BuoiChieuTruocNgayHoiNguyenThu

 Nam Dao giới thiệu :

...một truyện vừa dàn trải qua những thăng trầm của lịch sử, với vết chém còn rỉ máu trong tâm thế những con người cố ngoi lên thân phận để thực sự làm người. Tác phẩm khiến người đọc liên tưởng đến văn chương Nhân Văn-Giai Phẩm, nhất là Phùng Cung, và thật ngạc nhiên, viết bởi một nhà khoa học chắc có chút nợ văn chương .

 

 

Buổi chiều trước ngày hội

          mừng chiến thắng

                                                                          

                        tác giả: Nguyễn Thu

 

Nỗi sợ hãi nẩy sinh vào buổi chiều trước ngày hội cả nước kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên khi bà hai Sen, một phụ nữ bị chồng ruồng bỏ sống nhẫn nhục cay đắng trong căn nhà lá ba gian tường đắp đất trộn trấu của hai mẹ con bà, chợt nhận ra chân tường nhà mình bị đục khoét lỗ mỗ như thể có một đàn chuột cống hung dữ từ ngoài đồng tấn công vào.

Căn nhà của bà gồm ba gian, gian giữa đặt bàn thờ, gian bên trái làm bếp phía trong ngổn ngang ba ông đồ rau cùng các lọ tương dưa mắm muối  phía ngoài dành chỗ hai mẹ con ngồi xổm ăn cơm quanh cái mâm gỗ, còn gian bên phải kê bộ phản gỗ nghiến của hồi môn duy nhất còn sót lại của ông ngoại, mà cái Thơcon gái bà khi còn nhỏ rất thích nằm ngửa trên đó nghe mẹ hát ru ngủ.

Bà Sen có thói quen vệ sinh nhà cửa trước ngày lễ hội mừng chiến thắng, thoạt đầu khi quét chân tường phía sau bàn thờ bà thấy có một lỗ thủng bằng nắm tay và nhủ rằng sẽ nói chuyện này với cái Thơ, sau đó khi tiếp tục dọn dẹp phần dưới tấm phảnnơi nhồi nhét một cái rương gỗ đầy quần áo bên cạnh cái khạp sành lương thực lổn nhổn những gói gạo ngô khoai sắn bà lại phát hiện thêm những lỗ khoét lỗ mỗ nơi chân tường của hai gian hai đầu hồi.

Ngồi nghỉ mệt trên bộ ngựa bà hai Sen lại chợt nhớ về bố mình, người mà bà kế thừa ngoài hai tấm phản gỗ còn phải kể đến cả một ý thức về truyền thống quyền lực của Đảng và Chính Quyền tại cái xã Nẽo đang rình rang chuẩn bị lễ hội mừng chiến thắng này. Nói như thế vì ông Thịnh bố của bà đã từng tham gia chiến dịch Điện Biên, đã vinh quang trở về làng sau ngày miền Bắc được quân dân ta tiếp quản với một cái huân hương kháng chiến hạng ba lấp lánh trên ngực và một nỗi buồn tê tái vì cánh tay trái của mình đã bị cưa bỏ lại nơi chiến trường. Vì là một đảng viên được kết nạp ngay tại chiến trường nên sau khi phục viên về làng ông tham gia  sinh hoạt trong chi bộ và được cử giữ trọng trách trong chính quyền của xã Nẽo, và trên cương vị như vậy ông đã đại diện cho cả xã cùng phái đoàn huyện ủy thực hiện một chuyến tham quan thủ đô với một niềm vinh dự cực kỳ cao cả: vào ngày 10 tháng 10 năm 1956 phái đoàn huyện được trung ương mời về Hà Nội tham dự lễ hội kỷ niệm ngày giải phóng thủ đô lần thứ nhất tại vườn hoa phủ Chủ Tịch.

Tại buổi mít-tinh toàn xã tổ chức vào dịp tất niên năm đó khi được mời kể lại chuyến công tác quan trọng nhớ đời này ông Thịnh đã nhắc đi nhắc lại rằng do đoàn huyện nhà được xếp xa tít mù tắt sát tận chân tường rào phủ Chủ Tịch nên ông đã không nhìn thấy rõ bộ mặt của Bác Hồ vĩ đại để tả lại một cách chi tiết cho bà con thỏa nỗi nhớ mong vị lãnh tụ kính yêu, tuy nhiên ông xác nhận đã nhìn thấy từ xa xa một chùm râu lơ phơ bay trên bậc cửu cấp cao ngất của dinh chủ tịch .

Bà Sen không kế thừa cái nhà lá ba gian mà bà đang  sống cùng con gái từ người bố danh tiếng của mình, vào năm 1976 sau khi bà có quyết định của tỉnh ủy điều về giữ chức phó bí thư chi bộ kiêm bí thư đoàn thanh niên cộng sản HCM của xã, thì chính quyền địa phương đã phân cho bà căn nhà này theo chỉ tiêu dành cho cán bộ lãnh đạo xã. Không phải đương nhiên mà bà Sen được hưởng ngay những bổng lộc lớn lao như vậy từ Đảng và Nhà Nuớc, để có một sự nghiệp chính trị vẻ vang có một không hai trong giới phụ nữ toàn huyện X như thế bà đã phải hy sinh tuổi thanh xuân và tưởng chừng như ngay cả sinh mạng của mình để đánh đổi lấy nó.

Vào năm 1965 lý lịch và tiền đồ của cô thôn nữ Mận đang sáng như trăng rầm bỗng nhiên tối đen như mõm chó, số là ông Thịnh sau chuyến đi lịch sử về thủ đô vào năm 1956 và được tận mắt nhìn thấy chùm râu Bác Hồ thì ông được huyện ủy cất nhắc ngay vào chức phó chủ tịch ủy ban nhân dân xã Nẽo chuyên trách khâu an ninh quốc phòng.

Sự nghiệp chính trị của ông Thịnh đang bốc lên như diều gặp gió vợ ông mở mày mở mặt với họ hàng xóm làng,  hai ông bà đã tìm được chỗ môn đăng hậu đối cho cô con gái rượu và đã nhận trầu cau của nhà trai, cô thôn nữ Mận chỉ chờ hai bên cha mẹ định ngày cưới hỏi tương lai đời cô chắc như ván sắp đóng thuyền. Đùng một cái phong trào cải cách ruộng đất như một trận cuồng phong bất chợt kéo đến bầu trời êm ả của xã Nẽo và reo rắc sấm sét cách mạng lên đầu những người dân hiền lành nơi đây. Ông Nguyễn văn Thịnh, người chiến sĩ từng được tưởng thưởng huân chuơng kháng chiến hạng ba của tiểu đoàn 3xx anh hùng từng  bỏ lại cánh tay trái nát bét trên chiến trường Điện Biên bị "giai cấp vô sản" giáng cho những đòn thù chí mạng. Phó chủ tịch Thịnh bị nêu đích danh là một tên địa chủ len lỏi vào hàng ngũ cách mạng, sau khi bị lôi ra đấu tố đánh đập, ông bị thu hồi đảng tịch và tước hết các chức vụ chính quyền. Sau trận đòn thù giai cấp này ông đại úy phục viên Nguyễn văn Thịnh đã ốm đau  tức tởi chết vào năm 1960, mẹ cô vì âu sầu chết bệnh một năm sau đó. Bên nhà trai đã xin hồi hôn từ lâu rồi, và mọi cơ duyên lấy chồng của cô Mận tại xã Nẽo coi như vô vọng. Quả thật tương lai một cô thôn nữ con nhà địa chủ bị đấu tố vào lúc đó thì tối đen như mõm con chó.

Thế nhưng chính cuộc đổ bộ ồ ạt của quân đội Mỹ vào miền Nam Việt-Nam vào năm 1965 đã cứu cô Mận ra khỏi hoàn cảnh bế tắc bi đát nói trên, khi có lệnh kêu gọi thanh niên xã Nẽo xung phong ra tiền tuyến  cô Mận đã tính toán kỹ lưỡng khi đem cái "sinh mệnh thể xác" bèo bọt của mình ra đánh một canh bạc cá cược mà cô nghĩ rằng chỉ có nó mới có hy vọng đổi đen thành trắng cho cái "sinh mệnh chính trị" hẩm hiu của cô mà thôi, và thế là cô quyết định đăng ký thanh niên xung phong vào chiến trường B phục vụ.

Trong tám năm liền cô đã cùng đồng đội sống chui nhủi trên núi rừng Trường Sơn ma thiêng nước độc, ăn cơm hẩm rau rừng và ngày đêm túc trực sẵn sàng  lao dưới bom đạn máy bay Mỹ xông lên đường mòn san lấp hố bom san hay tăng bo tải đạn: như một đàn kiến tha mồi bất kể sống chết tổ thanh niên xung phong của cô luôn luôn thực hiện xuất sắc mọi nhiệm vụ hiểm nguy được Đảng và Đoàn giao phó cho trên khúc đường mòn HCM, để làm sao cho các đoàn xe nườm nượp vận tải vũ khí vào chiến trường miền Nam không khi nào bị gián đoạn hay ách tắc...  

Rồi sau cùng cái mà cô thôn nữ Mận hằng ước mơ khi xung phong ra tiền tuyến cũng đã tới. Hôm đó vào đúng ngay ngày sinh nhật thứ hai mươi của cô những trận bom B-52 rải thảm ác liệt gần ngã ba Đồng Lộc đã thiêu hủy cả đoàn công-voa và tiêu diệt gần hết cái đại đội của cô, bên cạnh những hố bom khét lẹt mùi diêm sinh chen lẫn cây rừng đổ ngổn ngang cô và vài đồng đội sống sót được vinh dự kết nạp vào Đảng Cộng Sản sau khi được bới ra từ một đống đất đá cát   còn nghi ngút khói...

Đúng một năm sau khi quân dân ta đại thắng chiến dịch mùa xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước cô thanh niên xung phong Mận người thôn thượng xã Nẽo đang trên đường phục viên về làng, lòng cô đảng viên Mận phơi phới những chiến tích rực rỡ cũng như ngổn ngang bao toan tính về một tiền đồ chính trị sáng lạng: thắng cược sau  canh bạc vào sinh ra tử kéo dài hơn tám năm giờ đây cô chắc mẩm mình sẽ rửa sạch được mối oán hận u buồn cho vong hồn bố mẹ dưới suối vàng, sẽ nối lại cái sự nghiệp chính trị hụt hẫng của người bố để tiếp tục làm rạng rỡ tên tuổi dòng họ Nguyễn-Văn anh hùng tại cái xã Nẽo nghèo khổ này, trong từng bước chân tim cô đang rộn rã hòa nhịp với cái sổ "đảng tịch" đỏ chói nằm trong túi bên trái cái áo bộ đội gắn huân chương màu xanh lá cây .

Cô đảng viên Mận đã suy tính không sai sót và thời cơ cũng đã không lỗi hẹn với cô, Nghị quyết Đại Hội trung ương IV ra đời trong không khí đất nước  thống nhất Nam Bắc trong khí thế toàn Đảng toàn dân  bắt tay vào công cuộc xây dựng ngay một nền công nghiệp hiện đại cho nước Việt-Nam cộng hòa xã hội chủ nghĩa (mà đồng chí Tổng Bí Thư Lê Duẩn quả quyết là nó sẽ hiện đại không thua gì công nghiệp các nước Âu- Mỹ trong vòng 15-20  năm tới!).

Để tiến hành thực thi nghị quyết Đại Hội Đảng ban chấp hành trung ương bắt đầu ngay một đợt bổ xung và trẻ hóa cán bộ từ trung ương cho đến các địa phương nông thôn xa xôi, trong đợt thực thi chủ trương của trung ương này cô thanh niên xung phong phục viên Nguyễn thị Mận với tư cách là thành phần nông dân được kết nạp vào Đảng ngay trên chiến trường đã được chi bộ xã Nẽo bổ sung ngay vào hàng ngũ cán bộ lãnh đạo xã nhà, cô "trúng" ngay chức phó bí thư chi bộ về mặt chính quyền được cô được chi bộ xã tín nhiệm "bầu" vào chức bí thư đoàn thanh cách mạng HCM kiêm tổ trưởng chi hội phụ nữ toàn xã. Kể từ giờ phút đó ngọn gió xã hội chủ nghĩa lãnh đạo bởi liên minh công nông đã đưa  sự nghiệp chính trị của cô phó bí thư Mận vút lên cao  như con diều gặp gió, và như thế là cô bắt đầu sung sướng bơi lội trong cái thang giá trị "quyền cao-bổng lộc nhiều" của hệ thống quan lại cộng sản: ngoài khẩu phần cơ bản hai mươi cân gạo mỗi tháng cộng thêm nhu yếu phẩm như thịt cá mắm muối cô còn được phân thêm các khẩu phần chè thuốc lá thuốc đánh răng vải vóc quần áo với tiêu chuẩn tem phiếu của cán bộ lãnh đạo xã (mà không dùng hết thì cô sẽ nhượng lại cho "con phe" trên chợ huyện).

Tóm lại giờ đây cô đã ý thức rõ rệt về cái truyền thống phân cấp "quyền lực-quyền lợi" giữa Đảng nắm quyền bên trên và  người dân bị trị bên dưới, với tư cách đảng viên cô sẽ hy sinh ngay cả xương máu nếu cần để bảo vệ lý tưởng cộng sản vì nó gắn liền với quyền lợi thiết thân của chính bản thân cô. Bây giờ là thời bình nên cô ra sức thực hiện chủ trương của Đảng  là "cơm no-áo ấm" cho toàn dân xã Nẽo, vì thế cho nên cô chỉ cần lãnh đạo làm sao để dân trong xã không ai chết đói (nhưng có khả năng đói cho đến chết!), trong khi đó Đảng có nhiệm vụ phải lo cho cô đầy đủ cái ăn-cái mặc để cô tập trung sức khỏe và trí tuệ phục vụ nhân dân.

Về mặt thực tế cô nắm vững nguyên tắc Đảng chỉ lãnh đạo còn Nhân Dân sẽ làm chủ mọi của cải vật chất mà xã hội sản xuất ra, thế cho nên cô Mận cũng ý thức được rằng muốn đạt được một chỉ tiêu nào đó (thí dụ như một căn hộ, một cái xe đạp...vừa được huyện  phân về xã) thì các đảng viên trong chi bộ xã Nẽo, cũng như trong bất cứ cơ quan thuộc hệ thống Đảng hay nhà nước nào kể từ cấp trung ương cho đến các địa phưong, đềuphải đấu đá nhau cật lực thì may ra mới dật được nó về tay mình.

Chẳng hạn các đảng viên trong cái Ủy Ban nhân dân xã Nẽo tép riu nàysẽ biến ngay nơi đây thành một đấu trường khi nhận được một thông báo của huyện báo tin về một chỉ tiêu nào đó sẽ được phân phối về xã. Hôm qua họ vừa đồng đồng-chí chí với nhau thế mà không hiểu phép lạ nào đã biến ngay họ thành một bọn chuyên "dành giật-chạy chọt-kiện cáo-đấu đá" nhau không thương tiếc...cho đến khi cái chỉ tiêu về căn hộ, cái xe đạp hay vài cân thịt cá kia v.v...lọt vào tay kẻ nào ranh ma nhất trong bọn họ thì mới thôi.

Trong các loại chỉ tiêu phân phối cho cán bộ công tác tại thành phố loại khó và đắt giá nhất là một căn hộ, thứ nhì là xe cộ (từ xe ôtô đến xe đạp), và thứ ba là các xuất đi công cán nước ngoài (đây là những chỉ tiêu phải ra sức đấu đá chạy chọt cả đời may ra mới giật được), nhưng các cán bộ đảng viên sống tại nông thôn theo truyền thống thường có yêu cầu vật chất có phần đơn giản hơn các đồng chí thành thị, thế cho nên cô phó bí thư Mận chỉ cần được phân cho một lô đất hẹp và ít tre nứa để cô tự dựng lên một căn nhà là cô đã thỏa mãn lắm rồi. Tuy nói vậy nhưng đây cũng không phải là chuyện dễ dàng không cần đấu đá mà có thể đạt được tại xã Nẽo.

Do nhà và đất của bố cô Mận (tức tên địa chủ Thịnh) đã bị chính quyền xã Nẽo tịch thu từ trước khi cô đi thanh niên xung phong, nên trong danh sách đề nghị lên huyện ủy kỳ này cô phó bí thư Mận được xếp vào loại "ưu tiên giải quyết chỗ ở", do đó không lâu sau cô đã nhận được quyết định của huyện phân cho cô cái căn nhà ba gian mái lá tường đấtmà hai mẹ con cô đang ở hiện nay. Vào lúc đó những lời bàn ra tán vào ngợi khen cùng ghen ghét về sự may mắn của cô phó bí thư không phải là không có nhưng dư luận chung của các đồng chí trong chi bộ xã thì không có ai thắc mắc hay kiện cáo gì, rồi đến cuối năm đó khi Ủy Ban nhân dân huyệnX lại dội xuốngthêm một mộtchỉ thị phân phối cho đồng chí Mận "hai mươi bao xi-măng, năm nghìn viên gạch và một vạn ngói tây" để nâng cấp căn nhà đang ở thì những câu nói đố kỵ phân bua thua thiệt đã nổi lên như ong trong chi bộ xã, trong khi nhân dân cả hai thôn thượng và hạ thì cứ xít xoa bàn tán như ngô rang rằng "ai bảo phúc bất trùng lai nào ?"

Khi nghe bài thơ phổ nhạc "Trường Sơn đông-Trường Sơn tây" của nhà thơ quân đội Phạm tiến Duật nheo nhéo suốt ngày trên cái loa rè treo trước trụ sở Ủy Ban nhân dân, bà con xã Nẽo đã sốt ruột đánh một câu "rõ thật khéo lạc quan, lão nhà thơ kia thử bớt chút thì giờ về xã ta ngó thử xem cái Mận giờ đây ra sao ?". Ý bà con trong xã muốn ám chỉ rằng nếu được tận mắt thấy dung nhan và cuộc sống của cô phó bí thư Mận bây giờ thì chắc nhà thơ quân đội sẽ hiểu rõ thực tế đời sống nông thôn hơn, vì rằng theo họ cô thôn nữ Mận khi lên đường ra tiền tuyến vào tuổi mười tám đôi mươi dòm thật ưa mắt với cặp má hồng mơm mởn bộ  ngực căng phồng...thế mà sau gần chục năm trời sống trong rừng núi ma thiêng nước độc khi phục viên trở về xã vào cái tuổi mới hai tám xuân xanh thì cô đã biến thành một người đàn bà luống thì thân hình quoắt queo da mặt tái xám bệnh tật quanh năm, thỉnh thoảng những cơn sốt rét ác tính lại bộc phát làm cô rên la đơn độc trên tấm phản gỗ nghiến lạnh lẽo, và họ nghĩ rằng trong những lúc đó như bất cứ người đàn bà cô đơn nào trên thế gian này cô Mận cần có một tấm chồng hay một đứa con đỡ đần mình trong lúc tối lửa tắt đèn.

Một người đàn ông thôn hạ luống tuổi dáng người thấp bé thô ráp cặp mắt tinh ranh, lão tuy đã hơn bốn mươi nhưng khuôn mặt còn phẳng phiu chưa nhầu nát, hiện kiếm ăn bằng nghề đánh dậm-đặt đơm bắt con tôm cái tép  ven theo nhánh con sông Bình.

Về mặt địa lý Xã Nẽo (của huyện X tỉnh Y) gồm hai thôn thượng và hạ chạy dọc theo bờ bên phải của nhánh sông này, từ bao đời nay  dân cư bên  thôn hạ theo đạo Thiên Chúa (gọi tắt là dân xóm Đạo)  còn bên  thôn thượng  theo đạo Phật (gọi tắt là đi Đời) nên hai bên sống riêng biệt. Lão Sen đánh dậm  là người thôn hạ theo đạo gốc đã ba đời, trong tập hồ sơ lý lịch lưu trữ tại công an huyện lão được ghi thuộc thành phần nông dân, ngoài đảng, không vợ con hiện đang sinh sống trong một căn lều giáp ranh hai thôn, và như thế có thể sắp lão Sen vào loại người dân "không có vấn đề".

Tình yêu giữa lão Sen và cô Mận đã nẩy nở sau khi cô phó bí thư được phân mảnh vườn và căn nhà lá gần ranh giới hai thôn, cách căn lều của lão Sen chừng vài trăm bước chân. Nghĩ cho cùng thì cũng là một mối tình trong sáng và lãng mạn giữa một bên trai tân và bên kia là gái chưa chồng, nghĩa là cả hai đều thuộc loại trai gái "phòng không" như những cái miệng ăn không ngồi rồi trong xã thường gọi.

Xã hội nước ta vừa trải qua ba mươi năm chiến tranh (1945-1975) thì làng xã nào mà chẳng có cảnh trai thiếu-gái thừa, vì thế cho nên nhân dân xã Nẽo của thời đại xã hội chủ nghĩa đã tung hê đi từ lâu rồi cái hủ tục phong kiến "đũa mốc không chòi được mâm xôi", và dư luận nói chung trong xã lập luận rằng cái mối tình so le giữa cô Mận và lão Sen đã nẩy nở một cách tự nhiên không có gì là trái "duy vật biện chứng", và nói cho cùng nó cũng chỉ là một biểu hiện nhân văn mang tính thực dụng trong đời sống nơi thôn dã của một đất nước thời hậu chiến mà thôi. Theo những lời đồn đại nơi quán cóc từ  thôn thượng sang thôn hạ thì chàng và nàng lúc đầu chỉ có quan hệ mang tính thuần túy kinh tế. Lão Sen theo lời dặn trước của cô phó bí thư mỗi khi đánh dậm hay đặt đơm được mớ tép tươi hay mẻ trạch béo đều đem sang nhà cô chào hàng, dần dà do hai bên trai tài-gái sắc chỉ sống cách nhau có hơn trăm bước nên cái chuyện lửa gần rơm lâu ngày phải bén không thể nào tránh khỏi.

Thế là vào một sáng tinh mơ nào đó của mùa thu năm 1977 khi sương mù còn lảng bảng trên mặt nước phẳng lặng của nhánh sông Bình từ ngàn đời nay ôm ấp xã Nẽo nên thơ,  vào lúcmànhững bác nông dân chăm chỉ đã vác cầy bừa ra đồng thì cũng đúng là lúc loáng thoáng một bóng đàn ông lén lút từ nhà cô Mận chui ra rảo bước thoắn thoắt về cái lều chài cuối thôn hạ. Sau đó ít tháng người ta thấy lão Sen đàng hoàng sinh hoạt trong căn nhà lá của cô phó bí thư Mận mà không cần giải thích với bất cứ ai về sự hiện diện bất thường này của mình. Người dễ tính trong họ đã chép miệng bàn thầm với nhau rằng thôi thì nếu hai đứachót thương yêu nhau thì họ hàng hai bên cũng nên ghép đôi lại để chúng nó có chỗ nương tựa nhau những lúc tối lửa tắt đèn, nếu được như thếcũng do phúc phận ông bà để lại cho chúng.

Thế là bô lão hai bên nhà trai nhà gáixung vào trận, sau khi bàn bạc kỹ lưỡng các cụ thống nhất quan điểm làm saocố tránh đừng để cho cái bụng  chình ình ra mà xấu mặt cả hai đàng, còn về cái truyền thống trai đạo thôn hạ khó bề cưới vợ thôn thượng mà các cụ nhà trai nêu lên thì các cụ bên  nhà gái hùng hồn cãi rằng nó đã lỗi thời rồi trong thời đại xã hội chủ nghĩa nhắc lại làm gì cho buồn.

Sau cùng hai bên nhất trí mong chóng tổ chức đám cưới tác thành cho đôi lứa theo đúng chủ trương kết hợp giữa truyền thống và hiện đại của Đảng và nhà nước, tuy vậy các cụ thêm rằng cũng không thể xuề xòa quá được vì đây là hôn lễ của cô phó bí thư xã cơ mà, điều này có nghĩa là cô Mận và lão Sen tuy không bị làng phạt vạ như trong thời phong kiến nhưng sẽ phải tổ chức hai lễ cưới, buổi liên hoan chính thức tổ chức vào buổi sáng một cách  đơn giản  tại Ủy Ban Nhân Dân Xã (cơ quan của cô phó bí thư)  trong đókhách khứa chỉ được mời uống trà, sơi thuốc và nhâm nhi cái kẹo mà thôi, trong khi đó  họ hàng hai bên cứ tiến hành giết lợn mổ gà và thịt chó, sắp sẵn cỗ bàn mâm trên chiếu dưới tại đình làng để đến xế trưa các cụ sẽ mời đầy đủ các vi lãnh đạo huyện cùng đầy đủ chức sắc hai thôn và bô lão hai họ sang dự tiệc mặn, sau khi thu dọn cỗ bàn từ đình về bà con lối xóm cùng đám con cháu trong nhà sẽ được mời dự tiệc mặn tại nhà.

                        X

 

Sau đám cưới vợ chồng nhà Sen bắt đầu một cuộc sống lứa đôi đàng hoàng hợp pháp tại nhà cô Mận, nhưng  không ai thắc mắc về chuyện họ còn chưa "đăng ký kết hôn" vì mọi người đều nghĩ rằng cái Mận là phó bí thư xã nên hai vợ chồng nó muốn đăng ký kết hôn lúc nào mà chẳng được cần gì phải vội! 

Thế nhưng cũng như bất cứ nơi đâu trên cái đất nước xã hội chủ nghĩa này thực tế đời thường tại cái xã Nẽo hẻo lánh này đâu có đơn giản mọi chuyện đều "tưởng như vậy mà không phải vậy", trong xã bắt đầu có lời xì xào nghe đâu đơn xin đăng ký kết của hai đứa chúng nó vấn đề, đã bảo mà một đám cưới "vợ có chức quyền trong Đảng-chồng thường dân ngoài Đảng" về mặt "tổ chức"đâu có thể suôn sẻ trơn tru như vậy được. Số là sau khi cặp Sen-Mận điền tên tuổi vào mẫu "đăng ký kết hôn" in sẵn thì chính quyền xã đã duyệt ngay giấy đó rồi gửi lên văn phòng ủy ban nhân dân huyện xin đóng dấu. Tại đây   "vấn đề" trở nên phức tạp vì theo qui định về an ninh trong nội bộ Đảng thì đơn đăng ký kết hôn đồng chí đảng viên Mận phải được Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng xem xét và cho quyết định vì đồng chí ấy đang nắm giữ những chức vụ lảnh đạo trong tổ chức đảng và chính quyền tại xã Nẽo.

Điều ấy có nghĩa làchi bộ xã Nẽo phải báo cáo theo hệ thống phân cấp dọc của các tổ chức Đảng lên huyện X rồi từ huyện X lên tỉnh Y và tỉnh Y lên Ban Tổ Chức trung ương Đảng về nguyện vọng của phó bí thư xã Nguyễn thị Mận xin kết hôn với ông Sen, sau đó tất cả các cơ quan nói trên phải chờ Ban tổ chức trung ương Đảng thẩm tra lại lý lịch của "đối tượng Sen" và ra chỉ thị "cho phép đồng chí Mận lấy chồng hay không".

Chỉ thị nói trên sẽ lại theo hệ thống dọc "dội ngược" từ  trung ương xuống tỉnh Y, huyện X và sau cùng đến xã Nẽo, và chỉ khi đó chi bộ và Ủy Ban nhân dân xã Nẽo mới dựa theo chỉ thị của Ban Tổ Chức T.W. Đảng để triệu tập đồng chí Mận và phổ biến cho đồng chí ấy biết có được quyền lấy ông Sen hay không.

Bây giờ hai vợ chồng nhà Sen như ván đã đóng thành thuyền khó bề gỡ ra được nên chi bộ xã Nẽo rất lúng túng, họ chỉ còn cách vin vào cớ chiến tranh vừa chấm dứt đất nước chuyển sang giai đoạn hòa bình nên chi bộ có thể châm chước không kỷ luật ngay phó bí thư Mận như trong thời chiến tranh phải luôn luôn cảnh giác địch phá hoại và như thế nên họ có thể an tâm ngồi chờ chỉ thị trung ương dội xuống từ huyện ủy, trong khi ấy theo dư luận chung của xã thì bà con chẳng ai thấy vấn đề phó bí thư Mận đã ăn cơm trước kẻng với lão Sen người thôn hạ (tiếng lóng có nghĩa là ngủ với người yêu trước khi chính thức kết hôn), hay đã tạo ra bất cứ vi phạm nguyên tắc gì cho cuộc sống thường ngày tại đây. Vả lại họ cho rằng họ hàng hai bên trai gái đã đồng ý đứng ra tổ chức một đám cưới rất linh đình và tốn kém để tạ tội với các cán bộ lãnh đạo cấp huyện và xã rồi cơ mà và như thế còn chưa coi là ổn rồi sao?

Nhưng trong chi bộ xã thì không phải ai cũng nghĩ như vậy. Một số đồng chí lão thành đã nghiêm túc nêu lên thắc mắc sau: "Đồng chí Mận phải đợi Ban tổ chức trung ương tiến hành thủ tục rà soát lý lịch của ông Sen (một phần tử công giáo-ngoài đảng !) xong suôi rồi thì mới rõ là có được phép đăng ký kết hôn với nó hay không,  bây giờ vì  phó bí thư Mận đã tổ chức hôn lễ trước khi có chỉ thị của Ban Tổ Chức trung ương nên rõ ràng là đã vi phạm nguyên tắcbảo vệ "an ninh nội bộ" trong Đảng, thế cho nên cần triệu tập họp đại hội đảng viên để rút kinh nghiệm.

Việc thẩm tra lại lý lịchlão Sen của Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng còn mất nhiều ngày tháng vì cơ quan có quyền lực vô biên của Đảng này sẽ không chỉ bí mật điều tra kỹ càng lý lịch bản thân lão Sen. Nếu thấy cần thiết họ còn phải thẩm tra lý lịch của bố mẹ anh em cũng như bạn bè thân thiết của lão ta dù cho những phần tử liên can này hiện đang sống tại bất cứ nơi đâu trên trái đất này. Trong thời chiến nhiều cuộc tình duyên "trong Đảng-ngoài Đảng" đã phải tan vỡ vì những cặp uyên ương nào dám liều lĩnh đề xuất đăng ký kết hôn thì sau cùng đã phải sống dở chết dở thôi nhau vì gia đình cả hai bên không chịu nổi cái cực hình điều tra lý lịch kéo dài đến nhiều năm tháng nên thường hủy bỏ hôn ước. Tuy nhiên kể từ khi hòa bình được lập lại trên cả nước nhiều trường hợp bội hôn của cán bộ cao cấp ra tập kết tại miền Bắc đã được công khai công nhận, khi các đồng chí này trở về đoàn tụ với gia đình tại miền Nam thì bà "vợ cả" của ông này mới té ngửa ra là chồng mình đã đăng ký kết hôn (hoàn toàn bất hợp pháp!) với một "bà bé" ngoài nớ trong khi xa nhà, thế cho nên Ban tổ chức trung ương Đảng dựa trên chủ trương ưu ái "miền Nam đi trước về sau" đã nhẹ tay không thi hành kỷ luật nhiều trường hợp song hôn bất hợp pháp kiểu éo le như nói trên, chi bộ xã Nẽo (trong khi chờ đợi sự thẩm tra của Ban Tổ Chức Trung Ương) cũng đã nhận được chỉ thị ngầm về trường hợp của cô phó bí thư Mận nên đã thông cảm  cho phép hai vợ chồng nhà Sen (tuy rằng chưa xong đăng ký kết hôn) vẫn được phép sống chung.

Phó bí thư  Mận tuy rằng đã ngăn chặn được âm mưu định lôi cô ra phê bình tại chi bộ xã, nhưng trên thực tế không phải vì thế mà sự nghiệp chính trị của cô không bị sứt mẻ đôi chút. Chi bộ đã rút tên cô ra khỏi danh sách các đồng chí được đề cử vào chức chủ tịch xã trong khóa tới với lý do là cô phó bí thư đang trong giai đoạn chờ đợi trung ương làm sáng tỏ vấn đề lý lịch của lão Sen.

Trong khi chờ đợi bà hai Sen vẫn tiến hành một cuộc sống lứa đôi bình thường về mặt sinh lý đúng theo những quy luật nghìn đời của thiên nhiên, và vì thế ông trời như có mắt đã đền bù cho những thiệt thòi của bà trong việc mưu tìm kiếm "hạnh phúc-hôn nhân" bằng cách ra lệnh cho bà mụ nhanh tay sớm nặn cho bà Sen một mụn con, nên chỉ chưa đầy đầy năm tháng sau khi cô phó bí thơ "tạm" lấy chồng thì cái Thơ đã từ bụng mẹ chui ra mang lại cho bà Sen một niềm hạnh phúc nhất trần   gian.

Rồi hai vợ chồng nhà Sen đã phải đợi đến khi cái Thơ vừa tròn ba tuổi biết chạy lon ton khắp nhà, lúc thấm mệt tìm đến tấm phản gỗ nghiến nằm lăn ra bập bẹ hát rồi thả hồn bay bổng trong những giấc mơ thần tiên, thì cũng chính vào lúc đó Ban Tổ Chưc trung ương mới thẩm tra xong lý lịch của lão Sen, và kể từ giờ phút đó một ngọn gió định mệnh đầy tai họa bắt đầu giáng tới tấp những đòn sấm sét lên đầu bà Sen.

Lý lịch "xấu" của lão Sen được phanh phui ra trước thanh thiên bạch nhật. Hóa ra lão đã có một đời vợ trước người thôn hạ theo đạo gốc con nhà phú nông do cha mẹ cưới hỏi cho đầu năm 1952 và đã có một mặt con gái với chị vợ này. Năm 1955 anh chàng Sen cùng chị vợ bồng bế con gái trốn xuống Hải Phòng, dự tính lên tàu chiến Pháp vượt biển di cư vào Nam nhưng giữa đường anh chồng nhát gan sợ công an nhân dân túm được bèn bỏ vợ con tại ga Hàng Cỏ quay đầu về làng. Trong những đợt cải cách ruộng đất vào thập niên 50 anh ta được hưởng khoan hồng không bị lôi ra đấu tố do đã thành khẩn khai báo với chính quyền xã là dứt khoát không theo địch (tức là không đi theo vợ con vào Nam), tuy nhiên chính quyền xã Nẽo lúc đó đã thi hành án của "tòa án nhân dân"  tịch thu tất cả nhà cửa ruộng đất của vợ chồng anh Sen (thực ra đây là của hồi môn của chị vợ).

Sau này khi thì bác Hồ thay mặt Đảng đứng ra khóc xin lỗi và hứa sửa sai về phong trào đấu tố địa chủ trong cải cách ruộng đất thì hầuhết nông dân hai thôn thượng hạ xã Nẽo trong khi sửa sai đều đã sửa lại lý lịch của mình sao cho sạch sẽ không có vấn đề, lão Sen cũng không bỏ lỡ cơ hội trong kỳ khai bổ sung lý lịch này để lờ đi không khai báo gì về đời vợ trước và con gái (hiện nay đang sống tại Mỹ!).Về sau này khi phải tự kiểm thảo trước các đồng chí trong chi bộ phó bí thư Mận đã im lặng không có ý kiến gì về những chi tiết ly kỳ mới được phát hiện trong cuộc đời tình ái trước kia của chồng bà (mà trung ương đã khui ra), thế cho nên trong biên bản buổi kiểm điểm tập thể nói trên (hiện còn lưu trữ tại văn phòng huyện ủy) người ta không tìm thấy được bất cứ lời buộc tội nào của bà Sen về những mánh khóe mà lão Sen đã dùng để hủ hóa cô phó bí thư Mận, và thái độ này của bà Sen đã làm phật ýcủa các đồng chí lão thành trong chi bộ xã.

Như thế là chi bộ xã Nẽo, trong buổi họp toàn thể đảng viên xã Nẽo để kiểm thảo đồng chí Mận, đã có  đầy đủ chứng cứ để qui kết phó bí thư Mận đã vi phạm những điều lệ mang tính nguyên tắc của Đảng khi cô tự do kết hôn với ông Sen mà không chờ có sự chấp thuận của Ban tổ chức trung ương. Sau một buổi họp kéo dài suốt một ngày chi bộ đi đến tổng kết luận là đảng viên Mận đã mắc phải sai lầm nghiêm trọng về mặt quan điểm giai cấp cũng như đã lơi là tình thần cảnh giác sự phá hoại của "địch", vì thế cho nên chi bộ tạm thời đình chỉmọi công tác trong tổ chức Đảng và chính quyền xã của đồng chí Mận và đề nghị trung ương ra quyết định kỷ luật.

Sau này bà Sen đã tâm sự với người thân rằng trong những ngày tháng chờ đợi kỷ luật, bà cảm thấy về mặt tâm lý còn rùng rợn hơn cả những giờ phút mà cô thanh niên xung phong Mận cùng đồng đội đang tải đạn trên đường mòn Hồ chí Minh chợt nghe tiếng B-52 rầm rì từ xa bay tới giải thảm bom.

Sau cùng thì quyết định kỷ luật cô phó bí thư Mận (gọi thế vì về mặt tổ chức Đảng cô chưa kết hôn!) đã được văn phòng tỉnh ủy gửi xuống huyện rồi huyện gửi xuống chi bộ xã Nẽo, trong đó ghi rõ là đồng chí Mận bị đình chỉ mọi chức vụ trong chi bộ và chính quyền xã Nẽo, tuy nhiên vẫn được lưu "đảng tịch" và vẫn được phép cùng chồng con cư ngụ trong căn nhà lá ba gian mà cô được phân phối khi còn tại chức. Nhưng đối với bà Sen cái đòn kỷ luật của trung ương làm bà đau một thì cái quyết định "bổ xung" của đảng viên xã làm bà đau mười, đòn này nằm ngoài tầm dự đoán của bà vì phe đối địch trong chi bộ đã vận động thành công để đại hội toàn thể đảng viên xã Nẽo thông qua cái quyết định thu hồi "hai chục bao xi măng, năm nghìn viên gạch và hơn vạn viên ngói tây mà bà được phân để nâng cấp căn nhà lá", để dùng làm vật liệu tu sửa lại tòa nhà ủy ban nhân dân xã đang dột nát. 

Thế là giấc mộng "nhà gạch-mái ngói" mà bà chắc mẩm đã nắm trong tay bỗng chốc tan tành ra mây khói và "gạch ngói của Đảng lại trả về cho Đảng", bà con hai thôn chép miệng xuýt xoa tiếc rẻ cho vợ chồng nhà Sen cháo lươn bưng tận miệng còn đổ, còn những kẻ từ lâu đố kỵ ghen ghét bà thì sung sướng thì thào với nhau rằng thế là nó "thân bại danh liệt".

Sau khi quay về cuộc sống thường dân trong căn nhà vách đất mái lá ba gian hai vợ chồng nhà Sen, như mọi nông dân lương thiện của xã Nẽo, bắt đầu  phải đổ mồ hôi nước mắt lao động kiếm sống, kiếm ra đủ tiền để mua gạo thịt mắm muối nuôi hai vợ chồng và cái tầu há miệng tên là Thơ.

Năm tháng trôi đi cái hạn chính trị của bà Sen đã bớt làm bà nhức nhối và bà được an ủi phần nào vì bà con lối xóm đều tấm tắc khen nhà Sen kể như trên dưới thuận hòa cơm no áo ấm. Nhưng người xưa đã nói "họa vô đơn chí" thật chẳng sai, gia đình đang êm ấm thì đột nhiên cái hạn ái tình từ đâu kéo đến như giông như bão ập lên đầu bà Sen, tuy không làm cho bà thân bại danh liệt như trên chính trường nhưng lại ngấm ngầm vùi bà xuống tận đáy cái số phận hẩm hiu vốn đã trăm nghìn cay đắng của bà.

Lão Sen đùng một cái đổ đốn lấy cớ bà đã tuyệt đường sinh nở không còn sinh được cho lão con trai  nối rõi tông đường, thế là lão bỏ nhà trốn lên chợ huyện sống chung theo kiểu già nhân ngãi non vợ chồng với cái một con mụ nạ dòng phốp pháp trắng trẻo, bỏ mặc hai mẹ con bà bươn trải trong cuộc sống ngày càng khó khăn. Thì ra lão đã mưu tính từ lâu khi nói với bà rằng hàng ngày lão sẽ mang tôm tép gà qué lên chợ huyện bán cho được giá, sau đó lão lại thuyết phục được bà cho phép chung vốn kinh doanh hàng cơm bình dân với cái con nặc-nô ấy. Dobà quá tin chồng nên giờ đây mất cả của lẫn người, hai đứa chúng nó sau vài tháng gian dâm nay đã đàng hoàng sống chung kiểu ếch mả-gà đồng với nhau!

Thắm thoát như thế đã là hai mươi mấy năm trôi qua kể từ cái thuở con người vô ân bội nghĩa đó ra đi biệt tăm tích cái Thơ lúc đó mới tý tuổi đầu đã biết đỡ đần công chuyện cơm nước  đồng áng hoa màu cho mẹ, vào cái buổi chiều trước ngày lễ hội kỷ niệm chiến thắng Điên Biên lần thứ năm mươi này cái Thơ con gái của bà đã tròn hai mươi tám tuổi, bà con trong thôn thường khen nó nhỏ bé xinh xắn gọn ghẽ chẳng khác gì mẹ nó xưa kia. Bây giờ khi hai mẹ con nằm thủ thỉ bên nhau trên tấm phản gỗ nghiến   bà thường quạt mát cho nó vào những đêm hè nóng bức hay ủ thêm chăn cho nó trong những đêm đông giá rét, vào những giờ phút êm đềm ấy bà Hai Sen chợt thảng thốt nhận ra rằng cái mối tình lãng mạn và đầy tai họa mà lão Sen gieo cho bà dù sao cũng đã được ông trời đền bù bằng một nguồn hạnh phúc không gì sánh nổi.

Vậy là sáng hôm nay bà hai Sen tên tục là Mận nguyên phó bí thư chi bộ xã Nẽo hai mươi lăm năm trước đây trong khi quét nhà chợt nhận ra chân tường căn nhà ba gian vách đất của hai mẹ con bà bị khoét lỗ mỗ, bà không đợi nói chuyện này với cái Thơ nữa mà hối hả mặc vội bộ cánh thâm, chụp cái nón chuông lên đầu đon đả ra khỏi nhà, tiến bước về phía cái tòa nhà gạch uy nghi dùng làm trụ sở chung của ủy ban xã và văn phòng chi bộ Đảng. Bà vừa bước vừanghĩ rằng cần phải báo ngay cho chính quyền xã về những lỗ khoét nơi chân tường nhà.

Khi đứng trước trụ sở văn phòng ủy ban nhân dân xã bà thấy chủ tịch Mạnh mình trần quần sà-lỏng trễ ngang rốn đang đứng trên đầu thang tre mồ hôi nhễ nhại giơ búa nện đinh vào góc bên phải cái biểu ngữ bằng vải đỏ kẻ hàng chữ "Toàn dân xã Nẽo phấn khới kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điên Biên Phủ".

- Căng thế này đã nằm ngay giữa mặt tiền nhà chưa ?

Ông ngoái cổ xuống hỏi khống mà không cần ai trả lời, bà Sen đang đứng trên mặt sân văn phòng ủy ban xã bừa bộn những cuộn biểu ngữ bằng vải trắng dán dở những hàng chữ đỏ chói xếp cạnh những chậu hồ nếp bốc mùi thum thủm, bà không bước ngay vào trong nhà mà dừng lại trước cửa ra vào văn phòng ủy ban đưa mắt quan sát từ nóc xuống đến chân tường tòa nhà gạch và bà hoảng hốt nhận ra chân tường căn nhà tuy xây bằng gạch nhưng cũng lỗ chỗ lỗ khoét bằng nắm tay như chân tường nhà mình. Bà lùi ra vài bước núp mình dưới bóng xiên xiên của mấy cây bạch đàn trồng trước cửa ủy ban tay trái chống nạnh tay phải phê phẩy cái nón, ngực bà phập phồng và nhịp thở chợt nhức nhối tức tởi khi bà chợt nhớ bức tường tòa nhà ủy ban lù lù trước măt đưọc xây gạch kiên cố như vậy vì gạch ngói nhà nước phân cho bà đã bị trưng thu dùng để sửa lại nó, vì thế cho nên tường nhà mình đất vẫn hoàn đất .

Đã qua tháng năm mà cơn mưa rào đầu mùa còn chưa đổ hạt, bầu trời oi nồng ngột ngạt xung quanh ủy ban     như chất súc tác đang đánh thức ký ức bà Sen nhanh chóng nhớ lại rằng thanh danh của bà đã từng bị nhạo báng trong chính căn nhà chết tiệt này vào cái buổi họp toàn bộ đảng viên xã Nẽo kiểm thảo cuộc hôn nhân đầy ngang trái của bà, bà cũng không làm sao quên được chính cái lão Mạnh ngất ngểu trên đầu cây thang tre kia đã bất kể tình nghĩa gia tộc đứng lên đề nghị chi bộ xã nên xung công số gạch ngói xi-măng huyện đã phân cho bà.

- Tôi muốn báo cáo với đồng chí Mạnh một sự cố quan trọng vừa xẩy ra tại nhà tôi.

Trong khi ngẩng đầu lên nói bà Sen cố kiềm chế súc động để giữ cho giọng mình thật ôn hòa lãnh đạm. Thế là từ trên đầu thang ông Mạnh ngưng tay quệt những giọt mồ hôi nhễ nhại trên trán, trong dáng vẻ mệt mỏi vì bị hun nóng lâu trong nắng ông nhìn xuống, ngạc nghiên về sự xuất hiện bất thình lình của cô em họ Mận, rồi như nhớ ra rằng bà Sen đến đây vì việc công ông liền lấy lại vẻ mặt đường bệ vô cảm của một vị chủ tịch xã nhìn xuống chậm rải  hỏi "có việc gì thế đồng chí" ?

- Hình như những con chuột đồng xông vào khoét lỗ

  chân tường nhà tôi. Bà Sen từ tốn trả lời.

Ông Mạnh thận trọng tụt xuống từng nấc thang một, hình như sau mỗi bậc thang ông muốn ngừng lại để quan sát kỹ hơn mái tóc lốm đốm bạc bao quanh gương mặt võ vàng của cô em họ, như để hồi tưởng lại cái con bé xinh xắn mà khi hai đứa còn nhỏ ông đã từng sướng rơn mỗi khi được bố đưa sang chơi nhà nó để hai đưa vui đùa dưới ánh trăng trên sân gạch. 

Xuống đến mặt đất ông Mạnh vắt vội cái đinh đang đóng dở lên vành tai, cẩn thận cất cái búa vào trong hộp đồ mộc rồi mời bà Sen cùng đi vào văn phòng. Không khí trong ba gian văn phòng ủy ban thật ẩm và tù túng vì các cửa sổ đều khép kín, bà Sen phải định thần lại mới hết lóa mắt và bắt gặp ngay hai anh thanh niên làm nề mình trần trùng trục đang ngối xổm đưa bay chét vữa xi măng lấp kín những lỗ khoét dưới chân tường, trong góc nhà  một đống xác cóc chết quét vun lại bốc mùi khẳm lặm. 

- Không phải những con chuột mà chính là các cậu

  "ông trời" này đồng chí ạ ! Ông Mạnh vừa nói vừa chun lỗ mũi chỉ tay vào đống xác cóc làm bà Sen hiểu ngay ra ai là thủ phạm những lỗ khoét nơi chân tường nhà mình và ngạc nghiên nghĩ rằng chắc chân tường nhà mình cũng vương vãi đầy xác cóc thế mà tại sao khi quét nhà mình đã không nhìn thấy chúng.

- Đích thị thủ phạm là những con cóc, chúng bỗng

  nhiên lăn đùng ra chết từ ba ngày nay.

Ông chủ tịch xã nhắc lại với giọng quả quyết.

Một nỗi chán chường da diết len lỏi trong lòng bà Sen khi bà nghĩ rằng từ khi bị Đảng ruồng bỏ mình đã trở thành lạc hậu trước thời cuộc, như thế là từ ba ngày nay những con cóc bắt đầu khoét chân tường chui vào chết thối trong nhà dân mà bà chẳng hay biết gì và ngay cả cái Thơ con gái bà (hiện đang phụ bưng bê tại quán cơm bình dân đầu thôn nơi xuất phát sớm nhất mọi thông tin về bất cứ biến cố nào xẩy ra trong xã Nẽo) cũng không nói gì với bà về chuyện này. Và bà lại càng ngạc nghiên khi tự hỏi tại sao mũi mình không ngửi thấy mùi cóc chết  trong nhà mình ...

 

Từ ba ngày nay toàn thể dân cư xã Nẽo bỏ bê mọi công việc đồng áng hăng say tham gia vào công tác chuẩn bị lễ hội mừng chiến thắng Điên Biên, và sự thể cũng đã xẩy ra đúng như vậy đối họ chứ không riêng gì đối với bà hai Sen, tất cả mọi người chưa một ai cảm nhận ra cái sự kiện kỳ lạ hãi hùng có một không hai này, những xác cóc chết đã bốc mùi thối hoắc từ đầu xã đến cuối thôn từ lâu rồi.

 

Cứ mỗi năm vào dịp này cụ Nguyễn văn Cối, bố đẻ của chủ tịch Mạnh hiện là ủy viên phụ trách về văn hóa-xã hội (gọi tắt là văn-xã) cả hai thôn, lại túi bụi chuẩn bị một bài thuyết giảng về "thắng lợi của liên minh công-nông tại xã Nẽo", bài này cụ được chi bộ xã đặt hàng và giao cho cụ nhiệm vụ phải bố trí để nó choán hết ba giờ đồng hồ trong buổi mít tinh mừng chiến thắng Điên Biên tổ chức vào sáng ngày mai trên sân vận động đất nện của xã.

Cụ đã thực hiện xuất sắc cái nhiệm vụ được Đảng giao cho này trong suốt năm mươi năm qua  mà không hề cảm thấy mệt mỏi, và cụ thổ lộ rằng cái bí quyết làm cho cụ luôn luôn tràn đầy cảm hứng và sức mạnh vô biên để phục vụ cách mạng đến hơi thở cuối cùng là cứ vào cái buổi chiều trước ngày lễ hội mừng chiến thắng hàng năm cụ lại phải nằm mơ thấy Bác Hồ, và chính giấc mơ này đã truyền cho cụ một nguồn nặng lượng tinh thần mới mẻ để cụ sẽ thức suốt đêm soạn thảo cái bài thuyết giảng tràng giang đại hải với một văn phong tuyệt vời(mà chi bộ đã đặt hàng hàng năm theo chủ đề chỉ thị bởi tỉnh ủy).   

Cụ Cối là anh em con cô con cậu với ông Thịnh bố bà Sen, vì là con nhà bần cố nông nên cụ không được đi học chữ như người em họ nhưng chính thế mà sinh mạng và sự nghiệp chính trị của cụ Cối trên quan trường cộng sản lại bền vững suông sẻ hơn chú em họ Thịnh rất nhiều. Khi chiến dịch Điên Biên đang tiến vào giai đoạn quyết liệt thì hai anh em cụ được gọi tham gia nghĩa vụ cùng đợt, chú Thịnh do có cái vốn chữ nghĩa học ở trên tỉnh nên được tuyển mộ bổ sung vào các binh đoàn bộ đội chính qui đang hao hụt, còn cụ Cối vì mù chữ như mọi nông dân nên được điều về đoàn dân công xe thồ vận tải lương thực-khí tài.

Đến khi hòa bình được lập lại trên niềm Bắc vào năm 1954, thì hai đồng chí Cối và Thịnh phục viên trở về làng trong cùng một đượt cả hai cùng lấp lánh huân chương kháng chiến hạng ba trên ngực và một sổ "đảng tịch" chói sáng trong túi áo bộ đội phía bên trái tim. Về mặt hy sinh thể xác cho chiến thắng của cách mạng bà con trong xã thương cảm khi thấy ông Thịnh mất đứt cánh tay trái trên chiến trường trong khi ông Cối thì gầy và đen như ma đói thôi. Đến khi huyện ủy xây dựng lại chi bộ xã Nẽo và bổ sung thêm các đảng viên bộ đội phục viên vào các chức vụ chính quyền của xã thì cả hai ông Thịnh và Cối đều trúng ngay vào các chức vụ chủ chốt trong chính quyền cách mạng vừa mới thành lập: đồng chí Thịnh trúng bí thư chi bộ kiêm chức phó chủ tịch ủy ban nhân dân phụ trách an ninh quốc phòng của xã, còn đồng chí Cối trúng ủy viên văn-xã (một ghế ít  bổng lộc nhưng nhàn nhã và ít đấu đá!).

Đến giũa thập niên 50-60 khi cơn lốc cách mạng vô sản phát động đợt cải cách ruộng đất đầu tiên tại xã Nẽo thì những cuộc đấu tố long trời lở đất đã đào tận gốc chặt tận ngọn các thành phần địa chủ tại đây. Trong đợt này phó chủ tịch xã Nguyễn văn Thịnh bị nêu đích danh là con rể tên địa chủ ác ôn nhất xã (ông ngoại cô Mận) và là con đẻ của tên phó lý cường hào cho nên ông Thịnh và bố vợ là những địa chủ đầu tiên của xã bị lôi ra đấu, trong khi ủy viên văn-xã Nguyễn văn Cối đã may mắn tai qua nạn khỏi do bố xuất thân thành phần bần cố nông.

Sau khi hòa bình được lập lại trên toàn quốc vào năm 1975 Đảng Cộng Sản Việt Nam thống nhất hai miền Nam-Bắc rồi xác lập thể chế xã hội chủ nghĩa trên cả nước, để bổ sung bộ máy cai trị của mình tại miền Bắc Đảng đã đào tạo một thế hệ đảng viên mới từ chiến trường B phía Nam phục viên trở về thành những cán bộ lãnh đạo nồng cốt để thay thế cho những cán bộ thuộc thế hệ Điện Biên nay đã bắt đầu  già nua và mệt mỏi.

Tại xã Nẽo những đảng viên trẻ vừa phục viên từ chiến trường B trở về như ông Mạnh và cô Mận, sau một hai khóa học bồi dưỡng chính trị tại trường Đảng, đã bắt đầu có thể tiếp nối vai trò lãnh đạo chính quyền vô sản tại xã bằng cách đấu đá dành dật nhau từng chiếc ghế trống do cha anh họ sau khi rút lui khỏi quan trường bỏ lại.

Cụ Cối là người đảng viên lão thành duy nhất của xã thuộc thế hệ Điên Biên còn may mắn nắm giữ được cái ghế văn-xã vô thưởng-vô phạt cho đến ngày hôm nay, đơn giản chỉ vì chẳng có ma nào trong chi bộ xã hám cái ghế ít bổng lộc của cụ, ngoài ra cụ còn được sự ủng hộ ngầm của nhân dân hai thôn thượng hạ vì đã từ lâu họ không còn ấn tượng gì về cái huân chương hoen rỉ lủng lẳng trên ngực cụ trong các dịp lễ lạc và họ cũng chẳng còn tin vào những giấc mơ vềbác Hồ vĩ đại mà cụ kể lại, thế cho nên họ nghĩ rằng dù cụ còn ngồi trên chiếc này hay được thay thế bằng cô phó bí thư Mận như có tin đồn trên huyện ủy thì cũng thế thôi vì cái chuyện văn-xã thì ai phụ trách mà chả được !

Thế rồi khi cô Mận mắc sai lầm chính trị khi gian díu với lão Sen và bị kỷ luật đình chỉ mọi chức vụ trongtổ chức Đảngcũng như chính quyền, thì cũng đúng là lúc ông Mạnhđương kim phó chủ tịch trúng ngay cùng một lúc chức bí thư chi bộ và ghế chủ tịch ủy ban nhân dân xã trong nhiệm kỳ đó. Vì cụ Cối là bố ông chủ tịch Mạnh thế cho nên đến nay thấm thoát đã ba mươi năm tròn người dân trong xã Nẽo không ai còn dám xi xào bàn tán về chuyện cụ Cối sắp nghỉ hưu nhường chỗ cho một đồng chí trẻ !

Thực ra phong tục người dân xã Nẽo đã thay đổi nhiều trong ba mươi năm qua. Xưa kia họ đã từngxúc động hít-hà từng câu từng chữ trong khi nghe ông phó chủ tịch Thịnh kể lại rằng mình đãtận mắtnhìn thấy chùm râu bác Hồ phất phơ trên bậc cửu cấp phủ chủ tịch, họ cũng đã từng hưng phấn dưới nắng chang chang trên sân vận động đất nện lầy lội khi hằng năm vào sáng ngày mít-tinh kỷ niệm chiến thắng Điện Biên phải nghe cụ Cối kể lại rằng mình đã nằm mơ thấy Bác Hồ đêm hôm qua, nhưng kể từ khi xã Nẽo "đổi mới" theo chủ trương của Đảng bước vào nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa thì người dân nơi đây bắt đầu chỉ coi cụ Cối như một cán bộ lãnh đạo dưới mức trung bình, tính tình hiền hòa không thích đấu đá nhưng lại có thói quen nói những chuyện trên trời dưới biển trong các bài thuyết giảng tràng giang đại hải vào các dịp lễ lạc. Tụi trẻ sinh ra sau ngày hòa bình lập lại càng lếu láo hơn, chúng cho rằng những bài bình luận thời sự trên loa phóng thanh xã làmột trò giải trí vô vị không mất tiền mua dành cho những cán bộ già đã về hưu thích tán chuyện hão để giết thời gian, rằng các cụ già như cụ Cối thường mũ ni che tai trước các tiêu cực xã hội vì chính con cháu các cụ đang cầm quyền trong tay gây ra chứ đâu phải ai khác. Quanh năm suốt tháng cụ Cối chẳng có gì để làm ngoài việc tham dự đều đặn các buổi họp của thường vụ ủy ban nhân dân xã và mỗi đầu tháng lên thư viện huyện ghi chép tư liệu từ các tờ báo Đảng như Lao Động, Cộng Sản v.v...để chuẩn bị tư liệu cho các bài thuyết giảng đọc vào các dịp lễ lạc lớn trong năm như kỷ niệm ngày "30/4 giải phóng miền Nam", "lễ Độc Lập 2/9", "chiến thắng Điên Biên ngày 4/5" v.v...

Trong các buổi mít tinh lễ lạc long trọng kể trên cụ thường kiên nhẫn ngồi chờ các vị lãnh đạo cấp huyện hay tỉnh đọc xong các bài tham luận mang tính huấn dụ bề trên của họ, sau đó cụ sẽ sàng bước lên khán đài chậm rải đọc to cho toàn thể nhân dân xã Nẽo nghe bài thuyết giảng mang tính tư tưởng của mình, mọi người ngao ngán biết trước rằng cụ sẽ chỉ chấm dứt ê-a vào đúng mười hai giờ trưa khi mà các vị quan khách trên khán đài bắt đầu mệt mỏi đói bụng và khát nước đang trông chờ một bữa tiệc mừng chiến thắng có thịt cầy và bia hơi tại đình làng.

Cụ thực hiện nghiêm túc lịch làm việc hàng tuần của tổ trưởng văn-xã, trực ban vào các sáng thứ ba và thứ sáu trong tuần tại bu-rô văn-xã nơi góc bên trái trong văn phòng ủy ban xã, đọc báo Nhân Dân trong khi chờ đợi bí thư đoàn thanh niên HCM xã đến bá cáo tình hình văn hóa-tư tưởng và xin duyệt nội dung sinh hoạt văn-xã trong tuần. Cụ rất bực mình vì mấy năm sau này kể từ lúc bà Mạnh con dâu trưởng của cụ mở quán cơm bình dân gần trụ sở ủy ban (mà cái Thơ con bà Sen đang phục vụ bưng bê kiêm chức vụ phát thanh viên của đài-loa xã tại đó), thì bí thư đoàn thanh niên xã hình như đã quên cái lệ phải đến báo cáo với cụ hàng tuần về tình hình văn hóa-tư tưởng của hai thôn, chúng nại cớ rằng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thanh niên cần tập trung hầu hết thời gian trong ngày giúp bố mẹ vợ con lo chuyện đồng áng, hơn nữa chúng còn quả quyết rằng trong thời đại đổi mới hôm nay thanh niên xã chỉ còn thời gian sinh hoạt văn nghệ vào buổi tối dưới sự dẫn dắt của một "dàn karaokê", và dàn thiết bị điện tử đắt tiền này không thể kiếm đâu ra tại văn phòng ủy ban vì nó đã được vợ ông chủ tịch Mạnh đầu tư lắp đặt tại quán cơm (có bia hơi vào buổi tối) của bà ta từ lâu rồi. 

Cụ Cối thực ra không ngồi chơi sơi nước tại bàn giấy như người dân đồn đại, khi ngồi một mình cụ tập trung nghiền ngẩm lại những bài học chính trị mà cụ thuộc lòng từ khi khăn gói về thủ đô Hà Nội vào năm 1956 tham dự khóa đào tạo cán bộ văn-xã cấp cơ sở tổ chức tại trường Đảng N.A.Q.: cụ nhập tâm ghi nhớ những điều học được vào đáy tâm can, tuy rằng bây giờ cụ đang sống trong thời đại gọi là "đổi mới", sài đồ mua tại các cửa hàng quốc doanh đầy ắp đồ tiêu dùng của "đế quốc tư bản" nhung cụ Cối vẫn tin tưởng rằng trong suốt cuộc đời cụ còn phải cất dấu đâu đó trong đáy tâm hốn những ý nghĩa xâu xa của các bài giảng "đế quốc là con đẻ của chủ nghĩa tư bản", "lịch sử vẻ vang  vô địch của Đảng CSVN ", "tư bản toàn cầu  đang  dẫy chết" v.v..., và phải luôn luôn ở trong tư thế sẵn sàng vận dụng chúng vào thực tiễn khi Đảng và nhà nước cần đến cụ !

Tuy vậy cụ ít có cơ hội trừ có một lần duy nhất trong đời cụ đã dám cả gan vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lê vào thực tiễn, và đó cũng chính là lần cụ đã suýt chôn vùi cả uy danh lẫn sự nghiệp của mình mà không hề biết.

Số là trongkhóa học bồi dưỡng chính trịsơ cấp mà cụ được cử đi học vào năm 1956 người ta đã nhồi nhét vào óc cụ rằng nhân loại đã trải qua ba cuộc cách mạng lớn,  gọi là cuộc cách mạng tư sản xẩy ra tại Pháp năm 1789, cuộc cách mạng dân tộc-dân chủ xẩy ra Trung Quốc năm 1911 và sau cùnglà cuộccách mạng vô sản vĩ đại xẩy ra tại Nga  năm 1917, thế rồi trong một buổi mít–tinh trọng thể mừng ngày quốc khánh mùng 2 tháng 9 năm 19xx nào đó mà cụ nhớ là vị trưởng ban văn hóa-tư tưởng lắm lời của tỉnh (miệng luôn luôn mở đầu bằng câu "Lênin và Sìtalin đã nói")đã đích thân về xã trụ trì buổi lễ, cụ Cối sau khi đọc bài thuyết giảng của mình đã bất thình lình kết thúc bằng một câu kết luận đầy tính  sáng tạo sau: "đế quốc thực dân Pháp vốn là con "dê" của chủ nghĩa tư bản thì làm thế nào có thể là "cha đẻ" của cuộc cách mạng tư sản 1789 được?, vì nó chưa được gặp Lê-Nin như bác Hồ của chúng ta thì làm sao làm cách mạng thành công được"? Sau đó lòng đầy trắc ẩn cụ thét to vào micro "tóm lại lịch sử của đế quốc Pháp chỉ chứa toànláo khoét và khoác lác". Vài tháng sau đó cụ Cối nhận được một phong bì gửi từ văn phòng đảng ủy tỉnh và cụ những tưởng đây là quyết định thăng chức phó chủ tịch xã cho mình. Nhưng không phải đó là một giấy triệu tập cụ về trường Đảng thủ đô để theo khóa huấn luyện "chống âm mưu hòa bình" của địch. Chính vị trưởng ban văn hóa-tư tưởng tỉnh đã đưa tên cụ Cối vào danh sách học viên vì ông nghĩ rằng đối với thời đại của mình cũng như đối với bà con xã Nẽo cụ đã trở thành một ông già có nhiều giấc mơ hoang tưởng, có nhiều thắc mắc liều lĩnh về chân lý Mác-Lê và nhất là đã dám sáng tạo ra những điều súc phạm đến nước "bạn Pháp" trong bài thuyết giảng vào ngày mùng 2 tháng 9 vừa qua tại xã Nẽo, thế cho nên ông trưởng ban văn hóa tỉnh đã nhường tiêu chuẩn "đi học" của mình để cụ Cối có dịp về thủ đô bồi dưỡng chính trị.

Trong khi tham dự khóa học về "âm mưu diễn biến hòa bình của địch" tại trường Đảng thủ đô vào năm 1990 cụ Cối đột nhiên có những đổi thay cơ bản  trong tư tưởng. Trường được xây dựng khang trang bề thế và không còn mang tên N.A.Q. như hồi cụ về thủ đô theo khóa học sơ cấp "chủ nghĩa Mác-Lênin", và do cụ chua có dịp nào trở lại nơi đây kể từ năm 1956 nên cụ không làm sao am tường được hết những đổi thay về mặt thuần phong mỹ tục của trường Đảng trong giai đoạn kinh tế thị trường tại nơi phồn hoa đô hội ngàn năm văn vật này.

Những quán bia đèn mờ ảo nhạc xập xình rất đáng ngờ về mặt đạo đức cách mạng mọc lên như nấm xung quanh trường, chủ nhân những quán này hầu hết là vợ con cán bộ giảng viên nhà trườngthế cho nên các học viên vào buổi tối saugiờ lên lớp hay vào ngày nghỉ cuối tuần cứ an tâm tụ tập tại những quán này để uống bia hát karaoke tiêu khiển giết thời gian.

Cụ Cối lạc lõng trong một thế giới trẻ trung phong nhã như vậy hơn nữa cụ cũng cóc có tiền để tối tối đi bù khú với đám học viên trẻ đồng khóa, cho nên ngoài giờ học cụ tự tạo ra những sinh hoạt bất thường chẳng hạn như đi lượm lặt vỏ bao thuốc lá xếp thành lâu đài hay đi bắt dế mèn cho chọi nhau để tiêu khiển ...và điều này tạo thành một vấn đề phức tạp đối với ban giám hiệu nhà trường.

Họ đành giải quyết êm thấm bằng cách cho phép cụ được tham khảo "tủ sách nghiên cứu" dành cho các giảng viên trong phòng riêng của thư viện nhà trường, thực ra đây là tủ chứa những tạp chí sách báo hải ngoại được xếp vào loại phản động cấm phổ biến ra ngoài nên thư viện nhà trường đã nhốt chúng vào một cái phòng riêng cửa có khóa bên ngoài ghi hàng chữ "chỉ tham khảo nội bộ".

Vì Cụ Cối không hề biết lý do sâu xa của đặc ân mà ban giám hiệu nhà trường đã dùng để giải quyết cái cảnh nhàn cư vi bất thiện của cụ, thế cho nên sau giờ cơm tối hay vào những ngày nghỉ cuối tuần cụ thường chúi mũi vào cái tủ sách vàng khè nói trên, cụ say sưa thả hồn trong những trang tạp chí in ấn rất đẹp xuất bản bởi các cộng đồng việt kiều sinh sống khắp nơi trên trái đất này như "Orange City-CA", "Sidney-Australia" hay "Marseille-France"...

Cho đến một buổi chiều chủ nhật nọ trong khi cụ đang dán mắt vào một tờ tạp chí xuất bản tại Mỹ thì vị giám hiệu trường bước vào phòng đọc cùng với một nhân viên an ninh mặc thường phục, ông này đã không hỏi han gì cụ trước khi vội vã lật trang bìa tờ tạp chí mà cụ đang nghiên cứu. Vẻ hoảng loạn hiện trên nét mặt vị lãnh đạo trường Đảng trong khi nhân viên an ninh chìm kia lẩm bẩm đọc hàng tít chạy trên đầu trang "cộng đồng người việt hải ngoại biểu tình đả đảo chuyến viếng thăm của bộ trưởng ngoại giao cộng sản Hà Nội nhằm o bế chính quyền Mỹ bình thường hóa quan hệ thương mại".

Đã mười lăm năm trôi qua rồi mà cụ còn nhớ rõ vẻ mặt xanh sám của vị giám hiệu trường trước thái độ im lặng đáng sợ của nhân viên an ninh và sáng hôm sau cụ được vô tư trở về cái thôn hạ xã Nẽo thanh bình của mình với một giấy chứng nhận "tốt nghiệp khóa học" loại giỏi trong tay, dù rằng khóa học chính trị đặc biệt chống âm mưu điễn biến hòa bình này còn kéo dài thêm hai tuần nữa.

Tuy rằng cụ Cối trên thực tế đã là một ông già bẩy lăm tuổi hiền lành chậm chạp nhưng chủ tịch Mạnh vào đầu năm nay mới có dịp làm lễ thượng thọ thất thập cổ lai hy cho bố, trong dịp vui này người dân xã Nẽo tuy đưọc mời ăn kẹo uống trà và hút thuốc lá nhưng ít ai còn tin vào sự sáng suốt của cụ dù rằng cụ đã ra sức cai quản tư tưởng của họ trong suốt năm mươi năm qua.

Vào buổi chiều trước lễ hội mừng chiến thắng Điện Biên lần thứ năm mươi cụ Cối đột nhiên lại trở thành nổi tiếng trong cả huyện X, vì rằng vào cái tuổi bẩy lăm cụ vẫn còn thừa sáng suốt và uy tín để công khai tuyên bố trên loa phóng thanh xã Nẽo rằng mình là người đầu tiên đã nhìn thấy cả thẩy bốn cái xác cóc chết, cụ cũng nói thêm rằng mình không hề ngửi thấy mùi khẳm lặm bốc ra từ hai xác thối đầu tiên(và dù có ngửi thấy thì cụ đã nghĩ rằng chẳng có độc hại gì!), tuy vậy cụ đã bắt đầu thay đổi quan điểm của mình kể từ khi gặp gỡ cái xác cóc thứ ba và đã hoàn toàn thay đổi khi gặp gỡ các xác cóc thứ tư trong một trường hợp đặc biệt.

Cụ kể lại đã trông thấy xác con đầu tiên cách đây ba ngày khi bước vào cái góc dành riêng làm kho chứa các dụng cụ hoạt động văn-xã (như kìm búa đinh, vải giấy kẻ biểu ngữ, loa phóng thanh...) trong văn phòng ủy ban nhân dân và cụ nghĩ rằng một chú mèo đực động cỡn nào đó trong khi lùng "cái" gặp cậu ông trời cản mũi nên tát nó chết lăn quay, chiều hôm qua cụ lại nhìn thấy xác con cóc thứ hai phơi bụng nơi chân tường ngoài hàng hiên nhà mình, không chút bận tâm cụ đưa chân hất nó bắn ra tận vườn. Nhưng rồi đến sáng hôm nay trên con đường mòn dọc ven theo nhánh sông Bình dẫn đến doi đất quen thuộc mà vào mỗi sáng tinh mơ cụ thường ngồi đó nhìn trời suy nghĩ vẩn vơ cụ lại thấy một xác cóc thứ ba lăn lóc bên một bụi cỏ ướt hơi sương.

Đúng vào lúc cụ Cối cầm que tre nâng xác cóc thứ ba lên cụ thảng thốt nhận ra một mùi khắm lặm bốc lên từ cái xác này, đúng vào lúc ấy cái mùi mà từ ba ngày nay bản thân cụ (và toàn dân xã nữa) chưa hề ngửi thấy bắt đầu dậy lên đánh thức một cách mù mờ ký ức khiến cụ chợt nhận ra hình như từ hơn năm mươi năm qua cái mùi bất thường này đã xuất hiện tại xã này hàng năm vào đúng các buổi chiều trước ngày lễ hội mừng chiến thắng Điên Biên (chứ không phải mới là lần đầu tiên như mọi người lầm tưởng), thế mà trong từng đó năm đã chẳng ai nhận ra được điều bí mật này.

Kể từ cái giờ phút cụ Cối phát hiện ra mùi khẳm lặm bốc ra từ cái xác cóc chết thứ ba mà cụ khời lên từ đụn cỏ ven sông thì cụ đột nhiên thấy một lần nữa cần phải vận dụng những kiến thức về học thuyết Mác-Lê (mà cụ đã tốt nghiệp khóa học trình độ sơ cấp tại trường N.A.Q vào năm 1956 !) để phân tích cụ thể ba trường hợp cóc chết trên và từ đó rút ra những quy luật khách quan, dù rằng cụ biết tỏng tong là dân cư xã Nẽo đã từ lâu không còn tin vào những kết luận khoa học của cụ (tuy rằng họ ý thức rõ ràng là làm như vậy thật quá đáng đối với một cán bộ lão thành đáng kính như cụ !).

Cụ tự nhủ trong lòng là mình vẫn còn tin tưởng vào tính khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin do đó cụsẽ cương quyết bảo vệ cái chân lý khách quan vừa được phát hiện ra sau khi phân tích ba trường hợp cóc chết đầu tiên, đây là lần đầu trong đời cụ nghĩ rằng phải can đảm gạt bỏ cái "tiêu đề đặt hàng" của chi bộ xã và thẳng thừng tuyên bố ngắn gọn trong buổi mít-tinh vào sáng ngày mai rằng "khi thế hệ trẻ của đất nước này không thèm đọc các tác phẩm văn học cổ điển nữa và suốt ngày giết thời gian bằng cách hò hét trước dàn Karaoke thì đó không phải là do tuổi trẻ thời đại đã tiêm nhiểm những thói hư-tật xấu của nền kinh tế thị trường (nhưng thứ làm cho tư tưởng cách mạng xuống dốc!) mà chính là do chúng không còn chịu đựng nổi một cách vô thức cái mùi cóc chết khẳm lặm hiện đang bao trùm không khí của cả đất nước này, thế cho nên  chúng phải trốn vào các quán để ca và hét".

Ngoài cái tật nghìền ngẫm triết lý Mác-Lê và ề-à đọc diễn văn trường giang đại hải cụ Cối về mặt bản chất vẫn đích thực là một lão nông  luôn luôn thích sống với những thói quen thôn dã tầm thường và lãng mạn của mình, thế cho nên vào những buổi sáng tinh mơ tiết trời khô ráo những nông dân xã Nẽo ra đồng sớm thường thấy một cụ già vóc người bé nhỏ vai ngang bè bè da mặt nhầu nát giọng nói chậm rãi đang tiến bước về cái doi đất nằm nhô ra nhánh sông Bình nơi cuối thôn hạ, đó chính là cụ Cối sau một tuần trà độc ẩm vừa ra khỏi nhà thong thả bước đều trên con đường mòn dọc theo bờ sông khi ánh bình minh còn chưa chạng vạng lé lói từ phía sau dẫy núi Rạng xa xa, cụ ngồi xuống gốc cây sung già thân quen nhìn những đụn sương mù la đà trên mặt nước hay lắng nghe tiếng kêu văng vẳng của đàn vạc ăn đêm trở về đáp xuống bãi sú vẹt bên kia sông.

Vào những đêm mà trời đất oi nồng ngọt ngạt đến nỗi cụ đã phải nằm mình trần trằn trọc đến khuya trên bộ ván cũ trong bụng thầm khấn ông trời đổ cho một cơn mưa, rồi vào nửa đêm nếu một cơn giông thình lình kéo đến và một trận mưa rào xối xả đổ xuống xã thì cụ an tâm ngủ vùi trong cái mát mẻ trong lành của bầu trời đêm, rồi khi gà vừa bắt đầu gáy sáng thì cụ đã ngồi đó dưới gốc sung già thả hồn bay bổng vào quá khứ từ lâu rồi, bay về những nẻo đường mòn trong thung lũng Điên Biên với những trận mưa rừng dữ dội quất vào mắt vào mũi khi cụ đang còng lưng đẩy chiếc xe thồ nặng trĩu lương khô lên dốc, bay về những khóa bồi dưỡng chính trị trong đó cụ được nhồi nhét đầy ắp những tư tưởng mông lung mờ mịt ẩn tàng trong tập giáo trình "Triết Học Mác-Lê Sơ Cấp" mà trường Đảng phát không cho mọi học viên.

Trời chưa hửng nắng cụ vội vã quay về nhà ngồi độc ẩm một tuần trà trước hàng hiên bên mấy chậu cây cảnh hay nằm gác chân nhữ ngũ đón những đợt gió nồm hiếm hoi của một sáng hè oi bức trên bộ ván mọt, cụ nằm nghỉ cho đến khi mặt trời đứng bóng thì cái Thơ sẽ từ quán cơm bình dân xách sang một cạp lồng bốn ngăn chứa cơm, canh, đậu phụ kho (hay tép rang), rau muống luộc và vài quả cà pháo muối, như thường lệ nó sẽ không đánh thức cụ dậy mà chỉ sẽ sàng đặt cái cạp lồng cơm trên cái bàn gỗ tạp ngoài hiên rồi hối hả quay về quán cơm bà Ba Mạnh.

Vì thời khóa biểu của cụ quanh năm suốt tháng như vậy nên người dân xã Nẽo đồn rằng cụ đánh một giấc ngủ trưa trước bữa ăn sáng nhưng thật ra vào cái tuổi đã quá thất thập cổ lai hi này thì ban ngày cũng như thâu đêm cụ chỉ mơ màng giữa những ý tưởng lung bung chứ không thực sự ngủ nghê bao giờ, cụ nằm nán lại ít phút đợi khi tiếng dép nhựa loẹt quẹt của cái Thơ vừa mất hút sau vườn là cụ sẽ vươn vai ngồi dậy ăn cơm sáng. Hôm nay cụ dự tính sau bữa cơm trưa sẽ sang văn phòng ủy ban nhân dân xã, ngồi đó từ đầu giờ trưa cho đến chiều tối nếu thấy cần thiết để viết cho xong bài thuyết giảng nói về "thanh niên xã Nẽo quyết tâm không hát Karaokê tập trung  thời gian và trí tuệ hoàn thành tốt Nhiệm Vụ Cách Mạng  mà Đảng giao phó cho trong thời kỳ Đổi Mới" cho lễ hội mừng chiến thắng vào ngày mai.

Trên đường ra văn phòng ủy ban xã cụ Cối bắt gặp cái xác cóc thứ tư ngay trước cửa nhà bà hai Sen, từ hơn ba chục năm nay kể từ cái ngày phó bí thơ Mận thất bại trong âm mưu chiếm đoạt cái ghề văn-xã của cụ thì cụ Cối đã cương quyết tự nguyện không bao giờ thèm bước chân vào nhà nó và cụ đã giữ vững lời thề nguyền này cho đến ngày hôm nay, thế cho nên vào giờ phút này cụ Cối tỏ ra cực kỳ bối rối vì khi cúi xuống nắm hai chân sau xác cóc định quăng ra xa thì bất chợt một ý tưởng nhân đạo chợt nẩy sinh trong đầu. Cụ thấy hai chân con cóc đột nhiên ngọ nguậy và thế là cụ nghĩ đến câu kệ nhà Phật "cứu một mạng sống hơn xây mười ngôi chùa", nónhư mộthiệu lệnh không thể cưỡng lại được đã khiến cụ ngoái cổ về phía căn nhà lá của cô cháu gái gọi to.

- Cho xin ca nước mưa để cứu con cóc hấp hối.

Bà hai Sen đang nằm đu đưa trên chiếc võng mắc ở đầu nhà dưới bóng mát cây mít xù xì, bà nằm đó chờ đợi những đợt gió nhẹ len lỏi qua hàng khuy áo cánh mở hờ khiến cho bà khoan khoái tạm quên đi nỗi phiền muộn vì bà chưa biết phải đối phó thế nào với những chú cóc đang khoét chân tường nhà bà.

Bà đang nằm nghỉ mệt sau khi từ văn phòng ủy ban xã về, rất thất vọng vì chủ tịch Mạnh đã thông báo cho bà biết thủ phạm những lỗ khoét dưới chân tường là những chú cóc (chứ không phải những chú chuột đồng) nhưng lãnh đạo xã chưa tìm được giải pháp ngăn chúng thì bất chợt giật mình vì tiếng gọi ngoài cổng. Bà cẩn thận gài cúc áo bước xuống võng nghển cổ ngó ra cổng xem ai đang đứng gọi trước cửa nhà mình vào giờ nghỉ trưa này chợt bà thấy cụ Cối đứng bên ngoài rào nheo mắt soi mói nhìn con cóc treo lộn ngược trên tay nói vọng vào.

- Chỉ cần vẩy ít nước mưa rồi đặt bên bờ ao là nó  tỉnh lại ngay.

Bà hai Sen lật đật bước ra mở cửa cất tiếng chào, cụ Cối dừng lại trước hàng hiên không bước vào nhà như muốn chủ động rút ngắn thời gian cuộc gặp gỡ  bất khả kháng với cô cháu gái, còn bà Sen thì nhìn lại cụ thầm nghĩ rằng chính mình mới là người cần thực hiện ý đồ thiết thực đó.

Nếu bà Sen có trí nhớ còn tốt thì hẳn bà không thể nào quên được rằng, vào ba mươi năm trước đây kể từ lúc có tin đồn huyện ủy sẽ cử cô phó bí thư Mận kiêm thêm chức ủy viên văn-xã xã Nẽo cho đến ngày hôm nay, cụ Cối luôn luôn bảo lưu lời thề không thèm bước chân vào nhà cháu gái mình, đã nhiều lần do việc công mà cụ bất đắc dĩ phải đến nhà bà thì trong các cuộc gặp hiếm hoi này cụ cũng chỉ nán lại không quá mười phút ngoài hàng hiên mà thôi.

Cụ chưa bao giờ cảm thấy thoải mái khi nghĩ rằng mình phải đứng trong khuôn viên ngôi nhà mà người chủ của nó khi còn đương chức đương quyền chỉ muốn tung hê cụ bắn ra khỏi cái ghế ủy viên văn-xã, hơn nữa cụ còn mang thêm thành kiến rằng là một đứa bất nhân bất nghĩa kể từ sau cái buổi họp lãnh đạo xã để phổ biến lý lịch của chồng (tức lão Sen),  vì cụ nhớ đời rằng trong suốt buổi họp này nó đã chẳng biểu lộ chút thương sót nào đối với người chồng bất hạnh của mình (ấy là cụ muốn  ám chỉ thái độ im lặng của bà Sen trước bất cứ chất vấn nào mà các đồng chí trong chi bộ xã đã  nêu ra trong buổi họp ngày hôm đó !). Cụ tự nhủ giờ đây vào đầu giờ buổi chiều trước ngày trước lễ hội mừng chiến thắng này nếu cụ có mặt tại hàng hiên nhà bà Sen để chờ bà ấy mang ra một ca nước mưa thì đó cũng chỉ là do hoàn cảnh khách quan bắt buộc cụ phải cư xử như vậy, chứ còn cá nhân mình cụ vẫn bảo lưu quan điểm không thể lay chuyển được của mình đối với đứa cháu gái ngoại tộc lăng loàn này.

Trong lúc chờ người đàn bà cô đơn tay cầm cái ca nhựa bước về phía bể chứa nước mưa sau nhà, cụ Cối đứng trước hàng hiên đưa mắt liếc vội sang gian trái nơi kê tấm phản gỗ nghiến mà bà Sen kế thừa từ ông bố, lòng cụ chợt sót sa khi ký ức như một cuốn phim quay ngược thời gian đưa cụ về cái buổi sáng còn mờ sương cách đây thấm thoát đã bốn mươi năm, cụ nhớ lại sau một đêm thức trắng tham gia đấu tố sáng rangười dân xã Nẽo ai nấy vội vã  về nhà nấu cơm ăn lót dạ nghỉ ngơi chốc lát trước khi lao vào một ngày mới truy kích địa chủ, chỉ vào lúc đó người nhà tên địa chủ Thịnh mới dám tranh thủ khênh hắn từ sân đình về nhà. Làng xã còn chập chờn trong cơn thiếu ngủ và tiếng trống ngũ liên thúc đấu tạm thời yên áng nên cụ Cối mới dám lén lút sang nhà người em họ thăm dò sự tình và cụ kinh hoàng nhìn thấy ông em Thịnh (nguyên đại úy quân đội nhân dân tiểu đoàn XX anh hùng) thân hình rúm ró trong bộ quân phục rách bươm đang nằm úp mặt mồm rỉ máu thoi thóp thở trên chính tấm phản gỗ nghiến kia.

Khi trở lại với ca nước mưa trên tay bà Sen bàng hoàng nhận ra ông bác Cối đang đứng trước hàng hiên mà hồn vía để những đâu đâu, mặt cụ ướt đẫm mồ hôi mắt đờ đẫn nhìn về phía góc phản miệng lẩm bẩm  trong cơn mộng du "oan ức lắm chú Thịnh ơi !", bà chợt hiểu tất cả và bà đột nhiên ngừng bước đứng bất động trong khi một niềm thương cảm lẫn uất hận trào dâng trong lòng, một nỗi sợ hãi vô biên lẩn khuất đâu đó trong tiềm thức từ bấy lâu nay bất chợt trồi lên cuồn cuộn như muốn nuốt trôi bà.

- Mẹ kiếp! Vinh danh là "anh hùng" rồi chết thối tha thế này, bao giờ chú mày mới hiểu ra kiếp sống nơi đây chỉ là dối trá lừa lọc và hư danh.

Trong khi đặt con cóc thoi thóp thở xuống đất cụ Cối nghẹn ngào bật ra câu triết lý tối nghĩa ngao ngán trên, bà Sen từ tốn bước lại gần người bác họ  nghiêng ca xối nước lên cái lưng xù xì phập phòng của nó, họ không nói với nhau lời nào nhưng trong thâm tâm cả hai đều nghĩ về những tấm "huân chương kháng chiến" hạng ba cùng những "trận đấu tố" long trời lở đất và cùng cảm thấy một niềm cay đắng vô biên len lỏi trong lòng.

 - Chắc cháu không ưa gì những con cóc nhưng bác nghĩ rằng chúng không thể thiếu trong dây xích sinh tồn của đồng ruộng nước ta. Cụ Cối khiêm tốn phát biểu như muốn né tránh đi vào cốt lõi vấn đề.

-Khi còn bé dẫu đôi lần cháu có chơi với chúng nhưng giờ đây cháu căm ghét chúng vì cháu phát hiện ra rằng hàng năm cứ đến dịp này là chính chúng, chứ không phải mấy con chuột đồng, đã chui ra khỏi hang khoét lỗ chân tường rồi chết thối trong nhà dân. Trong khi trả lời bà Sen nhìn thẳng vào mặt ông bác họ sắc mặt không hề lộ ra chút thương sót nào.

- Đã chết thối ra ba ngày nay rồi và bây giờ đang bốc mùi khắp xã đấy. Cụ Cối bâng quơ đáp lại  giọng nói chua chát pha chút ranh ma.

-Thật ra lễ lạc quanh năm thì mọi chuyện rồi cũng đến thế cả thôi. Bà Sen vừa nói vừa cúi xuống đất túm hai chân sau con cóc nhấc bổng lên, sau lắc đầu thất vọng trả nó lại cho cụ Cối va nói tiếp "bây giờ thì mọi chuyện trên đời đối với cháu đều vô nghĩa trừ chuyện làm sao có thể ngăn được những con cóc khoét tường chết thối trong nhà cháu".

Khi nhận lại con cóc trong lòng bàn tay cụ Cối mới biết là mình đã nhầm, con cóc không phải hấp hối mà thực ra đã chết lâm sàng từ lâu rồi nhưng vì thần kinh thực vật của nó còn hoạt động, thế cho nên cụ lầm tưởng nó còn thoi thóp và muốn cứu sống nó.

Cụ Cối thảng thốt nhận ra rằng những gì mà người cháu gái của mình nói ra không phải hoàn toàn vô nghĩa và đột nhiên cụ chợt hiểu rằng đứng trước mặt mình không phải là một thiếu phụ mang một trái tim lạnh lẽo sắt đá vì đã từng vào sinh ra tử ngoài chiến trường cùng nếm đủ mùi đắng cay trên tình trường, mà đứng trước cụ vẫn chỉ là đứa cháu gái bé bỏng cô đơn bố mẹ mất sớm suốt đời ao ước đi tìm một cách vô vọng đôi chút hạnh phúc riêng tư, nhưng  bản thân nó, bố nó, và ngay cả cụ nữa, "cả ba" rút cục  chỉ tìm thấy cái ảo tưởng-vinh quang của một thứ chủ chủ nghĩa anh hùng-cách mạng bịp bợm mà thôi!

Như thế là vào đầu giờ trưa cụ Cối trên đường hối hả ra văn phòng ủy ban xã đã bắt gặp ngay trước cửa nhà bà Hai Sen con cóc chết thứ tư, nó đã chết lâm sàng từ lâu nhưng nó vẫn đủ sức tàn để phóng ra từ vệ đường và nằm thoi thóp trước mũi dép khiến cụ phải bước vào nhà bà Sen, tại đây cụ đã có những giây phút thăng hoa lội ngược dòng quá khứ, khiến Cối đã tìm được cơ hội cảm thông sâu sắc với nỗi cô đơn của cô cháu gái Mận mà cụ do thành kiến đã ghét bỏ từ hơn   bamươi năm qua.

 

                    x                                                                                                                                        

                x       x

 

 

Vào buổi sáng tinh mơ cùng ngày hôm đó cụ Cối như thường lệ đi bộ ra cái doi đất nhô ra nhánh sông Bình nơi các chuyến đò ngang dùng làm bến đổ khách, đúng vào lúc cụ đang ngồi dưới gốc cây sung già vừa ôn lại sự đời vừa lặng ngắm mặt trời nhô lên từ bãi lầy bên kia sông thì một chàng thanh niên tướng mạo không có gì đặc biệt ngoài nước da đen sạm dáng vẻ hiền lành cũng vừa rời chiếc đò ngang nhẩy xuống bến. Anh ta đảo mắt quanh quẩn tìm người hỏi thăm đường, khi nhìn thấy cụ Cối vừa đứng dậy sửa soạn bước quay trở ra con đường mòn dẫn về thôn thế là anh ta chạy tắt dọc theo những bụi lạc tiên dại đón đường cụ Cối, vừa bắt kịp cụ anh ta hổn hển hỏi với cái giọng Nam Bộ nhẹ nhàng dễ thương.

- Từ trưa hôm qua đến giờ con chưa có hạt cơm nào trong bụng, trong làng có hàng quán không hả cụ,  chỉ đường dùm con nghen.

Cụ Cối dừng lại chăm chú nhìn chàng thanh niên khoảng ba mươi tuổi trên lưng đeo cái ba lô con cóc mầu cứt ngựa người cao nghều như đói cơm, tóc soăn chải ngược làm lộ ra cái trán dô thoáng vẻ ngang tàng của các chàng trai miền Nam.

- Cứ dọc theo đường mòn ven sông mà đến đầu thôn thượng, tại đấy cháu sẽ nhìn thấy cái bảng hiệu một quán cơm bình dân, nhưng đến tám giờ chúng nó mới mở hàng. Cụ Cối nghĩ rằng có lẽ anh ta lạc đường bụng đói nên rẽ vào đây tìm cái ăn sáng nên cụ dặn dò khá cặn kẽ.

Chàng trai Nam Bộ háo hức tiến bước về phía đầu xã

theo như lời chỉ dẫn từ xa anh ta đã nhìn thấy một một tấm bảng nền sơn trắng kẻ hàng chữ đỏ chót "cơm phở-cháo lòng-bún sáo-bia hơi" lủng lẳng trên thân cây trong cụm bạch đàn bao quanh một căn nhà tường gạch mái fi-bô nằm khuất dưới bóng mát. Mùi xào nấu thơm lừng từ trong quán bốc ra khiến cho cái dạ dày rỗng tuếchcủa cậu réo sôi lên và thế làcậu hăm hở buớc vào dụi mắt cho đỡ quáng và bắt đầu quan sát đồ vật xung quanh. Một người đàn bà dáng người đẫy đà da nâu bồ hóng thân hình phốp pháp trong bộ cánh soa-đen miền Nam lừng lững bước tới trước mặt cậu cất tiếng hỏi.

- Cậu ăn cơm suất hay gọi món ăn riêng ?  

- Xin má cho con suất cơm và một ly bia. Chàng trai gọi thêm vại bia như là để tự thưởng xứng đáng cho bản thân sau khi gian khổ trên tàu xe gần ba ngày  đêm. Bây giờ cậu ta mới có thì giờ quan sát kỹ lưỡng căn phòng ba gian dành cho khách ngối ăn và thấy nó bầy biện thật khác xa với hàng quán trong Nam. Những chiếc bàn vuông chữ nhật đóng gỗ tạp kê dọc theo chân tường với bốn có ghế đẩu bao quanh chừa một khoảng trống làm lối đi phục vụ khách ở giữa, phía đầu bên phải thông ra một gian bếp quây bằng cót ép dựng bên cạnh bể chứa nước với sàn nước lai láng nuớc bẩn xung quanh đầu phía bên trái là phòng nghỉ riêng của chủ quán vô số quần áo phụ nữ treo lủng lẳng bên trên tấm phản.

- Suất cơm bình dân kèm một vại bia, nhanh lên !

Bà chủ quán Ba Mạnh ngoái xuống gian bếp réo gọi. Trong khoảnh khắc một cô gái phục vụ tuy luống tuổi nhưng thân hình gọn gàng ưa nhìn với nụ cười còn đủ sức làm mê mẩn con tim các chàng trai, bước ra từ gian bếp nhẹ nhàng như một thiên thần hai tay bưng một khay nhựa bề bộn nào cơm, canh...và một cốc bia hơi ướp lạnh.

-Mời anh sơi cơm. Cơm suất chỉ có thế này, cần thêm mồi nhắm anh cứ gọi em sẽ bưng lên ngay.

Cô phục vụ thay vì quay trở vào bếp lại khoan thai bước đến bên cái ra-đi-ô, cô dò đài mở bản tin trưa một giọng phụ nữ ra vẻ đường bệ eo éo ré lên giữa bầu không khí ngột ngạt đặc sệt mùi chiên xào bôc ra từ gian bếp. 

- Khách ăn thường mắc mũ trên đầu ghế tựa cho khỏi quên. Cô nhắc khéo cậu một cách hững hờ. Cô không rời mắt khỏi chàng trai và bất chợt nói khi nhận ra cái mũ tai bèo củaanh ta chỉ đặt hờ trên đầu gối.

Về phía chàng trai cậu cảm thấy ngượng ngịu khổ sở trước những lời chăm sóc của cô phục vụ xinh xắn và dạn dĩ này do từ thuở mới bập bẹ nói cho đến năm nay đã ba mươi tuổi rồi mà cậu chỉ có thể bắt chuyện một cách tự nhiên với một người đàn bà duy nhất trên đời là mẹ cậu thôi. Thế cho nên nhìn thẳng vào mặt cô chắc chắn là một động tác nhức nhối mà cậu không làm nổi rồi, cậu vờ cúi xuống quan sát khay cơm và cũng như cô gái cậu thảng thốt ra rằng mình đang ở trong một tình thế mà cậu nghĩ rằng cách đối phó can đảm duy nhất trong lúc này là lúng búng phun ra một câu trái ngược với những tình cảm hưng phấn đang rộn rã trong tim mình, một câu mà trong lòng cậu chẳng hề muốn nói như vậy. 

- Má tui dặn vào tiệm phải cài mũ như vậy, thế mà

  tui không nhớ. Cám ơn nhiều ! 

Sau khi buông một câu trêu chọc chàng trai miền Nam hiền lành cái Thơ vờ lơ đãng không chú ý gì đến  câu trả lời vớ vẩn chán phèo, nó tiếp tục nói: 

- Đài đang phát tin buổi sáng, nếu anh không thích em có thể chuyển sang sóng "ép-em" phát nhạc nhẹ.

Lần này thì cậu lấy hết can đảm nhìn lên cô gái  trong khi trái tim đập rộn ràng và đôi tai hình như không còn nghe thấy gì nữa, tâm hồn cậu dường như đang bị choáng ngợp bởi những kiểu cách khêu gợi sự vật rất thần tình của cô, một điều mà cậu chưa từng cảm thụ từ một người phụ nũ nào khác kể cả mẹ mình.

Chàng trai cảm thấy bị lùng bùng tù túng trong một thứ tình cảm mơ hồ chen lẫn sung sướng lúc nào không hay, trong một trạng thái lâng lâng như thế chàng ta thảng thốt nhận ra mình đang hưng phấn trong một niềm hạnh phúc vô biên mà bản thân cậu ta không hề muốn thoát ra, đúng lúc ấy thì bà ba Mạnh từ bếp bước ra dán cặp mắt nghiêm khắc về phía cô gái.

- Này cậu chưa cầm đũa sao, ăn nhanh đi kẻo thức ăn nguội hết rồi kìa. Bàchủ tiệm nhắc khéo.

- Anh ta còn say nắng, nên rửa mặt cho tỉnh lại đã.

Cô cháu gái nói tranh lời và chàng trai tin rằng mình đã nhận ra sự âu yếm pha trộn giọng nói giễu cợt của cô phục vụ.

- Thế à! để tôi bảo thằng bé bưng cho cậu thau nước mưa. Bà Mạnh nhấn mạnh từ "thằng bé" như muốn nhắc khéo cái Thơ đây không phải phần việc của nó.

Cô gái lại cười, còn chàng trai cảm thấy tiếng cưòi đó khiến lưng áo mình ướt đẫm mồ hôi. Lát sau một chú bé từ phía sau nhà bưng ra đặt trên cái ghế đẩu ngoài hàng hiên một thau nhựa sóng sánh nước trong veo, chàng trai vươn vai đứng dậy rút từ trong túi ngoài ba-lô một cái khăn mặt đen sỉn và bước ra ngoài hàng hiên thì chính lúc ấy cô gái lại nói.

-Cóc nhái lăn đùng ra kiểu này thì ai mà chẳng hãi.

Hai con ngươi trên mặt Bà Ba Mạnh như hai luồng đạn phóng thẳng vào cái Thơ như bảo nó câm miệng, rồi bà quay lại dịu dàng nhìn chàng trai nói như đang tìm kiếm một niềm thông cảm.

-Tốt hơn hết là cô nên kín mồm kín miệng và đi vào

 bếp đi. Bà rít lên trong kẽ răng.

- Cô ấy muốn ám chỉ gì đó hả bác ?

Đột nhiên chàng trai thèm bắt chuyện với bà chủ quán như cậu thường nói chuyện với mẹ mình, nên quay sang tò mò hỏi bà một cách hết sức tự nhiên.

  - Chả là tối qua không hiểu làm sao những chú cóc lại lăn đùng ra chết khối ngoài hàng hiên và sáng nay tôi hốt đi rồi.

Cô gái cướp lời bà Mạnh nhanh nhẩu đáp lại.

-Nó phịa chuyện dọa cậu đấy, chớ có tin.

Bà chủ quán bước ra ngoài hàng hiên nói chen vào như muốn cắt đứt câu chuyện giữa cháu bà và chàng trai miền Nam xa lạ.

-Cháu vừa hốt chúng đi sáng nay thật mà. Thì hôm  qua chẳng phải chính bác đã quăng hai cái xác cóc thối ra góc vườn là gì ?

-Số là cháu gái tôi từ khi sinh ra đã sợ loài bò sát này rồi. Tụi nhóc hàng xóm biết vậy nên hôm qua lại đập chết mấy con từ đâu không biết rồi đem ném xác chúng vào hiên nhà tôi và nói dọa nó rằng những chú cóc này đã khoét chân tường chui vào chết tại đây. Rõ thật con gái ngần ấy tuổi đầu rồi mà ai nói gì cũng tin, cậu bảo như thế có ngốc không ?

Bà Ba Mạnh vừa nói vừa nhìn cô cháu gái bướng bỉnh lộ vẻ chán chường, rồi quay lại phía chàng trai bà nói với giọng biểu lộ hết lòng chân thật như muốn cố gắng thuyết phục để chàng trai không còn chút nghi ngờ gì nữa về chuyện cóc nhái chết mà cháu gái bà đã dại dột phun ra.

Lời giải thích của bà chủ quán làm chàng trai thích thú thầm trong bụng, cậu quay lại phía cái Thơ đang đứng tìm dò đài "ép-em" và mỉm cười với cô. Từ  trong loa một giọng sô-pra-nô bất chợt vút ra khiến   cho bầu không khí ồn ào tràn đầy mùi dầu mỡ xào rán   của cái phòng ăn tù túng như tưng bừng thêm với    nhịp quân hành ngợi ca chiến thắng Điên Biên. Chỉ lúc này chàng trai mới lại nhận ra là mình đang đói meo và cậu ta tranh thủ ngồi ngay ngắn trước suất cơm canh nguội ngắt và bắt đầu gắp lia lịa.

- Hãy tin em đi. Em thấy tận mắt mà và cả xã cũng

  đều thấy mà.

Cô gái tiến lại gần chàng trai nói thật nhỏ nhẹ trong khi bà chủ quán tự động chấm dứt cuộc đấu khẩu với cô cháu gái và bước đến bên chiếc võng căng ngoài hàng hiên mệt mỏi đặt mình xuống, bà Ba Mạnh cần đánh một giấc thiu thiu vào mỗi buổi sáng vì hàng ngày bà phải thức dậy từ bốn giờ sáng ra chợ mua thịt thà rau cỏ lo chuẩn bị những món ăn nấu sẵn như đậu phụ kho, canh cua, giò lợn luộc, cá kho v.v...cho tiệm cơm.

Bây giờ thì chàng trai hoàn toàn tin rằng cô gái đã nói thật về chuyện cóc chết và cậu cũng tin rằng cô đã cố dò tìm đài phát nhạc nhẹ nước ngoài trên sóng ép-em để giải thoát cậu ra khỏi mùi khẳm lặm đang xâm chiếm không gian toàn xã Nẽo này, nhưng đáng buồn thay cô chỉ dò tìm được những điệu quân hành rộn rã hay những bài hát ngợi ca chiến thắng vì   tất cả các đài phát thanh kể từ trung ương đến địa phương từ ba ngày nay đều đã được lệnh ngưng phát phục vụ thính giả trung thành những lời ca du dương ướt át về tình yêu của nước ngoài .

-Vâng, chính tui cũng thấy một ông già cầm que nâng  

xác một con cóc chết tại bến đò ven sông.

Chàng trai tiếp tục nói chuyện với cô phục vụ sau khi ăn sáng xong không biết bao lâu nữa, và bây giờ  đã vào đầu giờ chiều từng đợt gió mát từ bờ sông thổi tới làm rung rinh nhẹ những tán cây bạch đàn trồng trước nhà nhà và bầu không khí nóng bức bao quanh quán ăn như đã dịu xuống, cái Thơ phải vào bếp thu dọn còn chàng trai tìm được chiếc ghế nhựa đặt ngoài hàng hiên để ngả lưng đầu tựa vào khung cửa sổ thiu thiu ngủ.

Chàng trai mơ màng nhớ đến mẹ mình và tin chắc rằng vào giờ này bà đang nằm dỗ giấc nghỉ trưa nặng nhọc trên chiếc võng mắc tại đầu nhà, chốc chốc bà lại vung cán chổi đuổi một con gà mái lơ đễnh đang dẫn đàn con sán lại gần mẹt gạo phơi ngoài nắng và bà cũng đang nhớ nhung da diết cậu con trai vừa mới vắng nhà mới ba ngày nay.

Thế là cho tới cuối tuần trước cậu vẫn vẩn nghĩ rằng cuộc đời mình sẽ êm đềm như những đợt gió chiều lao sao trong rừng cây cao su xanh thẫm bao quanh căn nhà của hai mẹ con, mẹ cậu kể rằng cậu ngẫu nhiên ra đời ba mươi năm trước đây như là kết quả không mong muốn của mối tình qua đường giữa một chàng bộ đội trai tơ miển Bắc với một cô gái bụi đời tại một thị trấn miền đông Nam Bộ cửa ngõ thủ phủ Sàigòn, giữa bốn bức tường của  trường làng vào đêm ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Sau ngày đất nước hòa bình thống nhất mẹ cậu cũng như bao nhiên thân phận cặn bã của chế độ cũ cũng đã được đổi đời, bà được giao nhiệm vụ lao công vệ sinh tại ngôi trường của đồn điền cao su BP (nơi đã khai sinh ra cậu) theo biên chế lao công tạp dịch , nghĩa là quét dọn lớp làm vệ sinh nhà cầu và đun nước sôi pha trà, với mức lương ba mươi lăm đồng / tháng, và như một cán bộ nhà nước bà đã được phân cho một túp lều dựng tạm sau lưng trường.

Trường học cho trẻ nhỏ trong làng là một căn nhà  tường gạch-mái lá đứng lặng lẽ sừng sững giữa những hàng cây cao su thẳng tắp từ bao đời nay rồi, trường có một phòng học duy nhất với bốn cửa sổ không cánh trống huếch trống hoác lúc nhúc những học sinh từ 14, 15 cho đến những đứa 4, 5 tuổi, mà mẹ cậu do bận công-tác quét nhà đun nước thường quẳng cậu lê la trong đó kể từ khi cậu mới ba tuổi. Vì mục tiêu giáo dục cao cả của nhà trường này là dạy dỗ làm sao cho tất cả trẻ nít trong làng biết đọc biết viết và biết cộng trừ nhẩm các số nguyên, nên nhà nước chỉ bổ nhiệm về đây một vị thầy giáo trẻ măng (và cũng là duy nhất!) để ông này sẽ chỉ giảng dạy một chương trình học duy nhất do chính tay ông biên soạn ra, và dĩ nhiên là đám học trò của ông chẳng bao giờ mang cặp đựng sách vở đến trường vì cha mẹ chúng không đủ tiền mua những thứ xa xỉ ấy cho con em mình. Vào các trưa hè oi ả khi cả thầy lẫn trò thưòng  ngật ngưỡng ngủ gật giữa tiếng ve kêu rỉ rả trong lúc bỏ dở trên bảng đen một con toán uyên bác đại loại "trò có 8 cái kẹo ăn hết 5 cái thì còn mấy ?", vì thế cho nên cậu bé ba tuổi lê la khắp các xó xỉnh bắt nhện hay vồ ruồi nhặng, thỉnh thoảng một chú trống tơ nhẩy lên thành cửa sổ lớp vỗ cánh đồm độp gáy tí-tì-te hay một chị mái ri đi tìm ổ đẻ cục ta-cục tác làm cả thầy lẫn trò bất thình lình bừng tỉnh ngơ ngác, còn cậu bé thì bật cười như nắc nẻ. Trong khi buông thả trí nhớ bay về những kỷ niệm thời thơ ấu nỗi nhớ nhung bạn bè của cậu thường gắn liền với tiếng vo ve của những chú nhặng xanh bay vi vu trong lớp học rồi xà xuống kiếm mồi trên những cái đầu trọc lốc đầy mụn ghẻ, sau khi no nê chúng thường đậu lại nghỉ trên tấm bản đồ dài ngoằng in xanh đỏ hình chữ S rồi mới cất cánh bay vọt ra cửa sổ sau khi để lại đâu đó trên bản đồ những đốm phân đen ngòm.

Nhưng rồi khi cậu vừa tròn sáu tuổi thì mẹ cậu nghĩ rằng biết đọc biết viết và tính nhẩm là thâu thập đầy đủ các kiến thức để lao vào cuộc sống thực tế  được rồi, vì thế nên bà đã bắt cậu rời ghế nhà trường kiếm tiền phụ thêm vào đồng lương ít oi của mình và bà giao cho cậu việc chăn thả đàn gà.

Kể từ lúc đó cho đến lớn khôn thực sự, như bất cứ đứa trẻ nào khác trong làng, cậu đã dần dà hiểu rõ thế nào là bay nhẩy trong cuộc đời đầy rủi ro và thế nào là tay làm hàm nhai, và nhờ đó mà cậu đã có thể đóng góp ngày một nhiều hơn phần giá trị lao động thặng dư của mình vào cái ngân quỹ èo uột của hai mẹ con.

Chăn nuôi một đàn gà không hề đơn giản chút nào, từ sáng tinh mơ khi tiếng gáy của con trống đầu đàn vang lên cậu liền vùng thức dậy chạy ngay ra mở chuồng lùa đàn gà ra các gốc cây trong vườn để chúng lùng kiếm những chú sâu chậm chân quay về nơi trú ẩn, trong lúc đó cậu sẽ tranh thủ quét chuồng thu gom phân gà để bón cho những gốc ớt chỉ thiên trồng bên cạnh bể nước mưa. Hàng tuần cậu còn phải phát quang dọn sạch cây cỏ xung quanh chuồng gà để  rắn và chuột không có chỗ ẩn nấp rình mò ăn cắp trứng gà, hàng ngày trước khi trời nhập nhạng cậu  thường xuyên đi rảo một vòng trong sân trường để ý nhìn xem bọn nhóc chuyên bắt trộm gà và ăn cắp trứng đẻ rơi có lảng vảng ở đó không.

Đến năm cậu được mười bốn tuổi má cậu giao thêm  chăm nuôi hai con heo nhốt chung chuồng, chăm nuôi heo cực hơn trông gà nhiều, từ sáng sớm đã phải rửa chuồng quét gom phân heo lại đem ủ với trấu và tro cho ngấu để dùng làm phân xanh bón lót ruộng hay pha loãng tưới cho vườn cải và rau lang trồng trong vườn sau nhà. Mặt trời lên cao rồi mới được tắm cho heo vì sợ chúng bị cảm lạnh, trong khi đó cậu lo nấu nồi nước gạo trộn cám cơm rau thừa cho ngấu, bắc ra để cho nguội rồi đổ vào cái chậu nhựa to đùng cho heo ăn. Ngoài ra một tháng trước khi gọi lái vào bán phải vỗ cho heo béo và hàng tuần phải thả chúng ra cho chúng chạy nhẩy thì thịt heo săn chắc. Tóm lại là từ sáng đến tối cậu loay hoay hết cả ngày giờ với hai công việc chính yếu là chăn heothả gà nên chẳng còn thời giờ đâu để đọc sách thêm hay đi bù khú với đám bạn tuy vậy cậu rất tự hào vì đã từng bước thay mẹ già yếu đảm đương được chuyện mưu sinh cho cả hai mẹ con kể từ lúc mới sáu tuổi cho đến hôm nay là đúng hai mươi bốn năm ba tháng mười lăm ngày.

Mẹ cậu là một thiếu phụ mặt buồn ít nói, vào lúc chiều tối trước khi mặt trời nơi đây khuất bóng rất nhanh sau những tàng cây cao su cao ngất bà thường ngồi đón gió trên chiếc võng mắc ở đầu nhà nhìn cậu  chơi đùa trên sân và cứ mỗi lần như thế kể từ ngày cậu mới chập chững biết đi, bà luôn ngạc nghiên về sự lớn lên từng ngày từng giờ của đứa con trai cưng, rồi bà ôm cậu vào lòng thổn thức. Những lúc đó cậu chẳng hiểu gì cả cho đến khi cậu được mười bốn tuổi trổ mã trong một thân xác quá khổ với hàng ria tơ lún phún mọc bên mép và đầu vú đã căng mộng cậu vẫn chẳng hiểu gì cả, cậu luôn sống vô tư với một niềm tin tưởng bẩm sinh là người phụ nữ đẹp nhất trần gian mà cậu sẽ quanh quẩn bên cạnh trong suốt cuộc đời chính là mẹ cậu. Đôi khi rảnh rỗi nằm đu đưa võng nơi đầu nhà cậu đã bắt đầu phải thay đổi thường xuyên vi trí nằm vì cái thân xác dềnh dàng của cậu đã trở thành quá khổ đối với chiếc võng chật hẹp, mỗi lần đạp xe lên chợ huyện trong bộ dạng quần sà loỏng-mình trần thường ngày cậu đã ý thức một cách mù mờ về những cái nhìn ngượng ngập của chị em bán gà tại chợ và danh hiệu "thằng gà tồ" mà họ gán cho cậu.

Cho đến đầu năm nay má cậu đã năm mươi tuổi buộc phải về hưu để nhường cái chân tạp dịch-lao công (mà bà đã đảm nhiệm trong ba chục năm qua) cho một cô gái trẻ tuổi có biên chế giáo viên vừa đến nhận công tác tại trường và cậu cũng vừa tròn hai mươi chín tuổi thì cuộc sống của hai mẹ con cậu cũng chẳng có thay đổi gì đặc biệt, ngoài việc cậu không còn ở trần khi hàng ngày đạp xe lên các sạp bán hàng tại chợ huyện ký gửi gà và trứng hay gọi lái về xem lợn. Khi về hưu má cậu được nhà trường cấp cho một giạ đất ruộng nằm bên ngoài khuôn viên của trường, cậu dựng lên tại đó một căn nhà lá hai phòng đàng sau nhà là vườn rau với chuồng gà và chuồng heo, kể từ lúc đó cậu mới thực sự xa rời cái trường làng đầy ắp kỷ niệm về những bạn bè một thuở ấu thơ và bất đầu sở hữu một bất động sản riêng của mình.  

Khi còn nhỏ sau khi sang nhà các bạn học chơi đùa, tối đến cậu thường thắc mắc với mẹ mình về sự vắng mặt của một người gọi là "tía" trong nhà, và mỗi lần như vậy thì mẹ cậu lại ôm cậu vào lòng rồi kể  cặn kẽ từ dáng người đến vẻ mặt mầu tóc mầu da của người tía mà từ khi ra đời đến giờ cậu chưa hề biết mặt. Cho đến chiều hôm thứ bẩy tuần trước khi má gọi cậu đến bên chiếc võng ôm vào lòng thì thào bên tai "tía con là một thằng cha tuyệt vời, con đã lớn rồi và má nghĩ rằng đã đến lúc con đi tìm ổng", thế rồi bà đặt vào tay cậu một cái mũ tai bèo vải dù mới và hơn một triệu năm trăm nghìn đồng tiền lẻ rồi nói "con đã đủ cứng cáp để tự đi tìm ổng rồi".

Chính vào giờ phút má cậu bất ngờ giao cho cái nhiệm vụ mới mẻ này thì cậu ý thức được ngay rằng cuộc sống lao động thẳng băng êm đềm của mình sẽ chấm dứt vì thế cậu đã phản kháng và từ chối nó  không chút đắn đo.

- Con biết "ổng" ở đâu tên gì mà tìm ?

Mẹ cậu khóc trong khi rút ra từ cái ba-lô con cóc cũ mèm một mảnh giấy nhầu nát mờ mờ hàng chữ bút bi "N.V.Mạnh, xã Nẽo, huyện X, tỉnh Y" rồi nói.

- Đây là di sản duy nhất tía con để lại khi giã từ mẹ, con cứ theo đúng địa chỉ mà tìm tới rồi hỏi ông Nguyễn văn Mạnh bộ đội cụ Hồ vào giải phóng miền Nam và gặp má tui ngày 30 tháng 4 năm 1975 nhen !  

Cậu thảng thốt nhận ra rằng dù mình luôn sống bên má nhưng đã ba mươi năm nay "bả" chỉ là một thiếu phụ cô đơn và thế là cậu thương má vô ngàn và hứa sẽ lên đường "đi tìm tía" vào ngày mai.

Vào sáng ngày hôm sau cậu leo lên một chuyến tầu chợ tại cái nhà ga thị trấn Xuân Lộc hẻo lánh miền đông Nam Bộ, chui vào ngồi chung toa với các mẹ các chị buôn thúng bán bưng lổn ngổn bên mình những sọt   rau quả và lồng gà rọ heo.

Xe lửa vượt qua những đồn điền cao su xanh thẫm bạt ngàn và mãi đến chiều hôm đó cậu mới đón được một chuyến tàu Bắc Nam chạy suốt từ thành phố HCM ra đến thủ đô Hà Nội tại một ga trung chuyển hẻo lánh , con tầu thống nhất dài ngút ngàn nổi còi vang dội rồi lao đi trong đêm tối chập chùng chỉ khi nào nó giảm tốc độ phanh kin kít và dừng tại một nhà ga bụi bậm nào đó giữa cảnh rừng núi âm  thì cậu chợt tỉnh giấc và trên suốt tuyến đường dài đó thỉnh thoảng cậu mới có dịp thò đầu ra khỏi toa mua một đĩa cơm bụi nóng hổi nuốt vội, và cứ như thế mà cậu đã vượt qua cả ngàn cây số để sáng sớm hôm nay cậu may mắn đáp xuống đúng cái ga chợ huyện X (thuộc tỉnh Y như mẹ cậu dặn).

Hôm nay đúng là ngày phiên chợ huyện nên việc hỏi thăm đường đất sang xã Nẽo không lấy gì làm khó khăn, cậu lấy đò ngang vượt nhánh sông Bình táp vào cái doi đất phía bên bờ thôn thượng và gặp cụ Cối đang ngồi ngó trời mây. Bây giờ sau bữa cơm suất kèm vại bia hơi thì chàng trai miền Nam đang ngủ ngồi vật vờ trên cái ghế tựa bằng nhựa đặt ngoài hàng hiên tiệm cơm bình dân của bà Ba Mạnh lòng nhớ mẹ bồi hồi. Cậu nhớ lại sau khi nhậncái nhiệm vụ đi tìm tía má cậu giao cho, cậu đã chọn ra hai cái áo kaki cũ một nhồi vào ba-lô con cóc một phủ ra ngoài quần bò sờn mà cậu vận quanh năm suốt tháng,  má cậu nhét kỹ trong túi áo lót mặc bên trong hơn triệu rưỡi bạc lẻ mà bả đã dành dụm suốt đời, đội  lên đầu cậu cái mũ tai bèo rồi cùng cậu tất tả ra ga xe lửa, khi nhìn má đứng trên "ke" vẫy tay giã từ cậu tự hứa quyết tìm được tía cho bả mới trở về.

Do thân xác còn mệt mỏi rã rời sau một chuyến tầu xe vất vả hàng nghìn cây số nên cậu luôn xoay đổi vị trí nằm trong lúc ngủ ngoài hàng hiên tiệm cơm,  chân cậu đạp liên hồi vào khoảng không cứ như thể cậu đang thay đổi thế nằm trên chiếc võng quen thuộc treo ở đầu hồi nhà và trong giấc ngủ trưa nặng nề nơi phương trời xa lạ này cậu đột nhiên rơi vào một giấc mộng kỳ cục khiến cậu bức bối: cậu mơ thấy mẹ mình trong khi quét chuồng heo đã quên cài then cửa vì thế hai con heo thiến giống Thái đã sổng ra và chạy tuốt vào đồn điền cao su, rồi trong đêm khuya mẹ cậu còn lang thang như một bóng ma đi tìm heo, sau đó cậu mơ thấy mình đã gặp đươc "tía" và ngượng ngùng kể lại chuyện mất con heo đã gây tại họa cho hai mẹ con cậu như thế nào. Cuối cùng cậu đã sượng sùng giải thich là ông phải trợ cấp một khoản tiền nhất định để cậu có vốn gây dựng lại đàn heo, và cậu đồng ý là như thế coi như ông trả nợ đủ cho má mình về công dưỡng dục cậu cho đến ngày hôm nay nhưng tía cậu lại tảng lờ và ngồi im.

Tỉnh dậy sau giấc mơ hãi hùng đó cậu thấy trời đã tối và thân thể mình rã rời, và tệ hại nhất là đúng lúc cậu tính hỏi cô phục vụ về chỗ ỏ của tía mình thì cậu phát hiện ra cái mảnh giấy nhầu nát trên đó  có ghi tên và địa chỉ "ổng" (mà mẹ đã trao cho cậu) đã bị rơi mất đâu đó trên xe lửa, vì thế cho nên cậu chẳng còn biết bấu víu vào đâu để gỡ rối cho cái hoàn cảnh nghiêm trọng không lối thoát của mình vì trong lúc này tâm trí cũng rã rời không thua gì cái thể xác đang mang nó.

Trong cơn thất vọng cùng cực đó cậu bỗng thấy nhớ mẹ da diết và thương bà vô vàn, và cứ như thế cái đầu óc mụ mẫm của cậu chỉ quanh quẩn giữa những giòng suy nghĩ mông lung và chỉ còn nhớ nổi tên tía mình bắt đầu bằng chữ "M..." mà thôi, thế nhưng trong lúc cậu không còn chút hy vọng nào thì bất chợt trí óc cậu chợt lóe lên và phát hiện ra một điểm sáng nơi cuối đường hầm tối tăm: sáng mai cậu sẽ đến trụ sở ủy ban nhân dân xã hỏi về tung tích  một người bộ đội miền Bắc vào giải phóng miền Nam tên bắt đầu bằng chữ "M" đã gặp gỡ má tui vào ngày ... sau đó để lại một đứa con rơi và trở ra Bắc.

Nhưng cậu không hề biết rằng trong khi mình đang rơi vào cơn ác mộng  thì cô phục vụ kiêm phát thanh viên tên Thơ đã thông báo trên cái loa phóng thanh treo trước quán cơm rằng ngày mai ủy ban nhân xã đóng cửa không làm việc và toàn dân trong xã sẽ phải có mặt tại sân vận động đất nện vào buổi sáng sớm để chuẩn bị mít-tinh chào mừng "lễ hội kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điên Biên".

Trời đã tối sẫm quán cơm đã lên đèn hắt ra ngoài hàng hiên chút ánh sáng vàng vọt, chàng trai không quen với khí hậu đầu hè nóng ẩm của miệt đồng bằng Bắc Bộ bắt đầu cảm thấy mồ hôi trên thân thể mình liên tục rịn ra khiến cho cậu cảm thấy bực bội đến nỗi không thể nuốt nổi suất cơm tối mà cô gái phục vụ tại quán đã nhanh nhẩu dọn sẵn trên bàn, trong nỗi cô đơn và thất vọng chàng trai miền Nam quay trở lại cái bến đò ngang ngồi khóc nhớ mẹ tỉ tê.

Trong lúc này cụ Cối đang ngồi ngay ngắn trước bu-rô đặt trong góc văn phòng ủy ban nhân dân dành  cho ban văn-xã, cụ ngồi thẳng lưng trên cái ghế tựa phủ lớp vec-ni vàng long lở cố gắng tập trung tư tưởng để viết cho xong bài thuyết giảng của mình, thỉnh thoảng ngừng viết phanh ngực áo ra đón những đợt gió nóng từ chiếc quạt trần cũ kỹ lắc lư trên trần phả xuống, và bất chợt cụ ý thức ra rằng tư tưởng của mình đã thay đổi rất nhiều kể từ khi cụ bị đuổi ra khỏi khóa học "chống diễn biến hòa bình" tại trường Đảng vì đã quá say mê nghiên cứu các bài báo tiếng Việt do báo chí hải ngoại đăng tải (thường được dịch từ báo chí phương Tây) về các cuộc mạng nhung tại Nga và Đông âu vào thập niên 90 của thế kỷ trước. Cụ chợt hiểu ra rằng những tin tức nức lòng của phe ta về các thành tích vô địch của các nước cộng sản anh em mà cụ đọc được trên báo Nhân Dân suốt năm mươi năm qua, thí dụ như "người dân Ba Lan ăn nhiều thịt bò hơn người dân Anh", "Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ", "Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng Mỹ" hay "Y học Đức (Đông !) thay óc người như thay xăm xe đạp"..., chỉ là láo khoét và trong thực tế thì chính các cuộc cách mạng "nhung" này đã như những trận mưa đầu mùa làm sống lại những trái tim héo tàn và đầu óc mê muội của người dân các nước tự xưng là xã hội chủ nghĩa này.

Bên ngoài không khí bắt đầu ngột ngạt khó thở và bầu trời vần vũ đặc mây không tiếng ve kêu làm cho

cây cối và con người rũ ra hình như đang sẵn sàng ập xuống xã Nẽo cơn mưa rào đầu mùa vào đêm nay, cụ Cối từ tốn rút từ túi quần ra một chiếc khăn mặt  trắng sọc đỏ đưa lên lau khuôn mặt ướt đẫm mồ hôi rồi gục đầu xuống bàn thả hồn tìm về quá khứ, những khoảnh khắc thăng hoa rực rỡ như thế này vẫn  thường đến với cụ trong thời tráng niên ngay cả trong những giờ phút nguy khốn nhất của cuộc đời: chẳng hạn trong khi gập mình còng lưng đẩy chiếc xe thồ chở nặng trên dốc núi bùn lầy của chiến trường Điên Biên cụ mơ về một xã Nẽo ấm no-hạnh phúc, rồi sau khi đã trải qua những năm tháng sống trong cái "địa ngục trần gian" của giai đoạn cải cách ruộng đất tại xã vào thập niên 50 (thế kỷ trước !) thì hình như tâm hồn cụ cũng như bà con trong xã đột nhiên trở thành thui chột không còn khả năng thăng hoa nữa và ước mơ duy nhất của mọi người kể từ lúc này chỉ là  được "sống mòn" cho đến hết đời.

Phấn khích bởi sự liên tưởng quá khứ bất ngờ này khiến cụ Cối thoát ra khỏi mớ cảm xúc rối như bòng bong, cụ không còn thấy nóng bức nữa mà trái lại cảm thấy một luồng khí lạnh chạy từ đỉnh đầu dọc theo xương sống rồi lan tỏa đến tận gan bàn chân mình, rồi sau đó cụ cảm thấy một nỗi sợ hãi ghê ghớm đang xâm lấn cơ thể mình mà không biết xuất phát từ đâu, thế là cụ thảng thốt la lên "bây giờ thì cái ác đã tràn ngập và cái mùi cóc chết khẳm lặm đang bao phủ toàn thể đất nước này rồi". Bật ra câu hét trên cụ không ngờ rằng mình đã hét lên một cách vô thức đúng cái câu mà sáu mươi lăm năm trước khi chú bé Cối lần đầu tiên được mẹ dắt theo lên chùa, bât chợt chú thấy luồng mắt như hai viên đạn của "ông Ác" phóng thẳng vào "của quý" của mình và thế là chú há hốc mồm la lên cũng cái "câu ấy".

Và trong tư thế như vậy cụ Cối bất chợt nhận ra mình thực sự đang sống trong những cảm xúc mà cụ chưa từng biết đến trong bốn mươi chín lần ngồi soạn những bài thuyềt giảng vào các buổi chiều trước ngày lễ hội mừng chiến thắng trước đây (với nguồn cảm hứng lấy từ những giấc mơ của cụ về Bác Hồ !), vì thế nên cụ say sưa ngồi viết một mạch bài thuyết giảng về "sự tương quan giữa sa đọa tinh thần cách mạng vô sản và hiện tượng cóc chết tại xã Nẽo". Khi cụ Cối đặt dấu chấm hết vào bản thảo bài thuyết giảng dài mười lăm trang mà cụ đã say sưa sọan thảo trong tám giờ liền thì bên ngoài trời đã tối. Lúc đó tâm hồn cụ chợt sung sướng đê mê tận hưởng niềm vui sáng tạo mà trí tuệ cụ đã mang lại và cụ quên béng mùi khảm lặm của xác cóc đang bốc lên từ chân tường văn phòng ủy ban nhân dân xã, rồi trong một tư thế rất cao hứng cụ vụt đứng dậy huơ cao cánh tay phải bắt đầu oang oang đọc tập dượt cái bài "thuyết giảng vĩ đại" mà cụ sẽ đọc vào buổi mít-tinh chào mừng chiến thắng vào sáng ngày mai. Trong bốn mươi chín năm qua cụ thường kết thúc bài thuyết giảng của mình bằng cách hét to vào mi-crô khẩu hiệu "Đảng CSVN muôn năm" và mỗi lần hét như thế cụ đều tin chắc rằng toàn dân xã Nẽo tưởng chừng như đang bị lầm đường lạc lối bởi những âm mưu chống phá của địch sẽ tức khắc được cụ đưa trở lại cái lối mòn duy nhất dẫn đến một thiên đàng nơi trần thế, thế nhưng trong bài thuyết giảng năm nay cụ đã hoàn toàn đổi mới tư tưởng khi nhận thức ra  chính là cái mùi cóc chết khẳm lặm đang lan tỏa kia  cái đã làm cho tinh thần của dân tộc này bại hoại từ năm mươi năm qua!

Bây giờ mới chín giờ đêm mà xã Nẽo đã chìm sâu trong bóng tối, Tổng Công Ty Điện Lực (nhà nước) từ ngày đổi mới mạng lưới điện quốc gia đã được tự động hóa để thực hiện nghiêm chỉnh kế hoạch cắt điện các miệt nông thôn ngoại thành (sau bản tin bẩy giờ tối của của đài truyền hình VTV1) để dồn điện cho các khu đô thị văn minh hiện đại, vì thế cho nên cụ Cối sau khi soạn bài thuyết giảng xong đã thảng thốt nhận ra hoành cảnh khó khăn của mình khi thấy mình đang phải mò mẫm tìm đường trong một văn phòng ủy ban nóng hừng hực và tối om vì quạt trần đã ngừng quay và bóng điện tắt ngúm, rằng những con muỗi vằn mang mầm bệnh sót rét đang bay lượn vo ve bên tai trước khi lao xuống tấn công cụ, và sau cùng cụ càng cảm thấy khó chịu khi chợt nhớ ra rằng nếu về nhà vào giờ này cụ sẽ chẳng ngủ được mà chỉ nằm ngửa duỗi thẳng chân trên chiếc giường cá nhân cho đến tận sáng để nghe những con chim lợn mỗi khi bay qua thôn hạ lại kêu như bị chọc tiết. Cụ chợt nhớ ra mình chưa ăn cơm tối và nghĩ rằng không chừng lũ chuột đã chén mất bữa cơm tối bốn món (cơm-canh-đậu phụ-rau muống xào) mà cái Thơ đặt trên bàn ngoài hàng hiên, và như thường lệ trước một tình thế bế tắc vô vọng như thế này cụ thường phải giải tỏa nó bằng phương cách "thắng lơi tinh thần". Thế là cụ hướng ngay tâm hồn mình về cái doi đất ven sông nơi gốc cây sung già mà mỗi buổi sáng tinh mơ cụ ngồi trầm ngâm dõi mắt nhìn theo những con cồng cộc đang bắt mồi trên sông trông như những chấm đen lặng lẽ trao lên đảo xuống một cách đều đặn. Trong thực tế cụ đang mộng du định hướng mò mẫm trong bóng tối cố tìm cách bước về phía cửa ra vào nhằm mau chóng thoát ra khỏi bốn bức tường văn phòng ủy ban xã. Thình lình cụ vấp phải một cái chân bàn và ngã xấp xuống sàn nhà bề bộn những biểu ngữ chai lọ và dây nhợ. Một cảm giác đau điếng nhói lên từ bên sườn rồi trước khi ngất lịm đi cụ nhận ra nhức nhối xuất phát từ điểm này bắt đầu lan tỏa ra khắp thân thể mình. Trước giờ phút lâm chung cụ đã không quên gom góp toàn thể sức sống còn sót lại trong thân xác  thúc đẩy trí tuệ lóe sáng đánh giá lại toàn bộ ý nghĩa cuộc đời cụ: đánh giá về tính không cân đối giữa nhọc nhằn thân xác và vinh quang tinh thần, về  biên giới mong manh giữa hèn nhát và anh hùng, về khoảng cách gần kề giữa tội lỗi và thánh thiện và  sau cùng về sự vô nghĩa toàn bộ của tuổi già và cái chết. Trước khi bước vào cõi hư vô cụ cũng còn thời gian và tỉnh táo để nhận ra rằng cái vật sù sì khẳm lặm nổi cộm dưới má mình là một cái xác cóc chết, và cụ thảng thốt thêm vào "bảng đánh giá" chúc thư rằng chính nó là kẻ trong suốt năm mươi năm qua đã kìm hãm sự hình thành ra bất cứ tư tưởng sáng giá nào về một con đường giải thoát cái xã Nẽo này ra khỏi sự nghèo đói, và thế là cụ thốt lên lời rên rỉ sau cùng mà cụ nghĩ rằng nó sẽ là di chúc cụ để lại cho hậu thế: "Hỡi Bác kính yêu! Bốn mươi chín giấc mơ vĩ đại về Người đã chẳng thể giúp lão Cối này  đưa dân xã Nẽo đứng lên chen vai thích cánh với thiên hạ được".

 

Nhung thực ra cụ Cối chỉ bị chết lâm sàng trong chốc lát, cụ không biết mình đã úp mặt trên sàn đất văn phòng ủy ban xã trong bao lâu vì khi tỉnh giậy cụ chẳng nhớ gì cả, không nhớ ngay cả việc mình đã để lại một di chúc tư tưởng trước khi lịm ngất đi một cách êm dịu. Bây giờ thì cụ đang phục hồi sức lực lẫn ba hồn bẩy vía, nỗi đau đớn và sự sợ hãi đã tan biến trong khi  trí lực phục hồi trở lại khiến cụ nhìn thấy ánh sáng lọt mờ mờ bên dưới cửa ra vào, nghe thấy tiếng kêu buồn bã của đàn vạc ăn dêm vọng về từ phía bờ sông lẫn tiếng gà gáy báo sáng lạc điệu cất lên từ xóm làng xa xa, thế là cụ biết chắc rằng mình còn sống và đương nhiên là cụ cảm thấy đói bụng và muốn  về nhà làm vài bát cơm nguội. Ngoài hàng hiên từ hồi chiều cái Thơ đã đặt trên mặt bàn gỗ tạp cái cạp lồng cơm bốn ngăn bên trên úp thúng và chặn gạch cẩn thận, trong ánh sáng mờ đục của đêm hè vắng lặng cụ Cối lùa vội ba hạt cơm vào bụng rồi đứng dậy rảo bước về phía cái doi đất ven sông.

Bây giờ thì cụ Cối ngồi ngay dưới gốc sung già và chẳng còn thấy đau đớn gì nữa, và thần diệu thay, cụ còn nhận ra hình như cú ngã sấp mặt làm cụ ngất lịm đêm qua đã làm cụ trẻ lại ba mươi năm, thế là cụ  thả tầm mắt nhìn ra mặt nước sông Bình mập mờ trôi lặng lẽ dưới sương sớm ban mai, tâm hồn bay bổng  làm cụ nhớ lại những cơn lốc bi thương trong đời, bỗng chốc trải dài trước mặt cụ như một cuộn tranh tàu buồn thảm: từ những mối tình bi thương oan trái của trai gái bên đạo-bên đời hai thôn thượng hạ cụ đã chứng kiến khi còn trai trẻ, đến những bả vinh quang hào nháng mà anh em cụ được vinh danh sau chiến thắng Điên Biên, rồi đến những năm tháng cải cách ruộng đất với những trận đấu tố tàn khốc dã nam và sau cùng đến những cảnh đấu đá dành giật quyền lực và tiền tài của đám cán bộ hàng con cháu đi B phục viện vào năm 1975....

Cụ ngồi trên cái doi đất nhô ra giòng sông mơ màng ngắm những ngôi sao sau cùng đang run rẩy trên bầu trời phía tây trước khi biến mất vào nền trời xanh lơ, những dây bìm bìm và lạc tiên dại leo cao mọc trùm lên những bụi bông bụt tưởng chừng như chúng được treo lơ lửng giữa làn sương mù là là và tỏa ra một mùi hương cây cỏ nồng nàn trên mặt sông nước vào buổi sáng đầu hạ. Gió sớm ban mai bất đầu dậy lên bay phả vào mặt rồi thấm dần vào từng tế bào trên thân xác mệt mỏi khiến cụ mê lịm đi trong im lặng để tận hưởng cho hết cái hạnh phúc muôn thuở mà thiên nhiên đã dành riêng cho nơi chôn rau cắt rốn đẹp nhất trần gian của mình. Rồi một ông mặt trời  tròn như cái bánh xe bò mầu đỏ thắm từ từ trồi lên mặt nước phía chân trời bên kia sông để rồi dần dà thu nhỏ lại như một cái đĩa bạc tỏa ra ánh sáng trắng đục nóng bỏng tràn ngập không trung.

Bỗng nhiên cụ nghe thấy tiếng khóc nấc tỉ tê văng vẳng phát từ một xó xỉnh nào đó, cụ bực mình đứng lên đảo quanh cố tìm ra kẻ nào đang phá vỡ sự bình yên quen thuộc của mình và cụ vô cùng sửng sốt khi thấy chàng trai miền Nam hỏi đường sáng nay đang ôm đầu ngồi khóc bên cạnh bụi ô-rô dại.

Không biết hai người một già một trẻ đã làm quen nhau như thế nào mà chỉ một lát sau hai mái đầu một bạc một đen đang chụm sát vào nhau thủ thỉ tâm tình như hai ông cháu gặp lại nhau sau bao năm xa cách, có lẽ tình tiết cuộc gặp gỡ này nếu viết ra thì cũng ná ná như những đoạn viết các ông tiên trong các truyện cổ tích hiện ra khi đứa trẻ gặp cảnh khốn cùng  mà cậu thường đọc khi còn nhỏ.

Thực vậy trong khi chàng trai đang thút thít thì cụ Cối mặt hiền như bụt nhẹ nhàng đưa tay vỗ vào vai cậu và hỏi.

- Làm sao con lại khóc, hãy kể sự tình và nguyên cớ

  cho ông nghe nào.

- Ông ơi ! Con cực kỳ cô đơn và thất vọng. Và chàng trai niền Nam chỉ đợi có thế để thổ lộ tâm sự.

Thế rồi chàng kể cho cụ nghe về cái thế giới hoang đường thuở ấu thơ của mình, một thế giới thần bí chỉ toàn những hàng cây cao su thẳng tắp đến tận chân trời với những tán lá không lồ xanh thẫm rậm rạp đến nỗi suốt ngày chỉ có vài tia nắng hiếm hoi có thể lọt xuống mặt đất ẩm mốc mùi lá mục, nơi đó khi chiều xuống cậu cùng với đám bạn thi nhau bắt những con dế chọi óng ánh vạch vàng trên cánh màu đen nhánh hay đỏ lửa, hay trong khi đang thơ thẩn một mình cậu bất chợt bắt gặp một cặp nhện  đu đưa làm tình trên những sợi lưới mong manh. Cậu cũng kể cho cụ nghe về nỗi sợ hãi khủng khiếp của mình khi lần đầu tiên nhìn thấy đám thợ hoạn đè nghiến con lợn đực hung hãn nhất đàn xuống sân rồi đưa dao cắt soẹt hai hòn dái lủng liểng như hai quả soài của nó, cậu nhớ lại cái cười trong trẻo của người mẹ trẻ khi nghe cậu kể lại rằng sau khi bị thiến con lợn đó trở thành nhát gan và hèn hạ và cậu không nhẫn tâm để nó sống như vậy nên đã đề nghị má cậu  gọi tụi lái vào bán quách đi cho xong.

- Thế cháu quê quán cha mẹ ở đâu làm sao lại ngồi

  đây khóc ? Cụ Cối nhẹ nhàng hỏi tiếp.

Vì  đã nghe má cậu kể đi kể lại cả chục lần về thân phận của mình nên chàng trai miền Nam đã tả lại khá dễ dàng trơn tru (tuy rằng cách diễn tả có pha lẫn khoa trương và tự hào!) về cái mối tình lãng mạn  giữa một chàng bộ đội miền Bắc còn tân (mà cậu chỉ nhớ có tên bắt đầu bằng chữ "M") với một cô gái ăn sương muời tám tuổi ngay trên sàn đất của ngôi trường làng vào đúng cái buổi  chiều mưa rơi rả rích một ngày cuối tháng tư năm 1975.

- Chín tháng sau cháu đã chào đời và lớn lên như cây cỏ giữa thiên nhiên, giờ đây hai mẹ con cháu sống trong một mái nhà tranh hai gian nằm bên ngoài khuôn viên trường học, hiện nay cháu chăm sóc bốn con heo và thả một bầy gà vịt. 

Chàng trai say sưa nói tiếp, dĩ nhiên cậu cũng kể thêm rằng để kiếm sống cho hai mẹ con cậu đã đảm đương hai công việc nhàm chán nói trên từ  hai mươi bốn năm qua, rồi đến hôm thứ bẩy tuần trước má cậu cho rằng thằng con trai ba mươi tuổi đầu của mình đã đủ lớn khôn và bả đã giao cho cậu nhiệm lên đường ra "huyện X tỉnh Y ngoài nớ để tìm tía nó".

Câu chuyện của chàng trai miền Đông Nam Bộ bất chợt làm cụ Cối nhớ đến câu chuyện tình giang dở giữa một chàng trai con nhà bần cố nông thôn Hạ với một cô gái con nhà địa chủ thôn Thuợng tại xã Nẽo này. Một cơn xúc động không thể kiềm chế được đã dâng lên tự đáy tâm can và như thể một chất xúc tác của phản ứng tâm linh nó thúc đẩy cụ Cối mạnh dạn kể cho chàng trai miền Nam xa lạ nghe về một chuyện tình mà cụ luôn luôn muốn giấu kín trong lòng, một câu chuyện tình huyền thoại đã bao lần giúp cụ có đủ sức mạnh vượt lên những thăng trầm của đời mình.

Chuyện bắt đầu bằng tiếng hò trong sáng trữ tình của chàng trai gặt thuê trên đồng lúa của lão địa chủ giàu nhất xã Nẽo, bằng tiếng hò ân tình trong vút như pha lê của cô con gái lão địa chủ như đáp lại lòng khao khát mong chờ chàng trai. 

- Tiếng hát giao duyên của một cặp tình nhân thì 

  lúc nào chẳng đẹp như tiếng suối reo.

Cụ Cối cay đắng thì thầm trong miệng, vì cụ biết rằng trong cuộc sống muôn thuở tại cái xã Nẽo này thì tình yêu và oan trái luôn trộn lẫn với nhau như một loại rượu quý và độc vừa làm ngây ngất vừa tàn phá trái tim con người, và giọng hò u hoài trên đồng ruộng của nó nếu có đẹp thì cũng chỉ là chứng tích văn hóa được cô đọng lại từ những mối tình ngang trái vô vọng mà những cặp tình nhân để lại cho hậu thế mà thôi.

Thế rồi vào một buổi sáng chàng trai, bất chấp lời can gián của bố mẹ, đã lấy hết cản đảm một thân một mình đến nhà bố cô gái cầu hôn, lòng chàng rộn rã như hòa nhịp với mặt trời rạng rỡ trên cao, với gió mát hây hây đưa hương vị của đồng lúa trổ đòng đòng bay ngào ngạt trên những cánh đồng chiêm xã Nẽo. Bố cô gái là một lão địa chủ keo kiệt có trong tay hàng chục mẫu ruộng cho tá điền cấy rẽ, và như thế  nếu lão ta có hám cái trò môn đăng hậu đối đến độ tin rằng trong xã hội phong kiến không thể có tình huống hôn nhân nào hợp lý hơn thì cũng là lẽ đương nhiên.

Sau khi chàng trai bần cố nông tên là Cối người thôn Hạ ngỏ lời cầu hôn, lão địa chủ nhìn thẳng vào mặt anh ta ví von hiểm ác.

- Thân phận đũa mốc như anh mà dám chòi mâm xôi cơ

  đây !

Chàng trai uất ức trơ mắt nhìn lão địa chủ một cách giận dữ như cố vạch tìm trong vẻ mặt của lão một nét độc địa dâm bôn nào đấy, nhưng chàng tuyệt nhiên chẳng thấy gì ngoài một cái mặt lạnh lùng hãnh tiến vốn có của bất cứ tên trọc phú nào.

Thế rồi vài tháng sau lão địa chủ đã tìm được một chàng rể môn đăng hậu đối cho cô con gái rượu, đó là con trai lão phó lý vừa lên tỉnh học song ‘’sơ học yếu lược(?)’’ trở về làng, và trớ trêu thay chàng rể con nhà trung nông mà lão địa chủ chọn mặt gửi con gái tên là Nguyễn văn Thịnh, lại chính là anh em con cô con cậu với chàng trai tên Cối.

Đám cưới được tổ chức rất linh đình và cô gái đã khóc như mưa trong khi làm lễ vu qui, phần đông dân cư trong xã gọi đó là nước mắt hạnh phúc "khấp như thiếu nữ vu quy nhật", một số khác lại thì thào rằng nàng đã bị ép gả cho một người mà nàng không hề yêu thương và đây chính là những giọt nước mắt khóc thương cho mối tình dang dở với chàng trai  tên Cối, nhưng lấy ai là người tìm ra được chân lý cho hai giả thuyết đối nghịch nói trên?

Nhưng cả hai phe đều nhất trí là của hồi môn mà lão địa chủ dành cho con gái khi về nhà chồng bao gồm ba mẫu ruộng, năm tạ thóc cộng thêm một phản tấm gỗ nghiến quả là một gia tài lớn và quả là cậu Thịnh được hưởng lộc lớn khi cưới vợ, nhưng họ làm sao tiên đoán được rằng chính ba mẫu ruộng hồi môn này đã làm cho ông phó chủ tịch Nguyễn văn Thịnh bị quy kết thành phần địa chủ và bị đem ra đấu tố ngay trong đợt cải cách ruộng đất đầu tiên tại xã Nẽo.

- Thế còn chàng trai nghèo khổ kia ra sao, chàng có ra đi biệt tích không ? Chàng trai Nam Bộ sốt ruột hỏi cụ Cối một cách ngây thơ.

- Không chàng đã ở lại an phận lập gia đình với một cô gái vừa vai phải lứa và hai vợ chồng sinh được hai gái đầu lòng, mãi về sau này người vợ mới mang thai thằng con trai út nối rõi tông đường, khi  chàng trai bần cố nông đang làm nghĩa vụ dân công nơi tiền tuyến Điên Biên thì chị vợ báo tin đã sinh ra một thằng cu đặt tên là Mạnh.

Chàng trai ngồi im lặng nghe cụ Cối kể và cậu cố ý nhìn xem có giọt nước mắt nào lăn trên gò má hay một cái cắn môi đau đớn nào trên khuôn mặt nhăn nheo của người kể chuyện không, nhưng ngoài cái giọng kể đều đặn thiết tha cậu đã không hề nhận thấy gì nên cậu nghĩ rằng cụ Cối đã kể câu chuyện của một nhân vật thứ ba chứ không phải về chính cuộc đời cụ.

                                                        

                      x

                                                      

Hai vợ chồng ông Thịnh hiếm hoi chỉ sinh được một gái đặt tên là Mận, khi nó vừa tròn bẩy tuổi ông Thịnh theo lời kêu gọi toàn dân kháng chiến của Bác Hồ đã vào bộ đội và đã từng mất một cánh tay tham gia chiến dịch Điên Biên, vào năm 1954 hòa bình lập lại tại miền Bắc ông phục viên về làng với quân hàm đại úy và là đảng viên, vì thế ông trúng ngay chức phó chủ tịch ủy ban nhân dân phụ trách khâu an ninh-quân sự của toàn xã Nẽo.

Khi bị lôi ra đấu tố lão địa chủ ỷ thế con rể đương chức phó chủ tịch xã mặt cứ điềm đạm như không, người ta kể lại bộ mặt này biến thành xanh như chàm đổ khi đám bần cố nông (bị lão bóc lột!) lôi lão ra đình đấu tố, sau đó khi tòa án nhân dân vừa tuyên án xong họ đã quá phẫn khích ùa lên sỉa sói vào trán lão kể tội rồi lôi lão xuống đánh đập không nương tay. Than ôi cái thân thể núc ních của một lão nông sáu mươi tuổi làm sao chịu nổi những đòn thù này, nên khi khiêng về nhà thì người lão đã bầm nát tả tơi và lão qua đời hai ngày sau đó.

Rồi đến lượt phó chủ tịch Thịnh (con trai tên phó lý ác ôn, con rể tên địa chủ cường hào) cũng bị mang ra đấu tố sỉ nhục và hành hạ, bất tỉnh mồm rỉ máu khi khiêng về và cụ Cối lấy tình anh em và tình đồng đội làm chỗ dựa tinh thần mới có đủ can đảm đợi trời tối mò sang nhà ông Thịnh đỡ đần thuốc thang và an ủi vợ con ông ta.

Khi cụ Cối ngắt lời thì chàng trai cũng không kềm được lòng đã thổ lộ tâm tư với cụ về cái mối tình sét đánh (đã xẩy ra vào đúng 12 giờ trưa nay) của mình với cô gái phục vụ tại quán cơm bình dân tên là Thơ, khi kể đến đây cậu nhắm mắt lại như để cảm thấy sự hiện diện của cô gái với những câu nói ẫm ờ vô nghĩa tỉ như"làm ơn treo mũ vào đầu ghế " nghe mới huyền diệu làm sao và trong tiềm thức cậu chợt lóe lên chân lý sau: cậu không thể nào sống trên cõi đời này nếu không có sự hiện diện bên cạnh của hai người phụ nữ, đó chính là má cậu và cô ta.

Cụ Cối sau khi nghe xong câu chuyện tình yêu của chàng trai chợt nhận ra đây chính là cơ hội mà cụ phải cố gắng giúp đôi trẻ tự cứu lấy "mối tình trong sáng" của chúng hầu như để chuộc lại những sai lầm thời trai tráng của mình, và chỉ có như thế thì nỗi đau khổ chứa chấp trong lòng cụ từ nửa thế kỷ nay mới có khả năng giải tỏa được.

- Có một điều làm ta trăn trở và hối hận suốt đời con ạ! Ta đã không đủ can đảm để khuyên chàng thanh niên bần cố nông kia trốn đi thật xa với người yêu của anh ta, chẳng hạn như vào tuốt tận miền Nam nơi có những đồn điền cao su bạt ngàn mà cháu nói tới.  Khi một chàng trai mang trong lòng mối hận tình thì nó sẽ đeo đẳng anh ta suốt đời vì thượng đế đã không tạo con người với khả năng lật ngược thời gian để hư cấu lại quá khứ, ta tin rằng nếu cặp tình nhân đó trốn đi thì sau này cô gái đã không  phải chứng kiến cánh bố đẻ và chồng mình bị tan tành sự nghiệp chết oan chết ức và bản thân cô ta đã phải u sầu rồi chết yểu. Lịch sử ngàn năm của đất nước này đã bao lần trải qua những "cơn lốc nhiệt đới u buồn" và trong những giai đoạn đau thương đó của dân tộc thì mạng sống của người dân chỉ như con sâu cái kiến. Những tên bồi bút cổ kim thời thường đổ  trách nhiệm về những chết chóc bi thương này cho cái gọi là "yêu cầu lịch sử hay cách mạng", thay vì phải chỉ rõ ra kẻ sát nhân chính là những tên hôn quân bạo chúa hay những nhà cách mạng ngu xuẩn tàn bạo.

Nhưng có một thứ họ không thể nào rửa sạch được đó là nỗi uất hận lan tỏa trong không thời gian đã khoét sâu vào lòng người dân xứ này từ năm mươi năm qua, như thể là những con cóc ngày đêm đục khoét chân tường từng tổ ấm gia đình rồi bỏ lại những xác thối bốc mùi khẳm lặm ra khắp thôn làng trong những ngày lễ hội mừng chiến thắng.

Cụ ngừng lại đôi chút rồi chuyển sang những lời dặn dò thực tế thiết thân đối với chàng trai.

- Cháu hãy quay ngay về quán cơm bình dân để bầy tỏ tình yêu với cái Thơ, và trước khi mặt trời còn chưa mọc người dân trong xã chưa ùa ra sân vận động  chuẩn bị mít-tinh chào mừng chiến thắng thì cháu  hãy đưa người yêu vượt nhánh sông Bình bằng cái thuyền nan ta giấu ngay dưới gốc sung này. Ta nghĩ rằng đất nước này sẽ cần một trận "động đất" phun nham thạch có diêm sinh để thiêu hủy những xác cóc chết thối và tẩy uế cho sạch cái mùi cóc chết khẳm lặm đang bao trùm nó. Ta chúc cháu và người yêu thượng lộ bình an, chắc mẹ cháu đang trông ngóng cả hai đứa tại cái ga hẻo lánh nơi đồn điền cao su xa xăm, và hãy nhớ rằng trong tương lai các cháu hãy cưong quyết bảo vệ cái hạnh phúc nhỏ nhoi và riêng tư của mình bằng bất cứ giá nào cháu ạ !"

Chàng trai thảng thốt hỏi lại cụ Cối.

 - Thế còn nhiệm vụ thiêng liêng đi tìm người "tía anh hùng" mà mẹ giao phó cho cháu ? Còn lời thề không tìm được "ổng" để mẹ cháu được thỏa mãn ước mơ "hạnh phúc-hôn nhân" quyết không trở về của cháu?, ông ơi hãy khuyên cháu phải giải quyết tất cả các chuyện này ra sao ?

- Có phải con mang ý định sau ngày lễ hội mừng chiến thắng sẽ đến văn phòng ủy ban xã nhờ lão chủ tịch Mạnh tìm ra "lý lịch" của tía mình không ?

Hãy bỏ ngay ý định đó và quên đi cái thằng cha xã trưởng vô tích sự đó. Nó sẽ chẳng nhúc nhích ngay cả ngón tay út của mình để giúp đỡ cháu đâu, ngay cái mùi cóc chết thối bốc khẳm lặm khắp thôn xóm đã ba ngày nay rồi mà nó có ngửi thấy đâu, đầu óc nó quanh năm ngày tháng chỉ lo những vụ lễ lạc mừng chiến thắng cũng đã đủ mụ đi rồi, còn đâu trí tuệ để đi tìm lại "căn cước văn hóa" mà tiền nhân để lại. Conhãy tin ở kinh nghiệm xương máu của ta, hãy cùng người yêu quay về với mẹ và xây dựng hạnh phúc riêng tư nơi những đồn điền cao su xa lắc, đó cũng là cái hạnh phúc mà thế hệ của ông luôn ước mơ mà chẳng thể đạt được".

Cụ Cối không nhớ là trong khi trả lời chàng thanh niên miền Nam cụ đã sử dụng chữ "con" thay vì chữ "cháu" một cách thân thương theo cách xưng hô "miệt trỏng" từ khi nào !

                                                          

                      x

                                                             

Khi chàng trai đang hối hả chạy về phía quán cơm bình dân để tỏ tình với cái Thơ thì cụ Cối ngồi lại bên gốc sung già lòng dạ bời bời sót sa thương tiếc cho cuộc gặp gỡ quá ngắn ngủi và éo le giữa cụ với người "cháu đích tôn" mà ông trời đã sui khiến cho cụ tình cờ phát hiện ra được.

Năm 1975 cậu con trai duy nhất của cụ Cối là ông Mạnh phục viên về làng  thì gia đình cụ đưởng hưởng ngay cái phúc song hỉ đoàn viên, con trai cụ Cối   đầu năm trúng chủ tịch xã rồi cuối nămcưới vợ. Nhưng bà chủ tịch Mạnh lấy chồng đã nhiều năm mà cứ trơ trơ ra không đẻ đái gì cả, theo các cụ trong xã  nói thì đó là do "phúc bất trùng lai" cònkẻ ác miệng lại to nhỏ rằng chắc ông chủ tịch Mạnh khi ở chiến trường B đã nhiễm phải cái chất độc "da cam" gì đó nên nó làm cho ông tuyệt đường con cái.

Khi cụ Cối nghe chàng thanh niên nói giọng miền  Nam bộ kể rằng mình là con rơi của một chú bộ đội mà má mình đã gặp gỡ  tại một ngôi trường làng thuộc đồn điền cao su BP vào đúng cái chiều mưa ngày 30/4/1975 thì cụ đã ngờ ngay, cụ chắp ghép những tình tiết này với những lời tâm sự riêng tư ít oi mà cụ nắm được khi cậu con trai Mạnh mới vừa phục viên, thế là cụ đột nhiên cho phép trí tưởng tượng của mình xây dựng lên từ những chi tiết đó môt "kịch bản đoàn viên" hoành tráng và mơ hồ như sau: thằng Mạnh con cụ lên đường chống Mỹ cứu nước khi tròn mười tám tuổi, bẩy năm sau trung đoàn của nó tiến vào thị xã Xuân-Lộc thuộc tỉnh Bình Phước chờ lệnh tiến về giải phóng Sàigòn. Nếu nó không phải đi nghĩa vụ thì làm gì mà cụ chẳng có đứa cháu đích tôn nối dõi tông đường từ lâu rồi, cụ nhẩm tính trong óc rằng khi quân đoàn của nó được lệnh yếm quân cả tháng trời tại cái thị trấn bao quanh bởi đồn điền cao su bạt ngàn này thì  chắc là cu cậu đã "bí tình" lắm rồi, một thằng trai tân phải giam mình trong rừng núi Tây Nguyên suốt bẩy năm trời thì khi xuống miệt đồng bằng làm sao tránh khỏi việc bồ bịch, trai anh hùng gặp gái thuyền quyền như rơm nỏ bén lửa làm gì chả bùng cháy ngay. Chắc nhờ cụ ăn ở hiền lành phúc đức  nên ông trời đã động lòng thương không để cho cái "chi họ" Nguyễn-văn nhà cụ "độc đinh" từ ba đời nay phải mang tội "tuyệt tự". Cụ là "đảng viên CS" vốn vô thần không tin vào những phép lạ do trời phật hay chúa trời ban cho, nhưng sự xuất hiện bất ngờ và  éo le của thằng cháu đích tôn của cụ vào đúng buổi chiều trước ngày hội mừng chiến thắng thì cụ phải giải thích một cách duy vật làm sao đây ?.

Thế nhưng trái tim của cụ Cối như muốn ngừng đập khi cụ định dàn dựng tiếp "đoạn kết" cái kịch bản hoành tráng mà cụ vừa phác họa ra với tựa đề:

"sự trở về quê cha đất tổ của đứa cháu đích tôn dòng họ Nguyễn-Văn anh hùng của xã Nẽo và lễ mừng đại đoàn viên".

Khi những trùm pháo hoa còn chưa kịp nổ tưng bừng trong trí tưởng tượng thì tâm trạng cụ Cối đột nhiên rơi vào hụt hẩng câm lặng, cụ ngồi đó bất động bên gốc sung già hai tay ôm đầu ánh mắt u buồn như hòa tan vào bầu trời đen đục, và điều này thật trái với lệ thường lệ vì hàng năm cứ vào cái buổi đêm trước ngày lễ hội mừng chiến thắng thì lòng dạ cụ luôn trào dâng một niềm phấn khích vô biên đến độ cụ chẳng quan tâm gì đến thế giới xung quanh nữa và trong thứ tâm trạng hưng phấn như thế cụ cảm thấy ở cái tuổi bẩy lăm như thế này cụ vẫn còn tràn đầy sinh lực để sáng hôm sau đến dự buổi mít-tinh và đọc một bài thuyết giảng dài vài tiếng đồng hồ.

Nhưng vào cái buổi sớm tinh mơ của ngày lễ hội mừng chiến thắng Điên Biên lần thứ năm mươi này cụ đang phải thận trọng tính toán từng đường đi nước bước, sau cùng cụ đi đến kết luận là mình phải gạt bỏ ngay ra ngoài kịch bản cái "đoạn kết" sau: "cụ sẽ bán nửa gia tài để tổ chức bữa tiệc "đại đoàn viên" mà cả xã mong đợi, mổ bò giết lợn nấu cỗ để mời đầy đủ lãnh đạo huyện và xã họ hàng nội ngoại thân hào và bà con xóm giềng đến chia vui là lẽ đương nhiên rồi, nhưng quan trọng nhất là cụ sẽ thay mặt cả họ mở đầu đại tiệc bằng lời tuyên bố long trọng rằng đứa con rơi của chủ tịch Mạnh sẽ là chi trưởng giòng họ Nguyễn-Văn của xã Nẽo anh hùng".

Dựa trên những kinh nghiệm đầy nước mắt của bản thân mình từ hồi trai trẻ sau cùng cụ cũng đã ý thức được rằng mình đang ngồi trên một chiếc thuyền nan chòng chành nghiêng ngả giữa một giòng sông đầy bão tố và con thuyền đó sẽ tức khắc lật úp nhấn chìm cụ, con cụ và cả đưa cháu đích tôn vừa tìm thấy một khi cụ công khai tuyên bố rằng ông chủ tịch Mạnh có một đứa con rơi tại niềm Nam.

Cụ rùng mình kinh hãi khi tưởng tượng tiếp rằng bà Ba Mạnh (nàng dâu tuyệt đường sinh nở của cụ) sẽ nổi ngay cơn ghen tuông như thế nàokhinghe tin trên, chắc nó sẽ tụ tập họ hàng bên ngoại lại để tính sổ với "tình địch" ngay tức khắc, sẽ kéo bè kéo cánh đến chửi bốc mồ bốc mả hai "mẹ con con đĩ  ấy" lên. Làm sao con dâu cụ có thể để rơi vào tay "con đĩ đó" cái cơ ngơi mà nó đã bỏ ra nửa đời người để gây dựng lên, trong đó đáng kể nhất là cái tiệm cơm bình dân có dàn Karaokê mà nó đứng tên chính thức là chủ sở hữu.

Sau tai tiếng nổ ra thì sinh mạng chính trị của chủ tịch  Mạnh (con trai cụ) sẽ ra sao ? Chắc là không thể yên lành được rồi nếu không muốn nói là sẽ tức khắc bị đe dọa, phe cánh đối nghịch trong chi bộ xã sẽ tranh thủ ngay cơ hội triệu tập các buổi họp đảng viên toàn xã để bới móc ra rằng đồng chí chủ tịch đã "phản bội" vợ con hủ hóa trong khi thi hành nhiệm vụ cứu nước nơi tiền tuyến, rằng lão ta đã dối "Đảng và Tổ Chức" có con rơi trong khi thi hành nhiệm vụ..., với chừng ấy tội lỗi thì không chừng cái sự nghiệp chính trị mà nó bỏ ra bao nhiêu mồ hôi nước mắt xây dựng nên sẽ tiêu tùng trong mây khói. Đấy là chưa kể đến giả thiết khi mọi chuyện vỡ lở ra thì bà hai Sen (tức cô Mận, cựu phó bí thư xã mẹ cái Thơ ) có bỏ qua mọi chuyện đấu đá với bố con cụ trong quá khứ hay không ? Hay là dưới sức nặng của hận thù và oán hờn gây ra bởi các cuộc tranh dành quyền lực và quyền lợi trong chi bộ xã giữa một bên là bè phái cha con cụ với bè phái của cái Mận đã trở thành một rào chắn triệt để ngăn cản không cho hai bên thông gia với  nhau, và nếu như vậy thì rút cục mọi oan gia gây ra bởi đám "người lớn" đều biến thành thảm họa chụp lên đầu hai đứa cháu mà cụ thương yêu nhất trên đời này.

Sau khi suy hơn tính thiệt cụ Cối kết luận rằng trong tinh thế hiện tại thì cái quan trọng hơn cả là giúp đỡ hai đứa nó (nghĩa là thằng cháu đích tôn của cụ với cái Thơ) rời khỏi xã Nẽo trốn biệt vào miền Nam, vì chì có như thế thì tình yêu của chúng nó mới không tan vỡ như một cái bong bóng xà-phòng.

Cụ Cối ngồi im lặng giữa cảnh sông nước đắm chìm trong bóng tối hỗn mang, phóng tầm mắt xa xa như tưởng chừng có thể nhìn thấy tận mắt đứa cháu đích tôn của mình với người yêu của nó đang vượt nhánh sông Bình êm ả trên  chiếc thuyền nan và giờ đây đang hối hả leo lên chuyến tàu thống nhất tại ga chợ huyện X để suôi Nam.

Sau khi thực hiện xong mưu đồ giúp hai đứa trẻ bảo vệ tình yêu cụ Cối bỗng cảm thấy trái tim mình trở thành cô đơn và trống rỗng vô vàn, một lóe sáng sâu thẳm trong trí tuệ vọt ra mách bảo cụ rằng cái nhiệm vụ duy nhất có ý nghĩa trong suốt cuộc đời mình đã hoàn thành và bây giờ là lúc cụ phải ra đi.

Trời sắp hửng sáng ngày lễ hội mừng chiến thắng lần thứ năm mươi sắp bắt đầu, cụ cảm thấy sự tồn tại của bản thân mình đang biến thành một trở ngại lớn cho quá trình tiến lên hòa mình vào dòng thác tiến bộ của nhân loại của thế hệ trẻ đương đại, cái "thông điệp" này trừ cụ ra thì mọi người dân của xã Nẽo đều đã hiểu ra từ lâu rồi, và như thế thì cụ không nhất thiết phải đọc bài thuyết giảng "sự tương quan giữa lễ hội mừng chiến thắng và hiện tượng cóc chết" trong buỗi mít-tinh sáng nay làm gì nữa. Cụ nhìn vào cái bản thảo mà cụ đã bỏ ra cả đời mình để soạn ra nó, nó trắng tinh không có một dòng chữ, và thế là cụ bình thản ném nó xuống nhánh sông Bình và coi như đây là động tác mang "ý nghĩa sau cùng" của cuộc đời mình.

 

                   X

 

Đoạn kết câu chuyện:

Vào sáng sớm ngày lễ hội kỷ niệm năm mươi năm chiến thắng Điên Biên người dân xã Nẽo tìm thấy xác cụ Cối nổi lềnh bềnh trên nhánh sông Bình ngay trước cái doi đất có cây sung già, biên bản pháp y ghi rằng theo thói quen cụ thường ngồi dưới gốc cây sung vào lúc sáng sớm để tìm thi hứng và chẳng may trượt ngã xuống. Bằng chứng duy nhất của lý lẽ nói trên là một tờ giấy học trò trắng tinh nổi lềnh bềnh bên thi thể úp mặt xuống nước của nạn nhân mà người dân xã Nẽo tin rằng đích thị đó là bản thảo của một bài thơ chứ không phải một bài huấn thị chính trị dài thòng.

Năm năm sau vào một sáng mùa thu ấm áp trên sân lát gạch một gian nhà ngói ba gian nằm ngoài khuôn viên trường tiểu học làng thuộc sở đồn điền cao su BP gần thị trấn Xuân-Lộc, có một con bé đang chạy chơi đuổi mấy con gà không cho mổ thóc đang phơi.

Mẹ của con bé tên là Thơ nói giọng bắc-kỳ không ai rõ góc gác ở đâu, người dân trong xóm đồn rằng năm năm trước có một chàng trai bản xứ đi tìm "cội nguồn văn hóa" của mình ở tận ngoài Bắc, khi trở về làng chàng ta tha từ ngoài nớ về một cô vợ lắm lời nhưng đảm đang hết cỡ, bà mẹ chàng trai than rằng đã chi hết "triệu rưỡi" cho chuyến Bắc du này !

Bây giờ chàng trai đã ba mươi lăm tuổi, cậu thay  má cáng đáng công việc chăn gà nuôi lợn để bà dưỡng già vui với cháu nội, vợ cậu thường vắng nhà từ sáng sớm thuê sạp ngồi bán gà tại chợ huyện, có tiếng là một nàng dâu hiếu thuận đảm đang.

Mẹ của cậu bây giờ yếu lắm rồi, bà ngồi đu đưa nhè nhẹ trên võng treo ở đầu nhà, luôn để mắt canh chừng đứa cháu nội đang cầm que đuổi mấy con gà không cho ăn lúa phơi trên sân. Buổi chiều cháu nội bà sẽ sang trường học chữ, nó sẽ lại cùng bạn bè và cô giáo ngủ gà ngủ gật và chỉ choàng tỉnh khi có chú gà vỗ cánh gáy te te bên thành cửa sổ.

 

Quay về câu chuyện ngày lễ hội kỷ niệm chiến thắng Điên Biên lần thứ năm mươi năm ấy tại xã Nẽo, vì thiếu bài thuyết giảng tràng giang đại hải mà theo lệ thường cụ Cối sẽ đọc trong buổi mít tinh toàn xã tại sân vận động nên lễ hội đã trở nên ngắn gọn trơ trẽn và vô vị do phải rút ngắn chương trình lại.

Mọi người trong xã quay ra tập trung chuẩn bị cỗ bàn lo đám tang trọng thể cho cụ Nguyễn văn Cối nguyên trưởng ban văn-xã (và cũng là bố ông chủ tịch Mạnh) và cũng kể từ năm ấy phong tục người dân xã Nẽo đã có đôi chút đổi thay.

Ông trưởng ban văn-xã mới (thay cụ Cối) thường đọc một bài thuyết giảng ngắn trong buổi mít-tinh thường niên kỷ niệm chiến thắng Điên Biên, thay vào đó mọi người dành nhiều thời giờ cho công tác "giết gà-mổ lợn-thịt cầy tơ" chuẩn bị cỗ bàn cúng giỗ cụ Cối vào đúng giờ ngọ cùng ngày.

Người dân trong xã nghĩ rằng không hiểu cái trận "động đất phun nham thạch diêm sinh" mà cụ Cối khi sinh tiền đã ước mơ có còn thật sự cần thiết cho xã Nẽo không ?, vì kể từ năm cụ Cối mất đi thì người dân trong xã cũng không còn thấy những con cóc  khoét chân tường chết thối trong nhà dân vào những những ngày lễ hội mừng chiến thắng hàng năm nữa .

                               

              Viết xong ngày 5/11/2003 tại HN.

                                                                           

                         Nguyễn Thu 

 

 

[nxl1] 

 

 

 

 

 


 [nxl1]