văn có lối hành văn thuật sự hết sức đặc sắc. Ta c̣n có thể xem ông là một nhà văn có cá tính nữa. Xưa nay, khi đọc tiểu thuyết lịch sử, chúng ta ít khi có chủ tâm t́m hiểu về lịch sử của một giai đoạn nào đó trong quá khứ. Phần đông mọi người chỉ nhắm mục đích tiêu khiển như khi đọc bất cứ h́nh thức văn học nào khác.Thế nhưng đối với tác phẩm của Shiba th́ không thế. Người nào muốn biết hoàn cảnh nước Nhật vào cuối đời Chiến Quốc Nhật Bản (Sengoku, thế kỷ 16) hay chi tiết của Chiến tranh Nhật Nga (1904-05) chỉ cần đọc tác phẩm của ông là có thể đạt được mục tiêu. Dù vậy, chưa chắc ai cũng nhất trí với luận cứ nói trên. Có người sẽ chê bai rằng đă là tiểu thuyết th́ đâu phải là sự thực lịch sử. Kẻ khác dễ tính hơn cho rằng nếu mở cho người đọc những cánh cửa khép hờ bằng cách nhặt nhạnh những mảnh vụn sử liệu cũ rồi làm sống lại không khí đương thời th́ chẳng đă đáng được tán thưởng rồi hay sao? Thực thế, độc giả đại chúng vốn không có kiến thức chuyên môn về sử học, cổ văn thư học hay có kỹ năng khảo sát những hiện vật lịch sử...nên khó ḷng khôi phục lại những chi tiết lịch sử như mong muốn. Do đó, một tiểu thuyết gia có công phu thu thập rồi chọn lọc sử liệu và có cái nh́n lịch sử bén nhạy để hồi sinh được lịch sử qua tiểu thuyết quả là một mẫu người hiếm có. Chưa chắc bản thân Shiba đă thích việc người ta nghĩ rằng tác phẩm của ông phản ánh được sự thực lịch sử. Thế nhưng trên đất Nhật ngày nay, thực t́nh không thấy tác phẩm văn học nói về lịch sử nào làm người đọc thống khoải và cảm thấy tâm hồn ḿnh được phong phú thêm cho bằng những sáng tác của Shiba!  

Khi kể tên những nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử chịu ra công sưu tầm tư liệu như Shiba, chỉ thấy có vài người cỡ Yoshimura Akira[18] và Kaionji Chôgorô[19]. C̣n nói về phương pháp cấu tứ cơ bản cho một tiểu thuyết lịch sử, ta biết có cách viết “nh́n tổng quát cái đă rồi xây dựng t́nh tiết sau” (trước nhăn đại cục, trước thủ tiểu cục), vốn tương ứng với chủ trương của Shiba. Điều đó có nghĩa là Shiba là người muốn đứng từ trên ṿm trời nh́n xuống để quán triệt được đặc tính của tinh thần thời đại trước khi đi vào t́nh tiết. Tinh thần thời đại được ông coi như cái dù lớn che trùm lên tất cả. Yoshimura Akira th́ ngược lại. Thủ pháp của ông là làm sao tập hợp đủ mọi t́nh tiết để rồi từ kết quả đó, cái tổng thể của thời đại sẽ tự động lộ diện. Văn chương kiểu Yoshimura là “ḅ sát đất” để t́m ṭi và đúc kết những sự thực lịch sử, xong mới tŕnh bày từng t́nh tiết để giúp độc giả nắm bắt vấn đề. C̣n như Shiba th́ ông giải thích đại lược cho độc giả hiểu trước rồi mới đi vào tiểu tiết. Cách viết kiểu Yoshimura hơi gây khó khăn cho độc giả v́ nó đ̣i hỏi năng lực đọc và lư giải cao. Tuy vậy, cả hai cách viết đều đưa đến một kết quả chung là tô đậm đường nét và màu sắc của thời đại mà hai nhà văn đều muốn đề cập tới. 

Mặt khác, có những nhà văn tiêu biểu cho thể loại tiểu thuyết dă sử như Yamamoto Shugorô[20], Ikenami Shôtarô[21] và Yamada Fuutarô[22]. Thế giới được tŕnh bày qua tác phẩm của họ không cần phải hoàn toàn dựa trên sự thực lịch sử. Nếu như họ dùng lịch sử như một sân khấu th́ những nhân vật diễn xuất trên đó đă được chế tạo và giật giây theo ư muốn. Tiểu thuyết của họ được viết ra như một giả thuyết có tính trí thức cho ta thấy con người sống trong thời đại lịch sử ấy đă hành xử như thế nào. Điều này có nghĩa là tác giả đă dùng những vật liệu tưởng tượng và thử qui nó về một hiện thực để giả định những điều ǵ có khả năng xảy ra vào thời điểm ấy. Do đó, tiểu thuyết dă sử là sản phẩm của trí tưởng tượng và nằm trong lănh vực thuần túy lư luận.

Tuy vậy những nhà văn như Yamada Fuutarô thực ra rất am tường lịch sử, chỉ có cái là ông đă dựa trên lịch sử để tự do thao túng ng̣i bút. Sau khi nắm được những điểm chính của lịch sử rồi, ông đưa vào đó những ư tưởng tân kỳ, đặc dị để vo tṛn bóp méo nó. Chúng ta có thể ví bút pháp này với cách vẽ của một họa sĩ tranh trừu tượng. Như vậy, trong khi Shiba tiến về phía cụ thể th́ Yamada lao vào thế giới tưởng tượng và việc đối chiếu về hai nhà văn này cũng là đề tài nghiên cứu khá thú vị.

Chính ra đối tượng thích hợp nhất để so sánh với Shiba Ryôtarô  phải là Fujisawa Shuhei[23]. Khi đọc tác phẩm của hai nhà văn, ta thường có thể nghĩ rằng cái khác nhau giữa các ông là văn chương Fujisawa thiên về trạng thái tĩnh (静態文学seitai bungaku) trong khi Shiba thiên về trạng thái động (動態文学dôtai bungaku). Fujisawa dùng bối cảnh Unasaka, một phiên trấn vùng Đông Bắc nhưng chỉ có trong tưởng tượng của ông để dựng lên những chuyện ḿnh muốn kể. Unasaka trở thành một cái ống nghiệm tượng trưng cho thời đại Edo để Shuhei có thể thao tác những mẫu thí nghiệm văn học của ông. Như vậy, ở Unasaka, thời gian như ngừng chảy và cuộc sống kéo dài đến vĩnh cửu, c̣n những người sống nơi đó lần lượt được mô tả một cách tỉ mỉ dưới ng̣i bút của Shuhei. Thế nhưng trong thế giới b́nh lặng này, ta không thấy ảnh hưởng của những biến cố lớn như việc mấy chiến hạm của Đề đốc Perry đến Nhật cũng như những cuộc thay bậc đổi ngôi hỗn loạn của thời Sengoku. Shuhei chỉ t́m cách miêu tả h́nh ảnh con người sống trong một xă hội đă an bài và từ đó, gợi ư cho người Nhật từ đây phải sống ra sao.

Việc văn học Shiba được xem như là thiên về trạng thái động là v́ ta thấy ông muốn vẽ ra tính năng động (dynamism) của xă hội. Chẳng hạn việc xưa kia nếu đă có một chính quyền gồm Mạc phủ Tokugawa và chư phiên th́ những yếu tố đó đă được h́nh thành bằng cách nào và bởi những lực lượng nào? Ngược lại, khi Mạc phủ và chư phiên đi đến chỗ sụp đổ, thất bại, hỏi thử những thế lực nào và cách nào đă đẩy chúng đến bờ vực đó. Văn chương Shiba muốn tŕnh bày trước mắt quốc dân Nhật Bản những sức mạnh đă làm cho xă hội Edo chuyển động theo chiều hướng đối nghịch. Có thể nói đây là đặc điểm hàng đầu của văn chương ông v́ nó có thể giúp ta - những người sống trong thế kỷ 21 - tham khảo mà hành động. C̣n như khi muốn quay đầu nh́n lại để phản tỉnh, người Nhật cần đọc Shuhei hơn v́ tư thế (dáng đứng) của xă hội Edo ông miêu tả vốn có ảnh hưởng rất lớn đến xă hội của hôm nay. Hai trạng thái tĩnh và động đă đan xen vào nhau như những sợi chỉ xuyên dọc xuyên ngang, tạo ra tấm vóc văn học lịch sử. Do đó, độc giả Nhật Bản hiện đại, đôi khi không chủ ư hay tùy theo nhu cầu nội tâm của ḿnh lúc đó, có thể t́m đến hoặc Shuhei hoặc Shiba bởi v́ cả hai đều đưa ra những cách nh́n cần thiết khác nhau và đều là những nhà văn được quần chúng quí mến.

 

Bắt đầu với Saitô Dôsan bằng câu hỏi Tại sao? (Why):

 

              http://livedoor.blogimg.jp/jidai2005/imgs/9/1/91a3b3f6.jpg

             Saitô Toshimasa tức Dôsan (1494?-1556)

 

Lư do văn học của Shiba trở thành văn học của trạng thái động đến từ trải nghiệm chiến tranh trong cuộc đời ông. Câu hỏi “Tại sao đất nước ḿnh lại trở thành như thế này?” đă là động cơ để ông viết tiểu thuyết. Vâng, Tại sao (Why) chớ không phải Như thế nào (How)! Giáo sư Isoda Michifumi cho biết khi đọc văn Shiba, ông có cảm tưởng là qua văn mạch đă thấy Shiba t́m cách giải thích, xem những tương quan nhân quả nào đă khiến một sự kiện lịch sử phải xảy ra như vậy.

Trải nghiệm chiến tranh của Shiba làm cho ông đặt ra những câu hỏi như “Tại sao Nhật Bản (NB) thất bại?” “Tại sao lục quân NB đă biến chất để trở thành một tổ chức quái gở?”. Từ đó ông mới đi t́m nguyên nhân của nó trong ḍng lịch sử. Nhà nước NB cận đại đă được sinh ra từ phong trào tôn vương phục cổ, sau khi hoàn thành việc đánh đổ Mạc phủ. Do đó, con mắt của Shiba mới hướng về nguyên do sự thành lập Mạc phủ Tokugawa đă xảy ra từ mấy thể kỷ trước đó và dành ưu tiên t́m hiểu về 3 người anh hùng xuất thân từ vùng đồng bằng Nôbi (Owari) trung bộ Nhật Bản, những kẻ đă xoay chuyển được lịch sử. Đó là Oda Nobunaga, Toyotomi Hideyoshi và Tokugawa Ieyasu. Ba người này đă tiếp tục duy tŕ một thể chế quyền lực có tên là Kôgi (Công nghi公儀). Vào thời Muromachi, Kôji là chữ để chỉ Shôgun và nó tượng trưng cho tính cách chính thống của một hệ thống quyền lực mà chức Shôgun là trung tâm. Chung quanh Shôgun có Mạc phủ và phiên trấn với một tập đoàn lănh chúa gồm các daimyô. Mạc phủ c̣n được gọi là Daikôgi (Đại công nghi大公儀). Hiểu về Kôgi rồi, ta cần t́m hiểu về sự xuất hiện của Oda Nobunaga, người đầu tiên trong 3 nhân vật. Để biết Nobunaga đă bắt đầu sự nghiệp như thế nào, ta buộc ḷng leo lên đến Saitô Dôsan, người cha vợ đă gây dựng cho ông. Quá tŕnh t́m hiểu đó đă thúc đẩy Shiba viết nên Kunitori Monogatari (Truyện cướp nước)[24] vậy.

Trước tiên, Shiba miêu tả Dôsan, nhân vật tiêu biểu cho những anh hùng lịch sử vươn lên từ địa vị thấp hèn để trở thành lănh chúa (daimyô) vào thời Sengoku. Trước kia, Dôsan được xem như người thừa kế cho một gia đ́nh samurai vùng Mino và đă nối nghiệp lănh chúa của cha nhưng sử liệu mới khám phá cho biết cha con ông đều là các nhân vật đi lên từ phía dưới. Nhờ có Dôsan nên mới có Nobunaga, con người có mưu đồ thống nhất thiên hạ, và với Nobunaga truyền thống Kôgi, tượng trưng cho thể chế Mạc phiên (Bakuhansei) và nhà nước NB, đă h́nh thành. Rồi khi chế độ đó sụp đổ th́ một thành phần trong quan chế và binh chế của nó đă bắt tay với vương quyền để đẻ ra cơ cấu mới của nhà nước Minh Trị. Điểm qui kết của cơ cấu đó (nhà nước Minh Trị) cũng là điểm xuất phát cho một thời đại mà đất nước NB đă thai nghén một quái thai (鬼胎kitai)[25] để sau này sinh ra nhà nước quân phiệt thời Shôwa. Nhà nước này đă làm nhiều sai phạm rồi sụp đổ sau đó, nhưng đă biết thay h́nh đổi dạng để trở thành xă hội NB ngày nay. Quan điểm lịch sử của Shiba là như thế cho nên đối với ông, thể chế quyền lực được xây dựng ở vùng đồng bằng Nôbi thời Sengoku ắt phải có một liên hệ trực tiếp nếu không nói là nguồn gốc của xă hội chúng ta đang sống. V́ lẽ đó, ông đă dành nhiều trang giấy của “Truyện cướp nước” để nói về nhân vật Saitô Dôsan. T́m hiểu về Dôsan tức là t́m hiểu qui tŕnh hoá học nào đă gây ra phản ứng để khai sinh Oda Nobunaga. Ban đầu, ông diễn tả sự liên kết của chuỗi phản ứng hoá học đă bắt đầu ở khu vực phía bắc Nôbi để rồi di chuyển xuống khu vực trung ương của đồng bằng. Có thể nói “Truyện cướp nước” là tác phẩm quan trọng hàng đầu trong văn nghiệp Shiba bởi v́ nếu muốn hiểu cách suy nghĩ của ông th́ phải bắt đầu bằng cách đọc nó.

 

Ba “anh hùng b́nh thiên hạ” dưới mắt Shiba:

 

Shiba đă định nghĩa rơ ràng về bản chất của ba người “anh hùng b́nh thiên hạ” (天下人, tenkabito) trong lịch sử cận đại NB. Thực ra ông không hề dựa trên yêu ghét chủ quan để phán đoán và không xem ai trong 3 người là nhân vật lịch sử lư tưởng. Ông chỉ căn cứ vào các chứng cứ lịch sử từ những tư liệu có được để t́m hiểu đặc tính từng người.

Khi đánh giá họ, Shiba tỏ ra rất chính xác. Ông phán quyết một nhân vật là tốt hay xấu một cách rơ ràng. Điều này khác với các tác giả khác v́ một nhân vật chính trong tiểu thuyết thường hay được các vị ấy miêu tả cả cái tốt lẫn cái xấu với tiền đề đặt ra là bản chất con người vốn chứa đầy mâu thuẫn. Thế nhưng Shiba th́ không thế. Nói về Nobunaga chẳng hạn, ông không miêu tả nội tâm Nobunaga mà chỉ chú trọng đến ảnh hưởng của Nobunaga đối với xă hội. Ông có thể định nghĩa một nhân vật mà chỉ dựa trên tính t́nh và tư chất , trong một câu ngắn gọn: “ Một nhân vật hạng hai”, “Có thể nói là người không năng lực” vv... . Việc đánh giá các nhân vật thẳng thừng, gọn gàng như vậy có thể xem như đặc điểm của văn chương Shiba và cũng là điều chúng ta cảm thấy thú vị khi đọc ông.

Thế nhưng điều phải coi chừng là một nhân vật bị đánh giá thấp vẫn thủ được vai tṛ nào đó trong tác phẩm. Chẳng hạn nếu cứ đưa toàn những anh có tài ra là hỏng. Đó là chưa nói đến việc một nhân vật hạng hai về chính trị hoặc quân sự vẫn có thể đứng hàng đầu trong nghệ thuật hay văn chương. Tính đa dạng của một nhân vật cần được chúng ta để ư tới bởi v́ ảnh hưởng của một cá nhân đối với xă hội rất phức tạp. Điều đó là một đặc trưng khác, thường được nhận ra trong tác phẩm của Shiba

Có người sẽ bảo h́nh ảnh nhân vật lịch sử Shiba mô tả không phải là sự thực lịch sử. Họ nhận xét khá xác đáng. Thế nhưng, như đă từng nói bên trên, Shiba chỉ để ư đến “cái khái quát” (đại cục). Chúng ta sẽ không hiểu Shiba nếu không ư thức rằng cái nh́n của ông tập trung vào ảnh hưởng của nhân vật lịch sử lên trên xă hội và ông luôn luôn đơn giản hóa tối đa khi phải đánh giá về một nhân vật. Nếu đọc Shiba, trước tiên chúng ta phải đồng ư là sẽ đọc với “kiến giải lịch sử kiểu Shiba” (Shiba’s literacy).

Từ đây, bước vào việc quan sát ba người “anh hùng b́nh thiên hạ”. Trong Kono kuni no katachi (H́nh thù đất nước này, 1986) - một tác phẩm buổi văn niên – khi nói đến Nobunaga, Hideyoshi và Ieyasu, ông đă viết mấy ḍng như sau:

 

- Mọi sự thay đổi đều đă bắt đầu với Nobunaga...Chính xă hội tiền cận đại là do một tay Nobunaga sắp đặt...

- Nobunaga là người độc sáng...

-Sự vui tính của Hideyoshi cũng là một điểm son của ông ta...

-Ieyasu giỏi giang khéo léo nhưng không phải là người độc sáng (như Nobunaga)....

 

Trước tiên hăy bàn về tính độc sáng của Nobunaga. Những nghiên cứu lịch sử gần đây cho biết tuy Nobunaga độc sáng đấy nhưng không phải lúc nào ông cũng được như vậy. Việc ông coi trọng những tập quán và cơ cấu tổ chức truyền thống của Mạc phủ Muromachi là chứng cứ rất rơ về sự thiếu tính độc sáng. Thế nhưng Shiba chỉ chú trọng đến những cách tân Nobunaga đă làm để thay đổi xă hội đương thời, việc mà những lănh chúa khác có thể không hề nghĩ tới: đặt trọng tâm vào việc dùng chiến thuật mới như súng ống, xây lầu thành (tenshukaku)[26], dùng thuyền bọc thép, đặt nhân tài vào đúng chỗ và không phân biệt giai cấp, dời cứ điểm dựa trên lư do chiến lược hơn là những lư do khác ...

Thế rồi Shiba đề cập đến điểm quan trọng nhất trong sự nghiệp của Nobunaga. Đó là chủ nghĩa thuần lư thấy trong nhân cách của vị anh hùng này. Shiba cho biết Nobunaga có thói quen nh́n người dưới khía cạnh cơ năng của họ nghĩa là xem họ được việc ở điểm nào. Ông thường suy xét theo trực giác và tỏ ra có nghệ sĩ tính, thấy cái ǵ đẹp th́ thích, không hay biện luận dông dài..

Kế đến Hideyoshi, một nhân vật vui tính, nhu nhuyễn trong hành xử, có tài làm người khác yêu mến ḿnh. Về giá trị quan th́ ông ta là người rất cụ thể, hiện thực và vật chất. Ông chỉ chú trọng vào việc xây cho được nhiều thành quách và thu phục nhiều binh tướng, tăng cường quân đội chứ không quan tâm đến những tác phẩm mỹ thuật. Có thể ông là nhà cai trị thể hiện được lối suy nghĩ và sở thích của tầng lớp b́nh dân đương thời. Ít nhất Shiba đă vẽ nên h́nh ảnh đó về ông. Như vậy phải nói là Hideyoshi tượng trưng cho đỉnh cao của năng lực người thường dân Nhật Bản vào thời đó.

Khi bảo Ieyasu giỏi giang mà không độc sáng, Shiba đă cố ư đặt ông ta vào một ví trí đối nghịch với Nobunaga. Theo cách tŕnh bày của Shiba, Ieyasu là một tín đồ của chủ nghĩa hiện thực và là con người tẻ nhạt. Ông keo kiệt, nhẫn nhục, chịu cúi đầu khoanh tay để ḍng họ được trường tồn. Nói tóm lại, ông suy nghĩ hợp lư như Nobunaga và hiện thực như Hideyoshi nhưng có cái ông khác họ là không nghệ sĩ như người thứ nhất và không khoáng đạt như người thứ hai.

Nếu nói thêm về cái khác nhau giữa ba người, dựa trên những ǵ Shiba viết, ta có thể nh́n qua thái độ của họ đối với phụ nữ. Nobunaga thích người đẹp, dù họ là đàn ông hay đàn bà. Cái quan trọng nơi Nobunaga là “cái đẹp” mà ông cảm được bằng trực giác chứ không phải việc người phụ nữ ấy có thể sinh đẻ được hay không, gia thế sang hèn ra sao. Nói cách khác, cái đẹp của người phụ nữ tùy thuộc tất cả vào giá trị quan nằm sẵn trong đầu ông. Ngược lại, người đàn bà Hideyoshi yêu chuộng phải xuất thân con nhà ḍng dơi ví dụ như thuộc hàng bà con của Nobunaga[27], các tiểu thư con nhà công khanh quí tộc hay quan lại tướng tá chủ lực của Mạc phủ Muromachi. Điều đó chứng tỏ cái Hideyoshi thèm muốn là quyền lực, của cải và địa vị, cả ba đều là đối tượng của ḷng tư lợi tư dục nơi người b́nh dân. Một mặt, khi vẽ nên h́nh ảnh một Ieyasu như người đàn ông chỉ yêu thích đàn bà nhiều khả năng sinh sản th́ ông đă nhấn mạnh về tính hiện thực của nhân vật này. Thời xưa, con gái là dụng cụ ngoại giao chính trị và Ieyasu đă triệt để đi theo con đường đó[28] để bảo vệ sự trường tồn của gia đ́nh ḿnh. Tóm lại, Nobunaga thích đàn bà xinh đẹp, Hideyoshi thích đàn bà con nhà ḍng dơi và Ieyasu thích đàn bà mắn đẻ! .

C̣n có một cách nh́n nữa cũng khá thú vị. Đó là nh́n từ quan điểm về sự chuyển biến trong xă hội để đánh giá 3 “anh hùng b́nh thiên hạ” vừa kể. Cụ thể mà nói, trong trường hợp của phiên Chôshuu (tỉnh Yamaguchi bây giờ) vào cuối đời Mạc phủ th́ trước tiên ta phải nhắc đến sự xuất hiện của một con người biết sáng tạo những giá trị mới, “nhà tiên tri”, người của lư luận, là Yoshida Shôin[29], sau đó đến Takasugi Shinsaku[30], học tṛ ông, “nhà cách mạng”, người của hành động, cuối cùng là kẻ gặt hái được những thành quả đó, “người của quyền lực”, Yamagata Aritomo[31]. Cùng một khuôn mẫu như thế, sự cách tân xă hội để manh nha ra nhà nước cận đại NB về sau cũng đă trải qua 3 thời kỳ. Nó bắt đầu với chính sách Tenkafubu (天下布武Thiên hạ bố vũ) tức là thành lập một chính quyền dùng vũ lực để b́nh định đất nước dưới sự chỉ đạo của Nobunaga. Nó đă sinh ra tư tưởng trung ương tập quyền trên đất Nhật. Giai đoạn I thời trung đại này tương ứng với giai đoạn I thời cận đại của Yoshida Shôin. Người thực hành tư tưởng của Nobunaga một cách nhu nhuyễn, khéo léo là Hideyoshi. Thời thứ II này của ông tương ứng với thời thứ II của Takasugi Shinsaku. Cuối cùng, chúng ta bước vào thời thứ III khi con người hiện thực Ieyasu thiết lập được một bộ máy cai trị ổn định trên toàn quốc. Trong bản chất, nó không khác ǵ thời thứ III với Yamagata Aritomo sau này. Từ Sengoku bước qua Edo, từ Mạc mạt (cuối Mạc phủ Edo) bước qua Duy Tân (Minh Trị), quá tŕnh thay đổi của xă hội không khác nhau là mấy. Thực ra, Shiba đă luận về khuôn mẫu quá tŕnh “cách mạng theo 3 giai đoạn” này trong “Hồn hoa” (Kashin, 1972). Bên dưới, chúng ta sẽ khai triển thêm về nó trong tiểu đoạn tŕnh bày nội dung tác phẩm ấy.

 

Tính “hợp lư” của Nobunaga trong “Truyện cướp nước”:

 

Sau đây ta hăy thử phân tích nhân cách và ảnh hưởng của 3 người anh hùng b́nh thiên hạ xuất hiện trong “Truyện cướp nước” đồng thời suy ngẫm về quan điểm viết tiểu thuyết lịch sử của Shiba.

Chúng ta có lần nói đến việc Shiba chú trọng đến tính năng động (dynamism) của lịch sử và ông đă dùng một mồi điểm hỏa đặc biệt giúp chúng ta nắm bắt được ư nghĩa của nó. Đó là việc kết nối Saitô Dôsan với Oda Nobunaga. Ông đặt ḿnh vào vị trí của người kể truyện, phản thần Akechi Mitsuhide, một nhân vật xuất thân từ vùng núi non Mino, trong một tiểu quốc hăy c̣n giữ được nhiều tập quán cổ truyền. Dưới con mắt của Mitsuhide, ta thấy Nobunaga đă sớm lấn lướt và chạy qua mặt thời đại ông ta sống. Nếu là người sống cùng một tốc độ với Nobunaga th́ sẽ không cảm thấy vận tốc trong hành động của ông như khi ở trong hai chiếc xe chạy cùng tốc độ, ta không thể cảm thấy ḿnh đang chạy nhanh. Phải mượn cái nh́n của Mitsuhide, đại diện cho kiểu suy nghĩ xưa cũ, trung đại, của thời Mạc phủ Muromachi th́ mới tạo ra đủ khoảng cách để miêu tả được tính cách dị thường trong hành động của Nobunaga. Với thủ pháp đó, Shiba đă làm bộc lộ sự khác nhau giữa sự kế tục tư tưởng trung đại (nơi Mitsuhide) và sự đột phá bằng tư tưởng cận đại (với Nobunaga).

Shiba có vẻ không chuộng cho lắm mẫu anh hùng vai u thịt bắp. Nhân vật ông khai triển, dù là Akechi Mitsuhide[32], Kuroda Kanbê[33] hay Ômura Masujirô... đều là những “trí tướng” nghĩa là thuộc hàng quân sư hay tham mưu. Ông đă mượn thế đứng của họ và từ chỗ đó, miêu tả cũng như b́nh phẩm hệ thống quyền lực. Sở dĩ Shiba không chọn cách nh́n từ con mắt của những nhân vật chóp bu như Nobunaga, Hideyoshi hay Ieyasu là v́ ông rất tôn trọng tính khách quan trong cách phán đoán lịch sử. Đó cũng v́ vào thời Shôwa tiền kỳ (1926-45), việc không có một cái nh́n khách quan đối với lịch sử và quyền lực của nhà nước đă làm cho NB đi vào sai lầm và dĩ nhiên, Shiba muốn nhân đó phản tỉnh về sự thiếu sót này.

H́nh ảnh Nobunaga trong “Truyện cướp nước” đả được tô vẽ như con người theo chủ nghĩa thuần lư dến nơi dến chốn.

 

Nobunaga có một cái tánh rất hiếm. Ông chỉ xét ngựi theo vai tṛ họ có thể đóng. Để đạt mục đích là tạo nên được một mũi dùi nhọn tiến công bằng cách xây dựng một binh đoàn hùng hậu giúp nhà Oda của ông chinh phục được đất đai các tiểu quốc lân cận để cuối cùng thống nhất cả thiên hạ, ông biết kết hợp mọi sức mạnh từ anh em bà con cho đến tướng tá của ḿnh.... Ông chỉ dùng thủ hạ theo năng lực, lúc đề bạt, lúc loại trừ. Quá tệ th́ đuổi đi hoặc giết luôn. Quản lư nhân sự kiểu ông thật là tàn nhẫn.

 

Trong tác phẩm có kể việc Nobunaga gửi sứ giả đến gặp Mitsuhide, phong cho ông ta hai lănh địa Izumo và Iwami hiện đang nằm dưới sự quản hạt của kẻ địch của họ là Môri. Đồng thời sứ giả cũng đ̣i lại Ômi và Tamba là đất Mitsuhide hiện đang cai trị. Nghe tin đó, Mitsuhide đă bày tỏ nỗi ḷng của ḿnh như sau:

 

Nobunaga như người thợ mộc thích có một cái đục tốt. Ông chọn đục kỹ càng và hiểu rơ cái đục đó phải được dùng vào việc ǵ. Ông khéo léo như thế trong cả việc điều khiển tướng tá tay chân. Mitsuhide tôi có được địa vị ngày nay cũng là ở cái tính thích sử dụng công cụ đến mức độ bệnh hoạn của Nobunaga.

 

Trong “H́nh thù đất nước này” (Kono kuni no katachi, 1986), Shiba cũng có một lời b́nh phẩm tương tự về Nobunaga:

 

Rốt cuộc, Nobunaga chỉ xét người như một dụng cụ. Đă là dụng cụ th́ phải bén nhọn, dùng được vào nhiều việc chừng nào th́ tốt chừng nấy.

 

Tóm lại, Nobunaga xét người bằng đặc tính của mỗi người nhưng điều này cũng lại là đặc điểm của xă hội cận đại. Mặt khác, theo lối nghĩ thông thường và c̣n đóng khung trong cách suy nghĩ của thời trung đại như Mitsuhide th́ con người không tùy thuộc vào khả năng mà được đánh giá theo gia thế nơi sinh ra.Nếu là một cái đục th́ cho dù không đục cho xong cái ǵ cả, giá tiền của nó được quyết định ở chỗ ai đă tạo ra nó. Xă hội cũ đă phán quyết như tiền đề là một cái đục nếu do nơi danh tiếng làm ra th́ nhất định phải đục  tốt. Sự yên trí, sự bảo kê và ḷng tin cậy mà người ta đem đến để vun đắp cho nó có một cơ sở lớn lao nhất mà trung tâm là chế độ thiên hoàng. Chế độ này đă được xây dựng một cách mềm dẻo bởi v́ trong khi những dụng cụ ngoại vi thay đổi, cái trục chính vẫn xoay chuyển đúng theo nguyên lư gọi là “nguyên lư tùy thuộc” (所属原理shozoku genri). Khi đọc các tác phẩm của Shiba, ta thấy chúng được cấu tạo với một khoảng chân không ở chính giữa và những yếu tố ngoại vi được miêu tả như guồng chỉ quấn chung quanh.

 

 Shiba đánh giá Hideyoshi và Ieyasu như thế nào?

 

Khi tŕnh bày về tính t́nh của Hideyoshi trong “Truyện cướp nước”, Shiga đă dùng chữ “kẻ bịp bợm” (hitotarashi):

 

Ông này (Hideyoshi) giỏi việc đọc trong gan ruột người ta. Có thể gọi là một tay cừ.

 

C̣n như đối với Nobunaga là người đă cư xử một cách tàn nhẫn đối với Ieyasu[34], Shiba đă đặt câu nói diễn tả một tâm trạng lo lắng như sau đây vào miệng Mitsuhide:

 

Dù tôi có cúc cung tận tụy, trước sau rồi cũng sẽ bị giết mà thôi!

 

Trong lúc ấy, Hideyoshi mượn cớ ḿnh không có con trai nối dơi, đă chơi ngược bằng cách xin Nobunaga cho người con trai thứ tư của ông ta làm dưỡng tử nhà ḿnh. Shiba viết:

 

Ở điểm này, ta thấy Hideyoshi nh́n thấu tim đen của Nobunaga.

 

Dĩ nhiên Hideyoshi tận tâm tận lực để đáp lại mọi điều Nobunaga mong đợi nơi ông. Thế nhưng theo Shiba, Hideyoshi cũng biết nếu ḿnh để lộ quá nhiều tài năng th́ sẽ bị ông chủ Nobunaga đem ḷng nghi ngờ và ghen ghét.

 

Từ thời thơ ấu, Hideyoshi đă lao khổ, chung đụng với đủ hạng người cho nên ông hiểu rơ t́nh đời nó rất khúc mắc.

 

Có lẽ v́ thế mà khi Hideyoshi theo lệnh Nobunaga chinh phạt họ Môri ờ phiá Nam đảo Honshuu xong rồi, ông không nhận làm đất phong mà tiếp tục v́ Nobunaga đi b́nh định đảo Kyuushuu. Sau khi dâng đất Kyuushuu cho chủ, ông lại xin xuất quân đánh Triều Tiên và chỉ mong được thưởng công bằng vùng đất xa xôi này khi đă chiếm được. Đối với việc đó, Nobunaga có vẻ bằng ḷng, đă cười ha hả và ban phát một lời khen: “Này Echizen (ám chỉ Hideyoshi), nhà ngươi đúng là con người phóng khoáng!”. Lời khen ngợi này sẽ có âm vang đến những câu mô tả Hideyoshi trong”H́nh thù đất nước này”:

 

Hideyoshi đă sớm hiểu bản chất Nobunaga. Khi phục vụ một kẻ duy vật như ông ta th́ nên quên bẵng con người của ḿnh và đóng cho được vai tṛ của một dụng cụ.

 

Đối với con người như Nobunaga chỉ coi kẻ khác là dụng cụ, Hideyoshi đă biết biến ḿnh thành một dụng cụ. Chính v́ thế mà liên hệ chủ tớ của hai người trở thành trơn tru, êm thắm. Sau đó, Hideyoshi đă xả thân phục vụ Nobunaga trong sự nghiệp thống nhất thiên hạ.

Như đă nói ở bên trên, nhân vật Hideyoshi được xem như “kẻ bịp bợm” (人誑しhitotarashi). Chữ hitotarashi này chúng ta c̣n thấy trong “Một đời trai háo sắc” (Kôshoku ichidaiotoko), tác phẩm tiểu thuyết của nhà văn thời Edo, Ihara Saikaku (井原西鶴1642-93). Ư nghĩa của nó là “gian dối người”, cách đánh giá mang tính tiêu cực về một nhân vật. Thế nhưng ở đây Shiba đă dùng với ư nghĩa tích cực. Hitotarashi không có nghĩa xấu. Hideyoshi chỉ là người thấu suốt tâm t́nh của kẻ khác.

Shiba đă vẽ ra h́nh ảnh Hideyoshi như tượng trưng của mẫu người trong tổ chức xă hội NB biết từ dưới leo lên từng nấc thang một. Trong thời đại kinh tế phát triển cao độ, họ là những nhân viên hăng buôn năng nổ, tận tụy, sống chết v́ hăng. Họ không chỉ có năng lực cao mà thôi. Phải là một người vui tính, được tất cả yêu mến và cứ như thế mà thăng quan tiến chức.

Ở điểm này, theo Giáo sư Isoda Michifumi, NB là một xă hội biết chấp nhận gekokujô (下剋上hạ khắc thượng) nghĩa là cho phép những người bên dưới có cơ hội ngoi lên. Cũng theo ông, có thể h́nh thức này đă bắt đầu từ cuối thời trung đại. Tuy vấp phải chế độ phân chia giai cấp (身分制mibunsei) dưới thời Edo nhưng người Nhật đă được giải phóng khỏi nó từ cuộc Minh Trị Duy Tân. Phải chăng đó cũng là bối cảnh sự tiến thân của Hideyoshi?

C̣n về Ieyasu th́ “Truyện cướp nước” đă cho ta thấy nhân vật này là một con người quỷ quyệt. Sau khi đánh bại cường địch là họ Takeda, Nobunaga chỉ ban cho Ieyasu, người đồng minh lâu năm của ḿnh, một cái ấp phong nhỏ bé là vùng Tsuruga ( một phần tỉnh Fukui và nh́n ra biển Nhật Bản). Shiba kể rằng:

 

Ieyasu không lấy làm bất măn v́ món lộc bạc bẽo này. Ông ngẫm nghĩ về những điều thầm kín mà Nobunaga có thể cảm thấy trong ḷng nên tỏ ra  vui mừng nhận lănh.

 

Ieyasu đă gửi bề tôi thân tín tới thành Azuchi để tạ ơn Nobunaga. Nói cách khác là cách bày tỏ sự vui mừng của ông hơi quá trớn nhưng lư do là ông sợ Nobunaga không được yên ḷng. Như vậy, Shiba đă miêu tả Ieyasu như một nhân vật khó có ai nắm được thực tâm. Đó là lối xử thế của một người biết làm sao để sống c̣n[35]. Đối với mặt “dương” của Hideyoshi, ông tượng trưng cho mặt “âm” của cùng một tính nết. Nếu bảo Hideyoshi lắm lời và Ieyasu thích im lặng th́ cũng được. Có thể Ieyasu nói nhiều khi ông đứng trước mặt Hideyoshi nhưng về phương diện ảnh hưởng của một nhà lănh đạo đối với xă hội th́ phải nói Ieyasu là một người hà tiện thông tin.

 

Ảnh hưởng ba người anh hùng đă để lại cho đời:

 

Chúng ta vừa nói đến những cái khác nhau chính giữa Nobunaga, Hideyoshi và Ieyasu. Cá tính các ông đều có chỗ ảnh hưởng đến ư nghĩ của người Nhật hiện đại. Trong đó, cái quan trọng nhất là sự thế tục hoá (secularization). Shiba cho rằng nếu số đông người Nhật vẫn tôn trọng một cách tuyệt đối những thực thể siêu nhiên như Thần Phật th́ cũng có những người Nhật chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân kiểu Nobunaga. Khuynh hướng này càng đậm nét và tỏa rộng đến tận từng người Nhật kể từ thời đại của Nobunaga.V́ thế, khác với những ǵ xảy ra ở Trung Đông và Tây phương, người Nhật đă bỏ lại đằng sau những cuộc tranh chấp có màu sắc tôn giáo cuối cùng như các cuộc nổi loạn Ikkô Ikki (Phật giáo, 1460-66) và Shimabara (Ki-tô giáo, 1637-38) mà thiệt hại về người và của vô cùng lớn lao. Tóm lại, sức mạnh thế tục đă vượt lên trên thần quyền của tôn giáo.

Thử nh́n ví dụ về Hideyoshi. Ông tưng trưng cho quyền lực thế tục. Nếu ông có giữ lại Thiên hoàng (Thần Đạo) và chùa Honganji (Phật giáo)[36] chỉ là để lợi dụng. Ieyasu cũng giữ lại bộ xương khô của Mạc phủ Muromachi là chế độ Kôke (高家Cao gia)[37] để làm cảnh cho Mạc phủ của ḿnh. Những cảnh tượng xảy ra vào thời tiền cận đại ở Nhật cho thấy quyền lực thế tục đă áp đảo quyền uy tôn giáo và biết lợi dụng nó. Tính thế tục được thấy rơ nơi ba người anh hùng này. Duy mỗi Nobunaga là đối địch trực diện với thế lực tôn giáo trung đại và đập tan nó. Ông đă thiêu rụi chùa chiền trên Hieizan và ghét các nhà tu hành như rắn rết. Shiba đă tả lại rơ ràng về điều này trong “Truyện cướp nước”.

 

                   http://www.oocities.org/heterochromiajp/essay/aketi/n9012.jpg

                    Phản thần Akechi Mitsuhide

 

Đối với một con người chỉ biết đốt phá và chém giết như Nobunaga th́ Mitsuhide – nhân vật đại diện cho giá trị quan bảo thủ – đă nhiều lần thử can ngăn. Khi Mitsuhide viện cớ chùa Enryakuji trên Hieizan là nơi có truyền thống lâu đời và triều đ́nh Kyôto đáng phải được tôn kính th́ Shiba đă để Nobunaga trả lời lại như sau:

 

- Mi muốn nối giáo cho giặc ư? ...Những kẻ như bọn chúng làm ǵ có thể trấn hộ nước nhà, bảo vệ vương pháp, ngay cả cầu đảo cho ngọc thể của thiên hoàng được an khang!

Phật cũng có tội đấy chứ. Để bọn sư săi vô lại đó sống phây phây trước mắt suốt 700 năm qua mà không quở trách chúng, quả là Phật lơ đễnh quá mức. Phật kiểu đó chỉ đáng cho ta quật cho vài chùy sắt.

Cái gọi là Phật chỉ do gỗ và kim loại làm ra mà thôi...

Đập tan thành cát bụi mấy ông mănh cũ và xây dựng một cơi đời mới là sự nghiệp vĩ đại của Nobunaga này. Để được như vậy, dù Phật đi nữa cũng phải cút xéo!

 

So sánh với h́nh ảnh của Nobunaga, Shiba đă vẽ nên h́nh ảnh một Ieyasu như người hoàn toàn theo chủ nghĩa hiện thực. Ieyasu đă biết giữ lại một phần quyền uy cổ xưa của chế độ Thiên hoàng cũng như Mạc phủ Muromachi và ghép nó vào chính quyền ḿnh. H́nh ảnh Ieyasu ở đây rất nhất trí với cái tính “không phủ nhận hoàn toàn một điều ǵ bao giờ” của quốc dân NB. Kết quả là, qua nhân vật Ieyasu, Shiba đă vẽ nên h́nh ảnh của một người Nhật tiêu biểu.

Tuy vậy, cái hay của văn chương Shiba nằm ở chỗ miêu tả được những nhân vật thoát ra khỏi khuôn khổ người Nhật b́nh thường. Nobunaga trong “Truyện cướp nước” th́ đă quá rơ ràng nhưng cả Sakamoto Ryôma hay Akiyama Saneyuki[38] cũng đều khác với h́nh ảnh con người NB xưa nay. Hai ông này là nhân vật chủ chốt trong hai tác phẩm tiêu biểu của Shiba: “Ryôma xông pha” và “Vầng mây trên đầu dốc”. Đến bây giờ, hai cuốn truyện đó vẫn ăn khách như bestseller. Nhờ chúng, tên tuổi hai ông ngày nay ai cũng biết đến. Điều cần chú ư ở đây là đại đa số quần chúng độc giả có thể là những con người đă sinh ra từ thể chế quyền lực của Ieyasu. Để có thể sống thuận thảo với chính quyền, họ nhiều khi bị bắt buộc nhẫn nại chịu đựng. V́ lư do đó, khám phá được sự tồn tại của những con người ngoài khuôn phép như Nobunaga hay Ryôma dưới ng̣i bút Shiba đủ làm cho họ khoái chí. Nhà văn đă biết dựa trên những sự thực lịch sử để cung cấp cho họ một thứ cảm giác có thể gọi là “tự do” hay “tự do do Shiba đem lại”. Người Nhật t́m thấy trong tác phẩm của ông một niềm vui thỏa. Trái tim của họ rộn ràng v́ những hành động anh hùng mà bản thân ḿnh không thể làm nổi. Họ cảm thấy như đang được rong chơi trong lịch sử. 

 

Shiba muốn nhắn ǵ với đồng bào ông qua “Truyện cướp nước”?

 

Tuy căm ghét hành động tàn ác của Nobunaga nhưng phải nh́n nhận là Shiba ngưỡng mộ tính thuần lư (rationality) của ông ta. Khi mô tả cảnh tượng Nobunaga cho đốt chùa giết sư trên ngọn Hieizan, Shiba đồng thời đánh giá rằng nhân vật này đă mở đường cho tư duy và hành động hợp lư của con người NB tiền cận đại và cận đại. Ông vẽ nên h́nh ảnh một Nobunaga như tượng trưng cho tư duy phủ định cái tương quan nhân quả giữa tín ngưỡng và quyền lực. Nhà độc tài ấy muốn chứng minh rằng tương quan ấy không hề có cơ sở. Sự xuất hiện của con người tham bạo và làm rối loạn kỷ cương là Nobunaga đă mở ra cánh cửa của thời tiền cận đại và cận đại như món quà bật tung ra từ cái hộp Pandôra trong thần thoại Hy Lạp. Từ mặt bằng đó, Hideyoshi đă chuẩn bị thêm bằng cách xây đắp chế độ Kokudaka (Thạch (hộc) cao) [39]và một nhà nước quân sự mà Ieyasu tiếp tục duy tŕ. Phần Ieyasu th́ đầu tiên ông đă học về tổ chức chế độ quân sự từ lănh chúa vùng Kai là Takeda Shingen, thế rồi khi được dời đất phong về miền Đông (Kantô) lại học tập cách quản lư Tenryô (Thiên lănh)[40] từ họ Hôjô nghĩa là biết o bế, trọng đăi con nhà hào tộc sở tại. Ông c̣n áp dụng chế độ Kokudaka của Hideyoshi vào trong đường lối cai trị của ḿnh. Chính v́ những sự vay mượn trên mà Shiba mới hạ bút: “Ieyasu không có tính độc sáng”!

Dù vậy, khi nghĩ lại, ta vẫn thấy xă hội NB có khuynh hướng không thích sự thay đổi đường lối một cách đột ngột. Trong lịch sử kinh tế người ta thường nhắc đến mấy chữ “bám theo đựng lối” (keiro izon経路依存) và kẻ nào biết nương theo đường lối đă tiến hành cuối cùng sẽ gồm thu thiên hạ. Mặt khác, con người muốn phá vỡ kỷ cương như Nobunaga bắt buộc bị đào thải. Có lẽ Shiba muốn chứng minh những điều nói trên bằng văn chương. ”Truyện cướp nước” gợi ư về một phương thức hành động khéo léo để có thể sống c̣n trong xă hội NB.

Người dùng bạo lực khống chế các thế lực quốc nội để xây dựng nên một hệ thống chính trị trung ương tập quyền cho đất nước này là Nobunaga. Trong câu chuyện về ông, Shiba muốn nhắc nhở chúng ta rằng, từ đó về sau, trong nếp sống của người Nhật, luôn luôn có hai mặt. Một là một mặt tích cực với tư duy hợp lư và hiện thực lạc quan, không thắc mắc về bất cứ vấn đề ǵ. Thêm một mặt nữa, mặt tiêu cực, là việc đ̣i hỏi cá nhân trung thành một cách quá mức với hệ thống quyền lực, trong một tương quan “trên bảo dưới nghe” (thượng ư hạ đạt). Những quyền lực thế tục từ thời Nobunaga về sau - vốn bắt nguồn từ một thực thể bạo lực – vay mượn sức mạnh cũng như mọi thứ từ quyền uy của thiên hoàng, bắt đầu sổ lồng và bứt chạy như điên cuồng, không ai truy cản nổi, để rồi chỉ ngừng lại khi nếm mùi thất bại. Trong quốc gia cận đại của con cháu người anh hùng b́nh thiên hạ Nobunaga, người ta thấy rơ cái khía cạnh tiêu cực đó. Nó đă dẫn đến một nguy cơ bạo loạn đáng sợ.

Cái tính cách lưỡng diện của nhà nước Nhật Bản vào cuối thời Sengoku (thế kỷ 16) đă được thể hiện bằng h́nh thức chính quyền kiểu Kôgi đại diện bởi ba người anh hùng b́nh thiên hạ. Việc lục quân NB muốn sử dụng “nắm đấm sắt” của ḿnh đă được thai nghén từ quá tŕnh “cướp nước” của tổ tiên họ, ba con người sinh ra từ đồng bằng Nobi, mà “Truyện cướp nước” đă miêu tả tường tận.

 

Viết giữa bối cảnh giai đoạn kinh tế phát triển cao độ:  

 

Trong xă hội hậu chiến thời Shôwa, cùng với sự ra đời của Hiến pháp mới (công bố năm 1946) tập trung vào mục tiêu bảo vệ ḥa b́nh, người ta thường tránh né những cuộc nghị luận chung quanh các vấn đề quân sự, chế độ Thiên hoàng và sự tồn tại của các giáo phái. Thế nhưng ngày nay chúng ta đă bước vào một thời đại mà ư đồ tránh né đó không c̣n được chấp nhận nữa. Hành vi khủng bố bằng chất độc Sarin của giáo phái Aumu phơi trần những vấn đề tôn giáo. Cũng vậy, hai cuộc Chiến tranh vùng vịnh (The Gulf War) đă khơi mào cho nghị luận về quân sự bởi v́ vấn đề là NB từ đây sẽ phải giải thích thế nào về nội dung Anpo (Hiệp ước pḥng thủ hỗ tương Nhật Mỹ). Khi phải trực diện với những vấn đề trên, NB rất cần tham khảo cái nh́n của Shiba để soi sáng những cuộc nghị luận. Shiba chẳng đă đưa ra nhiều kiến giải lịch sử đáng lưu ư về tương quan giữa nhà nước và quân đội, quá tŕnh từ phát sinh cho đến kết thúc của cuộc bạo tẩu điên cuồng của giới quân sự NB vào đầu thời Shôwa đấy sao! Những người NB của thế kỷ 21 có thể t́m thấy biết bao nhiêu gợi ư đến từ những trang giấy của “Truyện cướp nước”.

Hơn nữa, việc t́m hiểu xem tác phẩm này đă được Shiba chấp bút trong bối cảnh nào cũng là một điều đáng làm. Thực vậy, “Truyện cướp nước” đă được đăng tải liên tục trong 3 năm từ 1963 đến 1966. Thời kỳ này trùng hợp với giai đoạn phát triển cao độ của kinh tế NB. Đó là thời đại mà các binh sĩ hồi hương và giải ngũ đóng góp rất nhiều cho cuộc phục hưng. Họ đang hết sức cố gắng làm việc để tái thiết đất nước. Giữa lúc đó th́ “Truyện cướp nước” ra đời. Chắc chắn là độc giả đă đồng cảm được với một tác phẩm văn học xoay quanh câu chuyện “những người mất nước đang muốn giành lại nước ḿnh một lần nữa”. Hơn nữa, đó là một quá tŕnh kinh tế đưa đến sự sung túc của một xă hội đại chúng và đồng thời, về mặt chính trị, tính phi hợp lư của xă hội thời chiến cũng bị người đương thời mang ra phê b́nh. V́ những lư do trên, nếu “Truyện cướp nước” được đông đảo độc giả ái mộ th́ chỉ là chuyện đương nhiên.

Thế nhưng trong quần chúng, giữa khi vẫn có kẻ chia sẻ giá trị quan của thời đại cũ, đă xuất hiện những người muốn thoát ra khỏi giá trị quan đó. Nông dân NB thời hậu chiến đoàn lũ bỏ nhà lên thành phố lớn để làm việc trong các hăng xưởng (集団就職shuudan shuushoku trong thập niên 1950) thành ra số người chọn thành phố làm nơi định cư ngày càng đông đảo. Chúng ta phải để ư đến hiện tượng “di động” này. “Truyện cướp nước” ngày xưa cũng là câu chuyện của những con người “di động” với mục đích gồm thu thiên hạ. Di động như thế, con người sẽ có cơ hội xây dựng được một thời đại mới. Khi chiếm lĩnh thêm một lănh địa là con người mở ra được một thế giới mới. Như thế, cảnh ngộ của người thời Sengoku trong tác phẩm của Shiba nào có khác ǵ cảnh ngộ những nông dân đă biến ḿnh thành thị dân của các thành phố thời nay.

 

             http://livedoor.blogimg.jp/yousayplanet/imgs/8/5/8536f471.jpg

          Phong trào bỏ nông thôn lên tỉnh làm việc những năm 1950

 

Cũng phải nói thêm một điều nữa là trong thời đại kinh tế phát triển cao độ, xă hội cũng như cá nhân đều không tránh khỏi sự cạnh tranh. Chẳng hạn xă hội trọng bằng cấp (学歴社会gakureki shakai) đẻ ra sự kỳ thị đến từ lối suy nghĩ xem bằng cấp quyết định tất cả. Ngược lại, cùng lúc đó, nó cho phép người có bằng cấp được tự do cạnh tranh để leo lên cao hơn trên nấc thang xă hội. Nguồn cung cấp học sinh cho các trường cao trung (cấp 3) của học chế ngày xưa giới hạn quanh quẩn trong giới quan lại, giáo viên, địa chủ, đền chùa và những gia đ́nh buôn bán. Sau khi sự đô thị hoá càng tiến xa th́ có thêm những gia đ́nh tư chức (salaryman) bậc trung và chủ hiệu buôn tham dự vào cuộc “chiến tranh” tuyển sinh vào đại học. Như thế, thời đại xă hội đại chúng đă bắt đầu. Nhân v́ qui mô xă hội cũng đă mở ra rộng răi, chỉ cần tốt nghiệp đại học th́ xă hội sẽ cung cấp ngay cho chức phận và địa vị. Đối với cá nhân, xă hội đă chuẩn bị đủ điều kiện để viết nên câu chuyện thành công (success story) của thế hệ họ. Bối cảnh đó là một nhân tố quan trọng đă khiến cho đại chúng độc giả ủng hộ “Truyện cướp nước” vốn cũng là một câu chuyện đổi đời được Shiba viết ra.      

 

III) Điều kiện trở thành lănh đạo quần chúng vào cuối thời Mạc phủ. T́m thấy ǵ trong tác phẩm “Hồn hoa” (Kashin)?:

 

Đặc trưng của tác phẩm Shiba nói về thời Mạc mạt:

 

Văn chương Shiba thường chọn chủ đề liên quan đến những khúc quanh lịch sử. Thời Sengoku và thời Mạc mạt (cuối Mạc phủ Edo) đều là lúc xă hội có những chuyển biến quan trọng. Lư do Shiba chọn hai giai đoạn này không chỉ v́ chúng có nhiều cuộc chiến tranh. Chiến tranh chỉ là hậu quả của thời cuộc. Lịch sử loài người thường xen kẽ những thời kỳ sôi động và những thời kỳ b́nh lặng, chu kỳ này lập đi lập lại một cách thường xuyên giống như một cơn địa chấn xảy ra giữa hai thời kỳ yên tĩnh. Thời sôi động trước đây là thời Sengoku (thế kỷ 16) và thời sôi động sau này là thời Mạc mạt (thế kỷ 19). Cái gọi là thời Sengoku (Chiến quốc = tranh đoạt giữa các tiểu quốc) đă đập vỡ nát xă hội trung đại để mở ra thời tiền cận đại kéo dài gần 3 thế kỷ với Mạc phủ Edo. Những biến động thời Bakumatsu (Mạc mạt = thời Mạc phủ suy vi kể từ biến cố đoàn chiến thuyền vỏ bọc thép của Perry đến Nhật năm 1853) đă đập vỡ hệ thống chính quyền Mạc phủ và đưa đến sự h́nh thành của thời cận đại với nhà nước Minh Trị. Là một nhà văn chú chú ư đến “trạng thái động” của xă hội, nếu Shiba muốn quan sát thật gần những cuộc biến động ấy để kể lại cho đời th́ cũng là điều dễ thông cảm.

Chúng ta có lần nói đến phương pháp “trước nhăn đại cục, trước thủ tiểu cục” trong Chương I mà những nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử như Shiba hay áp dụng. Ngoài ra, ta thấy Shiba c̣n thích đưa ra một nhân vật làm trung tâm rồi kết hợp nhân vật ấy với những sự kiện chung quanh để miêu tả được ḍng chảy chính của thời đại. Đặc điểm thứ ba là việc nhiều sử liệu liên quan đến nhân vật ấy hăy c̣n được bảo tồn. Sau khi hội đủ được 3 yếu tố trên, cho dù nhân vật trung tâm đó không phải là người có địa vị trên đỉnh cao quyền lực mà chỉ đứng bên cạnh và giữ một vai thứ yếu (脇役wakiyaku) đi chăng nữa th́ cũng đă đủ cho Shiba có cơ sở để cấu tứ rồi.

Thí dụ tiêu biểu nhất là tác phẩm “Ryôma xông pha” (Ryôma ga yuku)[41], kể lại chuyện Sakamoto Ryôma, một samurai vô chủ (rônin) xuất thân từ phiên Tosa trên đảo Shikoku[42] đă có thể thay đổi được ḍng lịch sử thời đại ông ta sống. Ông là một nhân vật thứ yếu và không thuộc hệ thống quyền lực. Cũng vậy, trong những người theo Mạc phủ (nghĩa là ngược với Ryôma) th́ h́nh tượng nhân vật kiểu đó là Hijikata Toshizô, một thủ lănh của nhóm vơ sĩ giữ trị an thành phố Kyôto trong buổi giao thời tên là Shinsengumi mà chúng ta gặp trong “Kiếm ơi, hăy cháy lên!” (Moeyo! ken)[43]. Khi nói về sự thành lập nhà nước cận đại thời Minh Trị trong “Như bay bổng” (Tobu ga gotoku)[44] th́ những nhân vật ông đưa ra là Saigô Takamori và Ôkubo Toshimichi. C̣n khi miêu tả về những cuộc vận động đầu tiên để mở ra thời cận đại trong “Những ngày sống trên đời” (Yo ni sumu hibi)[45] th́ nhân vật chính của ông là nhà giáo dục Yoshida Shôin.

So sánh với các nhà văn chia sẻ một chủ đề với ḿnh, đặc tính nổi bật nơi Shiba là ông viết cả về những người chống đối Mạc phủ (đảo Mạc) lẫn người pḥ tá Mạc phủ (tá Mạc). Thực vậy, những cây bút viết về hai loại người này cùng lúc chỉ có thể đếm được trên đầu ngón tay. Riêng Shiba th́ những phân tích về Akechi Mitsuhide trong “Truyện cướp nước” của ông thấy trong Chương I, đă cho chúng ta cách nh́n lịch sử bằng con mắt của một nhân vật tượng trưng cho một xă hội đang suy thoái. Trong những tác phẩm nói về giai đoạn cuối của Mạc phủ Edo cũng vậy, cũng có khi ông cho phép bên thua cuộc được bày tỏ lập trường. Ví dụ “Kẻ bảo vệ hoàng cung” (Ôjô no goeisha)[46], tác phẩm miêu tả nhân vật Matsudaira Katamori[47], và “Ngọn đèo” (Toge)[48] viết về Kawai Tsugunosuke[49], đều nằm trong trường hợp này. Nếu muốn viết về trạng thái động của một xă hội như xă hội Edo, không phải chỉ cần nói đến cuộc đời những kẻ đă khuấy động nó lên (nhóm “đảo Mạc” đến từ hai phiên Satsuma và Chôshuu) v́ đó là điều đương nhiên. Shiba c̣n đào sâu hơn một nấc như thể chính ông đang đứng ngắm quang cảnh đó. Chẳng hạn khi ông đề cập đến Kawai Tsugunosuke, một nhân vật đứng về bên thua cuộc nhưng đă có lối suy nghĩ hết sức tân tiến. Chỉ v́ hoàn cảnh và sự t́nh đặc biệt, ông ta không thể nào nương theo ḍng chảy chính của thời đại là “cận đại hóa” mà bị cuốn hút vào bên trong một lỗ đen.

Với Shiba th́ dù là người của bên thua cuộc, tùy theo t́nh h́nh họ vẫn có năng lực khởi động được xă hội. Do đó ông mới t́m cách truy cứu về những con người như vậy để nói lên vai tṛ họ có thể đóng trong quá tŕnh thúc đẩy xă hội tiến lên.

 

 “Hồn hoa” (Kashin), tác phẩm xuất sắc nhất của Shiba:

 

Có thể nói “Hồn hoa”[50] đă bộc lộ hết văn tài Shiba Ryôtarô. Giáo sư Isoda Michifumi dánh giá nó như tác phẩm xuất sắc nhất trong toàn bộ sự nghiệp ông. Nhân vật chính của truyện, Ômura Masujirô (tên cũ là Murata Zôroku), là con trai một thày lang ở phiên Chôshuu. Tuy nhiên, ông đă đeo đuổi Lan học và Dương học nghĩa là cái học phương Tây cũng như binh pháp. Trong trận Chiến tranh Boshin (1908) ông từng đóng vai tṛ lănh đạo giúp quan quân (phe chính phủ Meiji) dành được thắng lợi. Duy Tân thành công, ông lại góp phần tổ chức quân đội và trên thực tế, đă xây dựng nền móng cho lục quân NB. Tuy nhiên những phiên sĩ Chôshuu v́ quá bảo thủ và bè phái không chấp nhận lối cải cách “quốc dân giai binh”[51] quá cấp tiến nên đă tổ chức khủng bố và giết chết ông

Trong “Hồn hoa”, Shiba đă mượn cái nh́n của nhân vật Ômura để phán đoán xem một người trí thức phải làm ǵ để đưa thời đại cũ bước vào một cuộc duy tân. Nói về cuộc Duy Tân Minh Trị th́ trước tiên và có thể hơi cường điệu, chính là việc thay thế súng hoả mai và áo giáp bằng súng trường (rifle) và trọng pháo (như khẩu trọng pháo Amstrong[52]) kiểu Tây phương trong lănh vực quân sự. Súng trường và trọng pháo khác với các kiểu súng cũ là nạp đạn vào ổ đạn đằng sau, ṇng súng được xẻ rảnh theo h́nh trôn ốc làm cho đạn khi được bắn ra th́ quay ṿng đồng thời tăng tốc độ nên chính xác và xa hơn, có độ sát thương cao hơn loại súng cũ gấp bội.

Những người nắm trong tay một quân đội có vũ khí tân tiến như thế đă thành lập được chính phủ Minh Trị Duy Tân và tổ chức quân đội, gồm hải và lục quân. Họ cũng thực hiện được chế độ “quốc dân giai binh” 国民皆兵 nghĩa là mọi thanh niên trong toàn quốc đều có thể tham gia quân đội. Vào thời đó, nếu nước nào không thành lập nổi một quốc gia quốc dân th́ có nhiều nguy cơ trở thành thuộc địa. Do đó, các nước phải chọn một trong hai, thành lập quốc gia quốc dân hay là trở thành thuộc địa. NB cũng bị cuốn vào phong trào đó và người đă khởi động ḍng lịch sử bằng cách cận đại hoá quân đội (cải tổ nó theo kiểu phương Tây) chính là Ômura Masujirô vậy.

Shiba gọi Ômura là “kỹ thuật gia”. Trong “Hồn hoa”, Shiba mào đầu bằng cách giải thích hơi dài ḍng nhưng phần này cũng đáng chú ư v́ nó liên quan đến lư thuyết “Cách mạng theo 3 giai đoạn” của ông vốn đă được định nghĩa trong Chương I.

 

Xin phép nói ngoài lề một chút nhưng cuốn tiểu thuyết này có mục đích mô tả một thời kỳ nhiều biến động, có thể gọi là một thời kỳ cách mạng. Chủ đề của cuốn truyện là t́m hiểu yếu tố “kỹ thuật” xuất hiện vào lúc ấy đă mang lại được ǵ. Cách mạng thường bắt đầu bởi một tư tưởng gia và cái chết bi thảm của người ấy. Ở Nhật th́ đă có ví dụ của Yoshida Shôin. Tiếp theo là thời đại của chiến lược gia. Trường hợp của Nhật là những người cỡ Takasugi Shinsaku và Saigô Takamori. Mấy ông này cũng không hưởng được bao nhiêu tuổi trời. Lớp người thứ ba bước vào sân khấu là các  kỹ thuật gia. Chữ kỹ thuật này vừa có thể bao trùm khoa học kỹ thuật, kỹ thuật pháp lư lẫn kỹ thuật quân sự, lănh vực mà Zôroku (tức Ômura) về sau sẽ đảm nhiệm.

                   http://dictionary.xgoo.jp/img/daijisen/ref/102722.jpg

               Ômura Masujirô, con người cấp tiến[53]

 

Đáng tiếc là Ômura đă mất vào năm Meiji thứ 2 (1869). Người nối nghiệp ông là Yamagata Aritomo. Chúng ta biết ông này đă lănh đạo lục quân và chính giới trong một thời gian dài. Mục đích của tác phẩn “Hồn hoa” chính là nghiên cứu về Ômura, người thày của Yamagata và cũng là nhân vật đă đóng góp rất nhiều cho cuộc chuyển đổi của xă hội NB.

 

Về trải nghiệm chiến tranh và ông tổ của lục quân

 

Thời Thế chiến thứ hai, Shiba bị trưng binh và trực thuộc lục quân. Ông sang đóng ở Măn Châu, đông bắc Trung Quốc.Nói về trải nghiệm chiến tranh của ḿnh, ông đă viết trong “H́nh thù đất nước này” những câu như sau:

 

Nếu Liên Xô sớm nhảy vào ṿng chiến th́ ...có lẽ giờ đây tôi đă bị đạn chống xe tăng của họ xuyên thủng và chết lâu rồi.

 

Có một biến cố cũng xảy ra ở Măn Châu 4, 5 năm về trước đă làm ông phải suy nghĩ rất nhiều. Tuy rốt cuộc không viết cuốn tiểu thuyết nào liên quan đến thời đại Shôwa nhưng ông đă thu thập tư liệu về biến cố này rất kỹ. Đó là “Vụ Nomonhan”[54]. Trong cuộc chạm trán với quân Liên Xô ở đó, phía Nhật đă thua liểng xiểng và con số tử thương của họ lên đến trên 70%. Chiến xa BT (Bêtê) của Hồng quân vượt trội chiến xa Nhật về sức công phá cũng như khả năng pḥng ngự.

 

Trong trận Momonhan, Nhật chỉ có những chiến xa cỡ trung b́nh kiểu 89 và kiểu 97[55]. Cho dù có bắn phá cũng chẳng làm phương hại kẻ địch bao nhiêu. Trong khi đó, đạn từ phiá bên kia xuyên thủng cả chiến xa Nhật...

 

Tại sao lục quân NB đương thời lại để những chuyện vô lư như vậy xảy ra mà không ai bị buộc tội? Kể từ lúc nào, NB đă trở thành một quốc gia như vậy? Những câu hỏi này là động cơ khiến Shiba bắt đầu cầm bút. Lục quân NB đă bắt người lính trẻ là Shiba phải leo lên một chiếc “quan tài biết lăn” chứ không phải là một chiến xa. Lục quân đó là sản phẩm của Ônura Masujirô. V́ trực diện sự nguy hiểm đối với bản thân cho nên Shiba – qua tác phẩm “Hồn hoa” - đă đi t́m hiểu về con người khai sanh và cái tổ chức kỳ khôi đó. Như vậy, động cơ sáng tác của ông không hề tầm thường.

Giáo sư Isoda tâm sự rằng, khi ông đọc tiểu thuyết lịch sử hay dă sử, càng đọc th́ càng muốn xem ở đoạn này đoạn kia, tác giả đă rời xa những sử liệu hiện có đến mức độ nào. Điều ấy có nghĩa là chỉ những chi tiết xa rời sự thực lịch sử mới đập mạnh vào mắt ông và làm ông cảm thấy ḿnh đang xa rời hiện thực (reality).Thế nhưng với “Hồn hoa” th́ không thế. Giáo sư cho biết đă đi tận về quê của Ômura Masujirô và xem xét đến cả những mảnh giấy vá đằng sau cánh cửa buồng để kết luận rằng h́nh ảnh Ômura do nhà văn vẽ ra đă được dựa trên những sử liệu căn bản nhất. Do đó, đọc tiểu thuyết của Shiba về Ômura, giáo sư có cảm tưởng ḿnh càng ngày càng tiến sát với sự thực. Đó là một trải nghiệm kỳ lạ mà đến nay, ông chưa từng có. Như thế, h́nh tượng Ômura dưới ng̣i bút không khác bao nhiêu với Ômura trong đời thường. Có lẽ v́ Ômura là một nhân vật nhiều đặc điểm nên bức chân dung ấy mới có thể vẽ được dễ dàng Vẽ được một nhân vật lịch sử giống y người thực, đó là điểm mạnh của tác giả “Hồn hoa”.

 

Ômura Masujirô, tín đồ của chủ nghĩa thuần lư:

 

Đến đây, chúng ta hăy xem Shiba đă miêu tả nhân vật Ômura Masujirô như thế nào?

 

Con người đó đă ít nói, tính khí lại khó khăn. Ví dụ trong trận công hăm cửa ngơ Ueno (phiá bắc thành Edo), bộ đội phiên Satsuma được phân công đánh lối vào Hirokoji là nơi dự tưởng sẽ gặp sự chống trả mănh liệt của địch. Trên bàn hội nghị, tướng Saigô (Takamori) ngán ngẩm bảo:

-Bộ mấy anh muốn lùa lính Satsuma chúng tôi cho họ giết sạch hay sao?

Ômura trả lời:

-Vâng, đúng thế!

(Trích đoạn “H́nh thù đất nước này”)

 

Ômura xuất thân nông dân. Chắc v́ vậy mà ông chậm lụt, không hiểu được tinh thần phiên phiệt của các phiên sĩ. Trong bụng, ông c̣n xem họ như kẻ địch của nhà nước trẻ trung này. Ngay đối với các samurai, ông cũng không kiêng nể.

(Nguồn: như trên)

 

Qua h́nh ảnh trên đây, ta thấy Ômura đúng là con người tiếp nối truyền thống thuần lư của Nobunaga. Ông chẳng thèm để ư đến chế độ phân chia giai cấp (mibunsei), nếu là chuyện có lợi, ông sẵn sàng quên đi giá trị quan sẵn có và chuyển ngay sang chiều hướng mới. Có thể nói là trong thời kinh tế phát triển cao độ từ thập niên 1960 tới thập niên 1970, đám binh sĩ phục viên tức thế hệ từng có kinh nghiệm chiến tranh là những người đă đồng cảm một cách sâu sắc nhất với Ômura.

Học giả ngành giải phẫu, Yôrô Takeshi[56] có lần phát biểu:

 

Bề ǵ th́ người Nhật là những con người khổ sở v́ hai chữtư tưởng”, cái mà trong chiến tranh họ không nh́n thấy ở đâu cả. Họ coi NB như là đất nước của chư thần. “Thần châu bất diệt” mà! Có đầu thai bảy kiếp cũng phải tận trung báo quốc. “Thất sinh báo quốc” mà! Họ được bơm vào đầu lối suy nghĩ như thế để rồi phải chuốc lấy đau khổ. Cần mở mắt cho thật sáng để nh́n. Chính v́ vậy một thế hệ có cái nh́n thuần lư và chỉ tin vào những ǵ xảy ra trước mắt đă ra đời. Trong thời kỳ kinh tế phát triển cao độ, những người ấy đă đồng loạt hướng về phía văn minh vật chất

 

Giáo sư Isoda cho rằng lời Yôrô vừa bày tỏ thật đầy sức thuyết phục. Ông đoán Shiba cũng là một trong đám người từng bị nhồi vào đầu tư tưởng đó. Shiba đă bị đẩy lên xe tăng để đối mặt với cảnh thập tử nhất sinh bởi cái hệ thống quân đội không dùng lư luận thuần lư để so sánh tính năng và hiệu suất của chiến xa và chiếm hạm giữa ta   

và địch. Nó chỉ biết suy nghĩ một cách phi thuần lư và ra lệnh cho ông: “Hăy tiến công bằng vũ khí là sức mạnh tinh thần!”. Do đó, Shiba thấy cần phải tranh đấu cho lối suy nghĩ thuần lư và hiện thực đến mức xem nó như một cơ sở triết học. Người đă thể hiện được triết học ấy, theo ông, là Ômura Masujirô. Ômura trọng tính hợp lư nên đă thành lập lục quân NB như một tổ chức hợp lư nhưng về sau tổ chức này đă đánh mất tính chất ấy. Phải chăng sự gặp gỡ nhân vật Ômura trong tư liệu lịch sử đă là nguồn động lực để Shiba viết nên tiểu thuyết đắc ư “Hồn hoa”?

Shiba bảo: “Bọn lính chiến chúng tôi chẳng khác ǵ quân đội của phiên Ii[57]”. Đang khi địch chỉa súng nhắm ḿnh bắn, lại mặc giáp trụ Akazonae[58] chói lọi và đủng đỉnh tiến lên đằng trước đúng y trận thế đă học trong binh pháp bí truyền. Thế th́ làm sao thắng nổi quân đội kiểu Tây phương vốn được tổ chức một cách hợp lư! Lục quân mà Ômura - hiện thân của sự hợp lư - xây dựng nên và lục quân NB về sau, về bản chất, nhất định cách nhau một trời một vực. Thế th́ cái tính hợp lư ngày thành lập ấy đă biến đi đâu? Shiba tức tối đặt câu hỏi và nhân đó, đặt bút viết “Hồn hoa”.

Trong cách nh́n lịch sử của Shiba có một mấu chốt quan trọng mà ông gọi là “sự biến chất của tổ chức”. Ban đầu th́ người ta có lư tưởng, dần dần lư tưởng bị lăo hóa, bắt đầu có những hành vi kỳ cục. Có thể nói đó là chuyện đă xảy ra tự cổ chí kim từ đông sang tây cho bất cứ loại h́nh tổ chức và nhân vật nào.

Trong bài bạt của “Hồn hoa”, Shiga đă viết:

 

Tóm lại th́ Zôroku (tức Ômura) là một nhân vật rất b́nh thường, rất phổ biến, có thể thấy bất cứ ở đâu. Ông ta không khác đồng bào chung quanh bao nhiêu trừ việc ông là tín đồ của lối suy nghĩ thuần lư.

Sau đây là chuyện xảy ra hồi Ômura được phiên Uwajima (nay thuộc tỉnh Ehime) nhờ đóng một chiếc tàu nội hóa chạy bằng hơi nước. Khi tàu hạ thủy, lănh chúa Date Munenari lên thuyền cho chạy thử. Chức karô (như thủ tướng của phiên) là Matsune Zusho rất phấn khởi và thích thú khi thấy con tàu bắt đầu rẽ sóng, quay lại bảo ông:

- Này Ômura, tàu chạy được đấy chứ nhỉ!

Thế nhưng Zôroku (Ômura) lại lộ nguyên bản tính khó ưa:

- Chạy được là chuyện dĩ nhiên.

Nghe nói Matsune lúc đó cũng đành ngậm miệng nín thinh.

 

Chủ nghĩa thuần lư của Ômura thường khiến ông như thể trêu chọc thiên hạ. Thế nhưng theo Shiba th́ Ômura không đến nỗi tạo sự bất ḥa với tha nhân. Nhờ viết ra được “cái khác nhau giữa Ômura và những người Nhật khác” mà Shiba có thể cho ta thấy một kẻ theo chủ nghĩa thuần lư đă có sức thay đổi thời đại của ḿnh như thế nào. Vào thời kỳ chuyển đổi, nhân vật theo chủ nghĩa thuần lư là Ômura đă xuất hiện để dẫn đường cho đồng bào ḿnh nhưng đến khi mọi việc an bài đâu đấy th́ người Nhật tức khắc vứt bỏ ngay tinh thần thuần lư ấy. Chúng ta có thể hiểu được là quá tŕnh này sẽ lập đi lập lại, và điều này không cần đợi Shiba nói trắng ra.

Nhờ triệt để đi theo chủ nghĩa thuần lư, Ômura đă trở thành một người lănh đạo của thời đại ông. Tuy nhiên, một nhà lănh đạo cần phải có cả thái độ chí công vô tư (impartial) nghĩa là nh́n mọi việc một cách khách quan và không truy cầu lợi lộc cho bản thân (selfless, disinterested). Mặt khác, phải nh́n nhận tính khách quan cũng có khuyết điểm. Nó làm cho t́nh cảm khô khan đi và dễ cắt đứt sự đồng cảm. Người thiếu hai điều này bị coi là kẻ méo mó, góc cạnh (ibitsu) nhưng thật ra, nếu không thành như thế th́ sẽ không thể nào thay đổi được xă hội NB, một xă hội đă đánh mất tính hợp lư.

Cũng thế, không tàn bạo như Nobunaga th́ không thể thay đổi được xă hội NB thời Sengoku. Thấy vậy, chúng ta hiểu là căn bệnh của NB đă có gốc rễ sâu xa đến thế nào rồi.

Ômura là người biết giữ khoảng cách lớn với vấn đề “tư tưởng”. Ông phán đoán mọi việc theo hiệu quả và sự tiện lợi của nó trong thực tế. Tính hiện thực và tính hợp lư sẽ đưa đến thắng lợi cuối cùng và thời đại sẽ thay đổi. Phải chăng đó là điều Shiba đă nhận ra ?

 

Hiệp ước Anpo năm 1970 và Mishima Yukio:

 

“Hồn hoa” được đăng liên tục từ 1969 đến 1971 đúng vào thời đấu tranh chống Hiệp ước Anpo (Hiệp ước pḥng thủ hỗ tương Nhật Mỹ, 1970). Shiba đă cho thấy nhiều nhân vật của ông đă chết v́ vấn đề “tư tưởng”. Nói cách khác, đó là những nhân vật đứng vào vị trí đối cực với Ômura. Họ là những phiên sĩ Chôshuu bị trào lưu tư tưởng cực đoan của thời Edo kéo đi theo. H́nh ảnh của họ phảng phất nơi Yoshida Toshimaro[59], chết trong vụ đột kích quán Ikedaya[60] hay Kusaka Genzui[61] trong vụ tấn công ngoài cổng Hamaguri của hoàng cung[62]...kể cả những ai ủng hộ họ về mặt tinh thần như Aoki Izumi[63] của phiên Kurume (nay thuộc Fukuoka). Cũng phải nhắc đến một người khác mà cái chết v́ vấn đề tư tưởng đă xảy ra giữa khi “Hồn hoa” đang được đăng tải dở chừng. Đó là Mishima Yukio[64], vào tháng 11/1970, đă mổ bụng tự sát sau khi kêu gọi người Nhật đừng sống xa rời tư tưởng. Trong lúc liếc mắt nh́n cảnh tượng đó, Shiba thấy ḿnh cần phải vẽ ra h́nh tượng một người từ chối lối sống v́ tư tưởng, đó là Ômura Masujirô.

Không thấy ở đâu viết là Shiba đồng t́nh với chuyện Mishima tự sát cả. Chẳng những thế, trong “Hồn hoa”, ông c̣n muốn gióng lên một tiếng chuông cảnh tỉnh những kẻ nào chỉ hướng về một tư tưởng duy nhất. Ông hay dùng những cách diễn tả như “Tư tưởng làm cho người ta say sưa, ngộ độc” (drunken, intoxicated), “Thể chất của người Nhật đă bị ngộ độc”.

Trong “H́nh thù đất nước này”, ông bảo người Nhật bao giờ cũng nghĩ rằng tư tưởng là cái đến từ bên ngoài ta, xúm nhau tung hô nó lên rồi không biết tự lúc nào, nh́n nó như một huyễn ảnh tập đoàn. Thế rồi khi tập đoàn say sưa với một tư tưởng nào đó và bị lôi kéo về hướng ấy th́ sẽ lồng lên chạy bất kể. Shiba hiểu rất rơ về sự nguy hiểm có thể xảy ra trong một trường hợp như vậy.

Ômura là con trong một gia đ́nh đời đời làm thầy thuốc cho phiên. Thế nhưng, v́ thấy trong thế giới của tầng lớp samurai, không có lấy một người biết sống hợp lư, ông mới kiếm đường theo học những môn học mũi nhọn đương thời là Lan học (Dutch studies, Dutch learning) và binh pháp, rốt cuộc đă thành công trong sự nghiệp to tát là gây dựng được lục quân NB. Cái tinh thần khoa học và chủ nghĩa thuần lư thấy nơi Ômura chắc cũng có liên quan đến nghề thày thuốc của ông. Shiba không những có cái nh́n đầy thiện cảm với Ômura mà c̣n hết sức quí trọng những ngựi xuất thân ngành y như Ogata Kôan[65] hay Matsumoto Ryôjun[66]. Chẳng hạn ông có tả cảnh Ômura đọc lẩm nhẩm Ikai (Y giới = Lời dặn ḍ người thày thuốc) của Ogata Kôan như sau.

 

Sự có mặt của người thày thuốc trong thế giới này chỉ có ư nghĩa nếu ông ta trước sau chuyên chú v́ người khác chứ không lo cho chính bản thân. Đây là ư nghĩa cơ bản của nghề này. Phải luôn luôn tâm nguyện là ḿnh sẽ xả thân để giúp đời.

 

Khi cứu mạng người, ông thày thuốc đă phát huy được tính hợp lư của nghề nghiệp và Shiba cho rằng h́nh ảnh đó của ông ta mới xứng đáng được mọi người đề cao.

 

 

Nhà lănh đạo trong mắt Shiba:


H́nh ảnh một nhà lănh đạo trong mắt Shiba là người tận tụy,  không đưa đất nước và tập thể vào con đường sai lầm và không khiến cho cá nhân ai chịu cảnh bất hạnh. Đối xứng với nó là những con người hay tổ chức bị ràng buộc chặt chẽ bởi truyền thống và quá khứ, không làm sao rời khỏi nó một bước. Chẳng những họ bị trùm lên đầu cái chăn của “tư tưởng” hẹp ḥi để không thể nào chấp nhận chủ nghĩa thuần lư. Đó là những con người hay tập đoàn có thể làm một cách thản nhiên một số hành động mà không ai hiểu nổi, họa chăng chỉ có người trong bọn họ chấp thuận.

Chẳng hạn khi bàn đến những nhân vật của phiên Chôshuu vào cuối đời Mạc phủ. Hành động của họ có thể được tóm gọn trong một chữ “cuồng”. Họ ca tụng những việc làm sặc mùi ư thức hệ của ḿnh là “cuồng cử” 狂挙 (kyôkyo = hành động điên rồ), đem nó ra để ví với chuyện cũ của gia đ́nh Kusunoki Masashige[67] trong trận Minatogawa, tự say sưa tâng bốc nhau. Họ làm thơ, vừa đọc vừa khóc và tuyên bố sẽ sống chết v́ nhà vua. Kết quả là họ đă gây ra cuộc biến loạn ngoài ngự môn Hamaguri của hoàng cung (tháng 7/1864), tiếng là để bảo vệ thiên hoàng nhưng lại bị nhà vua ghét bỏ và xem như kẻ địch của triều đ́nh[68]. Đối với Shiba, “tư tưởng” và “giáo điều” của các phiên sĩ Chôshuu tượng trưng cho tinh thần thiên trọng đối với tổ chức. Nó sẽ trở thành khuôn mẫu cho tinh thần của lục quân thời Shôwa về sau.

Những người đă thay đổi t́nh h́nh Nhật Bản, đưa đất nước này vào thời đại của chủ nghĩa thuần lư quyết không phải những samurai kiểu này. Họ là những thày thuốc nhà quê như Ômura hay những người dân b́nh thường đă gia nhập nhóm chí nguyện quân gọi là kiheitai (ḱ binh đội = lực lượng quân sự không chính thức do Takasugi Shinsaku thành lập năm 1863). H́nh ảnh của nhà lănh đạo trong đầu của Shiba Ryôtarô không phải là những người chỉ được nuôi dưỡng bằng “tư tưởng” nhưng là những kẻ giống như người thầy thuốc theo chủ nghĩa thuần lư, cảm thấy ḿnh có một sứ mệnh để hoàn thành. Đó c̣n phải là một nhân vật không tư túi, chỉ sống v́ người khác, đủ sức để kéo tập thể đi lên.

Nguồn cội của những ư nghĩ ấy nơi Shiba là việc ông đă phản kháng và phản tỉnh trước hành vi của những nhà lănh đạo không suy nghĩ thuần lư mà chỉ biết dương cao ngọn cờ tư tưởng và giáo điều, đưa đất nước và dân tộc vào con đường sai lầm, xua những con dân b́nh thường như ông ra chiến trường.

Như chúng ta đă biết, Shiba không thích đề cập đến những nhân vật ở đỉnh cao quyền lực v́ như vậy, điều ông nói đến sẽ không phải là lịch sử nữa mà là “quyền lực sử”. Ông có thể v́ thế mà không giữ được tính cách khách quan. Ông dă nhiều lần cho biết ḿnh hết sức ngần ngại nếu phải chọn những đại thần trong chính phủ Minh Trị vốn là các phiên sĩ Satchô (Satsuma và Chôshuu) đă thành danh làm đề tài. Khi ông viết “Vầng mây trên đầu dốc” nói về Chiến tranh Nhật Nga th́ hai nhân vật chính chỉ là những kẻ xuất thân từ một phiên trấn mệnh danh là “nghịch tặc”. Một người là Akiyama Saneyuki, trong ban tham mưu tác chiến của hạm đội liên hợp, người kia là anh của Saneyuki, sư đoàn trưởng kỵ binh Akiyama Yoshifuru[69].

Đứng lên từ đống tro tàn sau khi chiến bại, những người Nhật thời đó muốn duy tŕ sự phát triển cao độ của kinh tế nước họ, chắc đă có cảm giác thực sự là ḿnh đang viết nên những trang sử mới. Lại nữa, thời ấy đang có một sự di động xă hội[70] rất lớn lao. Có những chuyện không ai ngờ tới đă hiện ra dưới ng̣i bút Shiba. Một samurai vô chủ (rônin) tầm thường (nếu nói theo quan niệm phân chia giai cấp (mibunsei) của thời Edo là không ai thèm để ư tới như anh chàng Sakamoto Ryôma trong “Ryôma xông pha” đă thành người mở ra cánh cửa lớn của một thời đại mới. Cũng vậy, một thầy lang nhà quê không biết cầm kiếm (trong khi tư duy đương thời là chỉ có samurai mới đánh giặc được) lại có thể chỉ dựa vào chiến lược chiến thuật thuần lư để điều binh khiển tướng, đưa tới chiến thắng. “Hồn hoa” đă cho họ thấy sự băng hoại thảm thương của giới samurai, một giai cấp ngủ ngon trong giấc mộng hăo huyền v́ nghĩ ḿnh là giai cấp tối cao trong xă hội. Những điều nói trên đă làm rung động trái tim của người NB thời hậu chiến. Riêng với tác giả Shiba, lúc ấy ông cũng đă dễ dàng huy động ngọn bút nhà văn v́ đă thừa hưởng được nhiều thông tin từ các tập hồi kư và tư liệu lịch sử phong phú.

 

             DSC01473.JPG

           Áp-phích phim truyền h́nh “Vầng mây trên đầu dốc”

 

Thêm một h́nh ảnh khác về người lănh đạo:

 

Việc người thày thuốc nhà quê là Ômura Masujirô được phiên Chôshuu trao cho trọng trách chỉ huy quân đội rồi sau đó trở thành người sáng lập lục quân NB có thể so sánh với việc một anh tư chức xoàng được bổ nhiệm làm giám đốc đặc nhiệm một nha sở đời nay và đă cứu hăng ḿnh khỏi nguy cơ. Thế rồi anh tư chức ấy sau khi lên chức phó tổng giám đốc đă thực hiện chương tŕnh cải cách để hồi sinh được tổ chức. Được đọc cái truyện như thế hỏi có anh tư chức nào mà không thống khoái. “Kỹ thuật” để cái cách kia hiện nay đang nằm ở đâu th́ không biết nhưng anh ta thấy trong con người ḿnh cũng có thể có khả năng kiếm ra nó. Đó là tâm t́nh của những độc giả đọc văn Shiba giữa thời kinh tế phát triển cao độ. Chính v́ thế chúng ta hiểu duyên cớ v́ sao độc giả đương thời hết sức đồng cảm với “Hồn hoa”.

Thống khoái hơn cả là việc các samurai kiêu căng của phiên Chôshuu, khi bị địch vây 4 mặt hồi cuộc “Chiến tranh 4 biên giới” (Shikyô sensô = Tứ cảnh chiến tranh)[71] xảy ra, bó tay không biết phải làm sao. Họ đành để cho một anh chàng thầy thuốc nhà quê, quân phục và áo giáp đều không có, bên lưng chỉ đeo một cái quạt xát mủ vỏ quả hồng cho bền (shibu.uchiwa) để chỉ huy, theo sau lưng vài tùy tùng mang thang tre ( takebashigo) dùng vào việc thám thính, mặt mũi th́ kỳ quặc[72] ... t́m cho họ giải pháp. Nh́n lại trải nghiệm của Shiba thời đi lính, ông cho biết có lần chỉ v́ một cái cúc không cài vào khuy ngay ngắn, ông đă bị cấp trên đánh te tua. So với cái quân đội như thế th́ h́nh ảnh của Ômura trên chiến trường thật đáng kinh ngạc. Mới thấy rơ ràng là trong chiến tranh, không phải cứ ăn mặc chỉnh tề là chiến thắng. Chỉ có kẻ nắm được kỹ thuật quân sự mới đem đến thắng lợi.

Do đó nội dung của “Hồn hoa” là sự phủ định không khoan nhượng đối với chủ nghĩa h́nh thức (formalism) của người Nhật.Tuy đối cực của chủ nghĩa thuần lư (rationalism) là chủ nghĩa bất hợp lư (irrationalism) nhưng nhiều khi sự bất hợp lư lại không sinh ra từ đó mà từ chủ nghĩa h́nh thức. “Chính v́ làm như vậy” hay “Nhân v́ theo h́nh thức đó cho nên ”... là kiểu nói Shiba hay dùng không những trong “Hồn hoa” mà c̣n trong bao tác phẩm khác để phủ định chủ nghĩa thường thức và chủ nghĩa h́nh thức mà theo ông là nguyên nhân sự trầm trệ của xă hội NB. Có thể Shiba đă không chú trọng đến tư chất của người lănh đạo cho bằng “tài lănh đạo biết phá khuôn phép” của người đó. Nếu tự bản thân không phá được khuôn phép (thựng thức) th́ chỉ cần có cái tài kiếm ra được người làm nổi việc đó là đủ. Trong “Hồn hoa” có một nhân vật quan trọng là Katsura Kogorô[73]. Ông là một ví dụ về trường hợp ấy. Dù ông không nắm được kỹ thuật để phá vỡ những ràng buộc của khuôn phép nhưng ông biết sự đột phá là điều cần thiết. Nếu là một “kỹ thuật gia” lỗi lạc th́ dù anh ta thuộc giai cấp nào, ông cũng dùng cả. Katsura đă phát huy được h́nh thức lănh đạo kiểu đó. Dù người chung quanh có bàn tán hay dè bĩu, ông cũng kiên quyết bảo vệ cho đến phút chót nhân tài mà ông đă khám phá. Đây là một đức tính tất yếu mà nhà lănh đạo cần có.

 

Katsura rất thoáng, ông sẵn sàng thu nhận ư kiến người khác. Đó là nét hấp dẫn nơi chính trị gia này.

 

“Gốc gác tôi là con nhà nông”. Zôroku (Ômura) thường tâm sự. Có biết bao nhiêu samurai, vậy mà Katsura không tin tuởng họ, lại đi chọn ông. Tại sao vậy nhỉ? Một điều đó thôi cũng đă làm cho Zôroku băn khoăn.

 

Katsura, nhân vật được coi như số một ở Chôshuu đă nh́n nhận giá trị con người của Zôroku, đăi ngộ ông và giữ ông bên cạnh. Sự cảm kích trong ḷng Zồroku thật không bút nào tả nỗi!.

 

Rồi cứ như thế mà con người có biệt tài là Ômura đă được trọng dụng và qua đó, Katsura thể hiện được khả năng lănh đạo xuất chúng của ḿnh. Như một sự t́nh cờ, Katsura cũng sinh ra trong một gia đ́nh thày thuốc cho phiên (han.i) ở Chôshuu. Nguồn gốc gia đ́nh biết đâu chẳng đă ảnh hưởng tới tính t́nh ông ta!

  

Đưa ra h́nh ảnh hai nhân vật nói trên và sự kết hợp giữa họ là để nhận định rằng mô h́nh (pattern) này rất kiến hiệu trong tổ chức của xă hội NB. Một con người có tài năng kỳ dị (có thể hiểu là otaku[74] ở một ư nghĩa nào đó) được thượng cấp của anh, một chính trị gia hay một chủ hăng b́nh thường nhưng biết người biết của, dùng đến, có thể phát huy cái tài lạ của ḿnh. Phải chăng đó là điều Shiba muốn gửi gấm đến chúng ta, những người sống giữa ḷng thế kỷ 21?

 

IV)          Lư tưởng của con người thời Minh Trị là ǵ?

 

Một cuộc cách mạng hiếm có đă sinh ra từ ư thức nguy cơ:

 

Thế kỷ thứ 19, thời cuộc Minh Trị Duy Tân xảy ra, là một thời đại cạnh tranh trên thế giới. Liệt cường Âu Mỹ với sức mạnh vơ trang của ḿnh, giành giật nhau những lợi ích thuộc địa. Bản đồ thế giới được chia ra làm 2 phần. Một phần bao gồm thế giới của liệt cường Âu Mỹ, những nước đă xây dựng được “quốc gia quốc dân”, ban bố chế độ trưng binh, có lực lượng hải quân và bắt đầu đi tranh giành với các nước khác. Một phần nữa là vùng đă bị các “quốc gia quốc dân” biến thành đất thực dân, ngay cả những nền văn minh cổ xưa và rực rỡ như Ấn Độ và Trung Quốc cũng không thoát khỏi nanh vuốt của họ. Các quốc gia Âu Mỹ đă hoàn thành cuộc cách mạng kỹ nghệ, trang bị được các chiến hạm của ḿnh với động cơ chạy bằng hơi nước và đại bác tầm xa. Họ lại có lục quân vũ trang súng trường và trọng pháo, từ đấy đi khắp thế giới để chiếm hữu đất thực dân.

Để đối phó với nạn “cá lớn nuốt cá bé”, Mạc phủ Edo cũng muốn có hải quân kiểu Tây phương nên đă yêu cầu Ḥa Lan gửi người đến dạy. Trong tác phẩm nhan đề “Một nhà nước gọi là Minh Trị” (Meiji to iu kokka)[75], Shiba có kể một mẩu chuyện như sau:

Trung tá hải quân người Ḥa Lan Kattendijke[76] trong nhóm giáo sư đến Nagasaki để huấn luyện cho người Nhật khi mới đến đây đă rất ngỡ ngàng v́ thành phố biển này không được pḥng thủ ǵ cả. Ông bèn hỏi đám thương nhân nơi đó là liệu họ làm ǵ nếu bị tấn công th́ họ trả lời: “Đó là chuyện mấy ông lớn Mạc phủ phải lo. Không phải là việc chúng tôi cần biết!”. Nghe thế, người sĩ quan Ḥa Lan lấy làm ngạc nhiên. Một trong những sinh viên theo học Kattendijke ngày đó có Katsu Kaishuu[77]. Katsu giỏi tiếng Ḥa Lan, giữa hai người lại có ḷng tin cậy đối với nhau. Shiba tưởng tượng ra một cuộc đối thoại đă có thể xảy ra giữa hai bên:

 

- Như bên Ḥa Lan th́ các ông xử sự thế nào?

Katsu đă hỏi Kattendijke như vậy.

-Ḥa Lan à? Ở nước chúng tôi, có hiến pháp. Người Ḥa Lan th́ dù ai mặc ḷng, đều là công dân Ḥa Lan. Đó là chuyện hầu như tự nhiên. Họ xem bản thân và nhà nước là một, họ hành động như người đại diện cho dân tộc Ḥa Lan. Trường hợp đất nước bị kẻ địch tấn công th́ họ sẽ tự ḿnh đứng ra bảo vệ. Đó là ư nghĩa của hai chữ “quốc dân”. Tôi lấy làm lạ là người Nhật các ông không cảm thấy như thế.

(Trích Một nhà nước gọi là Minh Trị, chương 9, quyển hạ)

 

                http://meigen-ijin.com/wp/wp-content/uploads/2013/07/katsukaishu400.jpg

                          Katsu Kaishuu thời trẻ

 

Chắc lúc đó, Katsu nghĩ là cái vẩy từng che lấp mắt ḿnh đă rơi ra! Thực vậy, đối với người Nhật đương thời, không gian sinh hoạt của họ là xóm làng phiên trấn, chẳng ai ư thức ḿnh là công dân một nước Nhật nằm trên bản đồ thế giới. Shiba đă viết: “Tôi nghĩ rằng thời ở Nagasaki, Katsu đă thay đổi. Rồi khi ông đưa chiến hạm dùng vào việc huấn luyện là Kanrin.maru[78] sang Mỹ th́ sự thay đổi trong ḷng ông càng sâu sắc hơn”. Katsu đă dạy các học tṛ ḿnh, kể cả Sakamoto Ryôma là, một khi đă muốn xây dựng nên nhà nước cận đại th́ không thể bỏ qua hai khái niệm “quốc dân” (kokumin, people, citizen)[79] và “quốc gia quốc dân” (kokumin kokka, nation-state, Nationalstaadt). Điều đó về sau đă được lan truyền đến lối suy nghĩ chung của nhiều người Nhật. Một quốc gia châu Á thời đó biết tự lực để biến thành “quốc dân quốc gia” (nhà nước công dân) th́ đúng là chuyện hi hữu.

Nước Nhật thời Minh Trị phải lựa một trong hai: một là trở thành một nhà nước công dân như thế để chen vai với liệt cường hay chịu số phận thuộc địa. Thế nhưng lúc đó NB đă bị t́nh cảm chi phối. Họ không nh́n thẳng vào t́nh h́nh thế giới bên ngoài nhưng lại chui vào trong vỏ ốc và có cái nh́n nội hướng thiển cận. Họ nghĩ chỉ cần “nhương di” (攘夷jôi = đuổi giặc ngoài) là đủ. Cả nước Nhật thời đó đều suy nghĩ đơn thuần như vậy. “Di” dĩ nhiên là “kẻ man rợ”, cách gọi khinh miệt người nước ngoài, chỉ v́ họ khác ḿnh về mặt mũi, vóc dáng và văn hoá. Họ muốn nói: “Các chú chớ vào đây. Cút đi  cho rảnh!”.

Cách suy nghĩ thường thức, đơn thuần và phải nói là dại dột như thế đă biến thành nghị lực giúp người Nhật xây dựng được một nhà nước cận đại, nói cách khác, một nhà nước công dân. Tác phẩm “Một nhà nước gọi là Minh Trị” đă ghi lại như thế này về ư nghĩa của hai chữ “nhương di”:

 

Không cần phải nói, sức mạnh để đánh đổ Mạc phủ sở dĩ có được là nhờ tư tưởng “nhương di”. C̣n như “khai quốc” (kaikoku, mở cửa biển cho người ngoại quốc vào), về mặt ư thức hệ, phải nói là yếu ớt. Bởi v́ tư tưởng “khai quốc” được xem như lư đương nhiên, quá đúng và quá thường thức. Khi khẩu hiệu nghe giống như một điều quá chính xác và thường thức, ai cũng xem là dĩ nhiên, th́ khẩu hiệu đó không có tính cách mạng. Nếu xét như trạng thái một dịch thể th́ nó tương đương với nước. Người ta không có nước th́ không sống được.Thế nhưng đă là cách mạng th́ phải làm cho say sưa. Cho nên nếu là nước th́ chẳng thấm vào đâu. Người ta cần rượu, rượu mạnh!

(Trích Một nhà nước gọi là Minh Trị, chương 4, quyển thượng)

 

Rượu “nhương di” nếu uống nhiều sẽ vô cùng nguy hiểm. Chúng ta có thể ví von rằng người NB nhờ say trong men rượu đă làm nên cuộc Minh Trị Duy Tân. Chứ như chỉ đề cao việc “khai quốc” th́ làm sao có được cách mạng.

Việc nhương di v́ có nghĩa là “đánh đuổi người ngoại quốc” trên nguyên tắc phải do tầng lớp samurai đảm trách.Ngày xưa người đứng đầu giai cấp samurai là chức Chinh Di Đại Tướng Quân (gọi tắt là Shôgun) có chức năng tiêu diệt hay bắt qui hàng những kẻ nào không phục tùng Thiên hoàng. Thế nhưng với khí thế sôi động cuối đời Mạc phủ, người ta càng ngày càng tin rằng không thể nào giao toàn quyền hành động cho giới samurai được.

Tư tưởng “nhương di” (攘夷jô.i) thường đi cặp đôi với tư tưởng “tôn vương” (尊王sonnô) Nếu tóm tắt trong một câu để định nghĩa hai chữ “tôn vương” th́ đó là một khái niệm cho rằng Thiên hoàng từ xưa đến nay mới là người nắm quyền lực thiêng liêng, c̣n như Shôgun và giai cấp samurai chỉ được ủy thác để thi hành các chức vụ quân sự và chính trị. Theo tư tưởng “tôn vương” th́ vơ sĩ hay thứ dân đều là bề tôi của thiên hoàng. Trong đầu óc của lớp thứ dân, đă manh nha ư nghĩ là ngày nay, khi quyền lực và địa vị của giới vơ sĩ (samurai) đă suy thoái, th́ việc “nhương di” người dân thường như họ cũng phải đứng ra nhận lănh. Thường dân cũng là bầy tôi của thiên hoàng, những samurai trong chốn thảo dă. Khái niệm đó có tên là “ sômô no shin” (草莽の臣, thảo măng chi thần). Khi tất cả quốc dân đều là bề tôi nhà vua và mang tâm hồn thảo măng th́ con đường dẫn đến việc tham gia chính trị của họ có thể nói như đă được mở ra rồi.

Những kẻ sĩ chốn ruộng đồng mang “thảo măng chi chí”[80] đă dương ngọn cờ “nhương di” và dấn thân chính trị. Đó là nguồn động lực cách mạng đă đẻ ra cuộc Minh Trị Duy Tân.

 

H́nh ảnh không mẫu mă để bắt chước của một quốc gia mới

 

Shiba đă muốn nắm bắt yếu tính của thời đại này bằng nhận xét sau:

 

Cuộc Duy Tân thời Minh Trị đă xây dựng nhà nước công dân với mỗi mục đích là giúp NB thoát ra khỏi nanh vuốt của chế độ thực dân nhưng sau đó đă thừa thế mà làm luôn cuộc mạng đánh đổ xă hội phong kiến.

(Trích “H́nh thù đất nước này”)

 

Phủ định xă hội phong kiến cũng là phủ định xă hội Edo, xă hội Tokugawa. Thế nhưng vào thời Tokugawa, nếu so sánh với những xă hội bên ngoài th́ xă hội NB tương đối an toàn và sung túc, nhân quyền cũng khá được tôn trọng. Dầu vậy, dân chúng vẫn muốn đánh đổ xă hội Tokugawa. Những người Nhật có đầu óc cảm thấy rằng nếu để mặc cho Mạc phủ và giới samurai quyết định đường lối, NB sẽ bị thực dân hoá bởi v́ những người cầm quyền đó chỉ biết chiến đấu bằng gươm giáo. Giao nước nhà cho một tầng lớp với tư duy cổ lỗ như họ, NB sẽ chịu chung một vận mệnh với Trung Quốc. Trên thực tế, khi hạm đội của Đề đốc Perry đến nơi (1953), các samurai đă kéo quân ra ứng chiến. Thế nhưng hơn 200 năm hưởng ḥa b́nh, có đánh chác ǵ đâu, họ đă mất đi cái khí thế kiêu hùng của thời Sengoku. Nói chi đến việc lạc hậu trong vũ khí, tác chiến. Một quân đội với đao kiếm và súng hỏa mai làm sao có thể đương đầu với súng trường bắn được nhiều phát và đại bác của địch cho được.

Tuy nhiên bản chất của chính quyền vũ gia (samurai) là chính quyền quân sự. Nguyên tắc của họ là dùng vũ lực để thống trị quốc gia nên cho dù đến thời buổi mà quân đội chỉ c̣n có trên h́nh thức, samurai vẫn muốn giữ đặc quyền giai cấp và duy tŕ hệ thống thế tập như xưa. Bổng lộc của giới samurai chiếm gần 40% huê lợi đến từ sức sản xuất nông nghiệp trên toàn quốc và họ đời đời kế tiếp hưởng thụ như thế. Những samurai ấy giờ đây không c̣n có giá trị ǵ trước sức mạnh quân sự Tây phương. Nếu bỏ công huấn luyện nông dân và mấy anh bộ tốt (ashigaru) bắn súng chừng một tuần lễ th́ họ dám thắng các “nhà chuyên môn” trong chiến trận là giới samurai này! Lư do thật dễ hiểu: đứng trước súng đạn, các samurai của chúng ta không t́m ra giải pháp.

Đến nước đó th́ nếu đặt nghi vấn về việc giữ quyền thế tập của các samurai và hệ thống quyền lực của họ th́ cũng là chuyện đương nhiên. Phần ăn chia của họ không xứng với kinh phí. Vả lại, họ có biết bảo vệ đất nước nữa đâu nào! Và như thế, hiểm họa thực dân hoá đă bày ra trước mắt. Bây giờ th́, như đă tŕnh bày, chỉ c̣n cách tranh đấu để thành lập một chính quyền mới với thiên hoàng là trung tâm rồi thi hành chính sách “nhương di” và nhân thể thuận ḍng làm luôn một cuộc cách mạng xóa tan xă hội phong kiến.

Tuy vậy, chỉ trách họ mỗi một điều là khi làm cuộc cách mạng để đập nát hệ thống xă hội có sẵn, người Nhật chưa có một “bản mẫu để can theo” (aozashin, photocalque) về một xă hội tương lai mà ngày nào đó nó phải thành h́nh.

 

“Đúng là những người như Saigô (Takamori) khi đánh đổ Mạc phủ, chưa h́nh dung được ḿnh sẽ xây dựng một đất nước mới như thế nào. Người đă t́m ra mẫu mă can theo để làm ra đất nước đó, theo tôi, là chí sĩ phiên Tosa, Sakamoto Ryôma vậy”.

(Trích “Một nhà nước gọi là Minh Trị”, chương 4, quyển thượng)

 

     https://encrypted-tbn1.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcQT_QvNhmivpo-CXsRydml7107CmEgS6gnkn_S_KqJ3iwd_QtVd         Sakamoto Ryoma.jpg

      Saigô Takamori                  Sakamoto Ryôma

 

Shiba vẫn đánh giá Saigô Takamori như người có công lớn nhất trong cuộc Minh Trị Duy Tân nhưng cho rằng ông không nắm được “ mẫu mă để can theo” mà nhà nước mới cần phải có.

Hệ thống kinh tế mới phải như thế nào và trước nữa, chế độ hoá tệ sẽ phải được qui định ra sao? Những điều đó đều chưa ai nghĩ tới. Từ việc sử dụng đồng kohan bằng quí kim như đơn vị hoá tệ tiêu chuẩn bước qua hệ thống tiền giấy như thông hoá đổi chác dễ dàng với nó sẽ phải theo quá tŕnh nào và sẽ được tổ chức ra sao, vẫn không thấy ai bàn. Làm cách nào để tạo ra của cải, thúc đẩy công nghiệp nông nghiệp, những điều này cũng chẳng ai bức xúc. Chỉ đề ra khẩu hiệu “Hăy học hỏi Tây phương!” (Seiyô narae!). Quân đội và vũ khí th́ bắt chước Anh và Đức nhằm thay đổi chúng theo lề lối Tây phương nhưng lại không biết phải du nhập hệ thống pháp lư của họ như thế nào và chưa đào tạo được nhân tài có thể ứng dụng một cách nhu nhuyễn và đích xác chế độ của người vào hiện t́nh đất nước ḿnh.

Xưa nay, Mạc phủ và các phiên đă có một hệ thống quan liêu ưu tú. Họ có thể tiếp tục giữ cơ cấu quan lại và chế độ quan liêu ấy. Làm như thế cũng có nhiều khiếm khuyết. Trong làng xóm NB vẫn có chế độ hương hào (mura yoriai) nhưng để bàn bạc chính trị, ngoại giao ở nghị trường th́ NB c̣n chưa có chế độ đại biểu dân bầu và nghị hội cấp nhà nước.  

 

Tính đa dạng của xă hội Edo là nền móng của thời Minh Trị

 

Người Nhật bắt đầu ṃ mẫm h́nh dáng đất nước mới của họ trong bóng tối. Theo ư kiến của Shiba, tài sản quí giá nhất của thời đó là tính đa dạng (diversity) của xă hội Edo. Quốc gia Minh Trị đă bắt đầu được xây dựng không theo một mẫu mă nào, nhưng dù bất toàn, nó cũng có thể gọi là thành công. Lư do của sự thành công ấy nằm trong chính chất đa dạng của xă hội Edo vậy.

Khi nói về tính đa dạng của Edo, chắc người ta nghĩ ngay đến việc nó là nơi chen chúc của gia đ́nh 300 lănh chúa[81]. Thực ra 300 nhà ấy không đến nỗi sống vô trật tự. Có khoảng 20 lănh chúa quan trọng  có thực ấp từ một lănh địa trở lên (gọi là kunimochi daimyô)[82] cầm đầu một hệ thống gồm 280 phiên nhỏ. Địa lư NB dài theo chiều dọc, điều kiện khí hậu và địa h́nh từng vùng khác nhau làm cho các phiên có những nét đặc trưng. Theo Shiba, điều đó khiến nhân tài các phiên đều có nhân cách và tài năng đa dạng.

 

Văn hóa của phiên Satsuma (phiên phong) là biết gạt đi tiểu tiết và chỉ chú trọng đến đại cục cho nên Satsuma đă cống hiến cho NB nhiều chính trị gia và nhà chỉ huy quân sự. Trong khi đó, người Chôshuu vốn giỏi thao tác quyền lực nên được giao cho việc xây dựng và điều khiển hệ thống quan liêu. Người Tosa thường không ở lại lâu trong chính quyền, họ hay lui về để phát động những cuộc vận động dân quyền. Phiên Saga là nơi cung cấp cho tân chính phủ những nhân tài tính t́nh trung hậu, có khả năng làm việc đến nơi đến chốn. Tính đa dạng đó là cái tài sản vô h́nh quư báu nhất mà nhà nước Minh Trị buổi đầu đă được thừa hưởng từ xă hội Edo.

(Trích “Một nhà nước gọi là Minh Trị”, chương 3, quyển thượng),

 

Cần nói thêm là phiên Aizu là một tiểu quốc vô cùng quan tâm đến giáo dục. Kaga cũng vậy. Ở nơi này, văn hoá và những kỹ thuật không kiếm được tiền cũng được trọng thị. Từ đó, họ đă đạt được những thành quả xuất sắc trong lănh vực hoá học, kỹ thuật ngành kỹ sư và toán học. Nói tóm lại, tùy theo đặc trưng của phiên ḿnh, xă hội Edo đă là nguồn cung cấp một loạt nhân tài đa dạng cho nhà nước Minh Trị. Chính quyền trung ương Minh Trị khi vừa mới ra đời đă qui tụ được tinh hoa do các phiên cung cấp. Chúng ta có thể mượn lời của Shiba:

 

Tính đa dạng ấy – nói ra th́ có vẻ trừu tượng – đă đem đến cho thời kỳ đầu đời Minh Trị khi nhà nước vừa thống nhất, sự phong phú và năng động từ bên trong.

(Trích “H́nh thù đất nước này”)

 

Thí dụ rơ ràng nhất là chế độ kôshi (貢士cống sĩ, từ 1868). Đó là việc các phiên tiến cử con em ưu tú của ḿnh lên thiên hoàng. Lại nữa, tự thời Edo đă có những cơ quan công lập (đúng hơn là quan lập) như Shôheizaka gakumonjô (Nhà giảng sách Chu tử học ở con dốc Shôhei, Edo, từ 1630) và Bansho shirabesho (Sở phiên dịch sách vở Tây phương, từ 1856). Shutôjô (Sở chủng đậu, từ 1857), sau đó cả ba được cải tổ và hợp nhất thành trường Teikoku daigaku (Đại học đế quốc, từ 1886, tiền thân của Đại học đế quốc Đông Kinh, từ 1897 và Đại học Đông Kinh thời mới, từ 1949). Không những thế, hệ thống giáo dục đó của nhà nước đă được bổ sung bằng các trường sĩ quan lục quân và hải quân, qui tụ lại tại thành phố Tôkyô nhiều nhân tài ưu tú và đa năng. Rồi từ cuộc tập hợp đó, sẽ sinh ra một chuỗi phản ứng hóa học dây chuyền.

“Vầng mây trên đầu dốc”, một trong những tác phẩm tiêu biểu của Shiba, có một nhân vật đáng lưu ư là Masaoka Shiki[83], sau sẽ thành nhà thơ và b́nh luận về Haiku lỗi lạc một thời, xuất thân từ thành phố Matsuyama (tỉnh Ehime trên đảo Shikoku). Ông cũng được tiến cử lên Tôkyô. Nơi đây, Shiki đă gặp gỡ văn hào Natsume Sôseki, ngày đó hăy c̣n là một sinh viên trẻ. Giữa hai người đă có một “phản ứng hoá học” để rồi cùng nhau làm nên cuộc cải cách văn học cho nước Nhật. Ngoài ra, quân nhân văn vơ song toàn Akiyama Saneyuki cũng đă được phiên ḿnh cung cấp cho chính quyền trung ương. Nếu không có cuộc Minh Trị Duy Tân th́ chắc Akiyama Saneyuki sẽ phải tàn đời ở cố hương như một samurai thuộc cấp, ngày ngày ngâm vịnh thơ Haiku. May là ông đă được lên Tôkyô và gia nhập hải quân, nhân đó lọt vào mắt xanh các nhà lănh đạo Satsuma và tạo nên một “phản ứng hóa học”qua sự tiếp xúc với họ. Saneyuki rốt cục đă trưởng thành để rồi đóng vai tṛ quyết định trong Chiến tranh Nhật Nga (1904-05). Shiba đă mô tả rất khéo léo h́nh dáng của con người ấy trong “Vầng mây trên đầu dốc”. Như thế, tính đa dạng và đa năng của nhân tài NB chẳng phải là di sản đáng quí trọng hơn cả mà xă hội Edo đă để lại cho nhà nước Minh Trị hay sao?

 

              http://blogimg.goo.ne.jp/user_image/32/c0/9089421c6c23ea2225f4c7a211c4bdc5.jpg 

                   Người muốn vẽ h́nh thù đất nước ḿnh

 

Những di sản khác từ xă hội Edo:

 

Một điều cần lưu ư khi nói về di sản mà xă hội Edo để lại là tŕnh độ văn hoá rất cao của người b́nh dân (民度mindo). Về việc hiểu biết pháp lư, chế độ và sự phục tùng kỹ luật, họ có thể đứng vào hàng đầu các dân tộc trên thế giới. Nói về dân trí của người Nhật, thật ra  không thiếu ǵ giai thoại. Chẳng hạn câu chuyện vào thời Edo, có những người Nhật gặp giông băo và đắm tàu. Thuyền của dân da trắng đến vớt. Một phân nửa người mắc nạn không lên thuyền, cứ thế mà chịu chết đuối. Người da trắng hoảng hốt hỏi : “Tại sao mấy anh kia khăng khăng chịu chết như vậy nhỉ?”. Một người được vớt mới trả lời: “Phép nước chúng tôi là đi biển mà giao thiệp với người ngoại quốc là lănh án chém. Bọn họ nghĩ rằng thà chết mà theo đúng pháp luật th́ vẫn hơn! Cho nên mới chịu chết ch́m”

Các thủy thủ da trắng nghe thế lấy làm kinh ngạc. Người b́nh dân NB có quốc dân tính kỳ lạ là phục tùng chính quyền và giữ ǵn pháp độ một cách đáng sợ như thế.

Tuy vậy sự phục tùng đó thường không phải là nhắm mắt phục tùng như kẻ nô lệ. Thực ra, họ có hiểu biết. Tŕnh độ biết chữ của một người Nhật trung b́nh thời đó ngang ngửa nếu không nói là trội hơn cả người Âu châu.

Ngoài ra, việc phục tùng xảy ra được cũng là v́ những nhân tài ưu tú của các phiên khi tụ tập lại ở trung ương để xây dựng nhà nước cận đại, họ đă tỏ ra rất được việc. Shiba ví Đại học đế quốc Đông Kinh với một bảng giao điện (distributor, switchboard). Ông nói:

 

Máy nổ của một chiếc ô-tô lúc nào cũng được trang bị một bảng giao điện có thể phân phát điện để điểm hỏa cho từng xy-lanh (cylinder). Sau khi có điện, chúng sẽ lần lượt được khởi động để cháy bùng lên. Đúng như thế, vào giai đoạn đầu thời Minh Trị, khi hấp thụ văn minh phương Tây, nước Nhật là một cái máy nổ. Những kẻ tương đương với cái bảng giao điện ấy đă được đào tạo ở Đại học Đế Quốc Đông Kinh (từ đây xin gọi là Đại Học Đông Kinh).

(Trích “H́nh thù đất nước này”)

 

Tóm lại, những đứa con ưu tú (elite) của NB đă phát ra điện ra từ cái bảng giao điện này. Thế nhưng nếu quốc dân - những người nằm trong máy nổ - không động đậy th́ điện ấy dù có cũng chỉ vô ích. May thay, người thường dân NB đă có sẵn một tŕnh độ dân trí đủ để hành động tức khắc. Lư do là người NB từ đời Edo đă tỏ ra là những con người hết sức ham học và đây là một yếu tố quan trọng. Họ vừa có dân trí cao, vừa biết phục tùng quyền lực. Bởi lẽ những tư tưởng như trung hiếu hay thờ cha kính mẹ đă ăn sâu nơi họ từ lâu rồi.

Do đó, sự chính trực và công tâm của người dân Edo cũng có thể được gọi là di sản. Thời Sengoku, nếu muốn sống c̣n, con người phải tự lo lấy thân cái đă. Đến đời Edo đă có phong tục “mướn một người làm là mướn cả đời” (永代雇用eitai koyô = permanent employment) nên ai nấy đều hăng hái phục vụ cộng đồng và muốn hoàn thành trách nhiệm với cấp trên. Thời đó, những ai làm tṛn phận sự sẽ được kính nễ và không c̣n phải lo toan cho cuộc sống. Một samurai khi phục vụ cho gia đ́nh chủ nhân sẽ làm việc với tất cả công tâm, một ông lư trưởng (shôya[84]) cũng tỏ ra có công tâm khi đứng ra bảo vệ lợi ích của người dân nơi làng xă. C̣n thường dân th́ họ không hành động thiếu suy nghĩ chỉ với chủ đích thoả măn những đ̣i hỏi riêng tư. Có thể là v́ trong một xă hội đảo quốc bế tỏa, mọi chuyện xấu xa đều chóng vở lở ra ngoài.  

Hơn nữa, trong xă hội Edo, người ta tôn trọng hai đức tính là shôjiki (正直chính trực) và shôro (正路chính lộ, có nghĩa là chính đạo). Truyện cổ Nhật Bản thường ca tụng những người sống ngay thẳng. Sự chính trực là đức tính cao cả nhất trong bảng giá trị của người b́nh dân. Nó không chỉ được tôn quí vào thời Edo nhưng đă bắt đầu từ hàng ngàn năm về trước. Nó tượng trưng cho tổng thể qui chuẩn đạo đức của người Nhật. Có lẽ v́ vậy mà về sau, nếu nh́n cuộc sống và cách xử thế của người thời Minh Trị, ta thấy họ quá thành thực, nhiều khi phải nói là ngây thơ, trẻ con.

Tuy nhiên Shiba cho rằng thời Minh Trị là thời đại mà người ta có lư tưởng. Lư tưởng đó đă được sinh thành và đào tạo lâu dài dưới thời Edo, cuối cùng đơm hoa kết trái vào thời Minh Trị. Như thế, Shiba muốn khẳng định là lư tưởng Minh Trị đă h́nh thành bằng cách tập hợp rất nhiều di sản đến từ xă hội Edo.

 

Di sản tiêu cực của thời Edo:

 

Mặt khác, chúng ta cũng cần nói đến những di sản tiêu cực của thời Edo. Đó là cái nh́n miệt thị của nó đối với các nước ở vùng Đông Á.

Cơ bản là lúc đó chính quyền Tokugawa đang thi hành lệnh hải cấm[85] (kaikin) cho nên người Nhật không được ra nước ngoài. Do đó, họ chỉ biết về những việc xảy ra trong nước. Hơn thế, vào thời tiền cận đại (trước Mạc phủ Muromachi) th́ Trung Quốc hăy c̣n là nước tiên tiến, mạnh mẽ và giàu có, thế nhưng Toyotomi Hideyoshi khi xuất quân đánh Triều Tiên, dưới mắt ông ta, TQ (Trung Quốc) tuy có mạnh nhưng cũng không đáng kể. Từ đó tư tưởng này đă cắm rễ trong đầu óc người Nhật. Sự thực cũng cho thấy là, nếu lấy cặp mắt của người hiện đại mà nh́n, th́ sức thu nhập b́nh quân một người Nhật trong giai đoạn ấy vượt trên cả người Trung Quốc lẫn Triều Tiên.

Thế rồi người Nhật bắt đầu cảm thấy tính ưu việt về mặt tư tưởng so với lân bang: “Trung Quốc và Triều Tiên, tiếng là quốc gia Nho giáo nhưng triều đại thay đổi xoành xoạch.Theo đúng được đạo đức Nho giáo, chỉ có mỗi NB”. Lối suy nghĩ như thế bắt đầu chớm dậy. Hơn nữa, cách nh́n coi thường cho rằng triều đ́nh Bắc Kinh là vương triều của các bộ tộc phương bắc chứ nào phải của tộc Hán là những kẻ đă khai sinh đạo Nho, đă trở thành một phong trào. Cùng với lệnh “hải cấm” của thời Edo, tư tưởng này đă bắt rễ sâu hơn.Tính độc thiện (self-rightousness) xem mỗi ḿnh ḿnh là đúng so với người ngoài là một sự thực hồi đó.

Đến thời Minh Trị, Nhật Bản thắng được nhà Thanh th́ khuynh hướng kẻ cả nh́n xuống Trung Quốc và Triều Tiên lại càng đậm nét. Người ta đưa ra những phương châm như “Thoát Á nhập Âu”. Điều đó có nghĩa là “NB phải thoát ra khỏi châu Á để nhập bọn với các quốc gia Tây Âu”. Khi tuyệt vọng v́ Triều Tiên không có cơ may cận đại hóa, Fukuzawa Yukichi[86] đă viết bài xă thuyết “Thoát Á Luận”(Datsuaron). “Thoát Á” là chữ Fukuzawa thổ lộ ra sau khi nghĩ rằng NB không c̣n cách nào kéo các được các nước Á châu về bè, về sau đă bị hiểu theo cách khác[87] là “Chỉ có Tây Âu mới hùng cường. Á Châu vốn yếu ớt, có bị trị cũng đương nhiên”. Tuy vậy, điều này không phủ định được việc NB cận đại lúc ấy đang có một mặc cảm tự tôn nên mới muốn “thoát Á” và nó đă tự cô lập ḿnh giữa xă hội vùng Đông Á. Ta thấy Shiba đă nhiều lần tỏ ra lo lắng nếu không nói là khiếp hăi trước khuynh hường đó.

 

Một chủ nghĩa hiện thức với tinh thần cách điệu cao:

 

Sau đó, Shiba đă giải thích thêm như sau về thời đại Minh Trị:

 

Minh Trị là thời đại của chủ nghĩa hiện thực (realism). Hiện thực nhưng được nâng đỡ bởi một tinh thần cách điệu cao (with high dignity, with style) và trong suốt (limpid, transparent). Thực ra trong cuộc đời cũng có những loại hiện thực thiếu cao cả, chẳng hạn như cái hiện thực của ông hàng rau quả. Một quốc gia cũng cần phải có cái tính hiện thực thấp lè tè ấy nhưng khi nói đến việc xây dựng một quốc gia - nếu xem quốc gia như một kiến trúc – th́ nền móng của nó phải là cái không thể dùng mắt mà thấy được. Nếu nói đó là khí nén (compressed air) th́ cũng không sao nhưng tính hiện thực của một quốc gia c̣n được đặt bên trên, cao hơn cả tầng khí nén ấy nữa.

(Trích “Một nhà nước gọi là Minh Trị, chương 1, quyển thượng)

 

Gọi “chủ nghĩa hiện thực của ông hàng rau quả” không có ư khinh chê hay mạt sát nhưng chỉ muốn nói đấy là cái hiện thực theo chủ nghĩa công lợi (utilitarism) - làm ăn sao cho có lời - thấy nơi nhà buôn. Tóm lại, đó là tính hiện thực của những người công dân b́nh thường. Shiba vẫn cho là nó rất cần thiết. Tuy vậy, chủ nghĩa hiện thực có tinh thần “cách điệu cao mà lại trong suốt” là một chủ nghĩa, theo ông, chỉ xuất hiện ra trong những môi trường to lớn như cộng đồng thể hay xă hội. Không phải là cái hiện thực nhằm chạy theo lợi lộc trước mắt nhưng là cái hiện thực vứt bỏ riêng tư và chỉ giữ lại tinh thần phục vụ cộng đồng. Có thể xem nó như một chủ nghĩa hiện thực rộng lớn với mục tiêu “ḿnh v́ đời và v́ người”.

“Khí nén” là một chữ dùng mà Shiba yêu chuộng. Xă hội thời Edo là một xă hội phải chịu nhiều ức chế và đè nén nên tư tưởng cũng bị nén như không khí, đến khi quá căng, nó sẽ sinh ra một sức mạnh khủng khiếp.Tư tưởng ấy cô đọng và thuần chất, giống như không khí bị nén lâu ngày.

Dưới thời Edo, tư lợi và tư dục của thị dân bị ức chế. Dù là người giỏi vơ nghệ đến đâu, nếu không sinh trong một gia đ́nh samurai th́ sẽ không đời nào trở thành lănh chúa có ấp phong. Cho dù nuôi chí lớn, gắng gỗ học hành những mong có chức phận cao, vẫn bị hai chữ senjô (僭上tiếm thượng) ngáng đường. Bị chỉ trích ”Làm như vậy là ...chơi trèo!” th́ không c̣n cách hơn là miệng ngậm bồ ḥn. Đó là một thời đại cấm cửa, không cho phép người có tài được tiến thân nếu không có gốc gác con nhà.

Một từ khóa có thể dùng để hiểu thời Edo là bunsô.ô (分相応  phận tương ứng) nghĩa là làm ǵ cũng phải “đúng với thân phận” (know your place). Người dân Edo bị ràng buộc trong nghĩa vụ ấy. Điều đó có nghĩa là một người tài năng đáng đoạt giải Nobel đi nữa, anh ta tự động bị bắt buộc làm cái công việc tương xứng với giai cấp (thân phận) chứ không liên hệ ǵ đến tài năng. Tuy vậy, điều này cũng không hoàn toàn tiêu cực. Nhờ cắm cúi nối nghiệp nhà mà nhiều nhân tài – tuy không được địa vị cao trong xă hội v́ bức tường giai cấp - đă đi sâu vào ngành nghề của ḿnh và trở thành những nhà chuyên môn lỗi lạc.

Trạng thái ẩn ức như khí nén của xă hội Edo đă được thời Minh Trị giải phóng. Nếu là người muốn phục vụ cho mục tiêu “phú quốc cường binh” th́ dù mong muốn được trở thành cái ǵ cũng không ai bắt lỗi. Khi một cậu học tṛ tiểu học phát biểu:” Con muốn học giỏi sau thành đại tướng lục quân để tận trung với Thiên hoàng và v́ đất nước” th́ thày cô sẽ vỗ tay tán thưởng. Nếu chuyện này xảy ra vào thời Edo, người ta đă bịt ngay miệng cậu ấy rồi. C̣n như bảo: “Con muốn học giỏi để sau làm đến Shôgun” th́ sẽ bị mắng là “Đồ phạm thượng!” (Senjô no sata!) hay “Muốn làm giặc hả?” (Muhon?).

Cách nghĩ Funsô.ô (phận tương ứng) bắt nguồn từ sách vở Chu tử học (cái học của Chu Hy).Theo đó, con người ai nấy đều đă được trời đặt cho ḿnh đứng ở trong cái Lư và cái Phận cả rồi nên khó ḷng tự do làm theo ư ḿnh. Sống được theo Lư là ḥa hợp với phép tắc của vũ trụ, một lối sống đẹp. Cho đến thời nay, những người có tư duy như vậy chắc vẫn c̣n chứ chưa hẳn đă mất cả.

Trong t́nh thế ấy, không gian xă hội với một chính quyền quân sự cầm đầu bởi tầng lớp samurai đă sinh ra chủ nghĩa hiện thực thời Minh Trị. Nói theo cách nói của Umesao Tadao[88] th́ đó là một “chu vi văn minh” (文明の周縁bunmei no shuen). Nhật Bản không có một tôn giáo phổ quát nào sinh ra từ tập quán của đời sống thường nhật của họ. Tuy nhiên, nhờ vậy mà chủ nghĩa hiện thực Minh Trị mới có cơ xuất hiện.

Thử đưa ra ví dụ về đường sắt. Nó là phương tiện giao thông tuyệt đối cần thiết cho một nhà nước cận đại. Thế nhưng, ở Trung Quốc chẳng hạn, những trí thức ưu tú xuất thân từ hệ thống khoa cử không hề tỏ ra quan tâm đến việc phải trải đường sắt. Đây đâu phải là công việc của sĩ đại phu (establishment)! Tinh thông chữ Hán, thuộc làu Tứ thư Ngũ kinh mới có giá trị. Công việc dính dầu mỡ, vít bù loong nào có xứng đáng với người trí thức

Quay lại nh́n về NB, chúng ta thấy có Inoue Kaoru - một trong “Chôshuu Five”[89] – tuy là một trí thức tinh hoa, đă bỏ qua đặc quyền giai cấp khi xin vào một trường chuyên môn về đường sắt, tập vít bù loong, đốt ḷ đun hơi nước (boiler) và cách chế tạo pít-tông (piston). Về sau ông cũng không hề có ư lập nên một hăng vận chuyển đường sắt để làm giàu. Ông chỉ nghĩ rằng nhà nước NB cận đại cần có một hệ thống vận tải nhanh chóng và tiện lợi nên mới bỏ chức phận samurai mà học nghề kỹ sư hỏa xa. Đó chính là một chứng cớ của chủ nghĩa hiện thực với tinh thần cách điệu cao hay nói khác đi, với một tâm hồn cao thượng. Bối cảnh của chủ nghĩa hiện thực Minh Trị là ḷng tin có màu sắc tôn giáo của dân chúng đối với giới quan liêu và nhà nước. Nó đă được thể hiện cụ thể bằng những hành động nhằm chấn hưng kỹ nghệ cho đất nước.

 

“Vầng mây trên đầu dốc” miêu tả chủ nghĩa hiện thực Minh Trị:

 

Từ quan điểm chủ nghĩa hiện thực, cuốn tiểu thuyết trường thiên “Vầng mây trên đầu dốc” (Sakanoue no kumo)[90] là một kiệt tác mô tả được một cách sống động xă hội NB thời chiến tranh Nhật Nga, trong đó, ba nhân vật chính là anh em Akiyama Yoshifuru, Akiyama Saneyuki và nhà thơ Masaoka Shiki. Ngay đoạn mở đầu đă gây ấn tượng:

 

Một quốc gia nhỏ bé đang thực sự đứng trên ngưỡng cửa của thời kỳ văn minh khai hoá / Nhưng đối với quần đảo th́ Shikoku chỉ là một ḥn đảo nhỏ / Shikoku lại được chia ra làm bốn khu vực là Sanuki, Awa, Tosa và Iyo. Thị trấn lớn nhất của Iyo là Matsuyama.  

(Trích Chương 1)

 

Nước Nhật thời Shôwa là một nước lớn nhưng so với nó, nước Nhật Minh Trị hồi đó chỉ là một quốc gia vô cùng nhỏ bé nếu đem so sánh với liệt cường. Người Nhật thời ấy ư thức được thân phận yếu kém của ḿnh nên hăy c̣n giữ được ḷng khiêm tốn. Mấy hàng đầu của cuốn truyện thấy giống h́nh ảnh địa cầu chụp được từ vệ tinh nhân tạo. Làm như Shiba là một ông thần đang đứng trên trời đưa mắt nh́n xuống thời đại bấy giờ với cặp mắt khách quan. Thời ấy là thời của văn minh khai hoá và đất nước NB giống như một đóa hoa đang hé nụ, đă chuẩn bị được đầy đủ để đi trên con đường khai hóa (hay khai hoa) đó.

Một cách khác để đọc cuốn truyện này là chọn hai nhân vật Akiyama Saneyuki và Nogi Maresuke[91] làm trọng tâm bởi v́ hai người này có liên quan đến tinh thần hiện thực có cách điệu cao mà chúng ta đă đề cập. Akiyama có thể được xem là hiện thân cho một chủ nghĩa hiện thực tươi sáng, c̣n như Nogi th́ ngược lại, rất u ám. Nogi tượng trưng cho tín điều “v́ việc công, phải dẹp bỏ cái riêng tư”. Tuy cũng thể hiện chủ nghĩa hiện thực nhưng theo một véc-tơ (vector) khác với Akiyama. Tóm lại, Akiyama theo một chủ nghĩa hiện thực hợp lư và Nogi bất hợp lư.

Shiba cho rằng h́nh ảnh thời Minh Trị là một tổng hợp của cả hai nhân vật nói trên. Theo ông, nhờ có hai loại nhân vật như vậy mà nhà nước Minh Trị mới thành h́nh.

Akiyama ra nước ngoài du học, ông nắm được kiến thức quân sự và khoa học kỹ thuật Tây phương nên chủ nghĩa hiện thực nơi ông có tính độc sáng. Nếu dùng từ chữ Hán liên quan đến binh pháp th́ sức chiến đấu (chiến lực) của Akiyama dựa trên “cơ lực” (mechanism) nghĩa là sức mạnh của máy móc và “thuật lực” tức sức mạnh của con người (manpower) và của kỹ thuật (technology). Nếu không hội đủ cả hai th́ chiến lực sẽ mất đi cơ năng của nó. Cho dù có trong tay những chiến hạm tối tân thế nào đi nữa, nếu kỹ năng người sử dụng yếu kém th́ không thể nào phát huy được trọn vẹn tiềm năng của chúng. Thế nhưng, vào thời Shôwa, để bổ sung cho “cơ lực” và “thuật lực”, lục quân đă hô hào việc sử dụng cái vũ khí bất hợp lư là “ngọn cờ tư tưởng”. Ít nhất, vào thời đại của Akiyama, người ta ư thức ḿnh là yếu và do đó, họ chỉ dựa trên chủ nghĩa hiện thực để chiến đấu.

Ngược lại, h́nh ảnh của Nogi có thể tóm lại như sau. Ông mặc quần áo quân nhân (v́ là một người lính), thức hay ngủ cũng giữ y nguyên. Tuy ông cùng chia sẻ với Akiyama t́nh cảm cao thượng sống chết v́ cộng đồng (tinh thần cách điệu cao) nhưng với một chủ nghĩa hiện thực bất hợp lư, ông không thể thắng một cuộc chiến tranh.Trong trận tiến chiếm cao điểm 203 ở mặt trận Lữ Thuận (1904), ông đă xua quân làm chết biết bao nhiêu binh sĩ. May là NB đă thắng lúc đó nên Nogi mới được truyền thuyết hoá thành Gunshin (Quân thần) nghĩa là ông thần chiến tranh, mô phạm của người lính.

 

http://livedoor.blogimg.jp/monochrome45/imgs/6/8/68240349.jpg

 Cảnh chiến đấu trong phim Cao điểm 203 (dựng năm 1980)

 

Thế nhưng đằng sau lưng, không khỏi có vài ư kiến phê phán xem Nogi như một “phàm tướng” (tướng tầm thường) hay “ngu tướng” (tướng dốt nát). Trong “Vầng mây trên đầu dốc” th́ ư kiến theo kiểu thứ hai này đă được bộc lộ hẳn ra. Đối với Shiba, không riêng ǵ Nogi mà tất cả các sĩ quan tác chiến dưới quyền ông chỉ là một bọn người “vô năng” (không có năng lực). Những lời buộc tội nặng nề đó dĩ nhiên được đặt trong văn mạch hạn chế của thời Chiến tranh Nhật Nga và theo cách nh́n lịch sử kiểu Shiba.

 

Binh lính NB tin chắc rằng cái chết của họ sẽ xây đắp nên chiến thắng,  dũng cảm tiến ra phía trước nên đă bị quân địch bắn gục như đốn rạ. Tuy vậy, những người tử trận ít nhất cũng được một chút hạnh phúc. Đó là việc họ không hề hay biết chuyện bộ tư lệnh tác chiến của tướng Nogi sẽ bị người đời xem như là một bộ tư lệnh bất tài hiếm có nhất trong lịch sử quân sự thế giới!

(Trích “Vầng mây trên đầu dốc” tập 4)

 

Ta thấy nơi đây Shiba đă liên kết lịch sử với trải nghiệm bản thân. Ông mượn lịch sử để - bằng cái nh́n sắc bén - đổ tất cả sự tức giận lên đầu bộ phận nấp đằng sau Bộ chỉ huy của lục quân thời Shôwa đưa bản thân ông và đồng đội vào cửa tử. Qua cách tŕnh bày về Nogi, ông tướng được quần chúng yêu mến v́ ḷng cao thượng nhưng đồng thời phê phán v́ sự ngu trung, Shiba đă đưa ra đưọc cái mặt tối tăm nằm trong chủ nghĩa hiện thực thời Minh Trị.

C̣n như Akiyama Saneyuki th́ sau khi thành công trong kế hoạch tác chiến của hải quân NB, đă trở về quê hương Matsuyama và đi nói chuyện ở nhiều nơi. Người ta c̣n giữ lại được nội dung của những bài diễn thuyết ông đọc lúc đó. Thấy có câu: “Không phải là  tôi chỉ chú trọng đến dụng cụ, nhưng xét về mặt chiến thuật, việc vơ khí mạnh hay yếu có ảnh hưởng rất lớn đến sức chiến đấu”. Với người lính th́ được đưa cho bất cứ loại vơ khí nào, họ cũng phải hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu. Đó là tinh thần cách điệu cao mà Akiyama lẫn Nogi đều có. Thế nhưng Akiyama đă thêm vào lối suy nghĩ hiện thực hợp lư khi ông khẳng định là sự hơn kém về vơ khí là yếu tố quyết định trong chiến tranh.

Nếu người ta chiến đấu với một ư tưởng là “cho tôi bất cứ vơ khí nào, tôi dù có chết cũng chiến đấu” th́ khả năng chiến thắng trong một cuộc chiến tranh sẽ cao hơn b́nh thường. Tuy nhiên khi nói  “dù có chết cũng chiến đấu” th́ người đó đă đánh mất tính hiện thực và hành động của anh ta chỉ có thể được gọi là tự sát. Thế mà vào thời Shôwa, hành động đó được xem như chuyện hiển nhiên.

Điều Shiba muốn phát biểu vốn nằm ở chỗ là phải kết hợp tinh thần cách điệu cao với chủ nghĩa hiện thực hợp lư. Nếu được như vậy th́ đất nước này (NB) sẽ không lao đầu vào những cuộc chiến tranh ngu ngốc. Có thể đây là một trong những kết luận của tác phẩm..

 

Những thông điệp đến từ “Vầng mây trên đầu dốc”

 

Nhiều người khi đánh giá cao “Vầng mây trên đầu dốc” đều tỏ ra có t́nh cảm tốt đẹp về thời Meiji. Thế nhưng nên nhớ rằng lư tưởng của con người thời Minh Trị là nhắm đến một vầng mây trên đầu con dốc. Khi Shiba viết ra tác phẩm đó, ông đă có sẵn trong đầu ư nghĩ là dù có leo lên và leo măi trên con dốc đó, không bao giờ ta với tới được vầng mây. Có lên tới đỉnh dốc th́ cũng để mà...xuống dốc và bên dưới con dốc đó, thời đại Shôwa và vũng lầy khủng khiếp của nó đang chực sẵn. Có phải chăng đó là “ư tại ngôn ngoại” trong tựa đề của tác phẩm?

Shiba đă viết nên tác phẩm vào giữa thập niên 1960 cho đến đầu thập niên 1970, lúc kinh tế NB phát triển cao độ và thời đại đă đạt đến đỉnh cao nên cái nh́n về tương lai cũng thoáng ra. Khí thế lúc đó làm cho mỗi một người Nhật đều nghĩ ḿnh phải góp phần vào việc tạo dựng lịch sử. Phải chăng v́ thế mà họ đă có hứng khởi đi t́m hiểu về những người từng trèo lên quăng dốc là thế hệ Minh Trị, điều đó khiến cho “Vầng mây trên đầu dốc” trở thành tác phẩm ăn khách trên toàn quốc.

Nhờ giai đoạn kinh tế phát triển cao độ, cuộc sống của người Nhật phong phú. Nó được tiêu biểu bằng ba báu vật (Sanshu no jingi)[92]. Con người như thế đă thỏa măn về phần vật dục nhưng họ dần dần đánh mất lư tưởng trèo dốc (saka no ue) để chạm được vầng mây. Có lẽ với bối cảnh như vậy, Shiba đă ngoảnh đầu lại nh́n về thời Minh Trị, tập trung vào việc vẽ ra cho quốc dân NB h́nh ảnh một lư tưởng và cùng lúc, cho họ thấy NB cận đại đă sai phạm vào lúc nào.

Thế rồi thông điệp mà Shiba nhấn mạnh nhiều nhất là nếu người Nhật muốn thành tựu một việc ǵ, họ đều phải dựa trên một chủ nghĩa hiện thực hợp lư. Đó là sợi chỉ đỏ đă xuyên suốt tác phẩm. Khi con người chỉ chú trọng vào lợi ích của cộng đồng và gạt bỏ tư lợi tư  dục và phát huy được chủ nghĩa hiện thực hợp lư th́ theo Shiba,  họ sẽ làm nên được những chuyện kinh thiên động địa. Ngược lại, tuy là có tinh thần công cộng cao nhưng thiếu mất tính hiện thực th́ Shiba muốn cảnh cáo một cách thầm kín rằng con đường trước mặt họ lúc đó chỉ c̣n là khủng bố hay tự sát.

 

V)    Thời đại thai nghén quái thai:

 

Thời đại thai nghén quái thai là ǵ?

 

Nếu Shiba đă mô tả Minh Trị như một thời đại lư tưởng th́ đáng lư ra ông cũng phải viết tiếp cho đến giai đoạn Shôwa tiền kỳ (1926-1945) tức là tuổi trẻ của ông. Thế nhưng ông không sao mô tả được thời kỳ sau dưới h́nh thức tiểu thuyết và đă chấm dứt đời viết văn của ḿnh lửng lơ như vậy. Có chăng ông chỉ viết một số bài nghị luận về thời Shôwa dưới nhan đề “H́nh thù đất nước này” (Kono kuni no katachi)[93] mà trong đó, ông đưa ra một câu nói tiêu biểu: “Từ những năm đầu thời Shôwa cho đến khi thất trận (1945), khoảng mười mấy năm đó - đối với ḍng lịch sử dài lâu của NB – đă bị xem như là một giai đoạn lịch sử bị đánh mất sự liên tục”.(Trích Chương 1, tiết 4, “H́nh thù đất nước này”)

Mặt khác những bài tạp đàm của ông trên đài NHK trong chương tŕnh “Tạp đàm của Shiba Ryôtarô. Con đường dẫn đến Shôwa” về sau đă được in ra thành sách với nhan đề “Một nhà nước tên gọi  Shôwa” (Shôwa to iu kokka)[94]. Shiba đă đánh giá thời đại này như một “thời kỳ dị hợm nhất trong lịch sử NB”, “ thấy nó như thuộc về lịch sử của một quốc gia nào khác”, “thời đại của những tay phù thủy”, “thời của phù thủy chốn thâm sơn”...

Trong “H́nh thù đất nước này”, ông c̣n đưa ra h́nh ảnh một “đế quốc chủ nghĩa kiểu con buôn tạp hoá”. Trong chương sách mang tiểu đề này, Shiba cho rằng trong 40 năm từ trận Nhật Nga đến khị bại trận trong Chiến tranh Thái B́nh Dương (1905-45), NB đă bước vào một thời đại của “quái thai” (các tên khác ông dùng: kỳ thai, quỷ thai, dị thai) mà đặc tính là bị cắt ra khỏi ḍng liên tục của lịch sử nước này. Ở một đoạn khác cùng chương, ông nói: “Dưới thể chế pháp lư đến từ Hiến Pháp Minh Trị, người ta cảm thấy NB như đang thai nghén một bào thai với h́nh thù quái gở”.

Quái thai này hay là đứa con của ma quỷ (鬼っ子onikko) tiếng là có cha có mẹ nhưng không giống họ ở chỗ nào cả.Tuy cũng là một thời đại trong ḍng lịch sử NB nhưng thời của quái thai khác hẳn những thời đại khác. Hai giai đoạn Minh Trị và Shôwa như bị cắt đôi ra. Shiba thắc mắc không biết phải giải thích như thế nào về hiện tượng lạ lùng này.

Thế nhưng hỏi thử Shiba có thực ḷng xem hai thời kỳ ấy như bị cắt đôi chăng? Điều đó hăy c̣n là một nghi vấn! Khi người ta đổ bệnh th́ chứng bệnh ấy đă nằm tiềm tàng lâu dài trong cơ thể. Xă hội cũng vậy. Con bệnh chiến tranh phát ra vào đầu thời Shôwa phải là do những con vi khuẩn, vi trùng có từ thời Minh Trị. Chỉ có cái là vào thời ấy, bệnh chưa lộ ra ngoài mà thôi. Có thể mệnh danh nó là “thời kỳ hạnh phúc khi bệnh tật c̣n tiềm ẩn”.

Chẳng hạn thời Chiến tranh Nhật Nga. Giữa khi quân Nga bố trí súng liên thanh trên Cao điểm 203, bộ đội của tướng Nogi đă tổ chức nhiều cuộc đột kích, số thương vong rất lớn, xác chết chất thành g̣. Rơ ràng là một chiến thuật sai lầm mà bộ chỉ huy vẫn quyết tâm thực hiện cho bằng được. Thế rồi chính phủ mỹ hóa nó thành những chiến tích anh hùng để ma mị quốc dân. Theo Shiba, đó là cái ổ vi trùng đă đẻ ra căn bệnh thời Shôwa. Ngay cả người mà chúng ta gọi là có tinh thần hiện thực lạc quan như Akiyama Saneyuki mà cũng bảo “quân đội NB có trời giúp” hay là “quân đội do thiên hoàng thống lĩnh sẽ nhận được ơn phước từ trời” nghĩa là không thoát ra nổi những điều hoang tưởng siêu nhiên.

Nguyên lai, trong các chiếu chỉ bố cáo việc tuyên chiến với địch dù là Nga hay Anh Mỹ từ Meiji đến Shôwa, lúc nào cũng bắt đầu với một lối hành văn kiểu “Đại Nhật Bản đế quốc hoàng đế vạn thế nhất hệ ...hoàng tộ...thiên hựu...thiên trợ...thần phong...” nghĩa là đầy dẫy những từ hoa và không có một chút màu sắc thực tế. Được dạy dỗ trong bầu không khí siêu nhiên như thế, quốc dân nghe và tin theo, họ trở thành một kiểu đoàn thể tôn giáo và nhà nước hầu như mang sắc thái của một quốc gia tôn giáo. Dù rằng nhà nước Minh Trị là một quốc gia cận đại có một hệ thống pháp luật hợp lư nhưng chủ nghĩa hiện thực hợp lư của nó vẫn chưa đủ sức bài trừ hết những tư tưởng thần thánh siêu nhiên.

 

Chủ nghĩa quốc gia hay chủ nghĩa ái quốc:

 

Thử hỏi tại sao thời đại quái thai đă có thể đến với NB như vậy? Theo Shiba, đó là v́ chủ nghĩa quốc gia (nationalism) đă sổ lồng và vùng chạy loạn xạ. Theo ư riêng của Shiba, thuật ngữ nationalism phải được dịch là “chủ nghĩa tự măn về đất nước ḿnh” mới đúng. Chúng ta vẫn thường tự măn về cá nhân, gia đ́nh, làng xă ... nhưng nó không phải là một t́nh cảm có phẩm chất cao. Có một t́nh cảm khác đôi khi cũng được đồng hóa với nationalism. Đó là patriotism (chủ nghĩa ái quốc). Thế nhưng vẫn theo Shiba th́ những chữ ḷng yêu nước, người yêu nước...nghe ra c̣n thấy thanh tao hơn là chữ chủ nghĩa ái quốc.

Để hiểu nationalism khác patriotism ở chỗ nào, chúng ta chỉ cần phân tích cái gọi là t́nh cảm tự măn của người ta về gia đ́nh ḿnh. Trong một xă hội địa vực nhỏ bé chẳng hạn, có những người tự măn về gia thế và khinh chê gia đ́nh người khác. Cái mà họ tự măn không phải do họ tự tạo ra, chỉ v́ được sinh ra trong một gia đ́nh nào đó là thấy ḿnh có đủ tư cách để coi thường kẻ khác. Họ rơi vào cách suy nghĩ thiển cận là nếu ḿnh là kẻ có tiền, người nghèo tất phải nghe theo. T́nh cảm xem ḿnh là kẻ đáng yêu biến thể sang t́nh cảm xem gia đ́nh ḿnh là những kẻ đáng yêu. Nếu nhà ḿnh đáng yêu th́ nước ḿnh cũng đáng yêu luôn. Khi khuếch đại đến mức độ quốc gia, t́nh cảm đó được gọi là nationalism.

Đối với điều nói trên, t́nh cảm xem ḿnh may mắn được sinh trong một gia đ́nh gia thế, nhân đó c̣n muốn người ta kính trọng thêm nên năng nổ để làm sao cho xứng đáng, lại là chuyện khác. T́nh cảm đó gọi là “t́nh yêu gia đ́nh” nên chi khi mở rộng ra đến tŕnh độ quốc gia th́ nó tiến gần đến “t́nh yêu đất nước”. Không những họ muốn làm cho gia đ́nh ḿnh khá ra mà c̣n muốn những người bên ngoài ḿnh cũng có cuộc sống tốt đẹp hơn nữa. Khi trong hàng ngũ lănh đạo chưa có đủ những nhà ái quốc thực sự đạt được mức độ cao cấp như vậy hay khi c̣n đang gặp khó khăn để t́m được người như họ th́ đất nước dễ bị đưa vào con đường sai lầm. Shiba đă vẽ được cảnh tượng ấy một cách linh hoạt. Bàn luận trên b́nh diện quốc gia, câu chuyện có thể khó hiểu nhưng đưa nó xuống một đơn vị nhỏ hơn như gia đ́nh th́ dễ hiểu hơn nhiều.  

 

Năng lượng của đại chúng được tích tụ một cách sai lầm:

 

Trong lịch sử, ta đă thấy “t́nh cảm tự măn về tổ quốc ḿnh” đă nhiều lần làm cho con người trở nên điên dại. Đó là trường hợp của quốc dân NB sau trận Nhật Nga. Shiba đă kể lại những người dân Nhật đă thay đổi thái độ như thế nào:

 

Chiến thắng trong trận Nhật Nga chỉ làm cho nước Nhật và người Nhật đi lệch hướng / Việc đi lệch hướng rày đă bắt đầu từ khi chiến tranh chưa kết thúc nghĩa là ngay giữa ḥa hội Portsmouth khi hai phái đoàn c̣n đang thương lượng điều kiện giảng ḥa. Nga tỏ ra cứng rắn bởi v́ họ biết rằng NB đă đuối sức, không thể tiếp tục cuộc chiến...Về vật tư cũng vậy, nếu chiến tranh kéo dài, quân đội NB sẽ kiệt quệ và có khả năng tự diệt. Thế nhưng người cầm đầu phái đoàn NB là Komura Juutarô[95] tuy biết nhược điểm của phe ḿnh nhưng không để lộ liễu và đă kư kết được điều ước trong một hoàn cảnh cam go.

(Trích “H́nh thù đất nước này”)

 

Quần chúng trong nước nào biết đến những sự thực đó nên đă nổi cơn thịnh nộ phi lư:

 

Câu chuyện đi lệch hướng đă bắt đầu từ lúc này. Dân chúng hô hoán ầm lên là ḥa b́nh kiểu ǵ mà giá cả rẻ mạt như thế. Hăy hủy bỏ điều ước ấy và tiếp tục đánh nhau xem nào. Ngoài tờ Kokumin Shimbun (Quốc dân tân văn), báo nào cũng viết những bài như đổ dầu vào lửa. Rốt cuộc xảy ra đại hội toàn quốc tổ chức ở Công viên Hibiya với sự tham gia của hơn 3 vạn người.

(Nguồn: như trên)

 

“Cuộc bạo động đốt phá ở Công viên Hibiya” ngày 5/9/1905 được Shiba ví von như điểm xuất phát của một thời đại ma dẫn lối quỷ đưa đường. Người Nhật thời đó không biết ǵ đến thế giới bên ngoài nên có thái độ cứng rắn và phát biểu những lời lẽ hào hùng mà họ tin rằng đó là hành vi đúng đắn. Trên thực tế th́ quân đội NB không thể mở rộng thêm chiến tuyến mà quân nhu cũng không thể được điều động nhiều hơn. Chính phủ đang ở trong t́nh cảnh chỉ mong sao đi đến thỏa hiệp để giảng ḥa, sớm phút nào hay phút ấy. Thế nhưng báo chí trong nước không thông tin như thế. Lại nữa, nếu tŕnh bày sự thực cho quốc dân, họ có thể để địch biết được nhược điểm của chính phủ và quân đội và làm kế hoạch giảng ḥa trở nên bất lợi. Quốc dân tin chắc sắp thắng đến nơi cho nên không phán đoán một cách chính xác. Họ chỉ biết chê bai chính phủ là hèn nhát, bao vây nhà các quan chức ngành ngoại giao và cuối cùng bạo động, đốt phá ở Công viên Hibiya giữa Tôkyô. Khi trưởng đoàn thương thuyết ở Hội nghị Portsmouth là Komura Juutarô về nước, cập bến Yokohama và nh́n thấy con trai ḿnh, ông bất giác buông ra một câu: “Con c̣n sống đấy à?” v́ cứ tưởng rằng con ḿnh đă bị giết trong cuộc bạo động từ lâu.

Phải nói thêm là thái độ của giới tinh hoa (elite) thời này cũng có nhiều điểm đáng khen. Ví dụ câu chuyện liên quan đến Kojima Kazuo[96], sau này sẽ là cố vấn cho Thủ tướng Yoshida Shigeru (1878-1967). Khi bạo động ở Công viên Hibiya bùng nổ, ông c̣n là nhà báo. Tương truyền ông đă muốn khơi gợi tâm sự của Komura khi hỏi ông này: “Vụ Hibiya làm ông khốn đốn lắm phải không?” nhưng Komura chỉ trả lời: “Không, ông ạ. Nhờ quốc dân thể hiện ư chí như thế, việc ngoại giao cũng đỡ vất vả!” Cái ư chí của quốc dân lúc này, theo ngôn từ của Shiba th́ đó là chủ nghĩa quốc gia (nationalism). V́ trong dư luận quốc nội NB đang đầy khí thế “tự măn về đất nước ḿnh” đă làm cho người Nga e sợ, suy nghĩ lại và chấp nhận điều kiện giảng ḥa. Câu nói “Việc ngoại giao cũng đỡ vất vả” mang ư nghĩa như vậy.

Tuy nhiên, câu nói đó mới chỉ hàm chứa phân nửa sự thực. Trước chủ nghĩa quốc gia (nationalism) của quần chúng NB, đối với những nhân vật tinh hoa (elite) như Komura th́ dù con trai ḿnh có bị đồng bào sát hại, ông cũng cam đành. Với ư thức hy sinh như thế, ta có thể nói người như ông đă làm công tác ngoại giao với ḷng yêu nước (trong trường hợp này phải dịch là patriotism).

         (3) 日露講和条約調印時のスケッチ(‘The Peace of Portsmouth, September 5, 1905, Presented by the City of Portsmouth, New Hampshire, 60th Anniversary Celebration September 8, 1965’より) (外務省外交史料館所蔵)

Ảnh hí họa về Hội đàm Portsmouth (1905) giữa Komura (râu đen) và người Nga

 

Việc thu hoạch thắng lợi trong Chiến tranh Nhật Nga đă làm người Nhật từ đó về sau đánh mất sự khiêm tốn. Hồi trước (1894-95) khi thắng nhà Thanh, họ đâm ra có t́nh cảm tự tôn và khinh miệt người Trung Quốc. Lần này, lại thắng cả một quốc gia da trắng nữa nên họ bắt đầu coi ḿnh đă “nhập bọn với những quốc gia hàng đầu thế giới”. Mặt khác, họ cũng biết ḿnh hăy c̣n là một quốc gia nhỏ bé, chưa chế tạo được đầy đủ binh khí ở quốc nội cho nên mới định dùng yếu tố tinh thần là sĩ khí và sự huấn luyện, giáo dục để bù đắp vào lỗ hổng ấy. Như đă có lần nói đến bên trên, người Nhật thường mô phỏng việc ḿnh vẫn thường làm trong quá khứ. Nếu so sánh với “chủ nghĩa thuần lư” th́ phải nói NB theo “chủ nghĩa tiền lệ”. Tiền lệ ấy có thể là kinh nghiệm thắng lợi trong trận Nhật Nga. Kết quả là họ nghĩ “trời đă giúp ḿnh” (tư tưởng thiên hựu天佑) th́ cho dù vơ khí có yếu kém, vẫn có thể bổ sung bằng sĩ khí và như thế, đă đủ để đem đến thắng lợi.

Riêng Shiba, ông xem điều này là một vấn đề lớn.

Sau trận Chiến tranh Nhật Nga, đáng lư ra NB phải thu nhỏ lực lượng hải quân. Nhật không có nhiều thuộc địa rải rác khắp thế giới như Anh th́ đâu cần bỏ khoảng tiền cực lớn để duy tŕ một đại hạm đội. C̣n như mối lo về bán đảo Triều Tiên th́ với chiến thắng vừa qua, họ đă chận đứng được bước chân của người Nga. NB có thể t́m ra một giải pháp ḥa b́nh hơn là tăng cường quân sự. Dù vậy, t́nh thế đă đổi chiều sang một hướng khác. Chỉ 5 năm sau khi đánh bại người Nga, NB đă hoàn toàn biến Triều Tiên thành thuộc địa (sự kiện Kankoku heigô韓国併合, 1910). Thế rồi bước vào thời Shôwa, họ đă mượn bàn tay của các tướng tá quân đội để dựng nên Măn Châu Quốc (1932) và gửi quân đội xuống chiếm đóng các vùng đất thuộc Trung Quốc và Đông Nam Á.

Như ngoại trưởng Komura có lần nói, chủ nghĩa quốc gia (nationalism) đôi lúc có thể biến thành một năng lượng đáng kể. Chẳng hạn một nước muốn thoát ra khỏi chế độ thực dân, nó có thể dựa vào đó để phát huy một uy lực to lớn. Thế nhưng chủ nghĩa quốc gia của nhà nước cận đại chỉ là năng lượng của đại chúng đă được tích tụ một cách sai lầm ḥng ăn hiếp các lân bang yếu kém. Đó là năng lượng mà xă hội NB tích tụ được từ vụ bạo động ở Công viên Hibiya sau Chiến tranh Nhật Nga.

Thêm một vấn đề khác là thắng được Nga rồi, nhiều quân nhân đă được phong tước công, hầu, bá, tử, nam và tạo thành một đẳng cấp gọi là “Hoa tộc”[97]. Nhờ Chiến tranh Nhật Nga, những sĩ quan xuất thân là samurai thuộc cấp trở thành công thần dưới thời Duy Tân, có chức vị vượt cả chủ cũ của họ là nhóm lănh chúa và công khanh. Một trong những lư tưởng của thời Minh Trị là thực hiện một chế độ mà bên dưới thiên hoàng, mọi người đều b́nh đẳng. Thế nhưng những công thần thời Duy Tân đùng một cái đă biến thành quí tộc. Ít người dám lên tiếng như Itagaki Taisuke[98] (dù ông cũng là một công thần): “Kỳ quặc quá đi nhé! Cho hưởng một đời thôi vậy. Đừng để Hoa tộc có quyền tập ấm!”. Nếu thắng trong chiến tranh và trở thành Hoa tộc, có khi c̣n được vào Quư tộc viện (Thượng nghị viện) của nghị hội đế quốc và hưởng quyền tập ấm ghế ấy th́ mấy chàng trai trẻ làm ǵ chẳng muốn đầu quân. Đặc biệt là những người xuất thân vùng Đông Bắc (Ôuetsu tức Sendai, Aizu...) từng bị coi là quân phiến loạn v́ theo Mạc phủ. Họ chậm trễ trên đường công danh nếu đem so sánh với lớp người thành công của hai phiên Satchô (Satsuma và Chôshuu). Họ tưởng tượng rằng nếu thắng thêm một cuộc chiến như trận Nhật Nga th́ đương nhiên sẽ có cơ hội thăng tiến để trở thành Hoa tộc như các người đi trước. Giữa thời trai tráng, được chứng kiến chiến công của Lục quân và Hải quân trong Chiến tranh Nhật Nga, họ đă nuôi trong đầu giấc mộng vinh hoa của đời quân nhân. Họ nào có thể b́nh tĩnh phân tích t́nh h́nh thế giới để nghĩ đến một kế hoạch tài giảm binh bị như liệt cường mong muốn[99]. NB lúc ấy cũng không thể để cho người của Hải quân lâm vào cảnh thất nghiệp nên phải duy tŕ một hạm đội hùng hậu. Bây giờ đến lượt NB phải đi t́m một kẻ địch giả tưởng. Hải quân Nga đă phá được rồi, nay chỉ c̣n có Mỹ. Do đó Shiba mới nghĩ rằng bên trong cái lư tưởng của nhà nước Minh Trị, đă bắt đầu manh nha một “thời đại quái thai” đầy ảo vọng.

 

Ngả về phía Đức:

 

Lúc nhà nước Minh Trị mới thành lập, lục quân học theo kiểu Pháp và hải quân học theo lối Anh nghĩa là quân đội NB có một tổ chức đa dạng. Thế nhưng bộ tư lệnh cũng như chính phủ th́ tổ chức theo phong cách của Đức. Thí dụ rơ rệt hơn cả là chế độ tham mưu bản bộ. Ở Đức, đôi khi có trường hợp nhà nước không nắm quân đội mà quân đội lại nắm nhà nước, nói cách khác là quân đội điều khiển cả chính phủ. NB đă bắt chước Đức cho nên, cũng như Đức, họ đă đi đến thảm cảnh là quân đội khuynh loát được chính phủ khiến cho đất nước tan hoang. Kể từ Chính biến năm Meiji 14[100], nhà nước NB đă đi theo đường của nước Phổ (Preussen Deutsch) và những con vi trùng ác ôn bắt đầu ăn vào cơ thể. Nếu nhà nước cận đại NB hăy c̣n khoẻ khoắn trong thời gian đầu khi vi trùng nằm chờ thời th́ với chiến thắng Nhật Nga, sự “ngạo mạn” đă làm nó lâm vào một t́nh trạng mệt mỏi giúp căn bệnh phát ra kịch liệt. Đó là ư kiến của Giáo sư Isoda khi chẩn đoán “bệnh t́nh” của nhà nước NB vào thời Minh Trị.

Trong “H́nh thù đất nước này”, Shiba đă ư thức chuyện đó và ông dành hẳn một chương nhan đề ”Ngả về phía Đức” để khai triển lập luận của ḿnh.  

 

“Như mọi người điều biết, kể từ giữa thế kỷ 19 trở đi, NB đă tiếp nhận từ Âu châu một nền văn minh có bản chất khác hẳn với ḿnh. Không phải họ làm vậy sau khi bị trở thành thuộc địa nhưng đă làm với tất cả ư chí tự do.

(Trích “H́nh thù đất nước này”, chương 3)

 

Shiba nhấn mạnh là NB làm theo ư chí của ḿnh, khác hẳn trường hợp các nước khác. V́ không muốn trở thành thuộc địa nên họ phải tiếp nhận văn minh Âu châu, nhất là một chế độ pháp lư đến từ quốc gia hùng hậu nhất về mặt quân sự.

 

Khi nhà nước Minh Trị vừa thành lập được 4 năm (1871), việc quân Phổ đánh bại quân Pháp là chuyện trọng đại đối với họ / Những vơ quan NB lúc đó có mặt ở Âu châu đă thấy tận mắt việc này để đánh giá bên nào khinh bên nào trọng / Họ đă quan sát năng lực tác chiến ưu việt của Bộ tư lệnh, sự điều động nhanh chóng của binh lính Phổ và so sánh nó với quân đội Pháp. Hơn thế nữa, nước Phổ đă dựa trên thắng lợi này để phá bỏ h́nh thức liên bang và xây dựng nên Đế quốc Đức. Khỏi cần phải nói, chỉ cần vài năm, nhà nước Minh Trị lúc đó mới bắt đầu cuộc Duy Tân đă có ư muốn làm được như quốc gia ấy. 

(Như trên)

 

Việc thành lập Hiến pháp của Đại Đế Quốc Nhật Bản (Hiến Pháp Minh Trị) cũng xảy ra tương tự. Đương thời, Đức không phải là một quốc gia tiên tiến ở Âu châu v́ chưa tổ chức được một xă hội công dân, quyền lực của quân chủ c̣n rất mạnh mẽ. Thế nhưng người lănh đạo NB lúc đó là Itô Hirobumi lại thấy nó quá giống với hiện t́nh nước ḿnh. Nếu ví Âu châu lúc đó là một cửa hàng bán quần áo th́ Itô đă muốn sắm cho NB một bộ áo quần kiểu Đức-Phổ. Ông nghĩ rằng Hiến Pháp của Đức-Phổ sẽ rất sít sao và đẹp đẽ đối với thể chể hiện tại của NB bởi v́ bên trên, hai bên đều có hoàng đế và chính phủ mạnh. Trong chính quyền và học giới có những người như Ôkuma Shigenobu[101] và Fukuzawa Yukichi cố gắng biện hộ cho “bộ quần áo kiểu Anh” (mà vai tṛ quốc hội rất đáng kể). Thế nhưng kẻ nắm thực quyền là Itô đă phủ quyết, đuổi Ôkuma ra khỏi chính phủ và “mua bộ quần áo Đức-Phổ” mang về.   

Thế rồi cả Thiên hoàng lẫn chính phủ đă “mặc” bộ quần áo mới của Itô đúng như ni tấc của Hiến Pháp Đại Đế Quốc NB. Tuy nhiên bộ quần áo ấy lại có một lỗ thủng! Quân đội (như đôi ủng trên bộ đồ) lại giống đôi giày của một vũ công. Hai chiếc ủng không ăn nhịp với nhau, một bên là lục quân, một bên là hải quân, cứ nhảy nhót theo kiểu của ḿnh cho đến lúc tuột cả giày. Và hoàn cảnh lịch sử như thế kéo dài măi đến tận thời Shôwa.

 

Khi Hiến Pháp được ban hành vào năm Minh Trị thứ 22 (1889), lục quân đă đổi ngay qua h́nh thức Đức-Phổ. Phương pháp tác chiến của Đức đă được sử dụng hữu hiệu ngay từ trận Nhật Nga (1904-05) nên từ đó, lục quân NB tiếp tục theo con đường này.

(Trích “H́nh thù đất nước này”)

 

Một đặc trưng thấy nơi quân đội thời Minh Trị là họ không hành động theo một tinh thần hiện thực và thuần lư mà chỉ dựa trên kinh nghiệm và thực nghiệm. Chỉ v́ quân Đức giành được thắng lợi nên Đức mới là đúng. Họ chỉ tin vào những ǵ họ thấy là đă xảy ra, để rồi sau đó tiếp nhận cả hệ thống tổ chức cũng như văn hoá. May thay, họ chỉ là những con người thời Edo trong bộ quần áo Đức và – nói theo kiểu của Shiba th́ - vẫn có năng lực nh́n đất nước ḿnh một cách khách quan và hăy c̣n biết so sánh. Thế th́ người quân nhân đậm màu sắc nước Đức của thời Shôwa có khác ǵ những người lính thời Minh Trị không?

 

Nhóm sĩ quan cao cấp đời Shôwa hầu như đă trở thành những kẻ chỉ biết có ḿnh (egocentric) và nước ḿnh. Họ thích lư luận kiểu con quay (koma, a top) nghĩa là xem mọi thứ đều phải xoay quanh một trục chính (là ḿnh) chứ không thèm để mắt tới những ǵ xảy ra chung quanh.

(Như trên)

 

Dĩ nhiên đây không phải là lỗi của nền văn hóa Đức. Shiba lưu ư chúng ta như vậy:

 

Văn hoá Đức không hề có tội. Cũng không phải là cái tội của thời Minh Trị đă du nhập nó một cách vụng về. Chỉ có thể nói là khi người ta tiếp nhận ồ ạt một nền văn hoá giống như chích một chất thuốc với nồng độ quá cao th́ không sao tránh khỏi ngộ độc. Một con bệnh trong hoàn cảnh đó mà lại nắm quyền lực sẽ đưa đến hậu quả như thế nào chỉ là một chuyện dễ hiểu. Nó giống việc người ta đem lịch sử cận đại NB ra làm thí nghiệm như trên một con thú.

(Như trên)

 

Quân nhân thời Shôwa mua cái lốt của Đức để đội lên người nhưng ít có ai hiểu về nước Đức. “Ngả về phía Đức” được xem như là “một căn bệnh của cả nước”. Đó là lời phê phán mạnh mẽ của Shiba về hiện tượng này.

 

“Quyền thống súy”, bộ mặt thật của quái thai:

 

Liều thuốc Đức quá mạnh gây ngộ độc đă làm cho nhà nước cận đại NB bị yếu đi. Thế nhưng về sau, có một loài sâu đă đục ruỗng cơ thể của con bệnh và diễn ra theo một tŕnh tự mà Shiba nắm được. Theo ông, đầu tiên có một nguyên nhân cụ thể là “quyền thống súy” (supreme command)[102], một khái niệm dính sát với bộ quân phục Đức mà người Nhật mang mặc lên người. Như đă nói , lục quân NB đă du nhập thể chế “Tham mưu bản bộ” (The General Staff Office) của Đức, theo đó th́, quyền chỉ huy quân đội nằm ở ngoài quốc gia và được miễn trừ cho bậc quân chủ. Quyền thống súy cứ thế mà tăng trưởng, nó trở thành “một quốc gia biệt lập nằm giữa một quốc gia” để rồi cuối cùng đă làm băng hoại nhà nước NB. Shiba đă viết trong “H́nh thù đất nước này” như sau:

 

Quyền thống súy...nghĩa là quyền chỉ huy toàn bộ quân đội... / Ở Anh hay ở Mỹ, nó đều nằm trong tay vị nguyên thủ quốc gia./ Dĩ nhiên quyền ấy nằm trong tay một văn quan. C̣n như quân đội v́ nắm trong tay vơ lực có thể hủy diệt và sát thương nên thường được ví với một con mănh thú. / Thời tiền chiến, quyền thống súy này lại nằm trong tay đám quân nhân tức là trong tay mănh thú. V́ quyền đó c̣n là một quyền thiêng liêng nên hễ ai muốn lên tiếng nói chen vào th́ sẽ bị hăm dọa với tội danh là xúc phạm đến quyền thống súy (tôsuiken kanpan = thống súy quyền can phạm).   

(Trích Chương 4)

 

Hiến Pháp Minh Trị cũng giống như hiến pháp ngày nay, đă minh định nguyên tắc tam quyền (lập pháp, hành pháp và tư pháp) phân lập. Thế mà bước vào thời Shôwa, nó đă biến chất. Quyền thống súy dần dần độc lập rồi tiến lên một vị trí cao hơn cả tam quyền, mang tính cách vạn năng (muốn làm ǵ cũng được).Người nắm quyền thống súy là Bộ tham mưu quân đội. Dù trên danh nghĩa chỉ là những người phụ tá quân sự (mạc liêu) của thiên hoàng nhưng họ lại tin chắc rằng ḿnh mới là những người “sở hữu” đại quyền đó / Đến độ không c̣n thấy đâu là quyền hành và trách nhiệm nắm giữ quốc chính cũng như thống lĩnh quân đội của thiên hoàng vốn có trong hiến pháp. Quyền lực của Bộ tham mưu quân đội hầu như vô giới hạn và trong lănh vực đối ngoại, họ có thể làm bất cứ “hành động ái quốc” nào họ muốn.

(Trích chương 1)

 

Trong phần trước, Shiba có nói rằng thời Minh Trị đă thừa hưởng di sản đến từ thời Edo.Thế nhưng nh́n vào những ǵ xảy ra vào đầu thời Shôwa, ta có thể thấy di sản ấy đă dần dần đi đến chỗ thối nát. Nguyên nhân của sự thối nát này đă nằm ngay giữa thời Minh Trị. Mặt thật của cái “quái thai” là “quyền thống súy” mà người Nhật đă du nhập từ Đức và vỗ cho nó lớn lên.

 

                   https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/5/5f/PM_Kinmochi_Saionji.jpg

             Saionji Kinmochi, chức nguyên lăo cuối cùng

 

Tóm lại, quân đội nhân danh quyền thống súy mà hành động lấn lướt cả quốc hội và c̣n giả câm giả điếc với cả thiên hoàng. Đương nhiên, b́nh thường th́ chính phủ và quốc hội một nước phải có phương cách kiểm soát quân đội. Ví dụ chính phủ mệnh lệnh và bổ nhiệm nhân sự c̣n quốc hội có quyền quyết định ngân sách. Thế nhưng trong trường hợp NB th́ quốc hội lại không có quyền chủ đạo trên ngân sách của quân đội v́ họ có quyền thống súy. Ngay cả nội các, chính phủ đi chăng nữa cũng bị đứng bên lề. Theo Hiến Pháp Minh Trị th́ không thể đặt quân đội dưới sự kiểm soát của pháp luật (pháp trị). NB thời đó chỉ theo chủ nghĩa nhân trị, những người c̣n có thể ảnh hưởng đến quân đội là các nguyên lăo (genrô), công thần của thời Duy Tân và là chủ nhân ông của nhà nước Minh Trị. Tuy vậy, thế hệ này cũng tàn lụi với thời gian. Vào đến thời Shôwa chỉ c̣n một nguyên lăo duy nhất vốn xuất thân công khanh (公家kuge) triều đ́nh Kyôto là Saionji Kinmochi[103]. Nhưng lúc đó dù là nguyên lăo, ông cũng không thể nào kiềm chế được đám quân nhân đang nắm quyền thống súy. Cơ bản th́ nhà nước Minh Trị có một quốc hội nhưng ư kiến của nó cuối cùng cũng chẳng ai nghe. Quyền quyết định họa chăng nằm nơi thiên hoàng và các tướng lănh quân đội (軍部gunbu). Thế nhưng, trên thực tế, thiên hoàng chẳng quyết định được điều ǵ. Những kẻ quyết định là các bộ, khóa, cục (部課局bukakyoku) tức hệ thống tổ chức trung khu trong quân đội. Quân đội sẽ đem tâu tŕnh kết quả đạt được lên thiên hoàng nhưng đôi khi họ chẳng thèm ngó ngàng đến ư kiến phản hồi từ ông. Như vậy, bước vào thời Shôwa, quyền thống súy đă trở thành một con ngáo ộp khổng lồ, không ai dám động tới. Đó cũng là lúc NB lồng lên chạy như điên, không c̣n kiểm soát được vận mạng của ḿnh.

 

Những lời tâm huyết nằm trong “H́nh thù đất nước này”

 

Nhà nước để cho quyền thống súy kéo chạy bất kể là hiện tượng được nh́n thấy vào đầu thời Shôwa. Hồi thời Minh Trị, hăy c̣n có các nguyên huân, nguyên lăo ...họ đă thực hành một thể chế cai trị kiểu tập đoàn gồm ba yếu tố: chính phủ, quốc hội và quân đội. Bước vào giai đoạn Shôwa, quân đội hô hào cho tính cách độc lập của quyền thống súy để nới rộng phạm vi ảnh hưởng của họ.

Khuynh hướng ấy bắt đầu từ khi việc tài giảm binh bị ngành hải quân trở thành một chủ đề trong các cuộc đàm phán quốc tế. Trong nước, trước khuynh hướng thỏa thuận tài giảm của chính phủ  đảng Minseitô (Dân chính đảng) [104], không những quân đội mà cánh hữu và đảng Seiyuukai (Chính hữu hội) đều phê phán là chính phủ đă vi phạm quyền thống súy nên chống trả quyết liệt.Họ không chỉ kết án chính phủ “vi phạm” nhưng cho rằng chính phủ là “can phạm”, đem việc đụng chạm đến quyền thống súy (theo cách định nghĩa của họ) như một tội danh trước pháp luật. Người ta cho rằng chữ dùng này là do Kita Ikki[105] tạo ra.

Thực ra, kẻ mang tội danh xúc phạm đến quyền thống súy mới là những người yêu nước và yêu nước hơn cả những kẻ biện minh cho quyền thống súy. Lư do là nếu không tài giảm binh bị th́ NB cứ phải cạnh tranh với Mỹ trong việc đóng thêm tàu chiến. Như vậy, NB là nước vốn yếu kém về kỹ nghệ và tài nguyên, sẽ phải tăng măi ngân sách quân sự một cách vô lư v́ sợ Mỹ chèn ép. Kết quả là sự phát triển kinh tế và kỹ nghệ của NB sẽ bị tŕ trệ. Đối xử ḥa hoăn, coi trọng việc buôn bán và không cạnh tranh về vơ khí hay hạm đội với Mỹ chính là đường lối mà một người yêu nước chân chính phải làm. Đó mới là một quốc sách hợp lư.

Tuy nhiên, nếu tài giảm binh bị (tiếng Nhật gọi là gunshuku = 軍縮quân súc) th́ một quân nhân hy vọng trở thành viên trung tướng hạm trưởng sẽ không bao giờ đạt được mục đích.Nhiều quân nhân phải lui làm sĩ quan trừ bị và có khi c̣n phải giải nghũ về vườn, tiền bạc sẽ chẳng c̣n chi. Do đó việc căm ghét những kẻ chủ trương tài giảm nổi lên như sóng cồn làm cho những ai đứng đắn, không nương theo trào lưu đó, không thể ngóc đầu lên nổi trong Hải quân.

Nhân v́ quyền thống súy là quyền thiên hoàng thống lĩnh quân đội cho nên có thể giải thích rộng đến vô hạn. Quyền “thượng tấu trong quân doanh” (iaku jôsô)[106] là đặc quyền chỉ dành cho Bộ tổng tham mưu lục quân và Bộ tư lệnh hải quân là những người hành xử quyền thống súy. Theo đó, quân đội có quyền đến gặp thẳng thiên hoàng để tŕnh bày quan điểm mà không cần cho thủ tướng hay biết. Do đó, chủ trương có lệch lạc hay phương án tác chiến có sai lầm để đưa đến kết quả tai hại đi nữa th́ vẫn không ai truy cứu và kết tội họ được.

 

Kể từ lúc này, quyền thống súy đă có màu sắc thần bí. Nó rộng vô hạn, trên nguyên tắc không bao giờ sai lầm, lại thiêng liêng nữa. Không những độc lập với tam quyền (hành chính, lập pháp và tư pháp) mà c̣n bắt đầu vượt hẳn lên trên. Tam quyền không được nói xen vào chuyện của nó. C̣n như khi đi đến quyết định tranh chấp hay chiến tranh với nước ngoài, v́ đă bí mật thượng tấu lên thiên hoàng rồi, nó không cần thông báo cho các cơ quan nhà nước biết. Như thế, NB đă mang thêm trong bào thai một nhà nước biệt lập, “NB của quyền thống súy”.

(Trích “H́nh thù đất nước này”, chương 4)

 

Quyền thống súy thần thánh kia một khi khơi dậy nên một cuộc chiến tranh th́ thực là khủng khiếp. Shiba đă t́m ra được pho sách cổ nhan đề “Cương lĩnh và tài liệu tham khảo về quyền thống súy”. Quyển này thực ra có hai tập (Cương lĩnh / Tham khảo) nhưng đă bị đốt sau Thế chiến thứ hai. Bản Shiba có là bản được đem khắc và in lại năm 1962. Đây không phải là một tài liệu công khai, nó chỉ lưu hành trong nội bộ quân đội. Qua tài liệu mật này, ta biết được quyền thống súy được định nghĩa như thế nào.

 

“Bản chất sức mạnh của quyền thống súy nằm ở tính chất siêu việt lên trên mọi pháp qui”. Lại nữa, nếu quốc chính được qui định theo hiến pháp và do các quốc vụ đại thần (tổng trưởng) đảm đương th́ quyền thống súy không nằm trong phạm trù này. “Như thế, liên quan đến việc hành xử và kết quả của quyền thống súy, quốc hội không phải chịu trách nhiệm ǵ cả. Quốc hội do đó không có quyền chất vấn, đ̣i hỏi phải trần t́nh, phê b́nh hay khởi tố đối với hành động thống lĩnh hay chỉ huy quân đội cũng như mọi kết quả xuất phát từ đó”.

 

Hồi chiến tranh Nhật Nga, quốc hội có dịp bàn căi khi quân đội sai lầm. Tuy nhiên, sang đến thời Shôwa, nếu ai lên tiếng phê b́nh sự thất bại của quân đội sẽ bị mắng thẳng vào mặt: “Đồ bất trung. Sao mi lại dám ăn nói quàng xiên như thế đối với quân đội của thiên hoàng!”

 

NB dưới thời Minh Trị có một quốc hội theo tiêu chuẩn của nhà nước tiên tiến Tây phương, nó biết cách kiểm soát quyền lực của quân chủ. NB đă bắt chước Tây phương một cách trung thực và xứng đáng được gọi là quốc gia quân chủ lập hiến. Thế nhưng sau chiến tranh Nhật Nga th́ NB bắt đầu coi thường Tây phương và lơ đễnh trong việc vận doanh một chế độ lập hiến mà nền tảng là quốc hội. Nguyên lai, lối suy nghĩ kênh kiệu xem đất nước này nhờ ai mới có ngày nay, nếu không có quân đội th́ làm sao NB trở thành quốc gia hàng đầu, là đầu mối của việc trọng thị vai tṛ của quân đội trong liên hệ giữa giới quân nhân đối với hiến pháp cũng như quốc hội. Tiếc thay, quốc dân cũng bắt đầu suy nghĩ theo chiều hướng đó.

Như thế, đất nước NB mà người thời Minh Trị đă dày công xây dựng bỗng bắt đầu chạy lầm đường và hướng đến chỗ tự diệt. Đó là h́nh ảnh mà Shiba đă nghĩ ra về cái quốc gia đă bỏ ông lên chiến xa - chiếc quan tài biết lăn - chực sát hại ông. Thế nhưng ông không đủ điều kiện để làm sống lại nó trong tiểu thuyết và chỉ ngừng lại ở tŕnh độ nghị luận. Hai tác phẩm đă có thể nói thay cho ông là “Một đất nước tên gọi Shôwa” và “H́nh thù đất nước này”.

 

Nếu toàn bộ các tác phẩm của Shiba là một cuốn tiểu thuyết lớn th́ “H́nh thù đất nước này” có thể xem như là lời bạt nằm ở cuối sách. Trong lời bạt ấy, Shiba đă t́m cách trả lời thành thật cho một câu hỏi quan trọng vốn đeo đẳng ông suốt đời: “Tại sao NB đi đến chỗ bại trận như thế này?”. Nói cách khác, ông muốn thanh toán tàn tích của quá khứ bằng những câu văn trong quyển sách.

 

Thư gửi đàn em nhỏ thế kỷ 21 (Nijuuisseki ni ikiru kimitachi e):

 

Sau khi đă thanh toán mọi tàn tích của quá khứ, cuối cùng, Shiba mới hướng nh́n về tương lai. Ông đă để lại cho những người trẻ sống trong thế kỷ 21 một văn bản ngắn ngũi chỉ có 7 trang giấy khổ Nhật 400 chữ. Nguyên lai, năm 1989, nhà xuất bản Ôsaka Shoseki đă nhờ ông viết hộ một lời khuyên nhủ gửi tới các thế hệ học sinh tiểu học (Quốc văn giáo khoa thư lớp 6) và ông đă vui vẻ nhận lời. Thế rồi ông đă dành rất nhiều thời gian ngẫm nghĩ và viết đi viết lại cho đến khi thật bằng ḷng. Người ta thấy trên bản thảo, Shiba Ryôtarô đă sửa đi sửa lại nhiều lần v́ chằng chịt những vết bút ch́ màu tô đi tô lại. Làm như ông đă dành cho nó rất nhiều tâm lực như khi ông viết một tiểu thuyết trường thiên quan trọng.

Shiba tâm sự rằng có thể ông sẽ không thấy được thế kỷ 21 và nhận xét này làm nhiều người kinh ngạc v́ đương thời (1989), ông mới khoảng 65 tuổi.Ai cũng tưởng ông vẫn c̣n tráng kiện để bước vào thế kỷ 21 nhưng trên thực tế, ông đă qua đời trước đó v́ bạo bệnh. Bài viết kia trở thành bản di chúc của ông cho những thế hệ tương lai.            

Cái mà Shiba muốn dặn ḍ tuổi trẻ nước ông là sự phát huy một t́nh cảm vốn được coi như sở trường của người Nhật: sự thông cảm  (sympathy) đối với tha nhân. Shiba muốn dịch nó từ một từ Nhật là itawari (hay omoiyari, thương tưởng, để ư đến người khác). Theo ông, đó là việc xem những niềm đau nỗi khổ của người ta như là của ḿnh, t́m hiểu v́ đâu họ đau khổ, v́ đâu họ cay đắng.

Xưa nay, người ta vẫn bàn luận về một đặc điểm trong tiếng Nhật là câu văn không bao giờ có chủ từ. Vào đầu thời Shôwa – cái thời mà Shiba gọi là “thời của quái thai” – Bộ giáo dục NB có xuất bản  Kokutai no hongi 国体本義 (Quốc thể bản nghĩa), một tuyên cáo của nhà nước để giảng nghĩa thế nào là bản chất thiêng liêng của nhà nước NB. Trong đó khi giải thích câu văn tiếng Nhật không có chủ từ th́ họ cho rằng bởi v́ người Nhật có tinh thần cao đẹp, chí công vô tư, biết hết ḷng hết dạ v́ người. Gs Isoda lại nghĩ khác. Người Nhật không vô tư như thế đâu, họ chỉ không muốn phân biệt ta và người mà thôi. Nói cách khác, họ biết đặt ḿnh vào địa vị của tha nhân và dễ dàng ḥa ḿnh để thông cảm với tha nhân.Có thể đây mới là sự giao cảm mà Shiba muốn nhấn mạnh bởi v́ khi ta có ḷng thương tưởng đến người khác th́ cái biên giới giữa hai bên sẽ không c̣n nữa.

Thế giới ngày mai sẽ bước vào một thời đại mà chuyện bo bo thủ lợi  riêng ḿnh, gào rống cho cái tôi trước đă...không thể giải quyết được bất cứ việc ǵ. Khi xu thế toàn cầu hoá càng ngày càng được đẩy mạnh th́ những giá trị quan của cá nhân và của quốc gia phải tiến về phiá nhau để đi đến chỗ ḥa hợp. Không phải cứ dồn hết tâm lực để giành lấy thế đứng trên trước đối với người khác nhưng chính ra phải hiểu được tâm t́nh của họ và nâng tầm sự giao cảm giữa ḿnh với họ lên cao hơn. Cho dù văn hoá có dị biệt đến mức nào đi nữa vẫn c̣n có chỗ cho sự lư giải, thích ứng và việc có được năng lực đó là điều hệ trọng.

Trong lời nhắn nhủ mà Shiba để lại c̣n có một điều cần phải làm nữa là “xác định được một bản ngă” (自己の確立jiko no kakuritsu). Nói theo ngôn ngữ thời các samurai ở Kamakura (thế kỷ 12-13) th́ đó là việc trở thành một con người có thể tin cậy được (tanomoshii jinkaku). Khi Shiba c̣n trẻ, ông đă thấy hàng hàng lớp lớp người cùng lứa tuổi tán đồng mệnh lệnh “nhất ức ngọc toái” (一億玉砕  ichioku gyokusai, một trăm triệu người cùng chết trong danh dự) của nhà nước và c̣n cổ vũ, phụ họa cho nó nữa. Thế nhưng nếu họ là con người biết hành động theo sự suy nghĩ chín chắn của ḿnh th́ lịch sử NB đă phải đi theo một lối khác rồi. Dọc theo đây, xin trích dẫn sau đây vài đoạn trong “Thư gửi đàn em nhỏ thế kỷ 21” (trang 2 đến trang 4):

...........

Sau đây, tôi muốn nói về các em.

Những người trẻ như các em ở thời nào cũng vậy, trước tiên phải xác định được bản ngă của ḿnh.

Tính cách của bản ngă đó là đối với ḿnh th́ nghiêm khắc, đối người th́ khoan dung, nói cách khác phải có sự thương tưởng. Hăy luyện tập để đạt đến chỗ đó. Qua luyện tập, các em sẽ xác định bản ngă của ḿnh. Các em sẽ trở thành những con người đáng tin cậy.

 

       http://fukuokajyo.com/wp/wp-content/uploads/2012/10/kuroda4-210x331.jpg         https://www.jacar.go.jp/nichiro/img3/saneyuki_01.jpg

      Kuroda Kanbê (1546-1604)         Akiyama Saneyuki (1868-1918)

 

Shiba đặc biệt yêu mến nhân vật lịch sử Sakamoto Ryôma và ông muốn mọi người nên giống như nhà chí sĩ phiên Tosa, dù ai nói ngă nói nghiêng, vẫn tin tưởng ở công việc ḿnh làm và đă khởi động được lịch sử NB cuối đời Mạc phủ. Kuroda Kanbê thời Sengoku cũng vậy. Đầu tiên, ông theo pḥ Toyotomi Hideyoshi. Thế nhưng khi Hideyoshi xâm lăng Triều Tiên, ư thức đó là một việc sai lầm, ông đă lui về ở ẩn và đi theo con đường riêng của ḿnh. Akiyama Saneyuki thời Minh Trị nào có khác chi. Ông đă một thân một ḿnh gánh chịu trách nhiệm bảo vệ sự an toàn cho Hải quân và đất nước NB. Ba nhân vật đó mang h́nh ảnh con người mà Shiba gọi là “đáng tin cậy”. Ông bàn thêm:

 

Bản ngă đó cũng phải là thẳng thắn và hiểu biết.

Để sống giữa thế kỷ 21, điều đó vô cùng quan trọng.

Có lẽ vào thế kỷ 21, khoa học và kỹ thuật sẽ phát triển cực nhanh. Thế nhưng đừng để khoa học, kỹ thuật cuốn trôi các em như lũ lụt. Như điều chỉnh ḍng nước một con sông, những con người năng nổ như các em phải biết khống chế khoa học kỹ thuật và bắt nó đi theo hướng ḿnh mong muốn.

Vừa rồi, tôi đă nói đi nói lại về hai chữ bản ngă. Nói là bản ngă nhưng không bao giờ được xem ḿnh là cái rốn của vũ trụ.

Đă là con người, phải biết giúp đỡ nhau mà sống.

Khi nh́n văn tự mà nhân loại đă chế ra, ḷng tôi luôn luôn xúc động. Những nét nghiêng nghiêng như thể đang nương tựa vào nhau để h́nh thành con chữ.

Nh́n chữ viết, có thể hiểu được rằng con người đă xây dựng nên xă hội theo cùng một phương thức để có thể sinh tồn. Xă hội chỉ là một cơ cấu dựa trên sự nương tựa lẫn nhau. 

.................

Tôi vừa ngắm nghía những nét đẹp nhất trong tâm hồn các em vừa viết ra những ḍng chữ bên trên.

Viết xong, tôi cảm thấy ḿnh như đă bắt gặp từ phía tương lai những luồng ánh sáng mặt trời rạng rỡ mà các em sẽ đem lại.

 

Ngọn đuốc của Kôan:   

 

Song song với “Thư gửi đàn em nhỏ của thế kỷ 21”. Shiba có viết thêm “Ngọn đuốc của Kôan” (đăng trong tập hạ của giáo khoa thư lớp 5 bậc tiểu học do nxb Ôsaka Shoseki xuất bản năm 1989). Trong đó, người mà ông giới thiệu không phải là một anh hùng dân tộc, chính trị gia hay tướng lănh mà chỉ là một ông thầy thuốc và nhà giáo dục. Ogata Kôan là một người theo học y lư Tây phương và dạy lại cho đàn sau. Dù vậy, ngoài y khoa, ông c̣n truyền đạt cho họ tư tưởng và ngôn ngữ Tây phương cũng như tinh thần thực dụng, đóng góp rất nhiều cho sự nghiệp khai sáng vào thời Minh Trị. Ngọn lửa thắp lên từ bó đuốc của Kôan đă được truyền đến các học tṛ của ông như Ômura Masujirô, Fukuzawa Yukichi, Ôtori Keisuke[107] và Hashimoto Sanai[108]... Theo Shiba th́ nếu nói về ḷng ái quốc (patriotism) th́ có thể xem Ogata Kôan như một biểu tượng. Bởi v́ ông đă nghĩ cách làm sao cho đất nước khá hơn và có ḷng thương tưởng (trắc ẩn) đối với mọi người.

              

                  「緒方洪庵 塾」の画像検索結果

 Ogata Kôan, thày học của Fukuzawa Yukichi

 

Thời Mạc phủ, bệnh dịch tả (cholera) hoành hành rất dữ dội ở Nhật. Những người thầy thuốc đi chữa trị cũng bị lây và chết theo bệnh nhân. Cứ ba bốn thày th́ đă chết một. Trong lúc đó, Kôan cũng tham gia vào việc cứu chữa và ông có cho treo một tấm trướng ở góc pḥng với ḍng chữ “Đừng để ḷng dạ ḿnh trở thành ti tiện!” và thường nói với người chung quanh “Phải sống v́ đời, v́ người!”. Ông đúng là người đă dùng kỹ thuật ḿnh nắm được để cứu nhân độ thế. Một người như Kôan đă biết “xác định được bản ngă”, có “ḷng thương tưởng” (trắc ẩn) khi đứng trước tha nhân. Ông là một nhân vật có tŕnh độ giao cảm cao. H́nh như Shiba muốn đi đến một kết luận giản dị là “những người trẻ của thế kỷ 21” chỉ cần có được hai đức tính đó.

 

Biên dịch xong tại Tôkyô nhằm ngày giỗ mẹ lần thứ 62 (1 tháng 9 năm 2016).

Nguyễn Nam Trân

 

Tư liệu tham khảo:

 

1)    Isoda, Michifumi, 2016, Shiba Ryôtarô supeshiaru (Số đặc biệt ra mắt nhân ngày giỗ lần thứ 20 của Shiba Ryôtarô), NHK terebi tekusuto 3/2016, NHK xuất bản.

2)    Nguyễn Nam Trân, 2013, Giáo tŕnh lịch sử Nhật Bản, hai quyển thượng và hạ, bản thảo.

3)    Tư liệu và h́nh ảnh trên mạng.



[1] Ogata Kôan緒方洪庵 (1810-1863) học giả Lan học. Mở tư thục Tekijuku (Thích thục)  ở Ôsaka, học tṛ đông đến 3.000 người. Chủ trương cái học thực dụng của người Tây phương. Trong đám môn đệ có những nhân vật về sau nổi tiếng như Ômura Masujirô, Fukuzawa Yukichi, Sano Tsunetami, Hashimoto Sanai...Ngọn đuốc của ông là sự nghiệp giáo dục.

[2] Xin xem thêm bài giới thiệu “Shiba Ryôtarô, tác gia hiện đại NB” (tháng 3/2008) do dịch giả Phạm Vũ Thịnh trên trang mạng ERCT.

[3] Mushi 無私(vô tư) ở đây có nghĩa là biết xoá bỏ cái khác nhau giữa ta và người chứ không có nghĩa đạo đức như chí công vô tư (impartial) hay thoải mái, không ngại ngùng (indifferent, unworried )như hiện đang thông dụng trong giới b́nh dân ở VN.

[4] Tezuka Osamu 手塚治虫 (1928-89), tốt nghiệp bác sĩ y khoa đại học Ôsaka nhưng chuyển hướng sang đường nghệ thuật. Tác giả những tập tranh manga nổi tiếng Nhật Bản và thế giới.

[5] Kojima Hôshi 小島法師 ( ? – 1374), một nhà sư, người được phỏng đoán là tác giả đă tiểu thuyết chiến kư Taiheiki (Thái B́nh Kư).

[6] Thái B́nh Kư太平記Tác phẩm 40 quyển tường thuật giai đoạn loạn lạc kéo dài 67 năm kể từ năm 1318, lúc Thiên hoàng Go Daigo tức vị trở về sau, khi Nhật Bản có hai triều đ́nh và hai vị thiên hoàng.

[7] Kusunoki Masashige楠木正成 ( ? – 1336) một danh tướng được biết đến nhờ ḷng trung nghĩa. Ông đă đáp lời kêu gọi của Thiên hoàng Go Daigo để trung hưng vương thất nhưng sau tử chiến trong một trận đánh chống binh đoàn Ashikaga Takauji ở một nơi gần Kôbe bây giờ.

[8] Trước đó, trong sách giáo khoa bậc tiểu học, người Nhật xem hai triều Nam Bắc đều là chính thống (Nam Bắc Triều chính nhuận luận) cho đến năm 1911, khi Thiên hoàng Minh Trị phán quyết là Nam triều ở Yoshino mới có tính chính thống và quan điểm này được bảo tồn cho đến năm 1945.

[9] Rai Sanyô 頼山陽 (Lại, Sơn Dương, 1780-1832), nho gia và thi nhân thời Edo hậu kỳ. Sách Nihon Gaishi (Nhật Bản Ngoại Sử) của ông gồm 22 quyển viết bằng chữ Hán, tŕnh bày chính trị Nhật Bản từ cuộc tranh chấp Heike-Minamoto cho đến Mạc phủ Tokugawa.

[10] Tokutomi Sohô 徳富蘇峰(1863-1957), em trai của văn sĩ Tokutomi Roka (Đức Phú Lô Hoa). Trước tiên, theo chủ nghĩa b́nh dân nhưng kịp khi Chiến tranh Nhật Thanh bùng nổ th́ lại chuyển qua chủ nghĩa quốc gia. Tác phẩm Nihon kindai kokuminshi (1818-1852) của ông tất cả có đến 100 quyển.

[11] Kokumin kokka 国民国家(Quốc dân quốc gia, Nation-state, Nationalstaat): nhà nước như một tập hợp của những cá nhân cùng một dân tộc nghĩa là những người có chung ngôn ngữ, truyền thống và lịch sử, theo một quan niệm ở Âu châu hồi thế kỷ 18- 19. C̣n gọi là Minzoku kokka (民族国家Dân tộc quốc gia).

[12] Inoue Kowashi 井上毅(1843-1895) quan liêu cao cấp thời Meiji, cộng tác đắc lực với Itô Hirobumi, cả hai đều từng du học phương Tây.

[13] Tức hiến pháp Minh Trị (1889), hiến pháp đầu tiên do Thủ tướng Itô Hirobumi và Inoue Kowashi mô phỏng hiến pháp nước Phổ mà soạn ra, đặc điểm của nó là dành một quyền hạn rất lớn cho thiên hoàng chứ quốc dân chỉ biết phục tùng. Cũng gọi là Khâm định hiến pháp.

[14] Motoda Nagazane元田永孚 (1818-91), một nhà nho sống vào thời Minh Trị, học tṛ của đại nhoYokoi Shônan (1809-1869) và từng là thị giảng của Thiên hoàng Meiji. Đă hợp tác với Inoue Kowashi để soạn sắc ngữ về giáo dục.

[15] Kyôiku chokugo教育勅語Văn bản qui định những đường lối phải theo trong ngành giáo dục. Dựa trên quan điểm Nho giáo và gia tộc. Phát lệnh vào năm 1890.

[16] Vĩnh Sính (1944-2014) có lẽ tác giả VN nghiên cứu sâu nhất về Tokutomi Sohô. Ông đă viết luận án TS Sử tại Đại học Toronto (Canada) về nhân vật này.

[17] Bunkobon文庫本Sách khổ nhỏ (cỡ A6) b́a mềm, giá rẻ, có thể bỏ túi đem đi khắp nơi và dễ chuyền tay.

[18] Yoshimura Akira吉村昭 (1927-2006) viết tiểu thuyết liên quan đến những biến cố lịch sử cận đại. Đời văn của ông kéo dài suốt hai triều Shôwa (1926-89) và Heisei (từ 1989 đến nay). Tác phẩm chính:” Chiến hạm Musashi” (Senkan Musashi) , “Trận đại địa chấn vùng Tôkyô”(Kantô Daishinsai), “Phá ngục” (Hagoku), “Cuộc ám sát ngoài cổng Sakuradamon” (Sakurada mongai no hen)...

[19] Kaionji Chôgorô 海音寺潮五郎 (1901-77), tiểu thuyết gia đời Shôwa chuyên về tiểu thuyết lịch sử trường thiên. Tác phẩm chính: “Trận giao chiến giữa các bà vào niên hiệu Tensei” (Tensei Onnagassen), “Vũ thuật đă được truyền đến nước ta như thế nào?” (Bujutsu denraiki), “Tướng Taira no Masakado xưng hùng” (Taira Masakado), “Cùng với đất trời” (Ten to chi to) , “Cuộc đời của Saigô Takamori” (Saigo Takamori, tác phẩm viết dở dang).

[20] Yamamoto Shugorô山本周五郎 (1903-67), tiểu thuyết gia thời Shôwa. Tác phẩm chính: “C̣n lại duy tùng bách” (Mominoki ga nokkotta) , “Lương y Râu Đỏ” (Akahige Shindansho), Osan, Aobeka Monogatari...mà chủ đề nói chung liên quan đến những mối khổ tâm của tầng lớp samurai và những vui buồn của người thường dân.

[21] Ikenami Shôtarô池波正太郎, (1923-90), tiểu thuyết gia và người viết kịch thời Shôwa và Heisei. Tác phẩm chính Trông gà hóa cuốc (Sakuran) giải thưởng văn học Naoki, Những chuyện bắt tội phạm của quan án Onihei (Onihei Hankachô), Lấy kiếm câu cơm (Kenkyaku shôbai), Fujieda Baian, người xúi bẩy (Shikakenin Fujieda Baian). 

[22] Yamada Fuutarô 山田風太郎 (1922-2001) tiểu thuyết gia thời Shôwa và Heisei. Ông là cây bút kiệt xuất về loại văn chương truyền kỳ và vơ hiệp, nhất là tiểu thuyết Ninja. Ngoài ra ông cũng viết về hoạt động của ngành cảnh sát Nhật Bản thời Duy Tân và các tiểu luận về thời thế. Tác phẩm chính: Tập truyện về Ninja vùng Kôga (Ninja Ninpôchô), Chuyện ở Tổng bộ cảnh sát (Keijichô Sôshi). 

[23] Fujisawa Shuhei 藤沢周平 (1927-97). Tiểu thuyết gia thời Shôwa và Heisei. Ông chính ra là một tư chức, viết văn lúc đầu chỉ với mục đích giải khuây.Từng đoạt giải Naoki với “Lịch sử những cuộc ám sát” (Ansatsu nenrin). Là một tác giả ăn khách mà đề tài thường xoay quanh cuộc đời các tay kiếm sĩ và samurai cấp thấp sống ở địa phương. Tác phẩm chính khác c̣n có: “Cái b́nh màu trắng (Shiroki bin), “Nhật kư đâm thuê chém mướn” (Yôjinbô Nichigetsushô), “Chợ đời huyên náo” (Shijin). Độc giả tiếng Việt có thể tham khảo bài giới thiệu “Fujisawa Shuhei, tác gia hiện đại NB” (2008) và non ngh́n trang truyện của ông đă được dịch giả Phạm Vũ Thịnh dày công chuyển ngữ và đăng trên trang mạng ERCT.

[24] Kunitori Monogatari国盗り物語, tác phẩm gồm 4 tập, hai tập đầu nói về cách Saitô Dôsan 斎藤道三 chiếm đoạt được tiểu quốc nơi ông ở như thế nào. Hai tập sau nói về hoạt động binh bị và chính trị của Oda Nobunaga小田信長, ông con rể tài giỏi của Dôsan, người hầu như đă b́nh định được nước Nhật. Cả hai đều là những anh hùng của thời trung đại NB, đă dám phá vỡ trật tự truyền thống, từ địa vị bên dưới vươn lên cao. Truyện đăng liên tục lần đầu tiên trong khoảng năm 1963-66 trên tạp chí Sanđê Mainichi.

[25] Theo từ ngữ y khoa NB, kitai hay 鬼胎quỷ thai (c̣n viết là 奇胎kỳ thai) là một loại bào thai dị h́nh, bị các mô tăng trưởng và bao bọc như khối u trong khi chính bào thai th́ dần dần biến mất. Có nghĩa bóng là “một mối lo âu càng ngày càng lớn”.

[26] Thiên thủ các (天守閣tenshukaku) là nơi cao nhất trong một ngôi thành, thời chiến dùng làm vọng lâu quan sát chiến trường, thời b́nh biểu dương quyền uy của lănh chúa. Vọng lâu hoàn chỉnh nhất là của thành Adzuchi (tỉnh Shiga, ven hồ Biwa) do Nobunaga cho xây vào khoảng năm 1576.

[27] Thời trẻ, ông ngưỡng mộ bà O-ichi (em gái Nobunaga), sau lại kết hôn với Chacha (Yodogimi), con gái bà. Hideyoshi vốn xuất thân từ một gia đ́nh nông dân nghèo.

[28] Ieyasu đă lần lượt kết thông gia với Tể tướng Toyotomi Hideyoshi, các lănh chúa có thế lực như Date Masamune, Katô Kiyomasa và Fukushima Masanori để tạo vây cánh trong một giai đoạn nào đó.

[29] Yoshida Shôin 吉田松陰 (1830-59) nhà giáo dục ḍng dơi samurai phiên Chôshuu, chủ trương “pḥ vua đuổi giặc ngoài” (son. nô jôi). Thất bại trong mưu toan theo đoàn tàu của Perry vượt biên để t́m hiểu nước ngoài tại chỗ và bị tống giam. Về quê Hagi (tỉnh Yamaguchi) mở ngôi trường tư Shôka Sonjuku (松下村塾Tùng hạ thôn thục) đào tạo nhân tài trong đó có các chí sĩ như Takasugi Shinsaku, Kusaka Gensui, Itô Hirobumi. Trong vụ đại ngục năm Ansei, bị Mạc phủ chém đầu.

[30] Takasugi Shinsaku 高杉晋作 (1839-67), samurai phiên Chôshuu. Năm 1864, đă đứng ra thành lập một đội quân nghĩa dũng (kiheitai) không phân biệt giai cấp để đối địch với hạm đội của liên quân 4 nước. Sau đó, chủ trương đánh đổ Mạc phủ và thành công trong việc đẩy lui quân Mạc phủ phái xuống chinh phạt Chôshuu.

[31] Yamagata Aritomo 山県有朋 (1838-1922), quân nhân và chính trị gia thời Meiji và Taishô. Xuất thân gia đ́nh samurai phiên Chôshuu. Từng theo học Shôka Sonjuku của Yoshida Shôin.Sau Duy Tân đă được gửi đi quan sát Âu châu để soạn ra binh chế NB.Tham mưu trưởng đầu tiên của quân đội, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền. Hai lần làm Thủ tướng và có ảnh hưởng lớn đến những người kế nhiệm.

[32] Akechi Mitsuhide明智光秀 (1528-82) vơ tướng thời Sengoku. Azuchi Momoyama. Được Nobunaga trọng dụng nhưng sau bị chủ tướng khinh ghét, bèn nuôi chí mưu phản. Đă tập kích Nobunaga ở chùa Kyôto Honganji làm chủ tướng của ḿnh thất thế phải tự sát. Tuy nhiên, sau đó, ông đă bị Hashiba (Hideyoshi) phục thù cho chủ và binh đoàn ông bị tiêu diệt trong trận Yamazaki. Bản thân bị nông dân giết chết trên đường đào tẩu.

[33] Kuroda Kanbê黒田官兵衛 (1546-1604) tên thật là Kuroda Yoshitaka nhưng hay được gọi là Kanbê. Hiệu là Josui (Như Thủy). Là vơ tướng thời Azuchi Momoyama, theo đạo Ki-tô, tên thánh là Don Simeon. Ông phục vụ Nobunaga và trở thành quân sư cho Hideyoshi sau đó.Nổi tiếng v́ dùng thủy công khi đánh thành Takamatsu ở Bichuu.Sau khi Hideyoshi chết, v́ bất ḥa với Iswhida Mitsunari, thủ lĩnh quân miền Tây, ông cùng với các tướng cũ của Hideyoshi đứng về phiá Ieyasu. C̣n được biết đến như một người sành trà đạo (chajin).

[34] Nobunaga đă giết người vợ đầu của Ieyasu và một con trai của bà v́ bà này xuất thân từ một ḍng họ cựu thù của ḿnh.

[35] Suốt thời trẻ, Ieyasu phải đi làm con tin ở những phiên trấn bên cạnh nghĩa là có thể bị giết chết bất cứ lúc nào nên ông biết cách giữ ḿnh.

[36] Giáo đoàn Honganji 本願寺đă đứng lên tranh đấu chống phá Nobunaga kịch liệt.

[37] Một chế độ dùng các nhân vật thuộc ḍng dơi con nhà gia thế (高家cao gia) vào việc tiếp sứ, đăi đằng. Những “cao gia” tuy có chức vị không thua hàng lănh chúa nhưng có tính chất trang sức hơn là thực chất.

[38] Akiyama Saneyuki 秋山真之 (1868-1918) trung tướng hải quân, hoạt động dưới thời Meiji và Taishô. Người phiên Matsuyama (trên đảo Shikoku), từng du học ở Mỹ, quan sát viên trận chiến tranh giữa Mỹ và Tây Ban Nha. Thành viên Bộ tham mưu tác chiến cho tư lệnh hạm đội trong Chiến tranh Nhật Nga là Đô Đốc Tôgô Heihachirô. Được biết như một chiến lược gia về hải quân.

[39] Kokudaka石高 là chế độ định mức sản xuất lúa gạo bằng thạch (hộc) thóc của một khoanh ruộng sau một cuộc kiểm tra điền địa. Từ mức sản xuất đó, nhà nước tính thuế phụ đảm của dân chúng địa phương. Thạch hay hộc (koku) là đơn vị đo lường gạo thóc. Dù đă được thực hiện nhiều nơi trước kia nhưng cuộc kiểm kê nổi tiếng và có tính thống nhất hầu như trên toàn quốc đă xảy ra dưới thời Tể tướng Hideyoshi.

[40] Tenryô 天領theo nguyên ngữ là đất đai do Thiên hoàng trực tiếp cai quản và ăn lộc. Tuy nhiên về sau nó ám chỉ là khu vực nhà Tokugawa không chia cho các lănh chúa mà giữ lại cho ḿnh. Lănh địa này phần lớn nằm ở vùng Kantô.

[41] Ryôma ga yuku竜馬がゆくtác phẩm gồm 8 quyển, đăng lần đầu tiên trên nhật báo Sankei từ tháng 6/1962 đến tháng 5/1966. Chuyện nói về Sakamoto Ryôma, 坂本竜馬(1835-67), một samurai phiên Tosa, đă thoát phiên để lên đường rong ruổi thuyết phục 2 hùng phiên Satsuma và Chôshuu kết hợp đồng minh, đưa đến việc gâp áp lực để nhà chúa trao trả quyền lực cho nhà vua, nguồn gốc của cuộc Duy Tân Minh Trị. Shiba muốn cho chúng ta thấy dù chỉ đứng bên ŕa quyền lực nhưng Ryôma đă hăng hái bôn ba v́ dân v́ nước như thế nào.

[42] Xin xem hồi kư du hành rất lư thú và giàu h́nh ảnh nhan đề “Truyện Ryôma” (2013) của tác giả Trương văn Tân trên quê hương Tosa của nhân vật lịch sử này. Bài đă được đăng trên trang mạng ERCT.

[43] Moeyo! ken 燃えよ剣quyển truyện gồm 2 tập, đăng lần đầu từ tháng 11/1962 đến tháng 3/1964 trên tạp chí Bunshun. Truyện kư về Hijikata Toshizô土方歳三(1835-69), con trai một gia đ́nh nông dân giàu có ở vùng Tama (Tôkyô), giỏi kiếm thuật và dũng cảm, cùng với đàn anh là Kondô Isami, tổ chức một đội vũ trang tên là Shinsengumi để giữ trị an cho thành phố Kyôto theo lời yêu cầu của Mạc phủ với tham vọng sẽ được đồng hoá vào giai cấp samurai. Sau thất bại và chết trên đường bôn đào ở Hokkaidô.

[44] Tobu ga gotoku翔ぶが如く, tác phẩm gồm 10 tập, đăng lần đầu từ tháng 1/1972 đến tháng 9/1976 trên nhật báo Mainichi.Truyện kể về hai hào kiệt thời Duy Tân đă góp công sức trong việc đánh đuổi Mạc phủ. Đó là Saigô Takamori 西郷隆盛(1827-77và Ôkubo Toshimichi大久保利通(1830-78. Tuy thành công trong sự nghiệp Duy Tân nhưng hai người bạn cố tri lại bất đồng chính kiến và đưa đến chỗ đối địch trên chiến trường.

[45] Yo ni sumu hibi 世に棲む日々 tác phẩm gồm 4 quyển, đăng lần đầu từ tháng 2/1969 đến tháng 2 năm 1970 trên tạp chí Asahi. Tác phẩm kể lại hoạt động của nhà tư tưởng “tôn vương nhương di” Yoshida Shôin吉田松陰 (1830-59) và học tṛ ông là nhà hành động Takasugi Shinsaku 高杉晋作 (1839-69). Tuy cuộc đời của hai người rất ngắn ngủi nhưng họ đă để lại dấu ấn lịch sử sâu đậm.

[46] Một truyện ngắn trong tập đoản thiên cùng tên. “Kẻ bảo vệ hoàng cung” (Ôjô no goeisha 王城の護衛者) ám chỉ lănh chúa Matsudaira Katamori, người chỉ huy lực lượng trị an ở Kyôto trong giai đoạn tranh tối tranh sáng cuối đời Mạc phủ.

[47] Matsudaira Katamori 松平容保 (1835-93), lănh chúa phiên Aizu, ḍng dơi họ Tokugawa, có binh lực nên được bổ nhiệm làm người bảo vệ trị an ở Kyôto để đàn áp phái cần vương đảo Mạc. Bại trận ở Fushimi, phải đầu hàng quân chính phủ. Sau được tha tội và chết già.

[48] Togehay “Ngọn đèo” thường là chữ dùng để nói về “một quyết định khó khăn”. Tác phẩn gồm 3 tập, đầu tiên được đăng trên nhật báo Mainichi từ tháng 11/1966 đến tháng 5/1968. Tác giả cho biết tại sao một nhân vật có tư duy cải cách như Kawai Tsugunosuke rốt cuộc lại đi ngược chiều cuộc cận đại hóa.

[49] Kawai Tsugunosuke河井継の助 (1827-1868), chức gia lăo (tương đương thủ tướng một tiểu quốc) phiên Nagaoka đă biết cải cách tài chánh, mua súng ống Tây phương và tổ chức quân đội của phiên theo binh chế nước Pháp. Trong chiến tranh Mậu Th́n (Boshin, 1908) muốn giữ phiên ḿnh trung lập nhưng không thành, đành phải tử chiến.

[50] “Hồn hoa” (Kashin花神), tác phẩm gồm 3 tập, được đăng lần đầu từ tháng 10/1969 đến tháng tháng 2/1971 trên nhật báo Asahi. Truyện nói về cuộc đời học giả Lan học và y sĩ phiên Chôshuu là Ômura Masujirô (1824-69). Ông là người có tài thao lược và đầu óc đi trước thời đại, đă góp công lớn cho thời kỳ hậu Duy Tân nhưng bản thân lại chịu số phận bi thảm..

[51] “Quốc dân giai binh”(国民皆兵 Kokuminkaihei) là đường lối tổ chức quân đội nhà nước theo lối nghĩa vụ quân sự cho toàn dân, và như thế, phá bỏ độc quyền của giai cấp samurai.

[52] Do người Anh tên là W.H. Amstrong sáng chế năm 1855, đă được dùng trong nội chiến Nam Bắc ở Mỹ và trong trận Chiến tranh Boshin ở Nhật. Phiên bản ở Nhật là do phiên Saga phóng tác. Đó cũng là đề tài một truyện ngắn của Shiba đăng trên tạp chí Shôsetsu Gendai số tháng 9 năm 1965. Xin xem bản dịch của dịch giả Phạm Vũ Thịnh đăng trên trang mạng ERCT với nhan đề “Đại bác Amstrong” (tháng 8/2008).

[53] T́nh thực, Ômura không để lại h́nh ảnh. Đây là bản vẽ chân dung của một họa sĩ ngoại quốc phỏng theo lời chứng của những người từng quen biết ông..

[54] Trận đánh xảy ra từ tháng 5 đến tháng 9 năm 1939 ở vùng biên giới Măn Châu và Mông Cổ gần Momonhan giữa quân Quan Đông NB và quân Liên Xô. Trong trận này, ngay cả bộ đội tinh nhuệ của quân Quan Đông cũng đă bị loại ra ngoài ṿng chiến.

[55] Hai loại chiến xa nội hoá của NB, làm ra vội vàng để kịp đem ra chiến trường Măn Châu .Vỏ thép bọc rất mỏng, không thể đối đầu với chiến xa địch.

[56] Yôrô Takeshi 養老孟司 sinh năm 1937, học giả ngành giải phẫu, giáo sư danh dự Đại học Tôkyô. Có viết “Duy năo luận” (Yuinôron), “Bức tường điên khùng”(Baka no kabe).

[57] Ii 井伊là phiên trấn của con cháu một đại tộc có từ xưa, nay nằm ở vùng Shizuoka.

[58] Akazonae 赤備えlà giáp trụ sơn đỏ chói mà các đạo quân vùng Kantô của phiên Takeda, Ii và Sanada hay dùng.

[59] Yoshida Toshimaro吉田稔麿 (1841-64)samurai phiên Chôshuu, học tṛ của Yoshida Shôin ở Tùng hạ thôn thục, bạn với Takasugi Shinsaku, Kusaka Genzui, Irie Kuichi. Tham gia hoạt động cần vương ở Edo và Kyôto. Chết trong vụ Shinsengumi đột kích quán trọ Ikedaya.

[60] Tháng 6 năm 1864, thế lực trị an thân Mạc phủ là nhóm Shinsengumi đột kích quán Ikedaya ở Kyôto, nơi các chí sĩ cần vương (tôn vương nhương di) đang hội họp.

[61] Kusaka Genzui 久坂玄瑞 (1840-64), chí sĩ phiên Chôshuu và học tṛ của Yoshida Shôin. Có lập trường bài ngoại cứng rắn. Tự sát sau khi bị thua trong trận đánh vào cấm cung.

[62] Cuộc tập kích của các chí sĩ Chôshuu vào một trong những cánh cổng của hoàng cung Kyôto vào tháng 7 năm 1864. Gặp phải sự chống trả của liên quân 2 phiên Aizu và Satsuma nên đă thất bại.

[63] Aoki Izumi 青木和泉 (1813-64), phiên sĩ phiên Kurume, quan giữ đền Thần đạo. Cũng tự sát sau vụ tấn cung cấm cung một lượt với Kusaka Genzui.

[64] Mishima Yukio 三島由紀夫 (1925-70, tiểu thuyết gia nổi tiếng. Lập trường duy mỹ, chuyển qua chủ nghĩa quốc gia cực đoan. Mỗ bụng tự sát sau khi kêu gọi không thành công người Nhật trở về với lư tưởng dân tộc.

[65] Ogata Kôan 緒方洪庵 (xem thêm chú bên trên), thày của Ômura Masujirô, là một y sĩ đă tận tâm phổ biến việc tiêm chủng ở Nhật. Ông có thời làm việc ở Sở nghiên cứu y học Tây phương của Mạc phủ.

[66] Matsumoto Ryôjun 松本良順  (1832-1907), học giả Lan học và thày thuốc thời cuối Mạc Phủ và thời Minh Trị. Ông từng xuống Nagasaki học y học của người Hoà Lan. Sau này ông lập nên hệ thống quân y cho lục quân và nhận chức Tổng Giám đốc Quân Y.

[67] Năm 1336, quân cần vương của Kusunoki Masashige bị quân Mạc phủ Ashikaga đánh bại ở sông Minatogawa gần Kôbe. Gặp bước đường cùng, Masashige và anh em ḍng họ đă cùng nhau tự sát. Hành động của nhà Kusunoki được đời sau xem như biểu tượng của ḷng tận trung báo quốc.

[68] Chuyện này cũng giống như việc Thiên hoàng Shôwa đă cho xử tử những kẻ nhân danh pḥ tá ḿnh mà gây nên cuộc binh biến Ni.niroku năm 1936.

[69] Akiyama Yoshifuru秋山好古 (1859-1930), quân nhân thời Meiji-Taishô, hàm đại tướng. Đă theo học về kỵ binh tại Pháp. Tham gia 2 trận Nhật Thanh và Nhật Nga, chỉ huy từ cấp đại đội đến cấp lữ đoàn. Có nhiều huân công.

[70] Trộm nghĩ chữ “di động” Gs Isoda dùng đây có 2 nghĩa: di động nhân khẩu từ nông thôn lên tỉnh thành và mặt khác, đảo lộn trật tự trên dưới trong xă hội. NNT.

[71] Shikyô sensô四境戦争. Năm 1866, bị Mạc phủ chinh phạt lần thứ hai, Chôshuu bốn mặt thọ địch. Thế nhưng họ đă đánh tan các lực lượng đó, đưa đến sự suy vong của Mạc phủ.

[72] Tương truyền Ômura kỳ h́nh dị tướng: đầu to, mặt lớn, người lênh khênh, mũi cao mắt dài, lông mày rậm. Ở Chôshuu, ông có hỗn danh là Hifuki Daruma (Đạt Ma phun lửa).

[73] Katsura Kogorô桂小五郎 (1833-77), sau này đổi tên thành Kido Takayoshi 木戸孝允 là một trong Duy Tân tam kiệt bên cạnh Ôkubo Toshimichi và Saigô Takamori. Phiên sĩ Chôshuu và chính gia thời Mạc mạt và Duy tân. Đă đề ra nhiều chính lệnh quan trọng như Ngũ cá điều ngự thệ văn, Phản tịch phụng hoàn và Phế phiên trí huyện, đập nát tổ chức nhà nước phong kiến và đưa NB trở thành quốc gia thống nhất trung ương tập quyền.

[74] Otaku御宅 là chữ để chỉ một người chỉ chuyên chú vào một lănh vực và xuất sắc trong lănh vực đó nhưng thiếu tri thức hay sự nhạy cảm thường thức.

[75] Meiji to iu kokka 明治という国家, sách gồm 2 quyển 11 chương luận về bản chất người Nhật và tinh thần thời Minh Trị..Do cơ quan truyền thông NHK xuất bản. Đă được phóng thanh trên Rađiô NHK từ tháng 10/1989 đến tháng 11 năm đó làm 6 hồi.

[76] Cornelius Riđer Huijssen Van Kattendijke (1816-66) đă đến Nhật năm 1857 theo lời yêu cầu của Mạc phủ để huấn luyện họ về Hải quân. Sau về nước làm Tổng trưởng Hải quân. Có viết hồi kư về những ngày ở Nagasaki.

[77] Katsu Kaishuu勝海舟 (1823-99) quan lại Mạc phủ và chính trị gia thời Mạc mạt Duy tân. Thông thạo Lan học và binh học. Từng làm thông dịch viên. Sau đó vào học trường hải quân. Biết chỉ huy chiến hạm vượt Thái B́nh Dương. Thành công trong việc thương thuyết với Saigô Takamori để Mạc phủ trao thành Edo cho quân chính phủ và tránh được đổ máu vô ích. Sau đó, giữ những chức vụ quan trọng trong Hải quân và Xu Mật Viện.

[78] Kanrin.maru 咸臨丸 tên chiến hạm người Ḥa Lan đóng cho Nhật để dùng vào huấn luyện thủy binh. Tên cũ là Yapan, do hạm trưởng Kattendijike đưa đến Nagasaki năm 1857. Năm 1860, chính Katsu Kaishuu đă điều khiển chiến hạm này vượt Đại Tây Dương đến Mỹ như hộ tống hạm của sứ thần.

[79] Những người mang cùng quốc tịch, sống trong một nước và chịu sự chi phối của một chính quyền. Có khi gọi là công dân hay thị dân (citizen).

[80] Ngày nay cũng có cách nói Zassô no tamashi” (雑草の魂tạp thảo chi hồn), hồn cỏ dại, ư nói sức sống mạnh mẽ, không câu thúc giống như thiên nhiên hoang dă.

[81] Theo chế độ sankin kôtai 参勤交代 do nhà Tokugawa qui định, lănh chúa chư phiên bắt buộc đi đi lại lại giữa lănh địa và Edo để hầu việc. Gia đ́nh họ được gửi lên sống ở Edo như một thứ con tin. Sự chi tiêu cho gia đ́nh họ cũng làm các lănh địa nghèo đi, không đủ sức hùng cường để gây khó khăn cho Mạc phủ.

[82] Kunimochi daimyô 国持ち大名có nhiều danh vọng và đặc quyền hơn lănh chúa thường.

[83] Masaoka Shiki正岡子規 (1867-1902). Thi nhân thơ Haiku và Tanka thời Minh Trị. Chủ trương “tả sinh” (shasei, miêu tả sự vật sống động trong dáng vẻ tự nhiên của no) qua Tạp chí Hototogisu (Chim tử qui) ông điều khiển. Có công cải cách tanka và haiku cận đại. Giao t́nh thân mật với Natsume Sôseki từ ngày chung ghế trường Dự bị Đại học. Tác giả của tập nghị luận văn học “Thư gửi người làm thơ” và tùy bút “Trên giường bệnh hẹp”. Cũng thân thiết với hai anh em quân nhân Akiyama Saneyuki và Yoshifuru.

[84] Shôya 庄屋là danh từ ở miền Tây NB gọi người đứng đầu làng xă dưới thời Edo. Tương đương với Myôshu名主 ở miền Đông. Ông ta có nhiệm vụ quản lư, trị an làng xă, đứng ra thu thuế cho lănh chúa cũng như giải quyết các chuyện phân tranh nội bộ.

[85] Kaikin taisei 海禁体制 là chế độ mà Mạc phủ Tokugawa đă mô phỏng Trung Quốc thời Minh, Thanh). Nó chỉ cho phép thương nhân đi lại buôn bán với một số địa vực đặc biệt như Triều Tiên, Lưu Cầu, Trung Quốc, Ḥa Lan... nghĩa là c̣n mở những cánh cửa sổ chứ không hoàn toàn cắt đứt mọi liên hệ ngoại giao.

[86] Fukuzawa Yukichi 福沢諭吉 (1834-1901), nhà tư tưởng khai sáng thời Minh Trị. Con gia đ́nh phiên sĩ phiên Nakatsu (tỉnh Ôita đảo Kyuushuu). Theo học Lan học với học giả Ogata Kôan. Ba lần sang Âu Mỹ xem xét sự t́nh. Đă sáng lập Đại học Keiô và tham gia Hội nghiên cứu Meirokusha từ buổi đầu. Nhiều tác phẩm với chủ đề khuyến khích học vấn và t́m hiểu văn minh Tây phương.

[87] Gs Isoda dùng chữ “hiểu lầm” (gokai) nhưng chúng tôi xin dịch một cách thận trọng hơn v́ Fukuzawa không phải hoàn toàn không có có tư tưởng Chinh Hàn (Chinh phục Triều Tiên), một tư tưởng chủ lưu của thời ông.

[88] Umesao Tadao 梅棹忠雄 (1920-2019) nhà văn hoá nhân loại học nổi tiếng của thời Shôwa và Heisei. Trong một khảo luận năm 1957, ông đă đưa ra chủ trương là mội trường sinh thái là yếu tố quyết định để sinh thành những nền văn minh khác nhau.

[89] Chôshuu Five 長州ファイブ Ư nói năm nhà chí sĩ xuất thân từ phiên Chôshuu, năm 1863 đă trốn Mạc phủ sang Anh du học. Các ông là Inoue Tamon (sau đổi tên thành Kaoru), Endô Kinsuke, Yamao Yôzô, Itô Shunsuke (Hirobumi) và Nomura Yakichi (Inoue Masaru). Sau khi về nước, Inoue Kaoru đă lập được tuyến đường sắt Tôkyô-Kôbe và trở thành một viên chức cao cấp của nhà nước trong ngành hỏa xa.

[90] Saka no ue no kumo坂の上の雲 tiểu thuyết gồm 8 tập, đăng tải lần đầu trên nhật báo Sankei từ tháng 4/1968 đến tháng 8/1972.  Nội dung nói về t́nh bạn của 3 con người xuất thân từ thị trấn Matsuyama trên đảo Shikoku vào giữa thời Minh Trị. Đó là anh em quân nhân Akiyama Yoshifuru (kỵ binh), Akiyama Saneyama( hải quân) và nhà thơ tanka, haiku Masaoka Shiki. Bối cảnh là thời mà cuộc Duy Tân bắt đầu cho đến Chiến tranh Nhật Nga.

[91] Nogi Maresuke 乃木希典 (1849-1912). Đại tướng lục quân, hoạt động vào thời Meiji. Cũng xuất thân phiên sĩ phiên Chôshuu. Tư lệnh đệ tam quân đoàn trong trận tấn công cảng Lữ Thuận. Sau làm cố vấn quân sự cho nhà nước và chỉ huy học viện quân sự. Tuẫn tử theo Thiên hoàng Minh Trị để chuộc lỗi về một sai phạm trong thời chiến dù đă được thiên hoàng bỏ qua không xét.

[92] Sanshu no Jingi 三種の神器  Ba báu vật thiêng liêng tượng trưng cho quyền lực hoàng đế cổ đại gồm có kính đồng, kiếm và ngọc. Khoảng giữa thập niên 1960, chúng là TV đen trắng, máy giặt và tủ lạnh chạy bằng điện, 3 món đồ tượng trưng cho cuộc sống văn minh tiến hóa.

[93] Kono kuni no katachi この国のかたち thu thập 121 bài văn nghị luận, đăng lần đầu tiên từ tháng 3/1986 đến tháng 4/1996 trên tạp chí Bungei Shunju . Bài số 121 bị bỏ giữa chừng v́ tác giả đau yếu. Như thế, Shiba đă bỏ ra 10 năm cho tập sách.

[94] Shôwa to iu kokka 昭和という国家, gồm 2 quyển thu thập những bài có nội dung phân tích về lịch sử và xă hội NB thời Shôwa và đă được phóng thanh trên mạng truyền thông NHK từ 1986 đến 1987.

[95] Komura Juutarô小村寿太郎 (1855-1911) nhà ngoại giao thời Minh Trị. Xuất thân phiên Hyuuga Obi. Ngoại trưởng đă kư kết liên minh Nhật Anh. Cầm đầu phái đoản Nhật tại hội đàm Portsmouth. Đă có công hồi phục chủ quyền quan thuế cho Nhật.    

[96] Kojima Kazuo小島一雄 (1865-1952), nhà báo và chính trị gia thời Shôwa. Xuất thân ở Tajima Toyooka (vùng Kôbe bây giờ). Trước là kư giả, năm 1911 thành thượng nghị sĩ. Thời hậu chiến được mời làm làm chủ tịch đảng Tự Do Dân Chủ (Jimintô) nhưng từ chối để giới thiệu Yoshida Shigeru.

[97] Kazôku 華族 chế độ lập ra từ năm 1884 dành cho công thần đời Duy Tân, cần phân biệt với Cựu hoa tộc đă có sẵn từ trước. Bị băi bỏ vào năm 1947.

[98] Itagaki Taisuke板垣退助 (1837-1919) chính trị gia thời Minh Trị, xuất thân phiên Tosa. Từng giữ chức tham mưu quân đội chính phủ trong trận đánh phiên Aizu. V́ bị thua trong cuộc tranh luận có nên đánh Triều Tiên hay không mà phải từ quan. Sau ông đấu tranh trong phong trào vận động dân quyền và trở thành Tổng trưởng Bộ Nội Vụ trong Nội các Ônuma-Itagaki (1898)

[99] Sau Thế chiến 1914-18, liệt cường muốn bảo vệ ḥa b́nh thế giới nên thành lập Hội Quốc Liên và thương thảo với nhau để cắt giảm binh bị. Nổi tiếng nhất là những cuộc họp cho mục đích này tại Washington và London từ 1922 đến 1930 (xem GTLSNB của NNT, quyển hạ, tr. 275-276)

[100] Trong cuộc chính biến vào năm 1881 này, liên minh phiên phiệt Satsuma và Chôshuu đă lật đổ chính phủ mà Ôkuma Shigenobu tham dự v́ ông vốn chủ trương tổ chức nội các và nghị hội theo lối Anh.

[101] Ôkuma Shigenobu大隈重信 (1838-1922) nhà chính trị và nhà giáo dục thời Minh Trị. Gốc phiên Saga (Kyuushuu), từng làm thượng nghị sĩ và tổng trưởng tài chánh.Năm 1881, v́ xung đột về vấn đề hiến pháp, bị đuổi về quê sau cuộc chính biến của nhóm Satchô. Sau trở lại chính trường, hai lần làm Thủ tướng. Đă thành lập Đại học Keiô. .

[102] Tôsuiken 統帥権 quyền chỉ huy tối thượng của quân đội. Nó nằm ở điều thứ 11 của Hiến Pháp Minh Trị, phó thác quyền chỉ huy tối thượng ấy cho thiên hoàng, thế nhưng những kẻ trực tiếp điều hành nó lại là Bộ tham mưu lục quân và Bộ tư lệnh hải quân.

[103] Saionji Kinmochi 西園寺公望 (1849-1940). Chính trị gia từng trải của ba triều đại từ Meiji đến Shôwa.Xuất thân công khanh, từng làm Tổng trưởng giáo dục và cầm đầu Xu mật viện, một tổ chức cố vấn cho thiên hoàng.Từ 1906, lập nội các suốt 11 năm. Là nguyên lăo cuối cùng đă duy tŕ chế độ lập hiến để pḥng ngừa quân đội đi lầm đường. Không ngăn được điều đó, ông chết trong ưu tư cho vận nước..

[104] Minseitô 民政党 Một trong 2 chính đảng lớn của Nhật, thành lập vào năm 1927 và giải tán năm 1940, chủ trương lập hiến, thời đó đang nắm chính quyền với thủ tướng Hamaguchi Osachi (1870-1931) , người sau này sẽ bị những phần tử cực đoan mưu sát. Minseitô đối lập với Seiyuukai政友会 của cánh hữu.

[105] Kita Ikki 北一輝 (1883-1937) nhà tư tưởng quốc gia chủ nghĩa thời Taishô và đầu Shôwa. Trước theo khuynh hướng xă hội, từng tham gia Cách mạng Tân Hợi 1911. Sau chuyển qua chủ trương ái quốc cực đoan. Trước tác của ông bàn về cải tổ nước Nhật ảnh hưởng nhiều đến giới sĩ quan trẻ trong lục quân. Bị xử tử v́ được xem là đă đứng bên trong để điều khiển cuộc binh biến Ni.niroku (26/2/1936)

[106] Iaku jôsô 帷幄上奏 là đặc quyền cho phép đại diện cao cấp trong quân đội có thể tiếp xúc với thiên hoàng với danh nghĩa bàn chuyện cơ mật quốc pḥng mà không cần thông qua chính phủ. Đó là nhân tố quan trọng trong việc quân đội lạm quyền. Iaku nghĩa là cái lều vây bằng màn, một từ cổ chỉ bộ chỉ huy.

[107] Ôtori Keisuke 大鳥圭介 (1833-1911), quan chức Mạc phủ, gốc người vùng Harima (gần Sakai bây giờ). Gốc nhà cũng là thầy thuốc, theo học y học và binh pháp với Ogata Kôan. Trong chiến tranh Boshin đứng về phía Mạc phủ nhưng sau đó cùng với tướng Enomoto Takeaki đầu hàng quân chính phủ ở Hokkaidô. Lănh nhiều chức vụ quan trọng trong ngành ngoại giao thời Duy Tân và c̣n là cố vấn của Xu Mật Viện.

[108] Hashimoto Sanai 橋本左内 (1834-59), phiên sĩ vùng Fukui, Echizen. Theo học y lư và cái học Tây phương với Ogata Kôan. Đă chấn hưng học thuật mới ở quê nhà. Sau v́ ủng hộ Hitotsubashi Yoshinobu vào chức Shôgun nên bị liên lụy trong vụ đại ngục năm Ansei và bị Mạc phủ xử trảm cùng năm (1859) với Yoshida Shôin.