LeThoiTaiVaRuouCan-NguyenNgoc

Lễ thổi tai và rượu cần

(Tản mạn nhớ và quên)

Nguyên Ngọc

Trong bài viết này có sử dụng một số tư liệu của Jacques Dournes

 

Nếu bạn có dịp đến Tây Nguyên, và đừng có bị cuộc làm ăn bây giờ lúc nào cũng lôi kéo con người ngược xuôi tất tả, như có người nói, hăy "thoải mái một chút, hồ đồ một chút", dám vứt đi mọi lo toan gẫm cho cùng cũng chẳng có ǵ là nghiêm trọng ghê gớm lắm đâu, bạn nán lại ở chơi với Tây Nguyên dăm ba bữa, được mươi ngày nửa tháng càng hay, th́ cũng chẳng cần chăm chú lắm đâu, bạn sẽ nhận ngay ra điều này : người đàn ông Tây Nguyên rất thích lang thang. Tôi có anh bạn rất giỏi và rất thích xem tử vi. Giá anh ấy có dịp lập tử vi cho tất cả đàn ông Tây Nguyên, tôi tin chắc lá số nào của họ cũng có một chữ "Lữ" to tướng. Lữ hành. Đàn ông Tây Nguyên, đó là những chàng lữ khách không biết mệt chán, suốt đời. Ở Tây Nguyên, có một phong tục rất thú vị : khi đứa bé trai sơ sinh vừa tṛn tháng, người ta đặt nó nằm trên một chiếc chiếu giữa sàn nhà và vứt cạnh nó ba vật tượng trưng : một con dao, một mẩu gỗ nhỏ và một cây gậy. Đứa bé sẽ quờ tay chạm vào một trong ba vật ấy. Nếu chạm đúng con dao, mai sau nó sẽ là một chiến binh dũng mănh; chạm phải mẩu gỗ (tượng trưng cho chiếc gậy chỉ huy) nó sẽ trở thành một thủ lĩnh lớn. C̣n đứa nào chạm phải cây gậy th́ chắc chắn sẽ trở thành một khách lữ hành miệt mài, măi măi lang thang trên những nẻo đường bất tận, đi t́m những điều tốt lạ của cuộc đời. Tất nhiên Tây Nguyên không thiếu những chiến binh anh hùng và những thủ lĩnh lừng danh. Nhưng người ta bảo, bọn bé trai sơ sinh, chúng nó mới tṛn tháng tuổi mà đă sớm láu thế, hầu hết chúng nó đều nắm chặt lấy cây gậy, nhiều khi gỡ măi cũng chẳng chịu buông ra ! Tôi cũng có một anh bạn thân người Gia-rai ở tít một làng rất hẻo lánh, mỗi lần lên Tây Nguyên thế nào tôi cũng cố t́m đến tận nơi thăm anh. Ấy vậy mà mươi lần, may lắm chỉ một hai lần anh có nhà. C̣n th́ lần nào cũng thế, chị vợ anh buông chiếc chày giă gạo hay dừng tay đang trộn men rượu cần trên chiếc nong tṛn đan khéo như một tác phẩm nghệ thuật, ngửng lên lắc đầu: "Y Yơn hả? Vô trong rừng mà t́m. Đang làm rượu cho nó về uống đây này!"

Biết t́m ở đâu bây giờ, Tây Nguyên nơi đâu chẳng là rừng ! Người đàn ông Tây Nguyên suốt đời ở trong rừng, hoặc đuổi theo một con thú, hoặc lần vết một đàn ong mật, hoặc lặn lội ngược những con suối đá lởm chởm và trơn trợt truy t́m tung tích một con cá ch́nh núi, hay loay hoay chặt cây vác đá chặn đứng cả một ḍng suối lại để tát cá, hoặc mải miết đuổi theo một con lợn rừng, một con kỳ đà, một con cúi, một con chuột... Hoặc mải mê đi t́m một cây gỗ đẹp để làm tượng, tít tận trong rừng thẳm hay trên một đỉnh núi dốc ngược. Hoặc cũng không ít khi ở trong nhà, nhưng là nhà... một người họ hàng, một người bạn cố tri, hay cũng rất có thể một người bất kỳ nào đó cũng đang lang thang như chính anh ta, mới cùng nhau đánh bạn trên đường, tận một làng không tên xa lơ xa lắc, la đà tán gẫu và hút rượu cần. Và lúc ấy th́ chẳng c̣n cần biết trời đất là ǵ nữa, chẳng c̣n cần biết là đang ở trong không gian, thời gian nào nữa, cũng chẳng thèm nhớ đường về. Lúc ấy là cuộc lữ hành đă chuyển sang một thế giới khác, một không thời gian khác, thế giới và không thời gian của quên, mà xin bạn đọc chớ sốt ruột, chốc nữa đây tôi sẽ cố nói rơ hơn cùng bạn.

"Định mệnh" của người đàn ông ở đây là thế. Họ là ở bên ngoài, là thuộc về ngoại giới, ở ngoài ngôi nhà của họ, gia đ́nh họ, ở nơi mà theo một nghĩa nào đó, con người không thật sự c̣n có "trách nhiệm" nữa, hay ít ra đă nhẹ trách nhiệm đi rất nhiều. Như vậy bạn thấy đấy, ở Tây Nguyên người đàn ông, người cha là bên ngoại chứ không phải bên nội. Con cái không theo ḍng máu của cha, không sinh ra cùng với tên họ của cha. Ở đây cội rễ của sự sống không phải là người đàn ông. Người đàn ông chẳng là ǵ cả trong ḍng chảy liền mạch vô thủy vô chung của các thế hệ. May lắm th́ anh chỉ là một cái thúc đẩy nào đó, một cú hích nào đó trong cơ chế tiếp nối thiêng liêng ấy, chứ không phải là gốc rễ, cội nguồn quyết định của nó. Đứa con có thể không có cha, chứ không bao giờ không có mẹ.

đây người đàn bà mới là bên nội. Bà ở bên trong, là nội giới, là nhân tố quyết định của sự nội sinh, là chủ nhân đích thực của ḍng chảy. Cho nên bà là người chủ của sự sống, người chủ của gia đ́nh, là cội rễ, là rường cột. Chính bà giữ sự ổn định cho cuộc sống. Chính người đàn bà truyền ḍng máu của ḿnh cho các thế hệ nối tiếp, tức chính bà là người giữ bền chặt "chương tŕnh" của sự sống, để cho sự sống không bị đứt đoạn, không bị "quên".

Cho nên, nói theo nghĩa sâu nhất, người đàn ông là quên, c̣n người đàn bà là nhớ. Bà giữ bền cái nhớ cho giống ṇi.

Tây Nguyên, một đứa bé lọt ḷng mẹ ra vẫn chưa phải là một con người. Người ta phải thổi linh hồn vào cho nó thành người. Thổi vào đâu ? Thổi qua lỗ tai. V́ thế mà có lễ thổi tai cho đứa bé sơ sinh. Người thổi tai bao giờ cũng là người đàn bà, đương nhiên phải là như vậy, bởi như đă nói, chỉ có bà mới giữ giềng mối của sự sống kia mà. Người đàn bà thổi tai thường là một bà đă đứng tuổi - để cho cái nhớ được bền chắc chăng ? - bà cầm một cuộn chỉ bông, lấy ra từ chiếc xa quay, phun gừng mà bà đă nhai nát vào đó, rồi thổi bảy lần vào cuộn chỉ đặt sát vào tai đứa bé. Vừa thổi vừa khấn :

 

hluh amang adung

rhung anang tongia

bbèt rosung roya

tongia gah iao

honing ko brua'

tongia gah hnua'

honing ko hmua

 

thông lỗ mũi

tinh lỗ tai

phun gừng

tai trái

nhớ lấy công việc

tai phải .

nhớ lấy ruộng rẫy

 

Làm người, hăy nhận lấy hồn người đây

Con trai

Phải nhớ lấy cái cuốc

Phải nhớ lấy cái ŕu

Phải nhớ lấy cái giáo giữ làng

Cái ná và ống tên.

Con gái

Chớ quên chiếc xa cán bông

Cái go dệt vải

Chớ quên cái yết làm cỏ

Cái gùi suốt lúa

Giọt nước đầu làng

Và bếp lửa ủ ấm mẹ cha...

 

Bạn thấy chưa, từ "nhớ" được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, và cơ quan của sự nhớ, cũng tức là của sự hiểu biết, thông tuệ, con đường đi vào của linh hồn, chính là lỗ tai. Ta có thể hiểu đối với những dân tộc chưa có văn tự, lời nói, sự nghe và cái nhớ quan trọng đến chừng nào. Nhớ chính là sống, bởi v́ sống bao giờ cũng có nghĩa là sống cùng, nhớ có nghĩa là biết rằng ḿnh là một khâu, một mắc xích không thể tách rời trong ḍng chảy không bao giờ dứt nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác, đến vĩnh hằng.

Lại c̣n một điều này phải chú ư nữa : trong tất cả các nghi lễ, người cầu khấn bao giờ cũng là người đàn ông. Duy có trong lễ thổi tai, lễ truyền cái nhớ, tức sự sống cho sinh vật vừa sinh ra được chính thức thành người, người cầu khấn là người đàn bà.

Bà là người tuyên ngôn sự sống, bà nắm giữ bộ nhớ muôn đời của sinh tồn.

Vậy mà, các bạn nghĩ Tây Nguyên có lắm điều kỳ không, nhân vật giữ chức năng thiêng liêng duy tŕ cái nhớ cho giống ṇi đó, đồng thời cũng tác giả chế ra thứ thuốc quên kỳ diệu nhất của Tây Nguyên : rượu cần.

Bạn có muốn biết cách thức một người đàn bà Tây Nguyên chế biến rượu cần không ? Đấy là cả một giả kim thuật bí hiểm, hoặc cũng rất có thể là một tṛ phù thủy không hơn không kém.

Rượu cần được làm bằng những thứ thông thường nhất trong đời sống hàng ngày : gạo, ngô, sắn, hoặc một loại ngũ cốc nào đó, người ta bảo ngon nhất là rượu kê..., tất cả được nấu chín, giă nát ra, vê thành những viên nhỏ. Và trộn với men.

Tất nhiên toàn bộ vấn đề là ở men.

Men được chế bằng những thứ thảo mộc đặc biệt có khi là lá, có khi là rễ, cũng có khi là vỏ cây. Cây ǵ ? Bí mật. Chỉ có đàn bà biết, và chúng đều mọc trong rừng rất sâu nơi, như người ta nói, là chốn cư trú của các cô gái-rừng, nửa là người nửa là thần linh và chức năng chủ yếu là mê hoặc con người. Hoặc đúng hơn, dắt dẫn con người vào một thế giới khác cái thế giới quá ư nhàm chán hàng ngày này của chúng ta. Một số nhà khoa học có lần đă lén men theo dấu vết các bà đi lấy vật liệu làm men trong rừng. Họ thử hái một số lá, rễ, vỏ cây đó, và đă đem tra cứu, đối chiếu trong các từ điển bách khoa thực vật học uyên bác nhất. Họ nhận ra và xác định được tên khoa học của một số loại cây ấy. Phần lớn đó là những loại cây độc dược. Chỉ có điều khi họ đem về trồng trong các vườn của họ th́ chúng đều mất hết tác dụng, có trời hiểu được v́ sao ! Phải là hái tận trong rừng sâu, và tự tay các bà hái và pha chế kia. Đă bảo đây là các nữ phù thủy mà lại !

Bột gạo, ngô, kê hay sắn trộn với thứ men tinh quái đó được ủ trên những chiếc nong phủ kín lá chuối trong ba đêm liền. Trong ba đêm ấy, như một đoàn âm binh bí ẩn, men ngủ say. Đến ngày thứ ba, người đàn bà sẽ sàng mang nong ra đến cửa nhà, và đánh thức men dậy :

ru' togu',

togu' be'

dih pit tah

swaih yoh!

dậy đi, nào men

nào, dậy đi

ta ngủ say rồi

giờ dậy thôi nào !

 

Ân cần, nâng niu như người mẹ đánh thức đứa con ngoan ngoăn, hiền lành. Nhưng xin chớ vội nhầm. Bởi v́ ngay sau đó, đột ngột là những lời "giao nhiệm vụ" ghê gớm này cho đoàn quân men hóa ra là rất ma quái này của các bà :

co topai ne'

potah phun céh

éh phun topai

rokoi toh toại

bonai yeih eng !

này men hăy khiến

cho nôn tại ghè

cho ỉa tại chỗ

đàn ông cởi khố

đàn bà tụt váy !

 

Vẫn chưa vừa đâu. Bà lại tiếp tục khấn, bây giờ là khấn thay cho người đàn ông sẽ uống rượu do tay các bà chế ra :

o yang pap ko kau

o yang roi ko ka

kiang ko jorok sang arang

kiang ko dih bonai arang ! ...

lạy thần, xin thương tôi

lạy thần, xin ban cho tôi

được lạc vào nhà người ta

ăn nằm với vợ người ta !...

 

Trên khắp thế gian, có ở đâu người ta trao cho rượu những "chức năng" ghê gớm như vậy không ? Và lại chính là người đàn bà trao. Chỉ người đàn bà làm việc ấy. Đàn ông tuyệt đối không bao giờ đụng tay vào việc pha chế rượu cần. Đây là lĩnh vực riêng, thế giới riêng, bí quyết riêng, quyền lực riêng của các bà.

Trước khi đổ tất cả cái món thuốc độc kỳ lạ ấy vào ghè, người đàn bà c̣n bưng lấy chiếc nong mà quay tṛn, hoặc đi ṿng tṛn quanh nong, vừa đi vừa như múa, để làm cho chất say của bà càng khiến người ta chóng mặt quay cuồng hơn. Và rồi người ta xếp các ché rượu được ủ kín, các quả bom nổ chậm đáng sợ mà xiết bao hấp dẫn, say mê ấy dọc theo vách nhà hoặc cũng có khi treo chúng lên trên các xà dọc vách... cho đến khi chúng được trân trọng bê xuống, buộc vào cột nhà, mở lớp lá phủ miệng, đổ nước, cắm cần vào... Và cuộc la đà bất tận của các ông và cả các bà nữa bắt đầu...

Cho đến tận lúc ấy, người đàn bà phù thủy vẫn chưa chịu tha đâu. Bà c̣n tiếp tục khấn :

Co topai ne'

Momih phi momih

Coddang mang tongia

Wor toco hia

Wor tona asoi ko ung sang !

này hỡi men say

hang ngọt đắng cay nồng

nẻ cả lỗ tai

quên cả cháu khóc

quên cả nấu cơm cho chồng !

 

Tất nhiên là "quên cháu khóc" và "quên nấu cơm cho chồng" rồi. Đến khố váy cũng c̣n chẳng thiết nữa là ! Bây giờ đă là một thế giới khác, một vũ trụ khác, ở đó mọi cấm đoán, kiêng cữ, luật lệ thường ngày đều vô nghĩa, mọi sự đều được phép. Lẫn lộn tất cả. Đảo lộn tất cả. Xóa nḥa tất cả. Các thân h́nh xáp vào nhau... Và ở Tây Nguyên, trong các cuộc say này, có một nguyên tắc nhất thiết phải theo : mọi người phải cùng say, không c̣n ai được tỉnh, không c̣n nhân chứng tỉnh táo nào nữa. Tất cả cùng đi vào một thế giới khác với những quy luật khác : thế giới nơi ngự trị các quy luật của quên.

Một nhà dân tộc học có được nghe một người Gia- rai kể lại câu chuyện thú vị sau đây về rượu cần :

Một lần có anh chàng đi uống rượu ở nhà bạn về, say mèm, một ḿnh trong đêm. " Sợ ǵ chứ ? Gặp một con voi hay một con tê giác, ta sẽ đánh tuốt ! " Anh hét tướng lên giữa rừng. Đă say mà lại, anh ta chẳng c̣n biết sợ ǵ cả. Một con voi rừng xuất hiện : " Ngươi vừa nói ǵ đấy ? Ngươi muốn đánh ta à ? Th́ đánh ? " - " Ôi không, thưa ông, tôi đâu dám. Tôi chỉ say rượu thôi mà ". - " Say ǵ ? " - " Thưa ông, rượu cần ạ ? " - " Ồ, ta muốn nếm thử xem ! " - " Xin mời ông đến nhà tôi ngày rằm, tôi sẽ thết ông một bữa ".

Về nhà, anh ta bảo vợ làm thật nhiều ghè rượu, đủ loại lớn nhỏ, chật cả nhà. Rằm, voi đến. " Nó đến đấy, sắp sẵn rượu ra đi ". Anh ta hút rượu ra các chậu to tướng. " Rượu tôi đă thưa với ông đây, xin mời ! ". Voi hút rượu, hết sạch các chậu. Say mèm, nó rống lên : " Một trăm người, một ngàn người đến đây, ta cũng lấy ngà đâm chết hết ! ". Và nó húc đổ tất cả cây cối chung quanh. Sáng hôm sau, mọi việc qua đi. Người đàn ông hỏi voi : " Hôm qua ông nói những ǵ vậy ? ". " A, nhóc con, người có lư. Ta sẽ không ăn thịt ngươi đâu cả con cháu ḍng dơi ngươi nữa. Ta chẳng thèm để ư đến lời nói của một người Gia-rai say. V́ bây giờ ta đă biết rồi. Ta đă uống rượu của người rồi mà ? "...

Bạn có để ư điều này trong lời khấn cuối cùng đă nhắc đến trên kia không : rượu cần ngọt đắng cay nồng khiến người ta say đến "nẻ cả lỗ tai". Lỗ tai, như đă nói, là con đường đi vào của linh hồn, là cửa ngơ của cái nhớ, là cơ quan của sự thông tuệ. Người khai mở con đường ấy khi đứa trẻ vừa lọt ḷng mẹ để nó được trở thành người, người đem đến cái nhớ, điều kiện thiết yếu của sự sống, bằng lễ thổi tai, là người đàn bà. Và bây giờ, người làm cho cái cơ quan thiêng liêng ấy đến phải "nẻ" ra, người dắt người ta vào cơi quên đến tận sát ranh giới của tuyệt đối, khi con người sắp đánh mất cả bản nguyên của ḿnh, cũng lại chính là đàn bà. Đàn bà Tây Nguyên là vậy đấy, bây giờ th́ bạn đă rơ chưa ?

Một đôi người có hiểu biết sâu về Tây Nguyên và thật ṭ ṃ cố ra sức moi t́m bí quyết của rượu cần bảo rằng trong những thành phần độc dược rất đa dạng và bí hiểm các vị nữ phù thủy ở đây dùng trong quy tŕnh pha chế món men ghê gớm của họ, có một thứ không thể thiếu : củ riềng. Thậm chí người ta bảo chính củ riềng là tác nhân chính của sự say đến chẳng c̣n biết trời đất ǵ nữa như ta đă thấy.

Lại một điều lạ nữa : gừng vàriềng, hai giống thật gần nhau, như là hai biến thể gần gũi đến có thể nhầm làm một của cùng một họ hàng thảo mộc. Vậy mà gừng th́ mở đường cho sự nhớ (trong lễ thổi tai), c̣n người anh em của nó là riềng lại là vị thuốc tuyệt diệu dắt người ta vào cơi quên mịt mùng !

H́nh như trong cái tṛ chơi kỳ diệu này của con người Tây Nguyên đối với sự sống có một triết lư nào đó thật uyên thâm. Nhớ và quên, ngẫm mà xem, phải chăng nói cho cùng đó là hai lẽ sinh tồn tuy hai mà một, hai mặt chủ yếu không thể tách rời của công cuộc làm người ở đời. Không biết nhớ th́ hẳn nhiên không thể là con người rồi. Song sống mà không biết quên, không có những lúc biết quên đi đến mức "nẻ cả lỗ tai" th́ cũng chẳng thể nào sống nổi trên cơi nhân gian biết mấy khổ đau, quá ư phức tạp và nhiêu khê này. Cuộc đời này, phải chăng lắm lúc đáng quên biết bao nhiêu, quên phứt đi cho rảnh, cho rồi, mà ngẫm cho cùng cũng lại đáng sống để mà nhớ lấy biết bao nhiêu.

Nguyên Ngọc

Trích tập bút kư : Tản mạn nhớ và quên