V́ lợi  ích của người đọc,

 xin tôn trọng nguyên bản và bản quyền của tác giả.

Cũng xin cho phép tôi tại đây nói lời tri ân với bạn bè chí cốt

đă góp những ư kiến quư báu cho tập sách nhỏ này.

Trân trọng cảm ơn. – Nguyễn Trung.

 

 

Bản chính thức

 

 

 

 

Tôi làm “chính trị”

Nhng k nim và trăn tr

 

Hồi kư

 

Nguyễn Trung

 

 

 

Phần một: Vào đời

Phần hai: Kẻ thất bại toàn diện

Phần ba: Suy ngẫm

 

 

 

 

 

 

Kính tng Cu M

 

 

Khai bút tại

Hà Nội – Vơng Thị, ngày 30-04-2018

 

 

Phần một

Vào đời

 

                                                           Vào tuổi U90 nh́n lại, tôi không ngờ cuộc đời ḿnh, trải dài từ những ngày cuối cùng của chiến tranh thế giới II  cho đến hôm nay, được chứng kiến hoặc trải qua rất nhiều sự kiện trọng đại của thế giới và trong nước ḿnh. Choáng ngợp trước thực tế này, tôi nghĩ phải cố ghi lại những trải nghiệm và kỷ kiệm khó quên...  và ngẫm nghĩ… Mong được chia sẻ với những ai quan tâm.

 

 

…Là một gia đ́nh tiểu công chức thời Pháp thuộc trong ngành công chính (travaux publiqes – cầu đường, thủy lợi…), nhưng tôi không hiểu tại sao gia đ́nh bố tôi hồi ấy lại có nhiều người tham gia cách mạng rất sớm, trong đó 2 em bố tôi tham gia từ trước 1945. Sau Cách mạng Tháng Tám, hầu hết các anh em và các cháu của bố tôi (bên nội) đều tham gia kháng chiến, trong số họ có một em và một cháu cùng là đồng môn trường Bưởi với anh Việt Phương và biết anh (sau này có lần anh Việt Phương nói với tôi là có biết họ)… Có thể do phong trào học sinh trường Bưởi thời bấy giờ có tinh thần chống Pháp cao?..

Sinh năm 1935, tuổi tôi đă được chứng kiến những này cuối cùng của chiến tranh thế  II trên nước ta, bắt đầu từ đảo chính 09-03-1945 Nhật lật đổ Pháp, tiếp theo máy bay Mỹ đă vào ném bom Hà Nội, Hải Pḥng và một số nơi khác, nạn đói 1945… Rồi nhưng ngày sục sôi của Cách mạng tháng Tám.

Tôi tham gia thiếu nhi Cách mạng Tháng Tám ngay từ ngày đầu tiên sau khi đi theo đoàn biểu t́nh của Việt Minh ngày 19-8-1945 chiếm Khâm sai Bắc Bộ phủ - nơi làm việc của Khâm sai đại thần Phan Kế Toại. Khoảng một tuần trước ngày toàn quốc kháng chiến 19-12-1946, gia đ́nh bố tôi và họ hàng rời thủ đô, tham gia kháng chiến chống Pháp.

Bỏ lại nhà cửa phía sau, lên rừng vào chiến khu, bọn trẻ chúng tôi chẳng biết ǵ là nguy hiểm và khổ - có lẽ đây là điều an ủi lớn nhất đối với người lớn. Chúng tôi thích nghi rất nhanh với cuộc sống mới trong chiến tranh, và phải tự làm lấy mọi thứ mà ăn, mà ở, mà sống!.. Tôi chỉ có một kỷ niệm nhỏ: Hôm ấy, mọi người đă lên hết các xe tay để đi ra bến xe, tôi c̣n nhảy tọt xuống đất, chạy ngược vào nhà, lục lọi măi mới thấy được quyển sách toán – cho các lớp moyen 1, moyen 2 và supérieur mà tôi rất thích. Tôi vớ mang theo, sau này hóa ra được việc vô cùng.

Vào khoảng năm 1948/1949, Tuyên Quang bắt đầu có trường trung học Tân Trào, với một lớp đầu tiên gọi là đệ nhất. Vài năm sau đổi tên, gọi theo hệ thống trung học cấp II và cấp III (thuộc hệ trung học phổ thông 9 năm). Cha mẹ tôi cho tôi đi học trường này. Trường xa nhà khoảng 40 km, đi bộ hết một ngày mới tới nơi. Cha mẹ cho tôi khoảng một chục cân gạo vừa sức đeo trên vai cùng với những hành trang khác, và một ít tiền đủ sống 1 tháng, hết tháng lại cuốc bộ hai lượt 40 km về nhà xin tiếp, và cũng là để thăm nhà…

Tại trường th́ sống nhờ nhà dân, theo kiểu góp gạo thổi cơm chung, tham gia mọi việc có thể của chủ nhà, từ làm việc đồng áng khi rỗi – hồi đó xính dùng danh từ, nên gọi là cùng với chủ nhả tham gia tăng gia sản xuất, khi xong bài vở th́ làm mọi việc khác có thể giúp chủ nhà, dậy con em chủ nhà học… Suốt những năm học cho đến hết cấp III, cuộc sống của học sinh chúng tôi đại thể là như vậy, nơi ở nhờ nào cũng được chủ nhà coi như con cháu họ trong gia đ́nh… Học ở trường vào buổi tối là chính, v́ ban ngày sợ Tây ném bom. Làm bài cũng ban đêm là chính, v́ c̣n phải tham gia tăng gia sản xuất để có cái góp với chủ nhà mà sống. Đèn học chủ yếu là một cái đĩa với một ngọn bấc lấy từ ruột cây bấc, thắp bằng dầu ép từ hạt cây sở (gọi là dầu sở). Sau này có giao lưu buôn bán với vùng địch chiếm nên mới có thêm loại đèn dầu hỏa (thời đó gọi là dầu tây)… Giấy mực đều thiếu, nhiều khi quá thiếu… Có những lúc phải tiết kiệm giấy bằng cách các bài nháp cho các môn toán, lư, hóa hầu như chỉ thực hiện viết trên cát cho bằng xong, cuối cùng mới chép kết quả vào vở… Thế nhưng, sau này chúng tôi vẫn tự cho ḿnh vào loại học giỏi, v́ khi vào học đại học ở nước ngoài, hầu như tại đâu sinh viên Việt Nam thế hệ chúng tôi cũng nổi tiếng là học giỏi… Có nguyên nhân tṛ chăm chỉ, song quan trọng hơn nhiều là có đội ngũ thầy dạy giỏi – sản phẩm của chủ nghĩa thực dân Pháp để lại hồi đó, và chương tŕnh học hợp lư. Nếu tôi nhớ không nhầm, cả trường Tân Trào lúc tôi nhập học không có thầy giáo nào tốt nghiệp một trường sư phạm nào đó. Các thầy phần lớn là đă học xong tú tài hoặc đang học đại học rồi CMT8 đến, cá biệt đă có thầy tốt nghiệp đại học…

Suốt cấp II và cấp III chúng tôi không có chuyện làm bài tập và bài thi theo đáp án như bây giờ. Các thầy của chúng tôi cũng không có giáo án, mà chỉ dậy theo chương tŕnh, dựa vào sự chuyên sâu của ḿnh và sự bay bổng của nhiệt t́nh đối với môn ḿnh giảng dậy. Phần thời gian thầy tṛ trong lớp thảo luận hay tranh luận với nhau hầu như ngang ngửa với phần thời gian nghe giảng và ghi bài. Sách giáo khoa hồi ấy vô cùng thiếu nên càng phải học theo cách này… Chỉ duy nhất mỗi môn tiếng Pháp là có tiết mục “récitation” – bài học thuộc ḷng, thầy kiểm tra bằng học sinh đọc thuộc ḷng tại lớp – thường là các bài thơ cho học sinh trong chương tŕnh thời Pháp cũ từ enfantin đến élémentaire mà tôi đă học từ lâu, nhưng lên cấp III cũng bỏ nốt và bỏ luôn cả môn tiếng Pháp v́ không có thầy dậy, và lúc này cũng có chủ trương bỏ dậy ngoại ngữ này cho nhẹ chương tŕnh.

Tóm lại, có thể nói là không có nạn học vẹt!..

Hôm nay nh́n nhận lại, tôi và nhiều bạn bè cùng trang lứa vẫn cho rằng nền giáo dục của nước ta thời kháng chiến chống pháp có nhiều cái hay hơn bây giờ, hôm nay khó so được! Trường học của chúng tôi c̣n là một trung tâm văn hóa của địa phương – nơi phát động hay truyền bá các phong trào cần thực hiện, v́ học sinh có khả năng trợ giúp đắc lực.  Từ vận động sống vệ sinh, tiếp tục chống mù chữ, chống mê tín dị đoan, đến làm sổ sách thuế nông nghiệp, vân vân… Nghĩa là chúng tôi sống rất gắn bó với dân sở tại, và cũng được dân sở tại giúp đỡ rất nhiều – như cho đất và cho tre nứa làm trường, làm hầm trú ẩn, cho nhiều thứ khác…

Trở lại việc tôi thi vào học đệ nhất trường Tân Trào.  

Tôi nhớ, thi nhập học năm đó có một bài toán và một bài văn. Bài toán tôi làm ngon ơ. C̣n bài văn: “Bạn hăy b́nh luận câu nói của Engels: Tự do là phải hiểu lẽ tất yếu!”

…Tôi cắn bút có lẽ mất đến một nửa thời gian làm bài. Những năm sống trong rừng, qua đôi ba quyển sách mỗi lần bố tôi hay các chú các bác mang theo dọc đường mỗi khi ghé về thăm nhà, tôi đọc nhờ hoặc đọc lén, nhờ đó hiểu vơ vẽ Engels là ai, cả những ông Marx, Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông nữa… Tự do là ǵ, tôi hiểu ở tuổi của tôi. Lẽ tất yếu là ǵ, tôi cũng hiểu ở mức ấy. Nhưng toàn bộ cái mệnh đề Tự do là phải hiểu lẽ tất yếu! th́ lại là câu đố khó với tôi.

Tôi lục lọi trí khôn của ḿnh… Mô tả thô thiển là thế này: Tôi xé cái mệnh đề này làm 2 phần, suy nghĩ loay hoay mọi cách chán rồi mà vẫn thấy không ổn. Tôi lại xé thành 3 phần, lấy cái phần có mỗi chữ “hiểu” làm trục… Đem mọi suy nghĩ ra ghép lên ghép xuống ngược xuôi các phần này lại theo mọi cách nghĩ hay câu hỏi có thể. Tất cả xoay quanh cái trục có mỗi một từ “hiểu” này… Cuối cùng tôi lần ra: À, tự do phải có cái ǵ đó mới đạt được, đạt được tự do nào đó cũng phải trả cái giá nào đó… Hiểu được hai vế như thế, tôi tán thêm được vế thứ 3: Phải có cái ǵ đó để có thể chọn lấy cái tự do nên chọn hay là ḿnh thích, chứ không nên bất kỳ thứ tự do nào cũng vơ lấy… Thế là nửa phần giờ c̣n lai, tôi làm một bài văn ngon lành. Tôi được nhập học với điểm cao. Nh́n lại, đây đúng là câu chuyện A,B,C của trẻ con. Nhưng v́ là câu chuyện A,B,C của trẻ con, nên nó đi theo tôi suốt đời người – một dấu ấn đầu tiên không phai…

Quả thật kết quả tôi thu được cho ḿnh từ bài văn này cứ lớn măi lên… Càng nhiều tuổi, và hôm nay càng về già, kết quả này vẫn lớn tiếp cùng tôi theo thời gian… Cái tựa đề bài văn này theo tôi như h́nh với bóng, suốt cuộc đời và trong mọi lúc, cho đến hôm nay… Nhất là mỗi khi tôi gặp việc khó, hoặc phải có một quyết định nào đó cho một vẫn đề mới lạ… Cuộc sống cũng đúng là: Muốn sống tự do, phải hiểu lẽ tất yếu!..

Thấm thía nhất đối với tôi là: Hiểu cái lẽ tất yếu ở đời này không bao giờ có thể nói là đủ, v́ cuộc sống luôn luôn khôn ngoan hơn ḿnh!.. Trong ḷng, không biết bao nhiêu lần tôi cảm ơn thầm ông thầy ra đề thi này, đến hôm nay tôi chỉ đoán được và không biết chắc được là thầy nào (đă mất).  Đến hôm nay, tôi vẫn mang nặng hàm ơn này… Hồi ấy đă có thầy cao hứng kể cho chúng tôi nghe những mẩu chuyện tranh luận thú vị trong triết học, thế nào là duy tâm, thế nào là duy vật… Tôi biết ơn sâu sắc trong ḷng, và rất mê cái lối suy nghĩ có lô-gich, có triết lư..: Dậy học là dậy học tṛ sống bằng suy nghĩ và trau giồi cho ḿnh cách nghĩ! Tối sẽ tiếp tục tự dậy ḿnh như thế hàng ngày…[1]

Tôi nói nền giáo dục nước ta hôm nay thua hồi kháng chiến chống Pháp, trước hết có lẽ v́ tôi có trải nghiệm này!

Xin các nhà giáo và các bậc phụ huynh thử làm một trắc nghiệm: Đem các bộ sách giáo khoa về các môn  khoa học xă hội hiện đang giảng dậy trong trường cùng với cách dậy học hiện hành đem ra so sánh với cái tựa đề thi này và cách chúng tôi được học thời kháng chiến chống Pháp!

 

Đầu năm 1953, một số học sinh lớp lớn nhất của trường chúng tôi được tuyển chọn rất kỹ lưỡng, để cử đi tham gia chiến dịch đánh Pháp… Bọn tôi sướng lắm, song không biết cụ thể là sẽ được làm ǵ. Nhanh chóng chúng tôi được tập kết tại một địa điểm, bí mật tuyệt đối và cấp tốc.

Tôi không kịp và cũng không được từ biệt bố mẹ và mối t́nh đầu tiên của tôi trong tuổi học sinh!

Sau mấy buổi hành quân toàn vào ban đêm, đoàn vượt qua sông Thao tại bến đ̣ Âu Lâu gần thị xă Yên Bái – cửa ngơ đi vào Tây Bắc. C̣n đang ngủ lúc sáng th́ bị một trận bom tơi bời trên đầu, có một số thương vong trong dân địa phương và trong những đoàn dân công đang trú tại đây trên đường vào Tây Bắc. Trời phù hộ, đoàn chúng tôi không ai bị làm sao, nhưng cháy mất một số ba-lô quần áo, chúng tôi san xẻ lại quần áo cho nhau…

Trên đường đi tiếp, chúng tôi mới được phổ biến là tham gia chiến dịch Tây Bắc, thuộc đơn vị Tổng cục hậu cần do tướng Trần Đăng Ninh chỉ huy. Nhiệm vụ của chúng tôi là phục vụ về mặt tổ chức và sổ sách của các đơn vị hậu cần, được Tổng cục tổ chức thành các trạm vận chuyển lương thực và quân nhu trên các tuyến dẫn đến mặt  trận.  

Cuộc sống ngày đêm với bom đạn ác liệt trên trời ném xuống bắt đầu. Công việc đang tiến hành được vài tháng, Pháp đột nhiên đưa đại quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, quyết biến trọng điểm này thành một quả đấm thép, nhằm đánh tan các lực lượng của ta trên toàn chiến  trường Tây Bắc. Chiến dịch chúng tôi đi phục vụ trở thành chiến dịch Điện Biên Phủ, bom đạn giặc triệt phá các mạch sống của quân ta ác liệt gấp bội… Chúng tôi được vinh dự tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ đến ngày toàn thắng: Quân Pháp đầu hàng tháng 5-1954.

Có thể nói, tôi đă trưởng thành kinh qua chiến dịch này, với ḷng biết ơn vô hạn đất nước và cuộc đời đă ban cho tôi vinh dự này! Qua chiến dịch này, tôi bắt đầu hiểu, được trải nghiệm, và được tự ḿnh kiểm nghiệm quyết liệt chính bản thân ḿnh thế nào là sống hết ḿnh v́ đất nước, càng yêu và càng vô cùng tự hào về đất nước ḿnh!..

Niềm vui không trọn vẹn, trên đường trở ra khỏi mặt trận, họa sỹ Tô Ngọc Vân bị máy bay ném bom Pháp giết tại đèo Lũng Lô. Đoàn của ông đi trước đoàn của chúng tôi khoảng chục cây số…   Buồn v́ họa sỹ mà chúng tôi yêu mến không c̣n nữa. Măi về sau, khi kể nỗi buồn này với bố, tôi mới biết bố tôi là một trong những cán bộ kỹ thuật đầu tiên cùng với những sỹ quan công binh đă khám phá ra và thiết kế đường qua đèo Lũng Lô thời kỳ chuẩn bị chiến dịch…

 

Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi được điều động tham gia công tác tiếp quản Thủ Đô Hà Nội, được giao phụ trách phố Sinh Từ. Loanh quanh thế nào 11 năm sau tôi lại là rể của phố này. Sau này, đôi lúc trêu vợ ḿnh, tôi nói: Hồi tiếp quản, loại bé con như vợ tôi không bao giờ được tôi để ư!.. Thế là được ăn vài cái đấm.

Tháng 12-1954 xong nhiệm vụ tiếp quản, tôi được điều về Bộ Ngoại Giao, lư do đơn giản là vơ vẽ được vài câu ngoại ngữ, được tuyển về để làm nhiệm vụ bưng bê phục vụ Phái đoàn của Ủy ban quốc tế về thi hành Hiệp định Genève 1954 về Đông Dương. Được vài tháng, đầu năm 1955 tôi được Bộ điều động đi tham gia công tác giảm tô đợt VII, rồi tham gia công tác cải cách ruộng đất đợt V, rồi lại được phái đi làm công tác sửa sai ngay trong toàn 5 xă của huyện Trực Ninh / Nam Định, địa bàn của cụm của tôi đă tiến hành CCRĐ.

Lư do tôi được Bộ cử đi tham gia giảm tô và cải cách ruộng đất là để rèn luyện phẩm chất chính trị cách mạng! Hồi đó, cũng v́ mục đích rèn luyện này, Bộ c̣n giao cho tôi nhiệm vụ giúp anh Nguyễn Mỹ Điền  cùng tham gia cuộc cải cách động trời này để ḥa nhập cuộc sống trong nước. Anh Mỹ Điền là một trí thức Việt kiều, hăng hái tự nguyện về giúp nước cuối năm 1954, làm giảng viên tiếng Anh của Bộ Ngoại giao. Sau này người ta nói cái chủ trương rèn luyện kiểu này đối với cán bộ tiểu tư sản hay trí thức như vậy là ăn phải cái bả của Tầu! Có lẽ đúng như vậy.

Ngày đầu tiên chúng tôi được đưa về xă Trực Đạo. Tôi được phân công sống “3 cùng” trong một gia đ́nh nông dân nghèo nhất xóm, chủ gia đ́nh là một bà lăo gần như ḷa v́ nghèo khổ và ốm đau. Nhà có đến  4 miệng ăn mà nh́n đâu cũng không thấy một thứ của nả ǵ đáng giá. Bồ bịch cái đựng gạo, cái đựng cám hay ngô khoai ǵ đó, cái nào cũng rỗng tuếch. Tôi đưa bao gạo cán bộ của ḿnh cho gia đ́nh, nấu cả nhà ăn được khoảng vài ba ngày là hết sạch, thậm chí khoai để ăn độn cũng hết… Sang ngày tiếp theo, đến bữa ăn, lần đầu tiên trong đời tôi được ăn một thứ cháo lơng bơng nấu bằng một nhúm tấm, c̣n lại là cám cho lợn ăn là chủ yếu!.. Mảy trấu của cám không được xảy kỹ, nên cháo khó nuốt vô cùng!.. Tôi chỉ và lấy lệ vài th́a cho chủ nhà khỏi phật ḷng, bấm bụng chịu đói, chờ đến tối đi họp đội rồi sẽ tính… Lường trước được chuyện này, ngay ngày đầu tiên về làng tôi đă phát hiện ra một quán nước của làng. Tôi dặn vào tai bà chủ quán, bất kể trong ngày bà bán cái ǵ, c̣n hàng hay hết hàng, song cố để dành cho chúng tôi đến tối khuya 2 xuất, thứ ǵ cũng được, miễn là ăn được cho đỡ đói, dù là củ khoai, bát canh bánh đa, xôi, lạc luộc…  Tối tối sau khi đi họp đội về chúng tôi tạt vào ăn.., bà chủ quán giữ bí mật cho chúng tôi… Anh Mỹ Điền tối nào cũng được tôi dắt đi ăn vụng như thế… Đôi khi c̣n đặt hàng với bà chủ quán món ǵ đó có thể, để cải thiện bữa ăn một chút, nếu không th́ gục mất… Có lẽ chỉ sang đến tuần thứ 3, anh Mỹ Điền và tôi thống nhất với nhau phải báo cáo với Bộ triệu tập anh về, v́ anh Mỹ Điền không thể trụ nổi!..

C̣n tôi thuộc diện phải thử thách nên không dám ho he ǵ…

Hơn hai năm trời lăn lộn với công việc giảm tô, tiếp theo là cải cách ruộng đất, và sau đó đi sửa sai. Có thể nói tôi biết từ A đến Z toàn bộ câu chuyện bi thương này, v́ sao nó xảy ra, hậu quả như thế nào, tổn thất sinh mạng và ḷng người không ǵ có thể lấy lại được – một vết thương gây ra cho đất nước không thể tha thứ được! Ngay xă Trực Đạo nơi đội tôi về đầu tiên, đă có một bí thư chi bộ kiêm xă đội trưởng thời kháng chiến bị xử bắn v́ bị quy là địa chủ và là Việt Nam Quốc Dân Đảng phản động (măi sau này được sửa là bần nông và được truy phong danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang…)[2], vài vụ tự tử, vài vụ bức tử, những cuộc đấu tố con tố cha, cháu tố ông bà…

Tôi thuộc loại có tŕnh độ văn hóa của đội, không phải là đảng viên, được xem là phần tử tiểu tư sản, cần tham gia cuộc vận động này để học tập và tự cải tạo để tiến bộ - giới thiệu của Bộ nói rơ như vậy với Đoàn CCRĐ. V́ thế tôi được phân công nhiệm vụ làm thư kư chuyên nghiệp cho đội ngay từ đầu, sau đó là cho cụm -  một công cụ để cho đội và cụm sai bảo… Làm báo cáo hàng ngày cho đội và cho cụm viết mỏi tay, nên hầu như không có ǵ là không biết. Cả những chuyện anh đội này chị đội kia hủ hóa với nhau…

Có một chuyện bi hài: Một anh cán bộ cụm (phụ trách các đội CCRĐ tại các xă trong toàn huyện) năng nổ, hét ra lửa, thế nào lai ăn nằm có mang với một bà nông dân nạ ḍng, hơn anh ta dăm ba tuổi (nói là góa chồng, dân làng th́ bảo là chồng bà ta đi lính cho Pháp bị giết hay là đă bỏ đi Nam sau 1954 ǵ đó... - địa phương này là vùng địch hậu nên nhiều người đi lính như thế cho Pháp, đây là chuyện b́nh thường). Anh ta căi với tổ chức là không phải là hủ hóa, mà là có ư định xây dựng gia đ́nh, chỉ mắc khuyết điểm là ăn cơm trước kẻng thôi… Có thể là nội bộ tổ chức chơi khăm nhau, quyết ngay: Đă định xây dựng gia đ́nh th́ phải tổ chức cưới luôn, để khỏi mất uy tín với dân làng!.. Thế là đám cưới theo kiểu đời sống mới được tổ chức cấp tốc. Chuyện ê chề biến tướng thành niềm vinh dự của làng… Tôi th́ đoán thầm chú rể chắc đau lắm, có khi c̣n hơn cả bị thiến!..

…Càng biết nhiều càng sợ. Khác ư một tư với đội trưởng, cụm trưởng, anh chị đội.., có thể bị quy kết chết liền… Một số  gia đ́nh nông dân trong xă có người làm cán bộ ở những tỉnh khác, nơi khác, gia đ́nh bị oan nhưng tuyệt đối không dám gọi người thân của ḿnh về cứu… Hoành hành của những bộ năo anh đội chị đội nhiệt t́nh cách mạng nhưng ngu dốt, nên nhiều khi ác đến mức dă man, vô văn hóa…  Tôi thấm thía: Quyền lực của sự ngu dốt và nhiệt t́nh cách mạng có thể trở nên rất tàn bạo![3] Nhưng những năm tháng này tôi phải học tập rèn luyện cho ḿnh lập trường giai cấp, nên câm bặt, làm việc như một cái máy, và sống cũng như một cái máy: nghĩa là không bày tỏ cảm xúc, song hoàn toàn có thể thầm lặng để cố xem cho kỹ tấn tṛ đời..!  

Sau cải cách ruộng đất đợt V, khoảng từ tháng 6-1956 trở đi, các cán bộ của Bộ tôi lục tục được gọi trở về Hà Nội tất cả rồi. Riêng tôi vẫn chết dí ở Trực Ninh, không thấy Bộ nhắc tới.

Vào lúc này trên chủ trương phải cấp tốc tiến hành sửa sai ở tất cả các địa phương đă tiến hành CCRĐ khắp miền Bắc. Các anh các chị đội thường kiếm cớ xin trở về địa phương cũ nơi ḿnh ra đi, thật ra là trốn sạch, hoặc xin đi sửa sai ở huyện khác, tỉnh khác. Bởi v́ vác mặt đi sửa sai ở những xă ḿnh tiến hành cải cách, hầu như chắc chắn sẽ bị nông dân cho ăn đ̣n, không chết th́ cũng hết sống!..

Chẳng hiểu tại sao, tôi lại được phân công đi sửa sai ngay tại cái huyện đă nhẵn mặt tôi. Thực ḷng tôi cũng rất run, nhưng huyện nói: Anh nắm được mọi vấn đề trong huyện, lại không có ân oán ǵ với bà con, nên cố chịu khó giúp huyện chúng tôi, bây giờ trong tỉnh chỗ nào cũng phải sửa sai nên không đủ người (sự thật có thể là chẳng ai dại ǵ hay hứng thú ǵ đi làm cái việc oái oăm này!)… Một ḿnh tôi và hai hoặc ba người của từng xă làm việc sửa sai này trong từng xă, cứ như thế lần lượt xă này đến xă khác, làm xong đến đâu báo cáo huyện đến đấy, măi cho đến đầu năm 1957...  Nội dung sửa sai là văn hồi mối quan hệ làng xă đă bị CCRĐ phá vỡ, ổn định t́nh h́nh trong xă và đời sống của dân, ghi lại các vụ việc hay những vấn đề tồn đọng lớn và những oan trái lớn để giúp huyện có đủ hồ sơ xin chủ trương của trên giải quyết dần sau này…

Công việc sửa sai 5 xă của huyện giao cho tôi được thực hiện suôn xẻ, t́nh h́nh của huyện dịu hẳn. Nhưng tôi ốm kiệt xác, gần như sắp chết, v́ quá vất vả, một số di chứng bệnh sốt rét liên quan đến gan và dạ dày lại tái phát… Song vẫn chẳng thấy Bộ gọi về. Mẹ tôi từ Hà Nội xuống thăm, thấy con ḿnh như vậy đau ḷng quá. Quay về đến Hà Nội, bà chạy thẳng vào Vụ Tổ chức cán bộ, chất vấn tại sao con bà không được Bộ gọi về!

Lúc này Vụ tổ chức cán bộ mới tá hỏa: Trong danh sách gọi cán bộ đi cải cách về, thiếu tên tôi!

Nói thêm đôi điều về CCRĐ.

Cách đây khoảng 7 - 8 năm ǵ đó, trong khi nắm chữa bệnh tại bệnh viện Hữu nghị, tôi được ở cùng pḥng với một bệnh nhân tên là Khái, hơn tôi khoảng dăm tuổi, nếu tôi nhớ không nhầm, họ là Đào. Nằm trong bệnh viện vài tuần, song hai chúng tôi xoắn lấy nhau về những chuyện ngày xưa…

Thời kháng chiến chống Pháp ông Khái là bí thư huyện ủy kiêm huyện đội trưởng huyện Yên Lạc, đánh giặc tơi bời và lừng lẫy một vùng. H́nh như suốt thời gian kháng chiến chưa một lần nào Pháp có thể trọn vẹn chiếm được huyện này lấy một ngày!.. Song danh sách cán bộ và chiến sỹ của huyện đă hy sinh rất dài… Thế nhưng trong CCRĐ ông Khái bị quy là địa chủ kiêm Quốc Dân Đảng (rất lạ là trong CCRĐ chỗ nào cũng có Việt Nam Quốc dân đảng!) phạm tội phản động và chiếm đoạt các chức vụ đầu năo của huyện để giúp giặc… Bố ông Khái oan ức quá, treo cổ tự tử… Gia đ́nh ông Khái tan nát… Sự thật là cán bộ đầu năo của huyện thời kháng chiến bị hy sinh nhiều quá, có những lúc ông Khái phải kiêm nào là bí thư huyện ủy, nào là chủ tịch huyện, huyện đội trưởng… Ông Khái bị đội CCRĐ khép tội đại phản động, chiếm đoạt các chức vụ quan trọng trong kháng chiến, thuộc diện tử tù rất nguy hiểm, chờ ngày xử tử… Đội giam ông ở xă bằng cách đục hai cái lỗ ở chân tường để gông 2 chân ông ở phía bên kia tường, song vẫn chưa yên tâm. Sợ không đủ lực lượng canh giữ, đội đề nghị với trên phải chuyển ông lên trại giam đặc biệt của huyện…

Chuyện đấu tố và nhục h́nh đối với ông không thể kể siết. Ông nói thều thào với tôi – v́ bị mấy anh chị đội và nông dân tham gia đấu tố đánh găy mất mấy cái răng:

-       Đầu hàng cái lũ mất dậy này th́ không bao giờ! Song chỉ mong chúng nó giết ḿnh thật sớm!..

Trên đường giải ông từ nơi giam ở huyện về xă để đưa ra pháp trường, sẽ tổ chức đấu tố lần cuối rồi xử bắn, có một lệnh hỏa tốc đuổi theo, phát đi từ Trung ương, gửi tất cả các địa phương khắp mền Bắc: Dừng ngay tất cả các vụ xử án tử h́nh trong CCRĐ!

Ông Khái thoát chết. Sau đó được đưa ngay về khu an dưỡng để hồi phục sức khỏe.

Ít lâu sau nữa ông được tập kết về khu nhà nghỉ ở Hồ Tây, tất cả có lẽ tới trăm người, đại thể là những thân phận na ná như ông Khái – dù là chức vụ và thuộc các vùng miền khác nhau như thế nào, h́nh như không thấy có nữ, ông Khái bảo thế, ông không nhớ rơ...

Đấy là cuộc họp do Trung ương triệu tập, để xin lỗi các đồng chí cán bộ là nạn nhân, mong họ sớm khỏe mạnh trở về địa phương ḿnh, giúp hàn gắn vết thương CCRĐ.

Đến giờ, ông Trường Chinh đích thân mời mọi người sang pḥng họp để cuộc họp bắt đầu. Không một ai chịu làm theo, v́ oan ức và tức khí lớn quá… Lần thứ hai, thứ ba cũng vậy… Cuối cùng khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đến và trực tiếp mời, mọi người mới đứng dậy và đi sang pḥng họp…

Câu chuyện đau ḷng này vẫn tiếp tục xoáy lên trong tâm trí tôi câu hỏi:

-       Tại sao cho đến hôm nay, năm 2018 này, Trung ương ĐCSVN vẫn chưa một lần tiến hành tổng kết rạch ṛi sai lầm CCRĐ để rút kinh nghiệm, để học hỏi, và để công khai xin lỗi cả nước!? Không làm được như vậy, loại sai lầm nghiêm trọng như thế này sẽ c̣n tiếp tục tái diễn! Thực tế đă chứng minh, 43 năm độc lập thống nhất vừa qua, biết bao nhiêu sai lầm nghiêm trọng lặp đi lặp lại, trong đó có nguyên nhân quan trọng là không làm cái việc phải làm này!

Trong một số bài viết những năm qua, cả trong tiểu thuyết “Ḍng đời” và tiểu thuyết “”, tôi đă nhiều lần nhắc lại câu hỏi này… Chắc chắn đất nước sẽ c̣n lận đận tiếp v́ căn bệnh này!

Suy nghĩ như trên, nên tôi không tán thành tiểu thuyết “Ba người khác” ngay từ khi nó ra mắt bạn đọc. Anh Tô Hoài chỉ dồn mọi hư hỏng và tội lỗi trong CCRĐ cho những yếu kém của các anh đội chị đội. H́nh như anh muốn tránh đụng chạm đến cái gốc của vấn đề: Sai lầm xuất phát từ những người lănh đạo và đường lối chính sách, các anh đội chị đội chỉ là những phương tiện, phần nào là nạn nhân nữa. Viết như trong “Ba người khác” chỉ nêu lên được một phần sự thật, mà lại là phần ngọn. Không viết ra cả sự thật như thế, an toàn cho anh Tô Hoài, nhưng lại không an toàn cho đất nước!.. Song cũng phải nói, có viết như thế sách mới xuất bản được!

Thật là một kỷ niệm buồn!..

 

Đầu năm 1957, cuối cùng th́ Bộ Ngoại giao cũng gọi tôi về. Song tôi xa Bộ lâu quá rồi – khoảng 2 năm hơn một chút, nên Bộ không biết bố trí cho công tác ǵ bây giờ… Chính tôi cũng cảm thấy ḿnh lạc lơng trong Bộ…

May quá, đúng lúc này Bộ có mấy xuất đi học ở CHDC Đức và cũng đang thiếu tiếng Đức, thế là  Bộ “đền” tôi bằng cách cho đi học Văn học Đức, tại trường Đại học Karl Marx – [sau khi bức tường Berlin đổ, trường này trở lại tên cũ là Trường Đại học Leipzig, một trường phái học thuật nổi tiếng một thời… Đấy là cái may đầu tiên lớn nhất trong đời tôi – trời cho!

Xin nói ngay, đi học như thế là đổi đời!.. Tôi chịu ơn nước Đức nhiều lắm, coi đấy là quê hương thứ hai của ḿnh. Lư do: Nhân cách và hiểu biết của tôi có phần tác thành rất quan trọng từ những ǵ tôi học được trong ghế nhà trường hay trong cuộc sống xă hội của quốc gia này – bao gồm cả những ǵ dành cho tôi của 2 nước Đức đă thống nhất lại với nhau năm 1989 – nơi có một phong trào tuyệt vời, mạnh mẽ, bền bỉ của nhân dân khắp các miền 2 nước Đức ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của chúng ta – cả về vật chất và tinh thần. Tôi chia đôi thời gian của ḿnh, một nửa dành cho nhà trường, một nửa học trong đời. Hôm nay nh́n lại, tôi thấy sử dụng thời gian như vậy là hợp lư, ư chí dấn thân có được chỗ dựa cho sự tự tin của bản thân. Dám sống và dấn thân là điều tôi luôn luôn tự nhắc nhở ḿnh lúc trai trẻ. Càng về sau này tôi càng hiểu, thiếu ḷng tự tin này, chắc tôi sẽ chẳng dám làm ǵ! 

 [Xin lưu ư cho, cả thế giới biết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta do ĐCSVN lănh đạo. Cho đến nay, có lẽ đấy là cuộc kháng chiến của một quốc gia được sự ủng hộ rộng răi nhất của nhân loại tiến bộ, trước hết và chủ yếu bởi tính chính nghĩa chống ngoại xâm của nó. Xin hiểu đúng điều cốt lơi này cho đất nước hôm nay và mai sau. Sự ủng hộ này của mặt trận nhân dân thế giới không mảy may liên quan đến chủ nghĩa xă hội ở Việt Nam và trên thế giới! Sự ủng hộ như vậy của mặt trận nhân dân thế giới là một trong những nguyên nhân quan trọng làm nên thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sự việc ngang nhiên xâm phạm chủ quyền và luật pháp nước Đức để bắt cóc Trịnh Xuân Thanh không thể nào bào chữa được, xâm phạm lợi ích quốc gia của bạn và quan hệ quốc tế, - cho dù nội t́nh Việt Nam có những vấn đề nan giải đến thế nào đi nữa! Nhất thiết phải t́m cách khắc phục sai lầm nghiêm trọng này! Đành rằng chuyện “bắt cóc” như thế các cường quốc đều làm, nhưng xin nhớ cho Việt Nam chưa bao giờ là cường quốc, lại ở vào cái thế không được phép biến bạn thành thù! Hơn nữa phải học hỏi cái văn minh, chứ không nên bắt chước cái dă man làm ǵ!]

 

Xin kể một chi tiết ngoài lề, những năm tôi học và làm việc ở CHDCĐ  có một hiện tượng lạ: Chức vụ Bộ trưởng Bộ Văn hóa lại là một chức vụ rất khó của nhà nước CHDCĐ. Bộ trưởng của Bộ này cứ bị thay xoành xoạch, mặc dù hầu hết đấy là những nhân vật văn hóa có tên tuổi và uy tín cao trong xă hội, đều có học hàm học vị cao (ở CHDCĐ không chuyện “bằng giả”), chức vụ của họ trong lănh đạo ĐXHTN Đức cũng rất cao...

Lư do: Văn hóa thực sự là một mặt trận chính trị quyết liệt không đội trời chung giữa 2 chế độ chính trị khác nhau của 2 nước Đức! Có lần tổng bí thư Erich Honecker nói với lănh đạo Việt Nam: “Kẻ thù giai cấp của chúng tôi len vào trong từng pḥng ngủ mỗi gia đ́nh!” (chương tŕnh TV của Tây Đức thời đó). Trong cuộc đấu tranh này, phần yếu luôn luôn nghiêng về phía CHDCĐ, hệ quả sát sườn nhất là bệnh kinh niên chảy máu chất xám, chưa kể những hệ quả tiêu cực  khác... Thực tế này làm thiếu hụt nặng nề cán bộ chuyên môn mọi lĩnh vực, đến nỗi ngay cả bệnh viện chăm sóc sức khỏe cho lănh đạo quốc gia và đoàn ngoại giao cũng phải mời từ các nước LXĐÂ sang, v́ thiếu… Sự kiện bức tường Berlin sụp đổ năm 1989 bắt rễ sâu xa từ những năm tháng này. Thực tế quyết liệt này ngấm vào tôi khá sớm tính chất quyết liệt của mặt trận văn hóa trong đời sống một quốc gia.

Lúc c̣n trẻ ở nhà, tôi được học rất nhiều về câu hỏi “Ai thắng ai?” giữa CNXH và CNĐQ. Gần 15 năm cả học và làm việc ở 2 nước Đức (trong đó 3 năm cuối cùng là ở 1 nước Đức thống nhất, Bonn), tôi thấy câu trả lời cứ lừng lững đến từ cuộc sống thực tại không thể cưỡng lại được, và cuối cùng là sự kiện bức tường Berlin sụp đổ. Thực tế này càng thôi thúc tôi phải có thái độ khách quan nghiêm túc để xem xét mọi sự vật.

C̣n một chi tiết nữa, công tác nghiên cứu lư luận và tuyên giáo của ĐXHTNĐức rất nghiêm túc, sáng tạo, chuyên sâu, lư lẽ phải nói là rất kinh điển và uyên thâm trên nền tảng triết học, chất lượng khoa học cao theo quan điểm Marxist… Chất lượng công tác này có thể liệt vào bậc nhất trong phe xă hội chủ nghĩa, nhiều vấn đề Liên Xô cũng phải suy ngẫm và tham khảo. CHDCĐ có đội ngũ tuyên giáo báo chí đông đảo, chất lượng chính trị và tay nghề cao. Chúng tôi, những người đă từng gắn bó nhiều năm với cả 2 nước Đức, thường gọi hiện tượng “kỹ lưỡng” này là “đặc tính Đức”. Nghĩa là làm việc ǵ, dù là theo nhân sinh quan nào, ở CHDCĐ đều được làm rất có hệ thống, bài bản và nghiêm túc. Nước ta đă cử nhiều đoàn sang học tập kinh nghiệm của bạn – nhưng hầu như không học được bao nhiều, hoặc học không nổi – v́ quá tầm và quá khác nhau về hoàn cảnh, tŕnh độ…  Lưu trữ của Đức hiện nay vẫn c̣n đầy đủ để khảo cứu. Xin nói ngay đội ngũ tuyên giáo của nước ta hôm nay không thể so sánh được với họ hầu như trên mọi phương diện chất lượng và đạo đức nghề nghiệp.  

Song quan trọng hơn cả cái đặc tính Đức nói trên, CHDCĐ có một đ̣i hỏi mất / c̣n đối với sự tồn tại của chính quốc gia này: Phải xây dựng bằng được cả nền tảng tinh thần, tư tưởng, lư luận, văn hóa làm đạo lư cho sự tồn tại của CHDCĐ với tính cách là một quốc gia của một dân tộc Đức mới, cũng có khi lănh đạo bạn nói là “quốc gia của dân tộc Đức XHCN” (Der Staat der sozialistischen deutschen Nation” – “der Staat” ở đây được CHDCĐ hiểu là quốc gia - “nationaler Staat”, không phải là nhà nước), quyết bứt ra khỏi dĩ văng của nước Đức quốc xă, và quyết song song tồn tại với CHLBĐ của chủ nghĩa đế quốc. Có thể nói đây là sự cọ sát có t́nh đối kháng quyết liệt và toàn diện nhất giữa 2 thế giới khác nhau trong ḷng một quốc gia. Một sự chạy đua, ganh đua, quyết hạ gục nhau trên mọi phương diện! Với tất cả quyết tâm, ư thức tỉnh táo, và ư chí quyết liệt nhất của cả 2 bên! Không phải ngẫu nhiên CNXH ở CHDCĐ phát triển cao nhất trong phe XHCN, được coi là “tủ kính của CNXH”!

Song một bên đi con đường thuận theo sự phát triển của tự nhiên, một bên theo con đường tuy rất lư tưởng và lăng mạn nhưng duy ư chí cưỡng lại tự nhiên.

Và đúng với quy luật vận động của sự vật khách quan: Duy ư chí đă thất bại.

Cái duy ư chí xây dựng chủ nghĩa xă hội theo chủ nghĩa Mác-Lênin mới chỉ là một vế thôi, trước sau kiểu ǵ cũng thất bại, chứng minh rất thuyết phục: Lấy chủ nghĩa xă hội làm phương tiện bằng cách dựng nên một nhà nước của chuyên chính vô sản để thực hiện những cái đích của chủ nghĩa này là thảm họa.

Nhưng cái duy ư chí chia đôi dân tộc Đức, để qua đó hy vọng có một bộ phận sẽ h́nh thành nên “một dân tộc Đức mới XHCN” th́ nhân dân cả 2 miền nước Đức không bao giờ chấp nhận, nghĩa là không khả thi ngay từ lúc CHDCĐ ra đời.

V́ vậy, CHDCĐ phải sụp đổ là tất yếu, một sự thất bại của duy ư chí kép!

V́ những lẽ trên, cho phép tôi tại đây chia sẻ thế này: CHDCĐ là ví dụ hoàn hảo nhất chứng minh sự thất bại tất yếu của chủ nghĩa xă hội với tính cách là một mô h́nh thế chế chính trị, kinh tế, xă hội và văn hóa của một quốc gia thiết kế theo chủ nghĩa Mác – Lênin.  

V́ thế, nói: “ở nước ta độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xă hội!” cũng có nghĩa là bắt độc lập dân tộc của nước ta phải gắn với một chủ nghĩa đă phá sản! Hậu quả đất nước đă và đang phải tiếp tục trả giá suốt 43 năm qua là lẽ tất yếu:  Theo mô h́nh này, chế độ toàn trị được củng cố, nhưng đất nước lụn bại.

Ngày nay, chỉ có các giá trị mang tính xă hội chủ nghĩa vẫn tiếp tục tồn tại trong kho tàng văn minh nhân loại, nằm trong những nét đẹp hướng thiện, trở thành những giá trị góp phần tạo thành một bộ phận nhất định của văn minh nhân loại. Đấy là những thành quả của sự phấn đấu, hoàn toàn không phải là “chủ nghĩa”, càng không phải là phương tiện! Đương nhiên văn minh nhân loại không chỉ giới hạn lại trong những giá trị như thế, c̣n rất nhiều giá trị khác nữa!

 

Tôi công tác ở Bộ Ngoại giao, như thế là từ tháng 12-1954 đến đầu năm 1993.

Loại trừ 7 năm đại học ở CHDC Đức từ 1957 đến 1964 – trong đó có 1 năm Bộ Ngoại giao yêu cầu tôi tạm dừng học giữa chừng để làm phiên dịch cho đại sứ quán ta rồi học tiếp, thời gian công tác ở Bộ như thế là liên tục. Bắt đầu từ công việc bưng bê phục vụ phái đoàn IC về Hiệp định Geneva 1954 ở Hà Nội, đến chức vụ cuối cùng là đại sứ tại Thái Lan…

Tôi không được trải qua bất kể một khóa đào tạo chuyên ngành nào về ngoại giao, đơn giản v́ điều kiện công tác không cho phép. Song công việc ngoại giao của tôi bắt đầu từ phiên dịch, đến công tác nghiên cứu, lần lượt trải qua đủ các hàm ngoại giao khi ở nước ngoài, làm đủ các nhiệm vụ quản lư đơn vị từ pḥng đến vụ ở trong Bộ - đấy là cả một trường đời vô giá đối với tôi. Nói gọn: toàn bộ sự nghiệp của tôi  khoảng gần 4 thập kỷ ở ngành giao là làm việc và học thường xuyên trong khi làm việc.

Tôi thật sự là chính tôi chỉ từ khi tôi đảm nhiệm những chức vụ quản lư khác nhau trong Bộ hay ở nước ngoài. Trước đó ở những nhiệm vụ khác, tôi chỉ là người học việc và người thừa hành.

Cái vốn lớn nhất của tôi trong nghề là ư chí làm việc và học trong khi làm việc không lúc nào dừng, học bất kể cái ǵ mà công việc đ̣i hỏi, ngoại ngữ là ch́a khóa.

Cái nền của ư chí làm việc và học hỏi này là vốn sống của suốt cuộc đời, được nâng cánh ở mức độ nhất định nhờ sự giúp đỡ của lối tư duy triết học – để hiểu và để phân tích sự vật – mà tôi đă hấp thụ được phần nào trong nhà trường và trong cuộc đời; nhờ đó tôi luôn có ư thức cố tránh cách suy nghĩ duy tâm, duy ư chí hoặc cảm tính, luôn cố tự phán xét ḿnh...

Kinh nghiệm cụ thể của tôi xin kể lể ra là như vậy.

C̣n như nói chung chung là tôi yêu nước và có tinh thần phấn đấu cao… v… v… chắc không có ích ǵ cho bạn đọc, v́ trong chúng ta ai mà chẳng như vậy!?..

Về nhiệm vụ quản lư:

-       Trong Bộ, tôi đă qua các chức vụ trưởng pḥng, vụ trưởng vụ kinh tế (h́nh như là hai lần, một là vụ trưởng vụ kinh tế đối ngoại, một là vụ trưởng vụ kinh tế tổng hợp), vu trưởng vụ Châu Á 2, Chánh văn pḥng Bộ.

-       Ở nước ngoài tôi đă làm các nhiệm vụ: Đại biện lâm thời của Việt Nam tại CHLBĐ sau 30-04-1975 kiêm Thụy Sỹ, tiếp quản ĐSQ CHVN và thành lập ĐSQ CHXHCNVN tại CHLBĐức, quyền đại sứ ở Australia, sau cùng là đại sứ ở Thái Lan.

-       Kết thúc nhiệm vụ đại sứ ở Thái Lan, tôi được triệu tập sang Văn pḥng Chính phủ, đảm nhiệm chức vụ Tổng thư kư Hội đồng Kinh tế đối ngoại, do Phó thủ tướng Phan Văn Khải làm chủ tịch, Bộ trưởng Bộ ngoại giao và một số bộ trưởng các Bộ kinh tế là thành viên.

-       Được 1 năm, Hội đồng giải thể, ngay sau đó tôi được Thủ tướng Vơ Văn Kiệt mời làm trợ lư cho Thủ tướng.

-       Khoảng giữa năm 1966 tôi xin từ chức trợ lư Thủ tướng. Nói to tát: Tôi “treo áo từ quan” - nói là treo “áo”, v́ tôi không có “ấn”. Lư do: Liên quan đến bức thư ngày 09-08-1995 của Thủ tướng Vơ Văn Kiệt gửi Bộ Chính trị đề nghị thực hiện những thay đổi lớn và toàn diện cho đất nước.

-       Sau đó tôi tham gia Ban Nghiên cứu của Thủ tướng cho đến khi Ban này giải thể.

 

Những mẩu chuyện nhớ lại

Trước hết xin nói lên một vài ư chung chung.

Cuộc đời làm nghề ngoại giao cho tôi một đặc ân: Được đi nhiều, thấy nhiều, hiểu thiên hạ nhiều hơn, và do đó tôi cũng hiểu đất nước ḿnh hơn. Đúng là cố nh́n cho xa để biết được gần!.. Song học phí tôi phải trả là nỗi đau canh cánh khôn nguôi về đất nước ḿnh – trong đó đau đớn nhất là nỗi bất lực của chính ḿnh![4]

Tôi có 2 món nợ đối với đất nước, mà tôi biết chắc ḿnh đành mắc lỗi với đất nước, c̣n sống được ngày nào, th́ ngày đó c̣n biết là ḿnh chưa có cách ǵ trả nợ được!

Món nợ thứ nhất: Tôi muốn tổng kết con đường đất nước đă đi qua từ thời Gia Long đến nay, trong đó đặc biệt là đoạn trường từ 1930 đến hôm nay. Chí ít phải bắt đầu từ thời Gia Long, mới đủ tầm nh́n cho đánh giá tập trung đoạn trường của đất nước ḿnh từ 1930 đến nay, nhất là 4 cuộc kháng chiến vừa qua, và chặng đường đất nước độc lập thống nhất đến hôm nay được / mất ra sao.

Món nợ thứ hai: Tổng kết đường lối đối ngoại của Viêt Nam và những thành / bại từ Cách Mạng Tháng Tám đến hôm nay! V́ đất nước đang rất cần những bài học để t́m ra con đường có thể sống được trong cái thế giới đă sang trang này!

Xin mạn phép nói luôn: Về 2 món nợ trên, hay là về 2 đề tài nói trên, toàn bộ cái hệ thống các think tank mà chế độ ta đang nuôi – dù là thuộc về ĐCSVN hay là thuộc bên nhà nước, đều chưa bên nào có một công tŕnh nghiên cứu đủ độ tin cậy, có thể mang lại lợi ích cho đất nước, tôi đánh giá như vậy. Tất cả những ǵ cái hệ thống các think tank này 43 năm qua đă viết ra về 2 chủ đề này đă in ra thành sách công khai, nh́n chung quá dưới tầm, có nhiều điều không thật, và không ít những thứ sai, chỉ để tô hồng và biện minh!

Nguyên nhân hàng đầu: ĐCSVN và chế độ chính tri hiện nay không  cần hay không muốn đối mặt với sự thật.

Tôi nghĩ thế. Nhưng chính tôi cũng đang bất lực. Xin lúc nào đó sẽ bàn tiếp. Hơn nữa, đây không thể là công việc của một người.

Xin kể một dẫn chứng làm ví dụ: Thời tôi làm trợ lư cho anh Kiệt, một hôm tôi được anh đưa cho bộ sách (bản thảo) “Lịch sử kháng chiến miền Tây Nam Bộ”, hai tập, khoảng gần 2000 trang.., yêu cầu đọc và sớm đưa ra nhận xét để góp ư.

Độ 3 tuần sau tôi trả lại sách và tŕnh bầy với anh Kiệt:

-       Nếu cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Miền Tây Nam Bộ mà như thế này, th́ phía ta xoàng quá, đánh một kẻ địch thua kém ta về mọi mặt, từ đạo đức, trí tuệ, đến năng lực chiến đấu… Địch ngu dốt mọi đường, cái ǵ ta cũng biết trước, ta th́ siêu thông minh, siêu anh hùng… Đảng th́ cực kỳ vỹ đại qua các cán bộ của ḿnh, chẳng thấy dân đâu cả, đất nước mất c̣n cái ǵ không rơ, cũng không có bài học nào đáng giá có thể rút ra ngoài cái kiên cường, anh dũng, hy sinh… Sách không thể dùng để dậy sử, dùng để tuyên truyền giáo dục càng có hại!..  

 

Giáo sư Ngô Vĩnh Long ở Mỹ cũng đồng t́nh với nhận xét của tôi như vậy.

Xin nói riêng tại đây với ĐCSVN: Bộ phận lư luận và think tank của Đảng đang nợ đất nước và nợ chính ĐCSVN một bộ sử Đảng trung thực và khoa học. ĐCSVN muốn vươn lên thay đổi chính ḿnh để phục vụ đất nước, tôi nghĩ không thể thiếu một bộ sử như thế.  

...

 

Thời gian công tác ở ĐSQ ta tại CHDCĐ, tôi có một may mắn được Bộ cử đi cùng với đồng chí đại sứ sang Áo và Đan Mạch là 2 nước chưa có quan hệ ngoại giao với ta hồi ấy, để vận động hai nước này ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của ta.

Đường đi qua Praha, đúng vào khoảng thời gian xảy ra Cách mạng mùa xuân Praha 08-1968. Khi chúng tôi tới nơi, chính quyền của Alexander Dubcek đă bị dẹp xong suôi, t́nh h́nh đă dịu đi nhiều... Song các đơn vị quân đội do Liên Xô được điều động tới (báo chí nói  là nửa triệu quân của khối Varsovie) vẫn c̣n đầy đường. Phố xá đă đi lại b́nh thường, song vẫn trong không khí căng thẳng… Tôi tự hỏi ḿnh nhiều điều.

Nhưng ĐSQ ta tại chỗ giải thích theo ngôn ngữ: Lực lượng cách mạng đă dẹp tan lực lượng phản cách mạng…

Hôm sau, khi sang đến Vienne, báo chí ở đây nói khác hẳn.

Tôi thầm lo nhiều điều cho phe XHCN của ḿnh, lo tại sao ta cứ phải gọi sự việc đă xảy ra bằng những cái tên không phải là của nó!? Nhất là nỗi lo: Tính ưu việt của chế độ XHCN tại sao lại dẫn tới sự kiện nhân dân phải theo cái ông Alexander Dubcek là đảng viên đảng lănh đạo của ḿnh nổi lên giành lại chính quyền, dù chỉ là trong vài ngày?.. Cướp chính quyền từ tay một đảng cộng sản đâu dễ dàng vậy?.., thế rồi lại phải dùng quân đội của cả khối Varsovie mới dẹp tan được, rồi c̣n phải ở lại ít bữa để trấn an?.. Phản động trong dân của chế độ XHCN ở đâu ra mà đông thế mà phải làm vậy?..  V.. v…Sự việc hẳn phải có những ǵ ẩn khuất bên trong sâu hơn…

Tôi dịch một số bài báo ở Áo cho đại sứ nghe và nói: Cần t́m hiểu kỹ vấn đề, phải có cái ǵ đó bên trong sự vật.., nhất là 1949 ở Berlin đă xảy ra một vụ bạo động tương tự, rồi một vụ nổi dậy vũ trang ở Hungary 1956 – vẫn cùng một cách giải thích là chống bạo loạn phản cách mạng… Đại sứ đồng t́nh, song hai chúng tôi cũng thừa nhận phải có cách báo cáo và tŕnh bầy với trong nước, nếu để bị quy chụp là “xét lại!” th́ khỏi phải làm việc! Nhất là vào thời kỳ này trong nước đang có vấn đề “chống xét lại!” rất quyết liệt.

[Khi tôi c̣n đang ngồi ở ghế nhà trường, xẩy ra sự kiện xây dựng bức tường Berlin 13-08-1961, mở đầu là thiết lập trong một đêm một ṿng dây thép gai khép kín chung quanh Tây Berlin, bản thân bức tường khoảng một năm sau mới hoàn thành. Sự việc bắt đầu từ các bạn học Đức của tôi là đoàn viên FDJ (Đoàn Thanh niên tự do Đức) đột nhiên vắng mặt hàng loạt, hầu như trong toàn trường. Sau này được các bạn ấy kể là đă cùng với các đoàn viên FDJ trong cả nước tham gia sự kiện này, với sự hậu thuẫn của quân đội CHDCĐ và quân đội Liên Xô. Chiến tranh lạnh đi vào thời kỳ cao điểm mới.]

Sau này nghiên cứu kỹ t́nh h́nh các nước XHCN Đông Âu và những mối quan hệ của họ với Liên Xô, tôi hiểu rơ hơn nhiều chuyện và căn nguyên.

Qua Áo, đi Đan Mạch, rồi qua Tây Berlin trở về ĐSQ của ḿnh, hai chúng tôi có dịp tiếp xúc một số nhân vật, tham quan một số xí nghiệp lớn… Chuyến đi này lần đầu tiên cho tôi cái nh́n trực tiếp và khá cụ thể về t́nh h́nh kinh tế - chính trị - xă hội phương Tây – tạm nói như vậy.

…Hôm ấy, sau khi hai chúng tôi vừa mới đặt chân vào khách sạn đầu tiên tại Vienne để nhận pḥng và gởi hành lư, khi quay ra đi gặp Bộ Ngoại giao Áo, th́ đă thấy cánh cửa chiếc xe Cadillac chở bọn tôi bên trong gắn một phong b́ nhỏ. Ngồi trong xe mở ra xem, là một thiếp in rất đẹp của một hộp đêm, mời hai chúng tôi đi mua vui Vienna by night, nền của thiếp mời là h́nh một phụ nữ khỏa thân! Tôi dịch cho đại sứ nghe.

-       Họ dùng mỹ nhân kế dụ chúng ta? – đại sứ hỏi.

-       Tôi chịu, không đoán được.

-       Chúng ta phải cảnh giác.

-       Đồng ư.

-      

Mấy ngày ở Vienne là mấy lần chúng tôi nhận được những thiếp mời như thế. Cả đại sứ và tôi vỡ lẽ: Thế giới phương Tây mà!..

Hồi ấy hai chúng tôi ấu trĩ đến mức như vậy.

Kể lại chi tiết này tôi chỉ muốn nhắc lại: Hồi ấy sự nghi kỵ lẫn nhau do không khí chiến tranh lạnh tạo ra ngấm vào vi ti huyết quản con người, đến nỗi nh́n vào đâu cũng thấy “địch!”…  Song chính câu chuyện rất vặt vănh này nhắc nhở tôi không bao giờ được xem xét sự vật bằng những định kiến có sẵn!..

Tóm tắt thu hoạch toàn bộ chuyến đi: Tôi thấy họ dân chủ hơn, nhiều tự do hơn, và năng suất lao động cao hơn!

Sống và làm việc trong một Bộ làm chính trị (nghĩa là không phải một Bộ làm kinh tế hay làm kỹ thuật), tôi được giáo dục kỹ về lập trường giai cấp và chủ nghĩa Mác – Lênin (đương nhiên thứ CNML do Liên Xô Stalin sáng tác, được Trung Quốc hóa, rồi được Việt Nam hóa thêm), trong đó tôi tán thành quan điểm: năng suất lao động là thước đo, là phản ánh tŕnh độ lạc hậu hay phát triển và những đặc tính phản tiến bộ hay tiến bộ của một chế độ kinh tế - chính trị - xă hội.

Và… năng suất lao động phương Tây ở những nơi chúng tôi đi qua nói trên hiển nhiên cũng cao hơn, so ngay với CHDCĐ. Xin lưu ư, trước chiến tranh thế giới II Áo và Đan-mạch đều ở tŕnh độ phát triển kém nước Đức.

Tôi  bắt đầu phải kiểm điểm lại những ǵ ḿnh đă được học và được trau giồi… Song phải giấu kỹ mọi người: Tôi mắc bệnh “xét lại!”

Đối mặt với sự thật và trao đổi thẳng thắn ư kiến của ḿnh dần dà trở thành phong cách làm việc của tôi. Không hiếm lúc tôi bị đồng nghiệp và cấp trên chụp cho cái mũ “kiêu ngạo”, (tôi nghĩ bụng: dù sao  vẫn c̣n may, chưa bị kết tội là “xét lại!”, nếu không th́ ăn đ̣n nặng từ lâu rồi!). Tôi cố sửa đổi cách diễn đạt và thận trọng hơn, song kiên định điều ǵ ḿnh tin. Tính tôi là như vậy.  

Vấn đề Đức suốt thời chiến tranh lạnh là một vấn đề khó, có nhiều vấn đề nhánh và phức tạp của vụ LXĐÂ – nơi mà tôi công tác, v́ nó liên quan trực tiếp đến Liên Xô và toàn bộ thế giới phương Tây. Song cách làm việc của tôi có hiệu quả, được chấp nhận và tin cậy. Đây cũng là một lợi thế cho tôi có cớ và có dịp để nói sự thật và dám nói thật.

Cũng có thể nói, những năm đằng đẵng làm việc ở CHDCĐ tôi cố phấn đấu trở thành một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, bù đắp cho sư thiếu hụt tôi không được đào tạo bài bản cho lĩnh vực này. Đằng đẵng, v́ những năm này chiến tranh trong nước khốc liệt, phải xa nhà lo lắm, khổ lắm…

Ngày 30-04-1975 đến với tôi ở CHDCĐ. Tôi được lệnh về nước gấp đi tiếp quản đại sự quán Cộng Ḥa Việt Nam tại liên bang Đức, xúc tiến mối bang giao giữa nước ta nước Đức thống nhất.

Nhờ vào những năm chuyên sâu vấn đề Đức, khi được giao nhiệm vụ đại biện lâm thời của nước ta ở CHLBĐức kiêm nhiệm Thụy Sỹ sau 30-04-1975, tôi nhập cuộc khá thuận lợi trong xúc tiến những mối quan hệ bang giao với nước Đức thống nhất, cũng như trong nhiệm vụ thiết lập đại sứ quán của ta. Quan hệ của tôi với con người và các cơ quan hữu quan của nước sở tại phát triển khá nhanh chóng. Đồng thời ngay lập tức tôi t́m cách giáp mặt xúc tiến các mối quan hệ kinh tế với các tập đoàn có tên tuổi của Đức..

Cơ quan tất cả chỉ có 6 người trong một thời gian dài, song hoạt động như một ĐSQ hoàn chỉnh, trong t́nh h́nh thiếu thốn mọi điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết. Sống ở khách sạn là chính, cứ một tháng hay  5 – 6 tuần lại phải chuyển chỗ ở một lần. Bonn là thành phố nhỏ và là thành phố du lịch, việc thuê khách sạn rất chật vật, luôn luôn phải đặt trước khá lâu… Mỗi lần di chuyển như thế là vô cùng vất vả đối với việc bảo vệ và bảo mật tài liệu. Nhiều tháng sau mới t́m mua được ngôi nhà ưng ư làm trụ sở cho ĐSQ. Rồi lại phải nhiều tháng nữa mới hoàn tất được mọi thủ tục mua nhà. Rồi thời gian sửa chữa lại nhà gần như từ A – Z, từ một biệt thự trở thành trụ sở của một cơ quan đại diện ngoại giao của nước ta… Tôi học được rất nhiều thứ mới trong cuộc đời “du mục” tạm thời này.

Việc mua nhà ở Bonn cho tôi một bài học rất quư về phát triển dịch vụ công trong một bộ máy quốc gia – từ quan niệm, luật pháp, cách tổ chức thực hiện, lực lượng chuyên môn phải có, cách vận hành, các chính sách hỗ trợ và bảo hộ của nhà nước… Một bài học cả lư luận và thực tiễn không phải trả học phí, có ích cho tôi rất nhiều sau này trong việc đóng góp ư kiến với Chính phủ ta về đề tài này. Hệ tổ chức nhà nước có dịch vụ công như vậy đă tinh giảm tối ưu bộ máy nhà nước, tính trách nhiệm giải t́nh và công khai minh bạch cao rơ rệt, tham nhũng khó luồn lọt, dân chủ và quyền & quyền lợi của dân được bảo đảm…

Sau đó đại sứ đầu tiên của nước ta ở CHLBĐ là đồng chí Nguyễn Mạnh Cầm.

Những năm công tác của tôi ở CHLBĐ là một cơ hội quan trọng cho tôi t́m hiểu toàn diện một quốc gia phương Tây cụ thể, và qua đó hiểu thêm thế giới phương Tây. Hàng chục năm ngày đêm vốn phải ăn ngủ với vấn đề Đức, nghề nghiệp của tôi ngay từ khi rời đại học Leipzig (Karl Marx) năm 1964 là phải thường xuyên đem 2 nước Đức ra cọ xát với nhau. Cho nên, khi sống trong ḷng CHLBĐ, tôi có dịp kiểm điểm lại mọi hiểu biết của ḿnh, chú trọng t́m hiểu cấu trúc và sự vận hành của (1)hệ thống nhà nước, (2)hệ thống kinh tế, và (3)sự vận động của xă hội và toàn bộ hệ thống chính tri – nói theo ngôn ngữ hôm nay là xă hội dân sự.

Điều này khiến tôi rút ra – (có thể đúng hoặc sai, nhưng đến hôm nay tôi vẫn giữ kết luận như thế): Đặt hệ thống chính trị bao gồm các đảng phái và các tổ chức chính trị / xă hội… vào phạm trù xă hội dân sựkhác biệt quan trọng nhất của thể chế dân chủ so với chế độ chính trị một đảng!.. Nói rơ hơn nữa: Xă hội dân sự là môi trường sống của mọi đảng phái chính trị. C̣n trong hệ thống nhà nước chỉ có Hiến pháp và luật pháp. Toàn bộ hệ thống an ninh quốc pḥng, ǵn giữ trật tự xă hội đều thuộc phạm trù nhà nước – trong đó trên hết là hiến pháp và hệ thống pháp luật, mọi công dân đều dược đối xử b́nh đẳng. Song ở nước ta, đảng và hệ thống chính trị hữu cơ [built-in] nằm ngay trong hệ thống nhà nước, đứng trên nhà nước, đứng trên hiến pháp.  

Dần dần tôi ngày một hiểu thêm cấu trúc rường cột cho sự vận động và phát triển của một quốc gia phải gồm đủ bộ 3 trụ cột hài ḥa: Nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường, xă hội dân sự. Càng so sánh, tôi càng hiểu thêm v́ sao CHLBĐ có tŕnh độ phát triển cao hơn hẳn CHDCĐ – dù cùng sinh ra từ một quốc gia, những lư lẽ biện minh trước đây cho sự phát triển chậm hơn của CHDCĐ tôi được “tuyên truyền” hay là tự tôi có được không c̣n đứng vững được nữa.

Có nhiều chuyện minh họa để kể. Nhưng tôi chỉ muốn lẩy ra 2 ví dụ đơn giản và dễ thấy nhất:

-       Khả năng tiếp cận và kiểm chứng thông tin rất phong phú, nhờ đó tôi sớm hiểu được với sự tin cậy nhất định những vấn đề tôi nghiên cứu và muốn biết đến nơi đến chốn. Ngôn ngữ khoa học th́ nói đấy là tính công khai minh bạch của hệ thống và trách nhiệm giải tŕnh. (Có lần tôi đă tự nói với ḿnh: Ở CHLBĐ làm công tác nghiên cứu sướng vô cùng so với CHDCD. Song những thập niên về sau này khi đi vào vùng trời Mỹ, tôi lại thấy nghiên cứu chính trị và kinh tế ở Mỹ là sướng nhất, v́ có thừa các vùng cho bơi lội t́m kiếm, chỉ sợ không có sức bơi, và nếu bơi không đúng cách th́ cũng chết đuối luôn – v́ không tài nào đọc xuể thông tin và những sản phẩm trí tuệ sản sinh hàng ngày!..).

-       Về hệ thống chính trị là đa nguyên đa đảng của CHLBĐ: Trong thực tiễn cuộc sống, hệ thống luật pháp CHLBĐ cuối cùng vẫn sàng lọc được nhiều thứ, để bao giờ cũng chủ yếu c̣n lại 4 đảng chính lâu đời, có vai tṛ quyết định, loại bỏ được rất đáng kể cái tệ hại của thứ dân chủ bầy đàn, làm nổi bật một cách tập trung vào những vấn đề quốc sách lớn cho tranh cử của các đảng phái và cho sự lựa chọn của bầu cử. Bầu cử ở quốc gia này mang tính chất lựa chọn quyết sách là chủ yếu – người trúng cử trước hết v́ nội dung tranh cử của ḿnh được lựa chọn. Bầu cử ở chế độ một đảng hầu như chỉ chọn người lănh đạo là chủ yếu! Đáng chú ư là các đảng chính trị - kể cả 4 đảng chính này – đều không có cấu trúc tổ chức và phương thức vận hành như các ĐCS nắm quyền ở các nước XHCN, càng không có hệ thống chính trị dọc với các chân rết chi bộ / tổ đảng xuống tận thôn xóm, ngơ ngách, khu phố, xí nghiệp, cơ quan, đoàn thể, trường học, bệnh viện… Xin vào đảng, bỏ đảng, hay thay đổi đảng là quyền công dân… v… v… Thế nhưng tổ chức và phương thức hoạt động của 4 đảng chính này vẫn bảo vệ được vai tṛ và truyền thống của họ, vân vân… Nói đến cùng, cách vận động như vậy của thể chế đa nguyên CHLBĐ dẫn tới kết quả chọn lọc: Về cơ bản, quốc gia này vẫn do đội ngũ elite của nó đến từ những nhóm quyền lực hay  những nhóm có ảnh hưởng khác nhau của đất nước này dẫn dắt. Không hiếm trường hợp những lực lượng cực đoan, hoặc thậm chí mang các mầu sắc tự do vô chính phủ, phát xít, “đảng xanh”, “đảng đỏ”… bị loại trong các cuộc bầu cử ở CHLBĐ. Thực tế này chứng minh: một nước phát triển và giầu mạnh không thể do nhóm người điên khùng hay thiểu năng trí tuệ dẫn dắt! (Tuy nhiên đôi khi vẫn xảy ra ngoại lệ cá biệt).

 

Nói ra th́ đơn giản như vậy, song trước hết đó là kết quả cả một quá tŕnh phát triển văn minh hai ba thế kỷ nay. Chỉ có điều, các nước đi sau có thể làm cho quá tŕnh này ngắn hơn, tùy theo sự phấn đấu của mỗi quốc gia – trước hết là đội ngũ tinh hoa của những nước này.

Đương nhiên sự vật vận động không ngừng. Hôm nay hầu hết xă hội các nước phát triển phương Tây đều có vấn nạn của chủ nghĩa dân túy hôm nay (cũng có người gọi  là neo-populism) – một sản phẩm mới của quá tŕnh phát triển và toàn cầu hóa. Ngày càng có những vấn đề mới khác xuất hiện chưa có lời giải… Nguyên nhân gốc là sự phát triển nói riêng và toàn cầu hóa nói chung không phải là một quá tŕnh chia đều cho mọi người trong một quốc gia mọi cơ hội và thách thức, dẫn tới những phân hóa mới, những vấn đề mới trong mọi mặt của cuộc sống.

Tại Thụy Sỹ, điều hấp dẫn nhất của quốc gia này đối với tôi là v́ sao các con hùm, con sói chung quanh nó luộn luôn để cho nó yên!.. Trong khi đó chẳng ai để nước ḿnh yên!..

Một mẩu chuyện vui: Đại diện tập đoàn đầu tiên tôi gặp khi đặt chân đến Bonn là hăng Krupp, tại chiêu đăi quốc khánh của ĐSQ Tiệp Khắc. Ông này dễ bắt chuyện, với điều kiện phải thực hiện một cuộc thi: Cả hai, cứ mỗi người một lượt uống một cốc bia Pilsner (vùng Pilsen nổi tiếng) th́ phải uống kèm thêm một cốc vodka Nga, sau đó cứ tiếp tục các lượt như thế, đến khi nào ông ta cảm thấy làm bạn được với tôi th́ dừng và kết bạn! Tôi nói: Cuộc đố này không “fair” v́ chỉ có một bên được quyền quyết định, nhưng tôi chấp nhận! V́ tôi muốn mời Krupp sớm vào Việt Nam!

Ông ta th́ như hộ pháp, tôi chỉ bằng 2/3 thôi, đố với tay này không dễ… Song tôi đă có mẹo riêng của ḿnh. Cứ mỗi lần uống xong 2 thứ một lượt như thế, tôi lấy cớ đi la cà với các bàn tiệc khác để giao tiếp, ngoài ra c̣n có mục đích phải cố t́m một bát súp nhỏ húp vào bụng cho loăng rượu đi. Xong, tôi quay lại chỗ cũ t́m ông ta, chấp nhận đố tiếp… Cứ thế đến lần thứ 5 thứ 6 ǵ đó, ông ta ôm hôn tôi và tuyên bố kết bạn… Sau này Krupp cũng là hăng sớm nhất cử người vào t́m hiểu khả năng đầu tư ở Việt Nam, trong đó có ông bạn thách rượu này!..

Nhưng cũng có một chuyện hồn vía lên mây: Một lần di chuyển cơ quan sang khách sạn khác, v́ thời hạn thuê khách sạn đang ở đă hết. Như mọi khi, sau một đêm ngủ ở khách sạn mới, buổi sáng tự tôi một lần nữa điểm lại từng người một mọi việc, trước khi bắt đầu ngày làm việc đầu tiên ở chỗ mới. Đến khi tôi hỏi người giữ cặp tiền mặt để mua nhà, cặp tiền đâu, anh ta nói: Ở trong tủ rồi ạ! Tôi đ̣i cho xem, anh ta t́m cặp tiền không thấy đâu nữa! Họp toàn cơ quan, bàn đi bàn lại măi, anh ta vẫn khăng khăng “Tự tay em xách lên tối hôm qua, anh đă hỏi em rồi, tự tay em cho vào tủ, không thể khác được!..” Cuối cùng tôi quyết định xuống lục lại xe ô tô xem sao, mà xe này lai do ĐSQ Cuba cho mượn tạm. Đêm qua quá khuya mới chuyển đồ đạc xong nên ĐSQ Cuba chưa kịp đến đ̣i xe về.

May quá: Cặp tiền vẫn chơ vơ một ḿnh trong xe suốt một đêm!

Tôi cảm ơn trời!

Công việc của ĐSQ ta những tháng và thậm chí suốt cả năm đầu tiên, không thể không thiếu sự giúp đỡ rất nhiệt t́nh của một số bạn người Đức trong phong trào ủng hộ Việt Nam và của cộng đồng sinh viên Việt Nam học ở Tây Đức (CHLBĐ). Một số ĐSQ thân với ta ghen tỵ với ĐSQ ta, v́ ở Bonn rất đắt đỏ, không dễ ǵ làm được nhiều việc như ĐSQ ta.

Song một nỗi buồn đau ḷng đến rất sớm: Nhiều anh chị sinh viên ở Tây Đức đă nhiệt t́nh tham gia ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của đất nước từ nhưng năm mới vào trường, bây giờ học xong, nước nhà thống nhất, họ rất muốn về nước xây dựng đất nước, nhưng không được chấp nhận.

Trong nước đưa ra cho ĐSQ đủ mọi thứ lư do để tùy nghi giải thích, nghĩa là gần như đẩy quả bóng vào chân ĐSQ!..

Càng để chậm, số tốt nghiệp càng đông, số đơn xin về nước không được chấp thuận càng nhiều!.. Họ bắt buộc phải t́m mọi cách ở lại sinh sống tại nước Đức, lại phải trải qua những thủ tục xét duyệt rất phức tạp của nước sở tại…  Nhọc nhằn và tủi hổ vô cùng!..

Tôi vốn dỹ có quan hệ mật thiết với phong trào sinh viên ta ở Tây Đức nhiều năm trước 30-04-1975, được anh chị em quư mến, vẫn là bạn của nhau ở tuổi đầu bạc hôm nay, bây giờ một vài anh chị đă đi xa… Song tôi không thể t́m ra lời lẽ thuyết phục để giải thích việc các anh chị xin về nước phục vụ không thành, càng không thể giúp được bất kỳ một ai! Tôi không biết xin lỗi anh chị em như thế nào về sự bất lực của ḿnh. Đại sứ và tôi báo cáo đi báo cáo về thế nào đi nữa, trong nước vẫn không xoay chuyển!

Càng về sạu, vấn đề người Việt ở Đức càng là vấn đề lớn, v́ thêm số lao động ở CHDCĐ ở lại, rồi những làn người nhập cư mới, năm sau nhiều hơn năm trước…

Cái rủi mau chóng trở thành cái may, tuy ít nhiều mỉa mai: Nếu có được về nước làm ăn sinh sống và phục vụ đất nước, hầu như chắc chắn những anh chị em này cũng sẽ phải sớm t́m cách ra đi thôi. Bởi v́ làm sao những anh chị này có thể sống bằng tiền lương trong nước, lại càng không thể thích nghi với môi trường làm việc và chế độ.

Niềm vui nho nhỏ: Năm tháng qua đi, trong số này ngày càng nhiều anh chị ở tuổi về hưu đă trở về sống trong nước, đương nhiên sống bằng lương hưu của nước ngoài và h́nh như với cả hộ chiếu nước ngoài nữa. Không sao cả, hầu hết những anh chị này lại góp phần xứng đáng của ḿnh vào sự nghiệp chung bằng cách khác, rất có lợi cho đất nước. Những sản phẩm trí tuệ của những Bùi Văn Nam Sơn, những Nguyễn Xuân Xanh là những ví dụ tiêu biểu. Đất nước vẫn mong đợi rất nhiều những đóng góp như thế của các anh các chị!.. Chung cuộc câu chuyện như thế, phải nên coi là “Happy End!”…

Tuy nhiên, “Happy End!” như thế, chỉ có thể làm cho tôi cười gượng thôi, v́ thiệt tḥi cho đất nước nhiều quá! Dù sao vẫn c̣n hơn là phải mếu!.. Tôi lại vấp phải câu hỏi mới: Không biết đất nước ta hàng ngày có bao nhiêu cái thiệt không đáng có như vậy?..

Kết thúc nhiệm kỳ ở CHLBĐ khoảng cuối thập niên 1970, tôi “ly hôn” với thế giới Đức của ḿnh, 1957 – 1978, nghĩa là cuộc hôn nhân này được 2 thập kỷ. Để từ đó “kết hôn” với cả thế giới, tôi được chuyển hẳn sang công tác ở một vùng trời khác của ngoại giao, song có thể nói là hoàn toàn mới đối với tôi: Lĩnh vực kinh tế - nói chính xác hơn: Kinh tế và phát triển! Trong thời kỳ này tôi đi đến nhiều nơi khác nhau trên thế giới để  t́m những câu trả lời cho nhiệm vụ của ḿnh.

Cuộc hôn nhân mới này đến hôm nay (2018) được 4 thập kỷ. Tôi không biết có thể kỷ niệm ngày cưới vàng (50 năm) cho cuộc hôn nhân này không, v́ tuổi mụ năm nay đă 84 rồi!.. Tôi cố phấn đấu…

Cái giá phải trả cho cuộc hôn nhân mới là 40 năm nay tôi không dùng tiếng Đức nữa, bây giờ cứ mở mồm nói tiếng Đức th́ chỉ được vài câu, rồi tự nó nhảy sang tiếng Anh. Hơn nữa hầu hết mọi thứ tôi phải đọc hàng ngày là tiếng Anh, sách báo cho nghiên cứu sâu những vấn đề tôi muốn hiểu t́m kiếm được cũng chỉ là tiếng Anh… Song may mắn thay, những lúc khó, tôi vẫn phải dựa vào tiếng Đức để kiểm tra tiếng Anh của ḿnh. Tôi tự rút ra cho ḿnh một kinh nghiệm, nhưng hơi muộn: Vốn quư thế nào đi nữa mà không dùng, đến thế nào cũng sẽ mai một! Có đúng không nhỉ?..

 

Một kỷ niệm buồn:

Ít lâu sau khi ở Bonn về nước, một hôm anh Phan Văn Kim, nguyên là tham tán công sứ của Việt Nam ở CHDCĐức mời tôi đến nhà anh để cùng đi ăn phở với đại sứ Phạm Ngọc Thuần. Bộ 3 chúng tôi thời ở ĐSQ ta tại CHDCĐ vốn rất quư mến nhau, lúc đó tôi là tùy viên và là phiên dịch cho hai anh. Tôi không ngờ bữa được anh Phan Văn Kim mời đi ăn phở sáng hôm ấy ở phố Hàng bát đàn, lại là để chia tay anh Thuần và chị Cẩm (phu nhân của anh Thuần) rời quê hương măi măi để sang sống ở Pháp. Một cuộc chia tay đến dứt áo dứt ḷng, nhưng vô cùng đơn sơ, chung quanh bàn phở! - v́ hồi đó đất nước nghèo quá!.. Nhưng vô cùng nặng ḷng giữa kẻ ở người đi! Tôi hiểu rất rơ gia đ́nh và thân thế anh Phạm Ngọc Thuần, người đă dấn thân cho sự nghiệp cứu nước từ lúc c̣n là luật sư Gaston Phạm Ngọc Thuần ở Sài G̣n, sau đó là Phó chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, chủ bút tờ báo tiếng Pháp trong kháng chiến chống Pháp "La Voix du Maquis (Tiếng nói Bưng Biền). Về danh nghĩa gia đ́nh anh Thuần được nhà nước cho đi Pháp chữa bệnh, song tôi hiểu trong ḷng là một sự chia tay đau đớn và đầy thất vọng đối với chế độ. Tôi biết, sau 30-04-1975 có một số nhân vật danh tiếng trong Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam cùng chung một tâm tư và cùng đi tới quyết định như của gia đ́nh anh Phạm Ngọc Thuần!

Nghĩ đến, hôm nay vẫn tê tái trong ḷng!..

 

…Đang làm chánh văn pḥng Bộ Ngoại giao thời bận tối mắt, v́ Mỹ ra sức bao vây cấm vận, và Trung Quốc triệt để khai thác vấn đề Campuchia chống nước ta, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch giao nhiệm vụ cho tôi:

Tạm giao mọi việc cho người khác, đi Úc ngay thay đai sứ S; Bộ vừa mới nhận được điện của S xin thôi chức đại sứ và mong được về nước gấp. T́m hiểu xem đây là việc ǵ, hoàn toàn chưa có tiền lệ. Cần làm mọi việc vận động Úc sớm đón Bộ trưởng để phá thế bao vây cấm vận hiện nay!

Hôm sau chào từ biệt Bộ trưởng để lên đường, tôi c̣n được dặn ḍ kỹ lưỡng, nếu là có bàn tay phá hoại th́ là ai? Phải làm rơ nội hay ngoại?..

Đấy là câu chuyện khoảng đầu những năm 1980s.

Với cái vali tọng teng, mấy bộ quần áo có sẵn, hành lư của tôi nhẹ gọn. Tôi chọn đôi giầy đẹp nhất do Tiệp Khắc sản xuất, vẫn để dành, bây giờ mang ra dùng, v́ với khí hậu ở nhà chẳng bao giờ phải dùng đến, hơn nữa từ năm 1980 trở đi tôi chuyên về công tác nghiên cứu kinh tế, ít khi phải tiếp xúc với cơ quan hay người nước ngoài…

Lững thững tại sân bay Sidney, đang t́m cách bay tiếp đến Canberra, tôi bỗng nhiên đi khập khiễng, cứ tưởng là bệnh thần kinh tọa của ḿnh tái phát. Kiểm tra lại cái chân, th́ ra một chiếc giầy đă bị găy gót, v́ cái đế plastic bị lăo hóa. Khó xử! Nhưng tôi mặc kệ.

Đến Canberra, chiếc giầy c̣n lại găy gót nốt. Cả hai mũi giầy của tôi trong mỗi bước đi cứ hếch lên như giầy của Charlie Chaplin! Tôi thấy vui vui, nới rộng thắt lưng quần một chút cho hai ống quần chùm sát gót. Thế là vẫn tươm tất trước tất cả những con mắt chào đón tôi tại ĐSQ ta ở Canberra.

Ngay sau những phút chào hỏi đầu tiên, qua cách ăn nói của mọi người tôi đă nhận ra một sự lộn xộn nào đó theo kiểu cá mè một lứa trong ĐSQ. Tôi coi như không để ư, từ tốn yêu cầu thu xếp chỗ nghỉ chu đáo, v́ đường bay dài, muốn nghỉ sớm. Sau đó tôi lấy cái ghế ra ngồi tại giữa nhà, vui vẻ nói:

-       Đố cả nhà xem tôi có ǵ đặc biệt không?

Tiếng nói cười vui vẻ huyên thuyên, có đôi lời hơi quá chớn… Song không ai thấy tôi có ǵ đặc biệt.

Tôi đứng lên đi đi lại lại giữa nhà, điệu bộ như người biểu diễn thời trang:

-       Cứ ngắm kỹ nữa đi! Nói trúng sẽ có thưởng!

Măi, rồi mọi người vẫn lắc đầu chịu.

Tôi ngồi lại vào ghế, rồi kéo hai ống quần lên, đưa cả hai chân lên trời, giải thích đôi điều. Đôi giầy găy gót của tôi đem lại cho mọi người một trận cười…

Kết thúc buổi đố vui, tôi đứng dậy nghiêm nghị:

-       Xin nói vài câu về công việc, sáng mai tất cả chúng ta sẽ bắt đầu. Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch yêu cầu sứ quán ta phải làm mọi việc, vận động Úc sớm đón Bộ trưởng để phá vỡ bế tắc ngoại giao. Từ sáng mai, ai phải làm đúng việc nấy. Không hoàn thành nhiệm vụ, tôi sẽ đuổi về nước ngay tức khắc. Bây giờ mời các đồng chí về đi ngủ!

Tôi cảm nhận được sự bất ngờ trong pḥng trên khuôn mặt mọi người. Những lời nói nghiêm của tôi có tác dụng…

Vài ba ngày sau tôi thu xếp xong việc giúp vợ chồng anh S về nước. Hai anh chị kỹ tính đến mức yêu cầu tôi phải cùng bay từ Canberra để tiễn tại sân bay Sidney, tôi cũng chiều ḷng, v́ muốn nhanh chóng tập trung vào những việc phải làm.

Sau đó, ngay lập tức tôi xắp xếp lại toàn bộ công việc của cơ quan theo đúng chức năng từng người – bao gồm cả những việc phải kiêm nhiệm; loại bỏ sự nhập nhèm coi “việc kiêm nhiệm” chỉ là những việc tự nguyện, làm cũng được, không làm cũng được, thậm chí làm th́ cơ quan phải bồi dưỡng thêm tiền…

Tôi nói dứt khoát: Ngoài lương ra, không có ǵ hết.

Mọi chuyện dần dần vào khuôn phép, tôi dồn mọi sức lực cho nhiệm vụ ngoại giao và chuyện của anh S.

Được Bộ Ngoại giao Úc giới thiệu tôi là người mới đến thay anh S, báo chí sở tại túm bắt tôi mọi lúc có thể để khai thác, v́ Việt Nam đang có nhiều vấn đề nóng bỏng. Một số cơ quan, tổ chức, trường đại học… tới tấp mời tôi đến nói truyện.., lịch làm việc lúc nào cũng kín mít. Tôi cố đáp ứng ở mức có thể, nghĩa là dứt khoát không trốn tránh khi thời gian c̣n cho phép… Nhất là lúc này vấn đề Campuchia đang rất nóng.

Thời gian này đang là cao trào của những hoạt động quyết liệt chống đối nhà nước CHXHCNVN của các lực lượng khác nhau trong cộng đồng bà con người Việt sống ở Úc. Biểu t́nh trước ĐSQ ta để chống đối là chuyện thường xẩy ra vào mọi dịp khác nhau, có những cuộc biểu t́nh khá quyết liệt, kéo dài nhiều giờ, thậm chí có khi quá khích đạn bắn vào quốc huy treo ở cửa ĐSQ… Trên đường đến làm việc tại các cơ quan của Úc, xe của Việt kiều quá khích đuổi theo xe chúng tôi làm những chuyện uy hiếp này nọ… là chuyện b́nh thường…

Tôi đă làm quen với những thứ căng thẳng này trong một vài chuyến đi Mỹ trong những năm trước, nên không bận tâm lắm. Lần căng thẳng quyết liệt ở Mỹ tôi nhớ măi là trong chuyến đi của Phó thủ tướng Trần Đức Lương, tôi được Bộ cử sang làm cố vấn cho đoàn trong những vấn đề kinh tế đối ngoại. Trong chuyến đi này tôi không phải là thành viên chính thức của đoàn, nên rất nhàn, chỉ phải dự cuộc họp hội ư mỗi ngày vào buổi tối sau khi chương tŕnh làm việc của ngày kết thúc, ban ngày hoàn toàn tự do. Ngay hôm đầu, tôi rủ một cán bộ trẻ của Bộ Ngoại thương thông thạo đường phố Washington DC tranh thủ đi t́m hiểu t́nh h́nh tại chỗ. Chúng tôi mặc quần áo thể dục thể thao, nói trước với bảo vệ của Mỹ và yêu cầu họ phát cho mỗi chúng tôi một huy hiệu bỏ túi, để họ có thể biết chúng tôi ở đâu và giúp đỡ nếu cần… Lư do nói với họ: Chúng tôi thích t́m hiểu thủ đô nước Mỹ… Ra cổng sau để rời khách sạn… Việc đầu tiên là chúng tôi trà trộn vào khách đi đường để len sát những toán người biểu t́nh khá đông, mặt đằng đằng, rất giận dữ khi hô khẩu hiệu và giương cờ, nhưng không ai vượt làn ranh bước xuống ḷng đường… Họ đến từ những địa phương khác nhau ở Mỹ, những giọng nói tiếng Việt cũng khác nhau… Tôi cố t́m hiểu thái độ của họ.., nghe và biết được điều này điều nọ.., cả cách thức họ tổ chức biểu t́nh… Sau đó hai chúng  tôi rủ nhau đi xem nghĩa trang Arlington để hiểu thêm những khía cạnh khác nhau của cuộc chiến tranh Việt Nam của Mỹ và vấn đề MIA (Missing In Action)… Có lúc chúng tôi kín đáo đứng xem những người Mỹ đi viếng mộ có thân nhân đă chết trên chiến trường Việt Nam…. Người đi viếng nâng niu những kỷ vật họ mang đi từ nhà, tṛ truyện với người đă khuất như thể đang hiện hữu trước mặt… Hôm ấy cũng có một vài gia đ́nh người Việt đi viếng… Sau đó chúng tôi đi một số nơi khác…

Một kiểu đi dă ngoại như vậy hiểu thêm vấn đề MIA, biết thêm được nhiều thứ…

Song tại Canberra, chuyện khó nhất đối với tôi không phải là những cuộc biểu t́nh và những biểu hiện quá khích, mà là vấn đề Campuchia!

Tôi nhớ măi, căng thẳng nhất là hôm nói chuyện và đối thoại với trường đại học Canberra. Cả thầy giáo và sinh viên ở đây dứt khoát phản đối Việt Nam trong vấn đề Campuchia, mặc dù tôi đă giải thích cặn kẽ mọi khía cạnh.

Họ vẫn một mực kết luận: Cứ cho những ǵ đại sứ giải thích là sự thật đi, song có 2 điều không thể chấp nhận:

-       Tại sao diệt xong Polpot các ngài không rút quân về, mà tự biến ḿnh từ một nước kháng chiến giành độc lập trở thành một quyền lực chiếm đóng?

-       Úc là một nước yếu hơn nhiều cường quốc, bất kể kẻ ăn hiếp nào cũng có thể bắt chước Việt Nam dùng luận điệu cứu nước Úc khỏi cái này cái nọ để xâm lược Úc! Chủ quyền quốc gia và luật pháp quốc tế sẽ không c̣n nghĩa lư ǵ nữa.

Tôi t́m cách kết thúc đối thoại, v́ biết không thể một buổi nói chuyện thế này mà thay đổi nhận thức của họ được, phát biểu đại ư:

Tôi không muốn áp đặt, song gợi ư họ nên từ các mối tương quan giữa các nước liên quan đến vấn đề Campuchia tự đăt ra một số câu hỏi rồi tự t́m câu trả lời,  hy vọng họ sẽ hiểu rơ vấn đề. Tư liệu thông tin và sách báo có thể giúp họ làm tốt việc này, và chắc chắn họ sẽ t́m được câu trả lời. Những câu hỏi nên đặt ra có thể là:

-       Một nước vừa mới ra khỏi 2 cuộc chiến tranh ác liệt kéo dài mấy thế hệ để bảo vệ tổ quốc ḿnh, có lợi ích ǵ mà lại tiến hành ngay một cuộc chiến tranh chống  Polpot?

-       Tại sao lực lượng Polpot bé teo lại dám phát động một cuộc chiến tranh chống một nước như Việt Nam đă thắng cả Mỹ, lại c̣n dám tuyên bố sẵn sàng hy sinh 2 triệu người Campuchia để diệt 50 triệu người Việt? Ngông cuồng này phải có một cái ǵ đó đứng    đằng sau chứ?

-       Bàn tay của Trung Quốc can thiệp và sai khiến Polpot như thế nào? Cái ǵ đă dẫn Polpot đến chính sách diệt chủng ở Campuchia?

-       Giữa cuộc chiến tranh Polpot chống Việt Nam và cuộc chiến tranh của Trung Quốc 17-02-1979 chống Việt Nam để căng Việt Nam ra 2 đầu mà đánh có mối liên quan ǵ không?

-       Vân vân…

Sau cuộc đối thoại này, chính tôi cũng học được nhiều điều, nhất là hiểu rơ hơn cách nh́n của người nước ngoài đối với những vấn đề của nước ta.

Việc vận động phía Úc sớm tiếp Bộ trưởng ta phải tuần tự vi tiến, song song với những ǵ đang diễn ra trong khu vực, không thể tách rời đi nhanh được.

Khoảng 3 tháng sau tôi cũng đi tới kết luận về chuyện anh S.

Cách làm của tôi đại thể là trao đổi trong toàn cơ quan trên từng khía cạnh khác nhau trong từng cuộc họp khác nhau, để t́m hiểu xem mọi người trong cơ quan nghĩ ǵ và kết luận như thế nào về việc anh S xin về nước gấp. Mọi người đều được phép nói suy nghĩ của ḿnh. Tôi cũng có những cuộc trao đổi riêng rẽ, t́m hiểu những mối quan hệ trong nội bộ giữa các nhân viên với nhau, mối quan hệ của ĐSQ và của một số nhân viên với bên ngoài, đánh giá một số sự việc, một số việc ĐSQ đă làm… Song từ đầu đến đuôi tôi giữ riêng cho ḿnh mọi nhận xét, đánh giá của tôi về ư kiến của từng người.

Có mấy khía cạnh làm tôi mất nhiều tâm trí đắn đo: T́nh h́nh nghiêm trọng đến mức nào mà anh S phải xin thôi chức và xin về nước gấp như vậy? Cái ǵ tạo ra sự nghiêm trọng này? Lư do ǵ mà anh S dứt khoát yêu cầu tôi phải tiễn vợ chồng anh đến tận Sidney? – bởi v́ từ đấy là bay thẳng về Việt Nam, không phải stop over ở đâu nữa trên đất Úc… … …

Nếu tôi kết luận sai, dù theo cách nào, trách nhiệm của tôi cũng rất lớn: Hoặc là để lọt một tội ác phá hoại nào đó chống lại đất nước, hoặc sẽ gây ra cho anh S một oan khiên không cách ǵ gỡ được!

Độ hai tháng tôi đă đi tới kết luận cuối cùng, song phải mất thêm một tháng nữa đánh vật với kết luận của ḿnh, tôi mới chính thức điện mật báo cáo về nước, nội dung:

Nguyên nhân của sự việc là yếu kém của anh S và hư hỏng của một số người trong cơ quan muốn hại anh S, không có bàn tay địch nào ở đây cả!... Đề nghị làm một số việc có liên quan để giải quyết… …

Đương nhiên tôi không cho cơ quan biết nội dung điện mật này, mà chỉ đặt vấn đề mọi người phải sửa chữa khuyết điểm của ḿnh, có trách nhiệm cùng nhau làm cho cơ quan lành mạnh và hoạt động hiệu quả cao nhất.

Điện gởi đi, tôi thấy nhẹ cả người.

Thêm một số thời gian nữa ở Úc, tôi tính đến làm một số việc lâu dài hơn, trong đó có việc đi t́m mua nhà mới cho ĐSQ ta ở Úc, v́ nhà đang ở chật quá…

Rồi cái ngày anh Hoảng Bảo Sơn sang Úc tŕnh quốc thư nhậm chức đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam cũng đến, công việc đầu tiên là xúc tiến chuẩn bị cho chuyến đi thăm Úc chính thức của Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch.

 

Từ Úc trở về Bộ Ngoại giao, loanh quanh thế nào Bộ lại bố trí tôi về làm vụ trưởng Vụ châu Á 2, gồm các nước Lào, Campuchia và 6 nước ASEAN, một vùng trời đất chưa bao giờ là lănh địa chuyên sâu của tôi. Việc thay đổi như vậy xảy ra như cơm bữa, v́ mọi guồng máy của Bộ không được dừng hoạt động dù chỉ là một phút, nhưng cán bộ chủ chốt luôn luôn thiếu…

Đối với tôi, rủi ḿnh là lính mới ṭ te của vùng này, may là lại thêm một không gian mới cho ḿnh chinh phục.

Khoảng giữa năm 1989, tôi được bổ nhiệm làm đại sứ tại Thái Lan. Tôi hiểu đây là một nhiệm vu cam go. Bởi v́ quan hệ Việt Nam – Thái Lan vốn dĩ phức tạp suốt toàn bộ thời kỳ ta kháng chiến chống Mỹ, sau chiến tranh vẫn là nước tuyến đầu (front state) của Mỹ chống Việt Nam, song t́nh h́nh Thái Lan lúc này đang có những biến chuyển biến mới năng động, phức tạp…

Được nhận nhiệm vụ đại sứ ở Thái Lan, thật ra chính tôi cũng bị bất ngờ, v́ Bộ đă dự kiến bổ nhiệm tôi làm đại sứ tại Nhật, song có lẽ v́ quan hệ kinh tế của ta với Nhật rất quan trọng nên sau đó Bộ cử anh Vơ Văn Sung, nguyên đại sứ của ta ở Pháp. Tiếp nữa, Bộ dự kiến bổ nhiệm tôi đi làm đại sứ ở Cộng Ḥa Liên Bang Đức, đơn giản đây là lĩnh vực chuyên sâu của tôi, nhưng sau đó lại bổ nhiệm anh Vơ Hồng Phúc…

Vùng trời thuộc nhiệm vụ tôi được giao mới quá, tôi phải dành khoảng 3 – 4 tháng chuẩn bị, gần như học từ đầu, nhất là học những thứ chưa biết mà nhiệm vụ cần, gặp nhiều cơ quan liên quan các ngành khác nhau – cả bên an ninh và quân đội.., đi đến nhiều nơi trong cả nước để t́m kiếm thông tin và nắm những vấn đề cần thiết, trong đó có cả một số bà con Việt kiều đă về sống trong nước…

Vào lúc này quá tŕnh t́m giải pháp cho vấn đề Campuchia ở giai đoạn gai góc nhất, Trung Quốc chống ta quyết liệt (và sau đó diễn ra Hội nghị Thành Đô); Mỹ (có lẽ vẫn cay cú) vào hùa với Trung Quốc làm nhiều chuyện khó dễ với ta trong quá tŕnh bao vây cấm vận, mặc dù ta t́m mọi cách bầy tỏ thiện chí – nhất là trong vấn đề MIA (Missing In Action), kinh tế trong nước tuy bắt đầu đi vào thời kỳ đổi mới nhưng vẫn c̣n rất nhiều khó khăn, bỡ ngỡ…

Tôi hiểu được tầm quan trọng nhiệm vụ phải làm và những khó khăn, nên rất cẩn trọng...

Chuẩn bị xong, tôi mệt phờ. Xin phép Bộ nghỉ một tuần, tĩnh tâm.

Tôi gạt công việc sang một bên, thăm quê và đến một số nơi gia đ́nh tôi đă sống thời kháng chiến chống pháp… Trong đó có một nơi đến rất thiêng liêng trong tim tôi: Thăm trường học cũ, nơi tôi 40 năm về trước đến nhập học, rồi từ đấy ra đi, nhưng không kịp từ biệt mối t́nh đầu trước khi bước vào chiến dịch Điện Biên Phủ…

Đứng trên mảnh đất trường xưa, tôi thầm trong ḷng nói lời tạ từ muộn mằn…

 

 

Hôm nay về cội nguồn

Của một thời trai tráng

Ḷng dạ sao bâng khuâng

Những ngày xưa bật sáng…

 

 

…Đây rặng tre năm nào

Soi ḿnh bên sông Thao…

…Nơi đây, ngôi trường cũ

Tiếng trẻ đùa lao xao…

 

 

…Tim anh đau thắt lại

 

Nơi đây anh gặp em

Nơi đây chia tay em

Không một lời tiễn biệt

Nụ cười vương trên môi

Đuôi mắt giọt lệ rơi…

 

 

 

…Ngày ấy năm nao nhỉ…

C̣n nhớ chăng – ngày ấy năm nao…

 

 

 

Chẳng ai nghe anh hỏi

Một nỗi buồn chơi vơi…

…C̣n đâu ngôi nhà cũ

Không t́m em bằng lời

T́m em trong tim tôi…

 

 

 

 

…Ngày ấy năm nao nhỉ…

Anh bước tiếp t́m em

Tự t́m ḿnh thưở trước

Bạn bè xưa xa vắng…

Nhưng trang sách c̣n đây…

Lời thầy giảng c̣n đây…

 

 

 

 

…Một tiếng chim thánh thót

Rơi xuống từ cao xanh

Ngỡ tiếng em, anh gọi

Không một lời đáp lại

Cánh chim vụt bay nhanh…

Bỏ anh giữa rừng xanh…

 

 

 

…Ngày ấy năm nao nhỉ…

Tay chung tay dựng trường

Rau xanh làm chung luống

Học về chung lối xóm

Sớm khuya chung đĩa đèn

Trời nắng mưa chung nón…

 

 

 

 

…Giữa buổi học chưa tan

Anh lên đường nhập ngũ

Tràng pháo tay tiễn đưa…

Tạ từ t́nh thầy bạn

Giữa hàng quân vẫy em…

…Ngày ấy năm nao nhỉ…

Xa xa tiếng súng dồn…

 

 

 

 

…Lư trí mách bảo anh

Ra đi sẽ mất em

Tim anh như muốn vỡ

Nhưng nước mất nhà tan

Sẽ mất em lần nữa…

Bàn tay anh nắm chặt

Chân in sâu trong đất…

 

 

 

 

…Biết chăng em ngày ấy…

Ngày đầu tiên ra trận

Bom đạn ập xuống đầu

Vùi anh trong cát sâu

Ba-lô cháy một nửa…

-       Nhưng tim anh vẫn một nhịp

Đập cho em và anh…

 

 

 

 

…Bao dặm trường gian khổ

Ốm đau quật xuống đường

Anh vẫn ngước nh́n lên

T́m ngôi sao trên trời

Lấy thêm sức đi tiếp

Sao lung linh đáp lời…

 

 

 

 

…Đường đời sao kể siết

Tháng ngày sao đếm được

Chiến tranh tiếp chiến tranh

Đắng cay nhuốm tóc xanh

Nhưng t́nh xưa vẫn trẻ

Số phận thử ḷng anh

Càng gần càng xa măi…

 

 

 

 

…Ngày về anh gặp em -

Nào ngờ - ngày vĩnh biệt…

Khói hương sao lưu luyến

Như tóc em vương bay…

…Ôi em ơi…

Khôn thiêng xin níu tay…

 

…Ở nơi nao chín suối

Biết chăng anh về đây…

Ngàn nỗi đau chôn chặt

Đời trên vai thêm nặng…

 

 

 

 

…Mấy chục mùa én bay

Dệt vần thơ trên trời

Một bước đi

Một hơi thở

Là một vần gieo tiếp

Gửi cho ai… Ai biết…

Lặng lẽ một ḿnh anh

Ấp ủ vần thơ ấy

Như t́nh xưa riêng anh

Giữ cho em thuở nấy…

 

 

 

…Hôm nay anh về đây

Không nhành hoa viếng tặng

Chỉ vần thơ mang nặng

Nói ḷng anh với em

Nói ḷng ḿnh với anh

Những vần thơ chắt chiu từ lẽ sống…

 

                    (Hết.

                     Âu Lâu / Yên Bái, thu năm 1989)

 

 

 

Quan chức Thái Lan đầu tiên tôi gặp khi đặt chân đến Bangkok là quốc vụ khanh Bộ Ngoại giao Sidthisavesthila, một người có quan điểm cực hữu.

Làm xong mọi nhiệm vụ ban đầu và việc chuẩn bị cho tŕnh quốc thư, tôi nói với quốc vụ khanh:

-            Thưa ngài, bây giờ tôi có một việc riêng cá nhân muốn nói.

-            Xin mời ngài đại sứ.

-            Vâng, xin cảm ơn. Tôi biết ngài xưa nay là người có quan điểm chống Việt Nam, khá quyết liệt. Nhưng đấy là chuyện quốc gia – quốc gia. Song riêng tôi vẫn hàm ơn ngài rất lớn.

-            Xin lỗi, đại sứ nói ǵ tôi chưa hiểu!?

-            Xin thưa, câu chuyện là thế này. Khi thủ tướng Chatichai lên nhậm chức, muốn thay đổi quan hệ với Việt Nam, nên thủ tướng đă ngỏ ư cho Việt Nam vay 2 triệu USD theo lăi suất ưu đăi để mua ngô của Thái Lan mà Việt Nam đang cần. Hai bên đă đàm phán xong xuôi cho việc này, nhưng phút cuối cùng chính ngài đă phản đối quyết liệt!

-            Vâng, tôi biết, câu chuyện đúng là như thế.

-            Tôi nằm trong phái đoàn đi Bangkok kư thỏa thuận này, sáng mai chúng tôi lên đường, th́ buổi tối nhận được điện của đại sứ Lê Mai (người tiền nhiệm của tôi) cho biết: Ngài nhất định phản đối. Dự án này thất bại. Chuyến bay của chúng tôi bị hủy. Song không may, máy bay lẽ ra chở đoàn chúng tôi sáng hôm sau đă bị rơi tại Bangkok, đoàn chúng tôi thoát nạn, nhưng số hành khách thế chỗ và toàn bộ hành khách khác đều tử nạn… Tôi hôm nay c̣n sống để vài hôm nữa sẽ hân hạnh được tŕnh quốc thư lên Quốc vương của ngài, và hôm nay có dịp trực tiếp cảm ơn riêng cá nhân ngài về may mắn này.

Quốc vụ khanh đang ngồi, đột nhiên đứng dậy, nắm lây tay tôi, vừa ôm chầm lấy tôi, vừa vừa xuưt xoa – một phản ứng rất tự nhiên giữa người với người!

-            Ôi mừng cho đại sứ, song thật vô cùng đáng tiếc cho những người không may!.. Tôi xin vô cùng chia buồn…

 

Lời cảm ơn của tôi là đ̣i hỏi của chính tôi và chân thật. Song t́nh cảm thật giữa Sidthisavesthila và tôi với nhau, mau chóng làm cho hai chúng tôi trở nên bạn thân của nhau trong suốt nhiệm kỳ công tác của tôi ở Thái Lan cũng như măi về sau này, khi ông ta làm cố vấn cho tập đoàn Amata – chủ đầu tư khu công nghiệp Đồng Nai hiện nay.

Cũng phải nói thêm, v́ được hưởng sự quư trọng của Sidthisavesthila, nên tôi tiếp cận với Bộ Ngoại giao nói riêng và các cơ quan khác của Thái Lan nói chung khá thuận lợi.

Có một trục trặc lễ tân nhỏ.

Theo tục lệ ngoại giao, đại sứ mới đến phải đi chào xă giao các đại sứ đă đến trước. Người phó của tôi trong sứ quán và cán bộ phụ trách lễ tân, nhất định khuyên tôi không nên đến chào xă giao đại sứ Trung Quốc. Lư do: Đại sứ Lê Mai đă đến chào xă giao đại sứ này, nhưng ông ta không thèm chào đáp lễ, thái độ đối với ta lúc nào cũng khinh khỉnh. Cũng dễ hiểu, v́ đây là thời kỳ quan hệ Việt – Trung rất căng thẳng.

Tôi quyết định: Vẫn cứ lên lịch cho tôi đi chào đại sứ Trung Quốc.

Một hai tháng trôi qua, không có hồi âm, mặc dù tôi đă đôi ba lần gặp bắt tay và nói chuyện với đại sứ Trung Quốc trong một số hoạt động của đoàn ngoại giao -  đương nhiên ông này vẫn rất trịch thượng.

Bị sứ quán ta thúc rát quá, cuối cùng đại sứ Trung Quốc cũng phải xếp lịch hẹn tiếp tôi thăm xă giao tại nhiệm sở của ông ta.

Trong những năm trước, tôi đă đôi ba lần được nếm cái vơ bất lịch sự này của Trung Quốc rồi (trong đó có thái độ trịch thượng của lănh đạo Trung Quốc đối với lănh đạo ta, song trường hợp tệ nhất mà tôi cũng là nạn nhân có lẽ là thái độ của Trung Quốc đối xử với đoàn đại biểu Đảng do Ủy viên Bộ Chịnh trị Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh dẫn đầu đi dự đại hội VII của ĐXHTN Đức – trên đường dừng chân tại Bắc Kinh, lúc đó đang cao trào của cách mạng văn hóa, với những chuyện tôi không muốn kể lại…), ngoại giao có cả những chuyện tiểu nhân như vậy…

Tôi đến ĐSQ TQ đúng giờ, được lễ tân trịnh trọng mời vào pḥng khách, mang trà nước bánh kẹo rất lịch sự ra tiếp, với lời xin lỗi: Đại sứ đang nói chuyện đường dài với trong nước, xin quư khách chịu khó chờ.

Tôi nh́n đồng hồ, 15 rồi 20 phút, rồi hơn nữa… vẫn chưa thấy chủ nhà ra tiếp. Tôi vẫn b́nh thản uống nước, hút thuốc lá, chờ…

Cuối cùng th́ chủ nhà cũng ra tiếp, với lời xin lỗi này nọ, với ngôn ngữ Việt rất thạo (bây giờ tôi không nhớ rơ tên ông đại sứ này, song nói tiếng Việt thông thạo không kém đại sứ Trương Đức Duy ở Việt Nam)…

Tôi nghe, rồi thong thả, rành mạch:

-         Rất cảm ơn đại sứ đă dành thời giờ tiếp tôi, mặc dù cán bộ của tôi cho tôi biết người tiền nhiệm của tôi đến chào đại sứ, nhưng đại sứ đă không đến đáp lễ. Chờ lịch tiếp của đồng chí khá lâu, cán bộ của tôi đ̣i hủy, tôi không cho hủy. Chờ lâu thế nào tôi vẫn quyết chờ, không thay đổi. V́ quan hệ giữa hai nước và hai đảng của chúng ta đ̣i hỏi tôi phải làm như vậy. – đến đây tôi dừng lại.

Chủ nhà bị bất ngờ về sự thẳng thắn của tôi. Măi mới đối đáp được mấy câu gượng gạo.

Tôi chủ động chuyển chuyện xă giao sang chuyện trao đổi một số vấn đề của Thái Lan, vừa để cho không khí trở lại b́nh thường, cũng vừa muốn thăm ḍ thêm thái độ của Trung Quốc, nêu vài ư kiến của tôi, hàm ư tôi nghĩ khác chủ nhà…

Từ sau đó trở đi tôi không thấy sự trịch thượng nữa, thậm chí có lúc là sự vồn vă hơi quá, nhưng có lư do. Đấy là lần xảy ra đảo chính, tướng Chatichai bị hất, tướng Suchinda lên làm thủ tướng ngày 23-02-1991.

Hôm ra mắt các đại sứ, Suchinda rất vồn vă, tiếp mọi người ngay trong pḥng khách khá hẹp bên cạnh pḥng làm việc của ḿnh, khách phải ngồi cả trên những ghế đệm dài mới đủ chỗ…  Suchinda chủ động ngồi trên ghế dài, dành các ghế lẻ cho khách, mời một số đại sứ ngồi cùng ghế dài với ḿnh cho thân mật. Đại sứ Trung Quốc đến ngồi ngay bên cạnh Suchinda, c̣n những đại sứ khác đang cố t́m một chỗ xa xa hơn, v́ sự dè dặt cần thiết… Tôi thấy cũng phải dè dặt như vậy, v́  t́nh h́nh c̣n diễn biến, chưa biết sẽ thế nào. Nhưng đại sứ Trung Quốc rất nhiệt t́nh với Suchinda, nói tiếng Anh mời tôi ngồi cùng. Tôi cảm ơn và đáp lại:

-     Thanks, the Veterans first please! (Cảm ơn, trước hết xin   nhường các đại sứ cựu trào!).

 

Sống được vài tuần, tôi thấy khí hậu Thái Lan khá nóng, cả ĐSQ chỉ duy nhất pḥng ở của vợ chồng tôi có máy điều ḥa. Phần th́ tôi thấy sự phân biệt này bất tiện quá, phần th́ ái ngại cho các nhân viên của ḿnh phải sống khổ. Đơn giản v́ Bộ tài chính quy đinh như vậy. Tôi hỏi người phó của tôi ngân sách Bộ cấp cho hàng năm có chi hết không? Được biết là chi không hết, dồn lại để khấu vào ngân sách năm sau. Ngay tức khắc tôi quyết định lắp máy điều ḥa cho tất cả các pḥng ở của nhân viên. Người phó và cán bộ tài vụ của ĐSQ rất sợ, v́ như thế sẽ trái và sẽ bị kỷ luật. Tôi quyết định cứ làm, mọi tội tôi chịu. Đương nhiên trong nhà có điện đi điện về chất vấn này nọ, song việc đă rồi, tôi cũng không bị làm sao cả.

Thời gian công tác ở Bangkok, tôi được trong nước tặng cho cái nickname “đại sứ bán sứ quán”, có lẽ tếu và không thân thiện lắm. Lư do là tôi đă đề nghị về nước bán trụ sở ĐSQ để mua một khu đất rộng hơn, tiện đường vào trung tâm thành phố và đỡ tắc xe hơn, tiền thu được hoàn toàn đủ cho xây dựng một khu đại sứ quán hoàn chỉnh của Việt Nam, chỗ làm việc và chỗ ở của toàn bộ các gia đ́nh cán bộ công nhân viên đều khang trang, chính quy cho một quy mô đại sứ quán lớn hiện đại. Đề nghị bị bác và tôi được thưởng cái nickname.

C̣n một quyết định cá nhân nữa: Cán bộ nhân viên sứ quán đông, v́ hồi ấy Bangkok là cửa ngơ của nước ta ra thế giới. Nhưng rất thiếu chỗ ở. Vợ chồng tôi được cơ quan giao cho 1 buồng cả ở và làm việc, thế là ưu đăi số một rồi! Nhưng vợ tôi suốt ngày cứ phải chạy quanh trong cơ quan, v́ không chịu nổi khói thuốc lá của tôi. Một câu hỏi trêu tôi:

-     Chọn vợ hay chọn thuốc lá?

-     Thà chết c̣n hơn, chọn vợ!

Thế là ngay hôm sau tôi bỏ thuốc lá. Quyết định một lần trong giây lát, nhưng thực hiện suốt đời cho đến hôm nay, sau đúng 40 năm tôi say sưa với nó!

Tôi bắt đầu hút thuốc lá khi bước vào trung học, v́ xa nhà và v́ chẳng có ǵ hơn để bay bổng với nhau tuổi học sinh. Tụi tôi bắt đầu từ hút thuốc lá tự trồng, lúc nào xin ở đâu được tư mật ong tẩm vào nữa, th́ tâm hồn chúng tôi ngồi tất cả với nhau trên cành cây. Có giấy báo th́ cuốn thuốc lá bằng giấy báo. Có lúc là giấy pelure (đánh máy chữ), thậm chí có lúc lá nó cuốn nó!.. Ngón chỏ và ngón cái cuộn thuốc lúc nào cũng vàng kịt…

Hôm nay tôi mới dám nói, bỏ thuốc lá không khó, miễn là ḿnh có cái ǵ quư hơn nó phải chọn!..

Với cương vị đại sứ ở một nước có rất nhiều điều liên quan sâu sắc đến nước ta, tôi hăm hở bắt tay vào công việc. Ngay lập tức, tôi thấy nhiều việc muốn làm, nhiều điều muốn t́m cách tiếp cận khác… Nhất là tôi bị thôi thúc bởi suy nghĩ: Không thể để cho hết nước này đến nước khác trong thiên hạ mọi thời đại cứ chiếu tướng nước ta măiCàng không thể chịu thua kém Thái Lan… Phải t́m ra một cái ǵ khác, con đường khác… Trước hết phải xóa cái nghèo và lạc hậu của đất nước…

Trong suốt một thập kỷ, kể từ sau khi tôi ở Bonn về cuối những năm 1970s cho đến khi tôi đi làm đại sứ ở Thái Lan mùa thu 1989, tôi hầu như dành hết tâm sức cho nghiên cứu mối quan hệ toàn diện của nước ta với thế giới bên ngoài, những vấn đề kinh tế và phát triển đất nước phải giải quyết, từ đó tôi nghĩ nhiều đến phải t́m một lối đi khác cho đất nước. Đ̣i hỏi này ngày đêm theo đuổi tôi cho đến hôm nay (2018) – tôi thấy không phải xấu hổ để viết ra tại đây những ḍng này! Tôi âm thầm làm việc, v́ là các vấn đề của đất nước quá tế nhị, tôi rất dễ bị quy kết khủng khiếp… Lúc này lúc khác, ngay trong khi tôi c̣n đang ở Bangkok, đă có đôi điều trong nước nói về tôi khá nặng nề, yêu cầu phải xem lại đại sứ này!.. … …Từ khi nghỉ hưu, đă có vài đồng nghiệp nói với lănh đạo đảng và nhà nước tôi là loại “xét lại”… Chưa nói đến cách tôi phát biểu hay viết  thường khá gay gắt, khiến nhiều người khó chịu… 

Thời kỳ làm đại sứ ở Thái Lan, dù chỉ khoảng 3 năm thôi, song là thời kỳ tôi bắt đầu có nhiều suy nghĩ rất quyết liệt với những chủ đề nêu trên. Đầu óc lúc nào cũng nóng lên: t́m cái khác, con đường khác.., gần như là điên rồ... V́ tôi yêu tổ quốc ḿnh, có thế thôi!

Ví dụ, chỉ sau khi đến Thái Lan vài tháng, tôi thấy ngay cái sai của nước ta cứ một chiều phỉ báng chính sách ngoại giao cây tregió chiều nào ngả theo chiều nấy của Thái Lan là thực dụng, không có lập trường cách mạng và rất phản động, là làm tay sai hết cho nước này đến nước khác! Tôi tự hỏi ḿnh ngay tức khắc: Nguyên nhân nào khiến Thái Lan là nước duy nhất trên lục địa Đông Nam Á đến nay không nước đế quốc nào chiếm được làm thuộc địa?

Xin hăy nh́n lại:

Thực dân Anh và thực dân Pháp đều ḍm ngó rất sớm quốc gia này. Họ đă thành công rất sớm ở Đông Dương, ở các nước đảo ven Biển Đông, nhưng không thể đụng chạm vào độc lập của Thái Lan! Nguyên nhân chính là chính quyền nhà vua Thái thời đó đă khai thác thành công mâu thuẫn giữa 2 đế quốc Anh – Pháp, nhờ đó vô hiệu hóa được tham vọng của cả 2 muốn thôn tính Thái Lan! Chiến tranh thế giới II cũng lan tới Thái Lan, nhưng Nhật chưa đô hộ Thái Lan được lấy một ngày! Càng đáng suy nghĩ hơn nữa: Thái Lan trở thành đồng minh của Nhật trong chiến tranh thế giới II. Nhưng trước khi Nhật thua hẳn, chỉ thông qua cuộc đảo chính duy nhất ngày 01-08-1944 lật đổ chính phủ thân Nhật, ngay hôm sau lập tức Thái Lan lại trở thành đồng minh của phương Tây trong chiến tranh thế giới II!.. Từ sau chiến tranh thế giới II đến hôm nay, cũng chưa  có một quả bom hay một viên đạn nào của nước ngoài nổ trên đất Thái Lan, mà chỉ có từ đây bom đạn của nước ngoài đem đi đánh các nước khác, trước hết là Việt Nam, Thái được trả công bằng tiền và bằng nhiều thứ lợi khác! Chủ nghĩa Mao-ít cũng không len vào được Thái Lan, mặc dù kinh tế Thái hầu như các tập đoàn lớn người Thái gốc Hoa chi phối, phong trào cộng sản ở Thái bị diệt sạch!..

Vậy đánh giá chính sách ngoại giao cây tre của Thái như thế nào? Bằng một thứ đạo đức rất đẹp nhưng mơ hồ, hay bằng lợi ích quốc gia của chính nước Thái? Hay là bắt người Thái Lan phải đứng trên lập trường của Việt Nam đánh giá chính sách đối ngoại của họ?

Một câu hỏi khác dày ṿ tôi không kém: Thái Lan đă mở cửa với chủ nghĩa tư bản và các nước thực dân phương Tây, từ 1818 trở đi, đă lần lượt kư kết những hiệp đinh bang giao và buôn bán với Bồ-đào-nha, Hà Lan, Anh, Pháp, Mỹ… - nghĩa là đi trước cải cách của Thiên Hoàng Minh Trị tại Nhật gần 60 năm (được bắt đầu thực hiện từ 1877). Thế nhưng Thái Lan lại không thể tạo ra sự phát triển như của Nhật Bản. Cho đến hôm nay (2018) cũng vậy! Và không biết đến bao giờ Thái Lan mới có thể trở thành một nước tư bản phát triển!?..

Tại sao?

T́m hiểu, cuối cùng tôi chẩn đoán: Tại căn bệnh Thái Lan!  (tên căn bệnh này do tôi đặt ra, đúng / sai thế nào c̣n phải chờ cuộc sống kiểm nghiệm). Vào dịp thuận tiện sẽ nói rơ hơn, v́ dễ đụng chạm đến những vấn đề quá nhạy cảm của Thái Lan (vấn đề lese-majesty). Nhưng có thể thấy ngay sờ sờ trước mắt: Từ khi Thái chuyển sang chế độ quân chủ lập hiến năm 1932 đến năm 2018 này, trung b́nh cứ 3 đến 5 năm (có lúc chưa đầy 2 năm) một cuộc đảo chính quân sự th́ không thể nào ra đời một Thái Lan công nghiệp hiện đại và dân chủ được! Trong khi đó quá tŕnh CNH ở Hàn Quốc chỉ đ̣i hỏi 30 năm (1960 – 1988).

Và riêng tôi thực sự lo: làm sao nước ta có thể pḥng ngừa được cho ḿnh căn bệnh Thái Lan. Hôm nay tôi vẫn lo như thế cho nước ta!

Phải chăng hôm nay Việt Nam mấy chục năm nay đă mắc căn bệnh nói trên rồi, nhưng ở dạng mới: Căn bệnh nước không chịu phát triển! (Lư Quang Diệu). Tên nước của căn bệnh này là Việt Nam – đại thể như cúm H5N1 là Thái, H5N2 là ta – song H5N2 h́nh như c̣n tồi tệ hơn H5N1?

Nêu khái quát như thế về Thái Lan tại đây, tôi muốn tŕnh bầy tại sao tôi bị thôi thúc ghê gớm phải t́m một con đường phát triển khác cho nước ta khi tôi với tư cách là đại sứ đặt chân tới Bangkok! Có thể nói đây là thời kỳ tôi có nhiều suy nghĩ gần như điên rồ, v́ sốt ruột quá, đất nước ḿnh khổ lâu quá.., tự tôi cũng biết thế và cứ phải t́m cách tự kiềm chế ḿnh.

 Thậm chí trong đầu, có lúc tôi tự đánh vật với mọi trí tưởng tượng có thể.., chỉ để nghĩ xem có thể làm ǵ!..

-         Có một con đường h́nh thành một nước Việt Nam trung lập không? – Suy nghĩ này đổ ngay trong một giây, v́ tôi hiểu trung lập là mục tiêu; c̣n trí tuệ, lực và phương tiện để thực hiện nó th́ nước ta hoàn toàn tay trắng. (Sau này tôi có nêu lại suy nghĩ này trong tiểu thuyết “Ḍng đời”, xuất bản năm 2006).

-         Có thể tạo ra một ASEAN xanh được không? – với nghĩa ḥa b́nh, dân chủ, tiến bộ và phát triển, đi với tất cả mọi cường quốc và toàn thế giới, nhưng không cho phép bất kỳ một thế lực cường quốc nào thao túng khu vực này... Câu trả lời chứa tới vài trăm con zero, trong đó Việt Nam cũng chiếm vài chục zero… V́ bản thân Việt Nam như thế này, th́ không có cách ǵ có thể “xanh” được… Lúc  này Việt Nam vẫn chưa gia nhập ASEAN và Mỹ c̣n đang bao vây cấm vận nên càng khó! (Sau này, khi Việt Nam đă gia nhập ASEAN, có lần tôi  đă nêu với bộ trưởng Phạm Gia Khiêm ư tưởng “xanh” này, nhưng không được bắt nhời! Có thể tôi bị coi là thẳng điên?)…

-         Có thể biến Camranh thành một áo giáp sắt bảo vệ nước ta được không? Hiển nhiên một áo giáp sắt như thế vào thời kỳ sau chiến tranh Việt Nam của Mỹ, sau chiến tranh của Polpot đánh ta, sau chiến tranh TQ đánh ta 17-02-1979 và đă chiếm các đảo của ta 1988 (nghĩa là thời kỳ từ thập kỷ 1980s,1990s trở đi) là một tưởng tượng điên rồ: Một cảng vừa quân sự và có thể cả vừa kinh tế cho cả thế giới sử dụng và phải trả tiền thuê cho chủ nhà! Bằng cách đó có lẽ không ai đụng được đến ta và sớm rút ngắn được sự căng thẳng của thời kỳ hậu chiến! (Tôi đă có dịp  trao đổi riêng với một vài bậc đàn anh trong nhà và bạn chí cốt khi họ đi công tác ghé qua Bangkok về tưởng tượng điên rồ này, người th́ lắc đầu, người th́ hỏi “Mày có muốn mất đầu không?”, có người nói hẳn tôi là thằng điên! Những năm sau này có dịp gặp nhau chúng tôi vẫn nhắc lại với nhau kỷ niệm này…)[5]

-         Vân vân…

Nghĩ huyên thuyên trời đất gió mây như thế, song thật ra chỉ xoay quanh câu hỏi có cách nào thay đổi vị thế nước ḿnh ở vị trí địa đầu không thay đổi được của lục địa này!? Lại thêm sát nách cái nước láng giềng khổng lồ!..

Tháng 2-1990, sản phẩm đầu tiên của tôi là gửi về nước bài “Bàn về con đường phát triển kinh tế nước ta”, đăng trên tạp chí Nghiên cứu Kinh tế trong 2 số (số 173 tháng 2-1990 và số 174 tháng 4-1990). Bài viết này thực ra là sản phẩm tôi gặt hái được thời học và làm kinh tế  trước đó – khi tôi là vụ trưởng Vụ kinh tế của Bộ Ngoại giao, được viết ra với sự kích thích từ những ǵ ở Thái Lan đập vào mắt tôi qua nghiên cứu sách báo và trong những dịp t́m hiểu Thái Lan. Nội dung chủ yếu của bài viết này là đánh giá thực trạng kinh tế yếu kém của đất nước, tŕnh bầy mọi thông tin, t́nh h́nh lư lẽ để đi đến kết luận: Đất nước phải dám lựa chọn sự phát triển của ḿnh phù hợp với xu thế và sự phát triển của kinh tế thế giới, với sự kiên định tinh thần đổi mới của Đại hội VI: mọi người được tự do làm ăn theo luật pháp, bắt đầu từ t́m cách giải phóng mọi tiềm năng của đất nước, tách quản lư hành chính ra khỏi quản lư kinh tế (lúc này tại một số bài khác tôi đă gọi đấy là yêu cầu xóa bỏ cơ chế “chủ quản”, được tŕnh bầy đầy đủ hơn năm 1994, trong tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 198), chiến lược công nghiệp hóa như đang làm là sai, rất tốn kém và không hiệu quả, phải chuyển sang lấy thị trường thế giới làm đối tượng chứ không phải làm cái ǵ ta có và ta muốn, kinh nghiệm của một số quốc gia… Tuy không được rơ nét lắm – có thể v́ tŕnh độ có hạn, và đồng thời cũng phải tự bảo vệ, trong thời kỳ này tôi đă bắt đầu nhấn mạnh nguyên nhân thất bại của công nghiệp hóa và của các chiến lược kinh tế là không có một nhà nước lẽ ra phải có để vận hành: Nhà nước pháp quyền của kinh tế thị trường.

Đồng thời lúc này tôi cũng có một số bài bàn về những vấn đề chiến lược phát triển của đất nước đăng trên tạp chí Quan hệ Quốc tế của Bộ Ngoại giao: Đề cập đến “Cuộc chạy đua vào thế kỷ 21”, đặc biệt là giữa Liên Xô và Mỹ nói riêng, và giữa CNXH và CNĐQ nói chung; cho rằng cuộc đấu tranh “ai thắng ai?” – chủ yếu sẽ do mặt trận phát triển kinh tế xă hội quyết định. Vào lúc này cuộc khủng hoảng của các nước XHCN LXĐÂ đă đi vào thời kỳ dẫn tới sụp đổ bức tường Berlin. Bài viết lưu ư Việt Nam chưa được chuẩn bị cho cuộc đua này, và thời cơ không của riêng ai, cũng không đợi chờ ai – cũng có thể trở thành thách thức, nhấn mạnh phải “Gấp rút lấy lại thời gian đă mất”, nêu lên cần tận dụng sự phụ thuộc lẫn nhau và thấy rơ một số mạnh / yếu cơ bản của nước ta để phát huy lợi thế so sánh, cần sớm khắc phục yếu kém thiếu một nền kinh tế hàng hóa, đồng thời phải đẩy mạnh đường lối đối ngoại thêm bạn bớt thù… (QHQT số 1.1990, số 2.1990).

Ngày 01-05-1990 tôi viết một báo cáo đầu tiên dài 27 trang, gửi lănh đạo trong nước (không phải chỉ riêng cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao), kiến nghị thay đổi hẳn quan hệ của ta với Thái Lan, mặc dù lúc này ta vẫn coi Thái lan là một front state của Mỹ. Thú thực là báo cáo phải che chắn ḷng ṿng để khỏi bị quy kết là “mất lập trường”, song cốt lơi nói rơ là: Đề nghị biến Thái Lan trở thành một đối tác đồng minh, vượt qua quan hệ thù địch Việt – Thái thời chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, thực hiện tồn tại bên nhau, trước hết là cùng hợp tác trong một vùng nhỏ bé của khu vực và loại bỏ sự ḱnh địch Việt – Thái liên quan đến Lào và Campuchia.

Lồng vào kiến nghị thay đổi quan hệ với Thái Lan, thực ra tôi kiến nghị thay đổi đường lối và chiến lược của đất nước trong “t́nh h́nh chủ nghĩa xă hội thế giới đă bị đẩy lùi một bước nghiêm trọng” (trang 26), nhấn mạnh trong khủng hoảng này Việt Nam cũng có cái mất, cái được (trang 26), song một thời cơ mới đang mở ra.., trong đó có “cái được lớn nhất là chúng ta (VN) đang tạo ra cho chính ḿnh khả năng thực hiện sự chuyển biến này” (trang 26-27). Cách nói th́ mềm thế thôi, song tôi gửi gắm thông điệp “Từ nay nước ta không cần phải theo ai nữa! Ta tự quyết định lấy vẫn mệnh của ta!..” [Hội nghị Thành Đô họp ngày 3&4-09-1990!]. Hôm nay có thể nói: Giữa lúc quan điểm chính thức của lănh đạo cho rằng các nước LXĐA sụp đổ là tội của Gorbachov + Yeltsin + CIA (đến hôm nay, 2018, vẫn c̣n dai dẳng ư kiến này), quan điểm nêu trong báo cáo 01-05-1990 của tôi có thể được xem là phản động!

[Lạy trời, có lẽ nhờ cả hồng phúc gia tộc nữa, tôi thoát nạn, không bị quy kết hay phải xử lư – cho đến hôm nay là như vậy!..]  

Cũng có thể có một nguyên nhân rất quan trọng khác đứng về phía tôi: Bộ Ngoại giao hồi ấy nói chung, tiêu biểu là bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, đại diện cho một trường phái gần với thực tế cuộc sống – v́ phải hàng ngày cọ sát với cả thế giới. Trong đó, hội nghị Thành Đô là hệ quả của một thời kỳ đấu tranh nội bộ kéo dài rất phức tạp, ít nhất là từ những năm cuối 1980s. Đây là thời kỳ chiến tranh biên giới chưa hoàn toàn chấm dứt, Trung Quốc lại vừa mới chiếm thêm 7 đảo và băi ở Trường Sa năm 1988, đàm phán giải pháp vấn đề Campuchia bế tắc. Cũng thời gian này các nước LXĐÂ trên đà sụp đổ.

Ngay từ đầu Bộ Ngoại giao đă dứt khoát bác bỏ sự can thiệp nguy hiểm của Trung Quốc và đă nhiều lần tŕnh bầy quan điểm của ḿnh trước khi hội nghị Thành Đô họp. Bộ Ngoại giao cho rằng mối nguy bành trướng bá quyền rất lớn, phải kiên tŕ đường lối độc lập tự chủ của Đảng – trong đó có Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị. Chúng tôi hồi đó sống và thở trong luồng tư duy này của Bộ Ngoại Giao!.. Chúng tôi thường nói với nhau: Nghề ngoại giao chúng tôi phải chiến đấu trên 2 mặt trận: Đối ngoại và đối nội. Thuyết phục đối nội không hiếm khi khó hơn thuyết phục đối ngoại…

Đến hôm  nay, riêng tôi vẫn vô cùng tiếc không thực hiện được việc đánh giá hội nghị Thành Đô trên cơ sở khoa học, mặc dù anh Dương Danh Dy và tôi rất quan tâm đề tài này, v́ thiếu các tư liệu tin cậy và kiểm chứng được. Anh Hồng Hà, nguyên bí thư Trung ương Đảng và nguyên trưởng Ban đối ngoại Trung ương ĐCSVN là một nhân vật chủ chốt, được tham gia hội Thành Đô từ phút khởi thủy đến phút chót, với rất nhiều chi tiết... Biết vậy, nên trong mấy năm liền trước khi anh Hồng Hà mất, tôi đă vài lần trực tiếp đề nghị anh Hồng Hà giúp việc này, rất tiếc bị khước từ, câu chuyện không thành.

Cũng trong thời gian này, trước khi gởi báo cáo trên (01-05-1990), lấy tư cách cá nhân đảng viên, tôi đă gửi lănh đạo đảng nhà nước một báo cáo riêng, tŕnh bầy  một số đề nghị thay đổi đường lối phát triển đất nước, nêu ra yêu cầu ĐCSVN và chế độ chính trị cần đáp ứng giai đoạn cách mạng mới của đất nước. Nói theo ngôn ngữ hôm nay: Phải cải cách chính trị triệt để!.. Tôi được một người cho biết thủ tướng Phạm Văn Đồng đă đọc, nói sẽ có ư kiến, nhưng phê b́nh cách tôi đặt vấn đề quyết liệt quá và chưa thuyết phục… Tôi thừa nhận lời lẽ của tôi nhiều chỗ nghịch tai, v́ quá bức xúc – đúng hơn là quá thẳng.

Tôi rất tiếc không thể t́m lại được bản sao báo cáo này. Lục lọi các thứ tôi c̣n lưu trữ được, đều không thấy. Sự việc chẳng qua là để mất một văn bản có ghi rơ tính thời gian lịch sử thôi, c̣n nội dung của thư này tiếp tục được thể hiện trong các báo cáo khác tiếp theo của tôi và ngày được phát triển thêm của thời sự.

Hay là nội dung báo cáo này  quá nhạy cảm, nên tôi không dám lưu? Tôi không nhớ nổi nữa…

Đọng lại trong tôi của báo cáo này là lời nhắc nhở của thủ tướng Phạm Văn Đồng. Tôi tự răn ḿnh phải giữ mồm giữ miệng hơn – h́nh như đây là chỗ yếu của tôi – nghĩa là vẫn c̣n dại!.. V́ thủ tướng Phạm Văn Đồng vốn hiền ḥa mà đă phải nhắc nhở thế, là chuyện không ổn rồi! – tôi biết!… C̣n nhớ được lời nhắc nhở của thủ tướng Phạm Văn Đồng là tốt đối với tôi lắm rồi.

 

Tháng 5-1990, tôi gửi một báo cáo tiếp dài 23 trang (viết xong tháng 04-1990) với danh nghĩa phục vụ Hội nghi ngoại giao: “Đánh giá lại thách thức và thời cơ”.

Báo cáo này đặt ra câu hỏi và phân tích tại sao chủ nghĩa xă hội đang bị đẩy lùi, nêu yêu cầu phải nh́n rơ bản chất những thách thức bên trong của nước ta và những nguy cơ bên ngoài trong một thế giới phân công lao động thế giới đă thay đổi về bản chất (lúc này cá nhân tôi chưa rơ lắm khái niệm toàn cầu hóa), nước ta không chỉ có nghèo nàn lạc hâu mà c̣n  “ngôn ngữ bất đồng” với kinh tế thế giới, cho nên lững thững đi bộ một ḿnh trên thế giới, đứng bên ngoài con tầu của thế giới!.. Trong một thế giới đă thay đổi rất sâu sắc mà …nước ta đang phải chiến đấu trên một trận địa hầu như ta chỉ có sở đoản, lưu ư không thể dựa vào tư duy ư thức hệ tạo ra được một tập hợp lực lượng mới đất nước đ̣i hỏi, cần nghiên cứu bản chất 4 cuộc chiến tranh đất nước vừa trải qua để tránh số phận đất nước bị đối xử như một quân cờ và luôn luôn là nạn nhân của sự giành giật giữa các cường quốc,.. (tr.9 và 10)”… Báo cáo cảnh báo nước ta đang để mất những thời cơ lớn. Báo cáo kết luận (1)đất nước phải biết tận dụng lợi thế nước đi sau  (trang 15) để sớm có một chiến lược phát triển mới, (2)phải sớm có một đường lối đối ngoại mới lấy bảo vệ lợi ích dân tộc làm gốc (trang 20, 21); phác họa sơ bộ một số nội dung của 2 chiến lược mới phải có này, trong đó nêu tầm quan trọng phải vượt lên ư thức hệ xây dựng quan hệ mới với Lào và Campuchia với tính cách là 2 quốc gia độc lập có chủ quyền, phải thay đổi chính sách của ta với Thái Lan...

 

Theo yêu cầu của lănh đạo Bộ, tháng 11-1990, tôi gửi một báo cáo 15 trang góp phần tổng kết đối ngoại của nước ta năm 1990. Đánh giá t́nh h́nh của báo cáo đi tới kết luận: “cần đặc biệt quan tâm xử lư môi quan hệ quốc gia – quốc gia với tất cả các đối tượng trên thế giới, lấy cân bằng lợi ích quốc gia làm cơ sở…  … …sớm đoạn tuyệt với con đường xin viện trợ và bao cấp, coi kinh tế đối ngoại là mặt trận quan trọng ngoại giao quyết định nhất…” (trang 7…); và từ đ̣i hỏi này cần có những thay đổi đối nội, phải mở rộng sự tham gia của toàn dân vào quá tŕnh này, lưu ư chỗ nào  không thực hiện được như vậy th́ đồng nghĩa bỏ trận địa cho cái xấu và sự can thiệp của bên ngoài…

Báo cáo dành một phần riêng đánh giá quan hệ Việt – Trung, nh́n nhận Trung Quốc là vấn đề khó nhất của nước ta và của cả thế giới, “câu chuyện dạy nước ta một bài học” chưa kết thúc, đặt vấn đề phải t́m cách vượt qua sự thù địch cũng như mọi ảo tưởng ư thức hệ để xây dựng một quan hệ mới với Trung Quốc chứ không phải “chỉ một chiều chăm sóc quan hệ hữu nghị Việt – Trung” (trang 9, 10, 11), đừng sợ không liên minh với Trung Quốc th́ mất CNXH, cũng đừng sợ không liên minh XHCN với Trung Quốc th́ nước ta bị cô lập – giả thử nước ta có bị làm sao ai dám chắc sẽ được Trung Quốc cứu? Không ai có thể thay ta tự bảo vệ tổ quốc của ḿnh… (trang 9), cần tạo ra tập hợp lực lượng mới trên thế giới, nhưng nhất thiết không đem nước ta ra “làm hàng rào” hay  làm “quân tốt” cho bất kỳ ai… Báo cáo kết luận: “Sẽ không ai để cho chúng ta được lựa chọn trung lập, mà phải tự chúng ta phấn đấu giành lấy sự cân bằng này” (trang 10). Xin lưu ư, báo cáo này viết vào lúc hội nghị Thành Đô 3-4/09/1990 vừa mới bế mạc trước đó gần 2 tháng. Chung quy vẫn cái tội điếc không sợ súng!

Liên quan đến vấn đề Campuchia báo cáo của tôi cho rằng “giải pháp đỏ hay xanh” chẳng có ích lợi ǵ cho nước ta, mà phải để cho Campuchia tự giải quyết vấn đề của họ, thực sự tôn trọng quyền làm chủ của họ, đừng để họ kéo ta vào; và ta cũng đừng sợ chịu tiếng là “mang con bỏ chợ, mà đ̣i hỏi vấn đề Campuchia phải là trách nhiệm của cộng đồng quốc tế chứ không phải chỉ riêng của Việt Nam!

Tôi lưu ư: Những quan điểm khác nhau trong nước đang gây ra nhiều khó khăn nghiêm trọng, xây dựng chủ nghĩa xă hội phải kiên tŕ, theo quy luật, không thể chủ quan duy ư chí… “nên kiên định bài học đổi mới của Đại hội VI.., chủ nghĩa xă hội là mục tiêu, chứ không phải là phương tiện.” (trang 15).

Ngày 02-08-1990 Iraq phát động chiến tranh thôn tính Kuwait, ngày 17-01-1991 Mỹ và liên quân phát động chiến tranh trừng trị Iraq, được Liên hiệp quốc tán thành.  Chiến tranh vùng Vịnh I.

Tôi đứng trước một vấn đề khó xử: Một số luồng tin báo cáo về nước đánh xong Iraq, Mỹ sẽ quay trở lại đánh Việt Nam, sân bay Utapao đă mở cửa trở lại cho không quân Mỹ để xúc tiến mưu đồ này, hải quân Mỹ cũng đang trên đường quay lại đây… Thậm chí c̣n cho rằng cuộc đảo chính 23-02-1991 là do Mỹ dàn dựng, đưa Suchinda lên làm thủ tướng Thái Lan để phục vụ cho chiến lược mở chiến tranh trả thù Việt Nam…

Người gửi tin có luồng đi riêng, không báo cáo với tôi, song tôi biết nội dung tin gửi về nước. Những ǵ tôi nắm được, trái hẳn với luồng tin này.

Tôi đánh giá: Hầu như không thể có chuyện Mỹ quay lại đánh Việt Nam một lần nữa, đơn giản là Mỹ đang bị hút vảo những vấn đề khác quan trọng hơn đối với Mỹ, nhất là sự kiện Kuwait bị thôn tính rất nghiêm trọng đối với thế chiến lược của Mỹ ở Trung Đông, bây giờ Đông Nam và vấn đề Việt Nam không c̣n là câu chuyện nóng đối với Mỹ. Hơn nữa từ sau thỏa thuận Thượng Hải 1972, rồi sau cuộc gặp Đặng Tiểu B́nh – Jimmy Carter cuối tháng 1-1972 để xúc tiến chiến tranh ngày 17-02-1979 đánh Việt Nam.., quan hệ Mỹ - Trung ở khu vực lúc này đang nồng ấm… Trên đất Thái Lan những thông tin tôi có được cũng không có ǵ cho thấy đang rục rịch một cuộc chiến tranh Việt Nam mới… Vân vân…

Nhất là ngày 27-02-1991 tôi đă có một báo cáo riêng về cuộc chiến tranh này, dài 13 trang, cố gắng phân tích mọi khía cạnh của sự vật, nêu lên một số nhận đinh những diễn biến mới có thể xảy ra, đánh giá không có khả năng Mỹ sẽ quay lại đánh Việt Nam, và kiến nghị đối sách.

Nghĩa là tôi có đủ các lư do – cả trên phương diện kỹ thuật – để đánh giá tin báo cáo về nhà của luồng tin trên là không đúng. Nhưng tính chất sự việc quá nghiêm trọng, đặt quốc gia trước chiến tranh hay ḥa b́nh.

Tôi chủ động đi gặp người gửi tin, trao đổi.

Mọi đề nghị hợp tác của tôi, từ cao nhất đến thấp nhất, cùng nhau thống nhất đánh giá t́nh h́nh, và cùng nhau báo cáo chung hay báo cáo riêng rẽ về nước… những cách khác,… .., mọi đề nghị tôi đưa ra nhất nhất bị từ chối!

Tôi nói với người đối thoại của ḿnh:

-         Rất tiếc chúng ta không đạt được sự hợp tác nào cả. Vậy tôi sẽ có một báo cáo riêng về nước, bác bỏ từng điểm báo cáo của anh. Tôi có thể đúng, có thể sai, song trách nhiệm của tôi trước quốc gia, tôi phải làm như vậy. Tôi nói trước để anh biết.

Báo cáo về nước đă gửi, chiến tranh vùng Vịnh I đi vào thời kỳ quyết liệt. Một tuần, hai tuần. lâu hơn nữa.., tôi không có hồi âm. Ngày đêm cứ như cá nằm trên thớt: Nhỡ nhận định về Mỹ  của tôi sai th́ sao?..

Vài tháng sau chiến tranh vùng Vịnh I kết thúc hẳn.

 Một thời gian nữa.., cũng không thấy cuộc chiến tranh Việt Nam mới…  Sau đó tôi có việc về nước họp, một cán bộ lănh đạo trong tứ trụ trực tiếp nói với tôi một câu cực ngắn: “Tôi đă đọc báo cáo của anh!”

Tôi chỉ đáp lại một tiếng “Vâng!” cộc lốc, v́ bực.

 

       Thời gian chiến tranh vùng Vịnh cũng là thời kỳ đàm phán giải quyết vấn đề Campuchia đi vào giai đoạn chót, Bangkok là một trong những nơi họp chính giữa các bên hữu quan. Là đại sứ tại chỗ, nhiều khi tôi như ngồi trên lửa, v́ nội dung đàm phán phức tạp đă đành, song c̣n v́ phía Kmer đỏ (chắc chắn nhiều trường hợp Khmer đỏ chỉ là cái micro của người đứng đằng sau!) thay đổi lập trường xoành xoạch. Có lúc đoàn của ta hay anh Thạch đặt ra cho những người tại chỗ chúng tôi nhiều câu hỏi khó để t́m hiểu. Rất may trong đại sứ quán chúng tôi là một nhóm làm việc có hiệu quả và tinh thần đồng đội cao. Về sự hợp tác hiệu quả này, hôm nay tôi muốn nói lời cảm ơn đặc biệt với anh Nguyễn Quang Dy, người mà hôm nay vẫn đều đều cung cấp cho chúng ta những bài báo rất chất lượng và đáng quư. Hồi ấy anh Dy chịu trách nhiệm mảng các báo chí sở tại và báo chí nước ngoài có mặt ở Thái Lan và các tùy viên báo chí của các nước, tôi đảm nhiệm mạng các đại sứ, những người khác phụ trách những mảng khác. Báo cáo chúng tôi gửi về nước hoặc những nhận định, những đánh giá về mọi lĩnh vực khác chủ yếu được xây dựng trên những kết quả làm việc này – về chiến tranh vùng Vịnh cũng vậy.

       Thực sự là những ngày đêm của dằn vặt, lo âu và chờ đợi.

Vợ tôi rất lo, chỉ thấy tôi đăm chiêu và đôi lúc khó tính nữa. Cứ nghĩ tôi ốm. Tôi giải thích không phải, chỉ hứa khi nào có chuyện ǵ mới sẽ kể… Nhưng trong ḷng cố dẹp lại những câu hỏi làm ngă ḷng. Nguyên do chính có lẽ là tâm tư tôi nghĩ khác quá, mà cuộc sống tôi đối mặt chẳng giống tôi suy nghĩ chút nào…

Không phải chờ đến lúc có câu chuyện chiến tranh vùng Vịnh này,  từ lâu rồi những điều chướng tai gai mắt đến với tôi ngày càng nhiều, cái sai cái ác cứ tiếp tục lấn át măi cái đúng cái thiện. Tôi nghĩ về thân phận đất nước, thân phận ḿnh… Câu chuyện vùng Vịnh này chẳng khác ǵ tôi được bồi thêm một quả đấm mới, trước đó đă ăn những quả đấm như vậy rồi: Cái sai cái đúng cứ lẫn lộn với nhau như thế và cùng nhau ch́m dần trong im lặng, để rồi cuối cùng chỉ c̣n lại mỗi cái sai ngự trị, hoành hành tiếp!

Cái chế độ chúng ta đang sống là như vậy! Quyền lực đang hành sử với chúng ta như vậy!.. Đấy là tâm trạng thực của tôi nói với tôi trong những đêm mất ngủ. Vợ tôi cũng phải trằn trọc theo, đă lo lại càng lo, mà không hiểu v́ sao…

 

Tôi chỉ có những lời an ủi một chiều, để ru vợ ngủ thôi, chứ chẳng nói lên được điều ǵ!

 

 

Ngủ đi em

 

Tặng Hiền và những đêm mất ngủ

 

Ngủ đi em, ngủ đi, đừng khóc nữa

Dù đường đời bao nỗi truân chuyên trăn trở

Hăy nghe anh, đừng nặng lời với những đắng cay vất vả…

Đừng trách trời, trách đất, hờn giận anh

Ngủ đi, em yêu dấu cố ngủ đi

Để rồi lại sống, lại yêu, lại cho đời tất cả

Bàn tay ta, trí tuệ ta, và trái tim khao khát của ta

Để cùng nhau say đắm một lời ca…

 

 

 

Ngủ đi em, ngủ đi mà lấy sức

Ngày mai chúng ta lại đứng dậy cùng nhau

Lại mơ ước, cầu nguyện và yêu nhau như thuở trước

Quên hết mọi phiền muộn, bỏ qua mọi tan vỡ…

Ngủ đi em yêu, ngủ đi em

Để chúng ta thôi nức nở trong giấc lành

Để nhịp thở hiền ḥa dịu lại tâm hồn anh

Và cho anh tất cả những ǵ đă mất…

 

 

 

Em yêu, ngủ đi, hăy cố ngủ đi

Một phút thôi, một chợp mắt

Đừng dằn vặt anh, đừng tự làm khổ ḿnh

Những câu hỏi vắt ngang trời đất…

Em yêu ngủ đi, nếu muốn ḷng anh bớt nặng

Gánh đoạn trường giằng xé tim anh

Thêm một nỗi em đau, thêm trăm lần anh tê tái…

 

 

 

Ngủ đi em, ngày mai khi thức dậy

Em sẽ hiểu anh hơn

Sẽ lại đón anh trong ṿng tay da diết

Sẽ lại nói với anh bao điều tha thiết

“Em vẫn là của anh, măi măi là của anh!..”

Ngủ đi em, cho anh nh́n em trong giấc ngủ yên lành…

 

 

 

Em ngủ đi, và anh sẽ nói với em tất cả

Không phải để em nghe, mà chỉ để vợi ḷng anh

Nỗi đau không cách ǵ chia sẻ

Sống chịu một ḿnh, và chết sẽ mang đi một ḿnh

Cuộc đời của anh, tâm hồn anh, ước vọng của anh…

Xin đừng trách anh thiếu ḷng chung thủy

V́ yêu em anh giữ cho ḿnh tất cả

 

 

 

Ngủ đi em yêu, ngủ đi, để cho anh kể tiếp

Một số phận, một vần thơ dang dở kiếp người

Một lời nguyền chăng – hay một định mệnh

Sao không dứt ra được như câu chuyện cổ tích ngày xưa

Mẹ vẫn kể th́ thầm bên bếp lửa…

Chẳng lẽ trách mẹ cha đă cho ta ḷng nhân bản

Chẳng lẽ trách chính ta chót yêu nghĩa đời cao đẹp…

 

 

 

Ngủ đi em ơi, nói sao em hiểu được

Nói ḷng anh và khát vọng của đời anh

Mọi đớn đau, hoài nghi và thất vọng

Nguyễn Du đă kể chuyện Kiều

Nhưng ai kể được nỗi ḷng anh tan nát…

 

 

 

Ngủ đi em, anh xin em ngủ đi

V́ em là anh, là hiện thân của hy vọng anh c̣n giữ được

Ngủ đi em yêu, hăy ngủ đi

Và giữ ǵn anh trong muôn vàn băo tố…

Anh cầu bốn phương cho giấc ngủ của em

Anh tạ trời tạ đất cho giấc ngủ b́nh yên

Và em sẽ t́m lại cho anh những nụ cười đánh mất

 

 

 

Ngủ đi em yêu, ḿnh anh thức đă đủ rồi

Khóc làm chi, nước mắt anh đă đầy rồi

Khắp biển khổ vực đau đời giăng mở

Cả niềm đau anh không san sẻ

Sẽ là của em và chỉ riêng em

Khi em hiểu được anh và trở thành chính anh

Ngủ đi em yêu,  v́ đối với anh em là tất cả…

 

 

 

Em yêu ngủ đi

Anh sẽ kể nhiều, kể nữa

Kể sự trắng đen đảo lộn giữa ban ngày

Kể chuyện người xưa t́m trăng trong hồ nước

Kể chuyện người nay chỉ thấy hằng nga trong sa mạc

Kể chuyện anh cháy bỏng trong mộng mơ

Suốt cuộc đời chưa viết trọn một vần thơ

Tóc đă pha sương c̣n u mê vai “chàng ngốc”

Như truyện nước Nga xưa lưu lại tự bao giờ

Bị lừa, và được lừa.., chẳng sao mà hiểu nổi

Ma quỷ xâu xé anh như bầy quạ đói

Anh chỉ c̣n mỗi trái tim chúng chê bôi vứt lại

V́ vậy anh vẫn yêu mê dại cuộc đời…

 

 

 

Em ơi, nói sao em hiểu nhỉ

Anh không biết trời, không tin thượng đế

Nhưng vẫn cầu xin cho em ngủ nữa đi

Đừng làm đứt đoạn chuyện anh đang kể…

 

 

 

Ngủ đi em yêu cho tâm hồn anh dịu lại

Cho anh kể em nghe những bước đường đời…

 

 

Bangkok 12-1992

Kỷ niệm những thách thức mất c̣n

Trong các sự kiện Chiến tranh vùng Vịnh 1991,

vấn đề quan hệ Việt Nam – Thái Lan,

vấn đề Khmer đỏ

 

 

 

Cũng trong khoảng thời gian tôi ở Bangkok, tháng 5-1991 anh Nguyễn Cơ Thạch ghé qua, trên đường đi Paris để giúp con gái chữa bệnh. Lúc này anh Thạch đă lĩnh đủ mọi hậu quả của Hội nghị Thành Đô. Việc nước việc nhà đau ḷng,  dáng dấp và sức khỏe anh Thạch suy sụp hẳn, anh em trong cơ quan rất thương anh Thạch. Những anh em biết về Hội nghị Thành Đô càng sót sa cho anh Thạch và cho đất nước! Song ư chí của con người này không lùi!

Trong Bộ Ngoại Giao, thứ trưởng Trần Quang Cơ – nguyên đại sứ ta ở Thái Lan, tiền nhiệm của anh Lê Mai – là người phê phán bộc trực nhất Hội nghị Thành Đô, hoàn toàn ủng hộ quan điểm của anh Thạch và công khai bảo vệ anh Thạch. Anh Cơ nhiều lần chia sẻ với tôi nỗi đau của đất nước và của riêng anh về Thành Đô, bày tỏ ḷng cảm phục và nỗi sót sa của anh đối với anh Thạch… Tôi học được ở 2 người này rất nhiều… Tôi nghĩ: Thành Đô và tấm gương của anh Thạch là 2 yếu tố  góp phần nhất định vào quyết tâm của anh Cơ: Dứt khoát từ chối không nhận bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao sau sự kiện Thành Đô. Đất nước này bây giờ, trước những thách thức khôn lường, những tấm gương như anh Nguyễn Cơ Thạch và anh Trần Quang cơ sao hiếm hoi như vậy!

Anh Thạch yêu cầu tôi tham gia vào việc tổng kết đối ngoại Việt Nam mà anh đang rất muốn thực hiện.

Phần th́ thấy sức khỏe của Thạch không ổn như vậy, phần th́ t́nh h́nh đất nước chưa chín muồi cho công việc hệ trọng này, tôi t́m mọi cách can ngăn anh Thạch, đồng thời bản thân tôi cũng dứt khoát từ chối tham gia. Đây là một quyết định đau ḷng, nhất là tôi xưa nay vẫn coi anh Thạch là tấm gương về ư chí phấn đấu, là người thầy về lĩnh vực đối ngoại của ḿnh. Hơn nữa cách dùng người của anh Thạch là “cú hích” đẩy tôi vào lĩnh vực kinh tế và phát triển, nhờ đó tôi trưởng thành nên một con người  khác. Tôi rất hàm ơn anh Thạch điều này! Tính bộc trực trong công tác tôi cũng học được ở anh Thạch rất nhiều. Cuộc sống có những nỗi đau như thế!

Hai chúng tôi đi nhiều ṿng trong vườn hoa của đại sứ quán, có lẽ phải đến hàng giờ. Anh Thạch căn vặn tôi và nghe tôi nói là chủ yếu: Tại sao tôi từ chối đề nghị của anh!?

Suốt câu chuyện, tôi nêu ra một số sự kiện và sự cố ngoại giao quan trọng, tŕnh bầy nếu muốn tổng kết th́ phải nói những vấn đề A, B, C… như thế này, sẽ đụng chạm đến quốc gia, quốc tế, nhân sự như thế này; ở một sự cố và sự kiện ngoại giao khác, th́ lại có những vẫn đề D,F,G… khác, những vấn đề liên quan khác phải giải quyết… Tất cả đều chưa chín muồi để làm vào lúc này, hơn nữa dễ bị đối phương khai thác… Tôi nhấn mạnh chắc chắn anh Thạch biết tính nghiêm trọng và nhạy cảm của từng vấn đề c̣n sâu sắc hơn tôi, vân vân và vân vân… Có nhiều vấn đề phải tổng kết mà tôi chưa biết… Nếu tổng kết chỉ mang tính giúp cho biên soạn sách giáo khoa, th́ anh nên dành cho người khác, v́ sức khỏe của anh quan trọng hơn nhiều… Anh nên nghỉ ngơi phục hồi lại sức khỏe trước đă, khi thời gian đến sẽ hay… Tôi rất mong anh thanh thản, tĩnh tâm, lúc này lúc khác có điều ǵ khuyên bảo hoặc cố vấn cho chúng tôi.., như thế sẽ có lợi cho đất nước nhiều hơn … Nhất là tầm nh́n và suy nghĩ của anh về những sự vật đang diễn ra sẽ hết sức quư báu, rất mong anh chia sẻ với chúng tôi, những dự báo của anh về tương lai…

Kết thúc câu chuyện, tôi nói vui, đại ư: Bây giờ xin phép đến lượt tôi làm cố vấn cho anh, câu chuyện của anh là chọn việc ǵ anh thấy đáng làm nhất lúc này trong hoàn cảnh của ḿnh, nhưng xin tạm thời gác sang một bên câu chuyện làm tổng kết, dù cả Bộ Ngoại giao đều biết anh là vua tổng kết! Anh nên để việc tổng kết cho hậu thế…

Anh Thạch miễn cưỡng đồng ư:

-         Cậu thật láu cá!..

Anh Thạch thường gọi tôi theo cách thân mật như vậy.

Biết thế, nhưng tôi vẫn chưa yên tâm. Sau khi anh Thạch về nước, tôi c̣n viết một thư tay chạy theo đến phu nhân anh Thạch là chị Phúc (15-05-1991), kiếm cớ hỏi thăm, song nội dung thực chất là đề nghị chị Phúc hạn chế tối đa anh Thạch làm việc lúc này… Cố nhiên trong thư tôi không tiện nói về câu chuyện tổng kết!

 

Nhân đây xin nói vài lời về anh Thạch chung quanh câu hỏi rộ lên gần đây trên một số báo chí: Anh Thạch chống hay không chống Trung Quốc?

Tôi không rơ hỏi như vậy nhằm mục đích ǵ. Và trả lời nhằm mục đích ǵ?

Nhưng xin nói ngay, là một nhà ngoại giao lớn, anh Thạch không tư duy theo kiểu chống nước nào, theo nước nào… Suy nghĩ theo kiểu “pro & con”  như thế là không hiểu ǵ về anh Thạch, nếu không muốn nói là có phần xúc phạm anh Thạch.

  Về Trung Quốc, có thể nói ngay anh Thạch chỉ chống những sai lầm của Trung Quốc trong đối xử với ta, đồng thời chống những suy  nghĩ mơ hồ trong nội bộ ta về Trung Quốc và những sai lầm v́ mơ hồ. Sự phê phán quyết liệt của anh Thạch trong nội bộ và phát biểu của anh về Hội nghị Thành Đô là một ví dụ điển h́nh. Đấy là ư chí tâm huyết và đầy trách nhiệm với tổ quốc, là tầm nh́n sắc xảo của một nhà ngoại giao lớn của đất nước. Anh Thạch không thể làm khác và đă không cho phép ḿnh tự làm khác. Làm người th́ phải như thế, nhất là ở cương vị của anh Thạch với tính cách là người con của đất nước, một nhân vật tiêu biểu và là thể diện quốc gia! Trung Quốc cay cú và quyết loại anh Thạch là việc của Trung Quốc. C̣n việc lănh đạo ta chấp nhận đến Hội nghị Thành Đô trong hoàn cảnh và với nội dung như vậy là sai lầm của lănh đạo ta hồi ấy[6]. Lịch sử cần được nói lên rành rẽ như vậy, để rút ra bài học. Nói dối hay xuyên tạc không bao giờ thay đổi được sự vật đă diễn ra và luộn luôn là thuốc độc.

Có một điều đến nay chưa thấy ai nói đến: Sau Hội nghị Thành Đô, đội ngũ lănh đạo của đất nước ta từ đây suy yếu hẳn và đi vào thời kỳ xuống cấp mới! – tôi nghĩ như vậy.

Anh Thạch là người hiểu rơ Trung Quốc và mọi khía cạnh của quan hệ Việt – Trung, luôn t́m cách xây dựng quan hệ Việt – Trung trên những quan điểm đúng đắn. Suốt thời kỳ lănh đạo của anh Thạch, Bộ Ngoại giao chưa có một việc nào có thể  coi là “anti China!”, mà chỉ có sự bác bỏ những chính sách và các bước đi của Trung Quốc chống Việt Nam mà thôi.

Những ai thường được dự những buổi giao ban buổi sáng của Bộ có anh Thạch dự, chắc chắn c̣n nhớ những đánh giá tinh tế với những căn cứ xác đáng trong những phê phán của anh Thạch – nhiều khi rất quyết liệt – về Mỹ, về Liên Xô, về những cường quốc phương Tây khác trong những trường hợp những quốc gia này có những bước đi ngược lại với những đ̣i hỏi của Việt Nam trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Phê phán Trung Quốc trong những trường hợp như thế không phải là ngoại lệ hay đặc biệt ǵ cả!

Có thể v́ tôi một thời là vụ trưởng Vụ Châu Á 2, nên riêng tôi đặc biệt đánh giá rất cao công lao của anh Thạch trong giải pháp vấn đề Campuchia, bắt đầu từ việc anh sớm đề xuất vấn đề rút quân khỏi Campuchia – một quyết định không dễ, nếu không nói là quyết liệt trong t́nh thế rất khắc nghiệt của thời cuộc đất nước hồi ấy.

Cũng xin nhấn mạnh, là một nhà ngoại giao lỗi lạc có nhiều cá tính, anh Thạch thực sự luôn luôn làm chủ cuộc đối thoại của ḿnh trong mọi giao tiếp với các chính khách nước ngoài, đồng thời luôn luôn là ông hoàng trên mọi diễn đàn, đặc biệt là trên diễn đàn các nhà báo phương Tây.

Hôm nay tôi c̣n nhớ măi những buổi truyền h́nh tường thuật những cuộc họp báo của anh Thạch với phóng viên nước ngoài tại những hội nghị quốc tế - đương nhiên thời đó chủ đề là cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, sau đó thêm vấn đề Campuchia. Không bao giờ thiếu những câu hỏi gai góc của nhà báo, không hiếm những b́nh luận kèm theo rất xoi mói để làm khó cho người trả lời, xoáy vào những vấn đề rất nhạy cảm… Song người dẫn dắt đối thoại trong những họp báo như vậy lại là anh Thạch, chứ không phải là các nhà báo. Có lúc họ dành cho anh Thạch những tràng pháo tay tán thưởng – chuyện rất hiếm trong sinh hoạt báo chí quốc tế. Cũng có lúc họ rộ lên cười v́ đồng t́nh với anh Thạch, song trước hết v́ những câu trả lời thông minh và hài hước của anh, đầy h́nh ảnh, dễ hiểu nhưng rất sâu sắc, dư âm c̣n lại đến hôm nay... – nhất là liên quan đến chủ đề chính sách của Trung Quốc chống Việt Nam thời sau chiến tranh 17-02-1979 và vấn đề Campuchia, vấn đề Mỹ tiếp tục bao vây cấm vận chống Việt Nam… Một số lần tôi được dự những cuộc hội đàm của anh Thạch với chính khách nước ngoài, tôi thực sự ấn tượng với phong cách ngoại giao nói thẳng, nói thật của anh Thạch, cái ǵ không nói được th́ không nói chứ không nói dối hay ṿng vo theo kiểu ngoại giao, nhờ đó luôn luôn bàn được ngay vào thực chất của công việc. Tôi gọi đấy là ngoại giao của người lớn.

Tôi hâm mộ nhà ngoại giao lỗi lạc có cá tính, anh Thạch là một chính khách như thế.

Tôi rất trân trọng công đầu của anh Thạch trong việc h́nh thành nên một nền ngoại giao mới của Việt Nam thời b́nh xây dựng và bảo vệ tổ quốc, việc xây dựng ngành và phát triển đội ngũ cán bộ ngoại giao theo những đ̣i hỏi mới của quốc gia trong thế giới hôm nay. Vấn đề chính của Bộ Ngoại giao hôm nay là cái ṿng kim cô không được vượt qua, chứ không phải Bộ này năng lực yếu! Một con ngựa luôn luôn bị gh́m cương và đeo hai cái che mắt như thế, làm sao phi nước đại được? những yếu kém vốn có làm sao khắc phục? Sớm muộn ngựa tốt thế nào đi nữa cũng sẽ thành ngựa tồi!..  Trong ḷng tôi sót sa cho Bộ của ḿnh, nhất là các thế hệ cán bộ hiện nay của Bộ so với chúng tôi được đào tạo có bài bản! Song trong ḷng, tôi giận những bậc lăo làng của Bộ có địa vị cao trong ĐCSVN nhưng không có can đảm giúp thế hệ con em ḿnh loại bỏ ṿng kim cô và hai cái che mắt này! Tôi đă đôi ba lần nhắc nhở các vị lăo thành khi có dịp, nhưng nhận được sự thờ ơ.

Bây giờ anh Thạch không c̣n nữa, nhưng thực sự tôi mong muốn lănh đạo đương chức của Bộ nên tổng kết mọi việc phải tổng kết – ít nhất là cho riêng nội bộ của Bộ, v́ lịch sử là tiếng nói cuối cùng và luôn luôn người thầy của hiện tại cũng như tương lai.

Cũng với tất cả sự trân trọng này, tôi xin nói lên sự ngưỡng mộ của tôi đối với những đóng góp của riêng anh Thạch trong quá tŕnh đổi mới kinh tế đất nước, cũng như đối với thành công của anh trong phát huy nhiệt t́nh và trí tuệ của toàn ngành ngoại giao tham gia vào công cuộc đổi mới chung này của đất nước trong lĩnh vực kinh tế. Hôm nay thế hệ ngoại giao chúng tôi có thể nói: Ngành ngoại giao của chúng ta hồi đó không phải hổ thẹn là đă không vắng mặt trong những nỗ lực chung của đất nước thời gian khổ có tính chất bước ngoặt này của đất nước, và đă có những đóng góp có hiệu quả - đặc biệt là trong xóa bỏ nền kinh tế bao cấp, đổi mới một số lĩnh vực kinh tế vĩ mô của đất nước.

Vừa học vừa làm, với tất cả nhiệt t́nh và trách nhiệm của ḿnh đối với đất nước. Đó là h́nh ảnh anh Thạch măi măi trong tôi.

 

Để tưởng nhớ anh Thạch, xin phép kể thêm đôi điều.

Trong đổi mới năm 1986, thành công nhất của Bộ Ngoại giao là những đóng góp do nhạc trưởng Nguyễn Cơ Thạch trực tiếp chỉ huy vào những vấn đề: Vai tṛ của thị trường trong kinh tế, vấn đề giá cả (xóa bao cấp), những tư duy sai lầm về giá trị thặng dư và vấn đề bóc lột, vấn đề tiền tệ nói chung, mối quan hệ tiền – hàng trong kinh tế vỹ mô, vấn đề lạm phát, vấn đề tỷ giá hối đoái, cách đánh giá một nền kinh tế, vai tṛ kinh tế đối ngoại, FDI, vấn đề cạnh tranh kinh tế… Vân… vân… Nói ra th́ vài hàng chữ như vậy thôi. Song trong đời sống thực, đây là một cuộc vật lộn khủng khiếp nhiều năm của đất nước, nhằm loại bỏ những quan điểm, những vấn đề, hệ thống và phương thức vận hành của nền kinh tế kế hoạch quan liêu và bao cấp…

Bộ Ngoại giao (trước hết những anh chị em trực tiếp tham gia) phải t́m mọi cách học từ A đến Z để có kiến thức và ư tưởng tham gia vào công cuộc đổi mới chung này của đất nước. Trong nước th́ khai thác mọi thông tin, ở nước ngoài th́ các đại sứ quán của ta ra sức thu thập kiến thức và sách báo – nghĩa là phải t́m mọi cách học mọi thứ và học triệt để những ǵ có thể học trong lĩnh vực kinh tế, ra sức tranh thủ sự giúp đỡ của IMF và World Bank, UNDP… kinh nghiệm một số quốc gia, các trí thức Việt kiều… Tôi nhớ lại những lần làm việc như đánh vật với những chuyên gia kinh tế và tài chính mọi quốc tịch này, song dứt khoát không giấu dốt… Có như vậy mới biết đường mà tham gia…

Chúng tôi c̣n nhớ măi, thoạt đầu anh Thạch mang ở đâu về cuốn “Economics” của Paul Samuelson, không nhớ rơ edition thứ bao nhiêu, (h́nh như do anh Vũ Quang Việt biếu?). Anh giao cho chúng tôi xé ra làm nhiều phần theo các chương, rồi cùng nhau dịch, cùng nhau học, chỗ nào không hiểu th́ tranh luận với nhau để hiểu, hoặc cố hỏi mọi nơi để mà hiểu… Nghĩa là nhạc trưởng bắt chúng tôi học từ ABC để làm việc mới… Khá nhọc nhằn. Ví dụ, chương tôi dịch có vấn “the elasticity of demand and supply”, vấn đề này quá xa lạ đối với tư duy kinh tế chính trị học của nền kinh tế kế hoạch hóa và quan liêu bao cấp, thậm chí là ngược! Từng từ từng câu của chương th́ hiểu được, nhưng toàn bộ vấn đề chương này th́ không! Sau này chúng tôi mới vỡ ra: Phải hiểu những vấn đề kinh tế vỹ mô khác có liên quan th́ mới hiểu được chương này.

Có một anecdote trong một tranh luận, một lăo đồng chí quan trọng, rất lập trường, cứ khăng khăng thị trường dứt khoát chỉ thuộc về phạm trù của chủ nghĩa tư bản mà thôi, là nước XHCN dứt khoát phải là kinh tế kế hoạch th́ mới không có bóc lột… Mọi lư luận để giải thích vẫn không sao thủng được cái đầu này. Lư thuyết không xong, anh Thạch yêu cầu chúng tôi t́m lư lẽ trong cuộc sống vậy… May sao tôi kiếm được bộ sử kư của Tư Mă Thiên, trong đó có quyển “B́nh Chuẩn”. Anh em chúng tôi sướng quá. Theo tôi, có lẽ đấy là cuốn “economics” thô sơ đầu tiên của  lịch sử nhân loại. Tư Mă Thiên không có kiến thức economics, song ông ta mô tả rất sống động và chi tiết về đời sống làm ăn kinh tế của nhà vua và đất nước ông, về mối quan hệ cung – cầu (ngày mùa thóc lúa rôm rả, giá hạ, giáp hạt thóc cao gạo kém giá đắt, khuyên vua lúc nào mua vào, lúc nào bán ra kiếm lợi…), càng cho phép các quan tự làm ra tiền th́ giá cả càng lên (mối quan hệ tiền – hàng), khối lượng bạc hay vàng của tiền càng lớn th́ sức mua lớn theo (chế độ bản vị của tiền)… v… v…  v… v… Chúng tôi như bắt được vàng, đem ra giải thích bô lăo này mới xuôi: thị trường xuất hiện trong mọi h́nh thái xă hội loài người ở các mức độ và h́nh thức khác nhau, có trao đổi ắt phải h́nh thành thị trường, chỉ tùy thuộc vào các h́nh thái chế độ chính trị-xă hội khác nhau mà thể hiện và vận hành của nó khác nhau, với những kết quả khác nhau mà thôi… Vứt bỏ vai tṛ của thị trường luôn luôn bị trả giá…

Có một vấn đề mấu chốt cánh ngoại giao chúng tôi thất bại hoàn toàn cho đến hôm nay: Vai tṛ độc lập được hiến pháp bảo hộ của ngân hàng nhà nước!  Đơn giản điều này trói tay quyền tùy tiện phát hành tiền, nên đố kỵ với bản chất của chế độ chính trị hiện hành của đất nước. Xin các anh chị đương kim trong vụ Kinh tế của Bộ Ngoại giao hôm nay đừng quên món nợ chưa trả được này đối với đất nước! Hồi đó chúng tôi rất “bám” đ̣i hỏi này, nhưng chúng tôi thua, mặc dù IMF, WB và UNDP hồi đó cung cấp cho chúng tôi nhiều kinh nghiệm thành/bại về chủ đề này tại các nước đang phát triển!

 

Nhân đây xin kể lại tôi học anh Thạch như thế nào           

Khi nhận niệm vụ vụ trưởng Vụ Kinh tế, đầu tiên tôi tự hỏi ḿnh: Phải làm ǵ, làm như thế nào? Phải biết ǵ để thực hiện nhiệm vụ?

Hỏi ḿnh chung chung như thế về nhiệm vụ được giao, công việc hàng ngày dẫn dắt tôi đến hỏi riêng cho từng vấn đề, cho từng vụ việc.., dựa vào đó mà đào bới kiến thức, sách vở, đặt ra cho ḿnh cả chương tŕnh “đào bới”…

Nhiệm vụ và công việc lớn lên từng ngày theo đ̣i hỏi của đất nước – phải nói đấy là những năm tháng tôi ăn, thức, ngủ và sống với kinh tế - trước hết là với tất cả thông tin và sách báo với tới được. Quá tŕnh này dẫn tôi đến câu hỏi lớn hơn:

-         Nếu được giao nhiệm vụ phải xây dựng một nền kinh tế của đất nước vừa ra khỏi chiến tranh, tôi sẽ phải làm ǵ?

Hỏi như vậy, có nghĩa ngay từ đầu tôi phải học những ǵ tôi cần, chứ không thể theo một chương tŕnh giáo khoa nào, càng không thể có một trường nào giải quyết được yêu cầu của tôi cả! Vả lại trên đời không có loại những sách giao khoa và trường học nào đáp ứng được “thực đơn” của tôi yêu cầu như thế! Điều kiện kinh tế, vật chất, kỹ thuật và thời gian cũng không cho phép tôi học theo con đường như vậy.

Dần dà tôi đi tới được kinh nghiệm tự tôi rút ra từ phấn đấu của chính ḿnh: Đặt được câu hỏi đúng, có nghĩa là đă lần ṃ được tới vấn đề đặt ra và giải pháp.

Trong thời gian ở Vụ Kinh tế, tôi tranh thủ mọi sự giúp đỡ của UNDP, WB và IMF và các chương tŕnh giao lưu của những nước phát triển dành cho nước ta để học theo “thực đơn” tôi order. Nghĩa là xuất phát từ đ̣i hỏi của nhiệm vụ và công việc, nhất là từ những ǵ tôi chưa biết và đang phải đối mặt, tôi chủ động nêu nguyện vọng trước với các tổ chức tài trợ, chờ dịp có lớp hay hội thảo thích hợp họ sẽ mời. Cách làm này của tôi được lănh đạo Bộ chấp thuận, hậu thuẫn, giúp đỡ thực hiện. Kết quả thu được chủ yếu là nhờ quyết định học theo “thực đơn” (order) như vậy!

Trong thời gian này tôi đi khá nhiều nước, thường là các hội thảo mang tính tập huấn hay lớp học ngắn ngày, độ dài là vài ba ngày làm việc cho đến một tuần của những ngày làm việc. Nội dung chủ yếu là những vấn đề của chiến lược phát triển và vấn đề công nghiệp hóa của một quốc gia – một trường đời vô giá đối với tôi. Có thể nói, tôi đă có điều kiện t́m hiểu kỹ quá tŕnh công nghiệp hóa của Hàn Quốc, Nhật, Trung Quốc và môt số vấn đề lớn khác ở một số nước phát triển và mấy nước Bắc Âu… Mỗi chuyến đi là một “bồ” những điều mới lạ và sách báo mang về để cùng nhau tiêu hóa!

…Tôi nhớ măi đến hôm nay những điều tôi quan sát tại chỗ và học được của quá tŕnh Thượng Hải đă dẹp bỏ ngành dệt truyền thống để dứt khoát chuyển sang phát triển thành một trung tâm kinh tế và tài chính tầm quốc tế của Trung Quốc như thế nào, bắt đầu từ xây dựng khu Phố Đông. Tổng cộng đến hôm nay tôi đă 3 lần đến đặc khu Thâm Quyến, khi mới bắt đầu thiết lập được mặt bằng và h́nh thành khu hành chính mới (lúc này khách đến thăm phải xin cấp thẻ ra vào và mua “tiền phiếu” – v́ không cho tiêu nhân-dân-tệ hay ngoại tệ) trong nội địa khu, thời kỳ triển khai, thời kỳ phát triển, các kinh nghiệm hay / dở.… Với Hongkong tôi cũng có dịp t́m hiểu những đặc thù riêng của khu tô nhượng… Đi t́m hiểu trên  thực địa chiến lược của Trung Quốc tạm thời “hy sinh” phía Tây để tập trung phát triển miền duyên hải phía Đông… Tôi cũng học được nhiều thứ của các Viện nghiên cứu của Hàn Quốc, mô h́nh các Chaebol, con đường công nghiệp hóa của quốc gia này, mô h́nh hợp tác nông nghiệp trong một nước đang công nghiệp hóa, chính sách đất đai… Tại Nhật, tôi bị câu chuyện xí nghiệp gia đ́nh tham gia các sản phẩm công nghiệp của quốc gia thu hút – tôi đi thăm một số trong các chuỗi các gia đ́nh sản xuất các linh kiện và phụ kiện cho công nghiệp ôtô Honda: ốc, vít, b́nh nhựa lọc khí của động cơ… Khi đi thăm Indonesia tôi thực sự ngạc nhiên có một xí nghiệp gia công sản xuất ghế máy bay cho một đơn đặt hàng của Mỹ…

Có một lớp học ngắn ngày rất ấn tượng đối với tôi – chỉ khoảng 7 ngày làm việc – do UNDP tổ chức ở London, tôi được tham gia. Chủ đề là “3 trụ cột của một quốc gia trong quá tŕnh phát triển: Kinh tế thị trường – nhà nước pháp quyền – xă hội dân sự”. Học viên tất cả khoảng 20 người,  phần lớn là các thứ trưởng, vụ trưởng của một số nước đang phát triển – từ châu Phi, Mỹ Latinh, châu Á duy nhất có Việt Nam là tôi. Nội dung không lư thuyết và triết lư xa xôi như “khế ước xă hội, “khai sáng”, “giải phóng”.., mà đi thẳng vào 3 trụ cột này, mối liên quan của nó, vai tṛ của bộ 3 này trong quá tŕnh phát triển của một quốc gia. Tôi thấm thía: Phát triển và công nghiệp hóa không thể thiếu hay ra ngoài mô h́nh thể chế quốc gia như vậy, mặc dù thời gian sống ở CHLB Đức tôi đă quan tâm đến chủ đề này… Hay quá! Kết thúc lớp học, tôi tự thưởng cho ḿnh: mua một mũ thể thao “Head”, c̣n giữ được đến hôm nay làm kỷ niệm – nó cũng gần 40 tuổi rồi!..

Những năm tháng này, học và làm việc hàng ngày c̣n dẫn tôi đến câu hỏi lớn hơn:

-         Sau cả một chặng đường 3 thế hệ gian khổ máu xương và với thực tế  chúng ta đang sống, tổ quốc của chúng ta nên lựa chọn một đường lối phát triển nào là khả dĩ trong cái thế giới thực này?

Hỏi được như thế, càng day dứt bao nhiêu, tôi càng lao sâu vào kinh tế bấy nhiêu… Từ các học thuyết Keynes, neo-Keynes, đến tân cổ điển.., chủ nghĩa trọng thương qua các thời kỳ và các vấn đề bảo hộ.., các chiến lược chiếm lĩnh thị trường từ inwards -, outwards-looking đến outsourcing.., và hôm nay là Trump đang nói nhiều đến back-wards from outsourcing, vai tṛ kinh tế trí thức[7], bây giờ là cách mạng công nghiệp 4.0… Con đường thành / bại của các nước đang phát triển…

Càng hỏi, càng day dứt trong tư duy. Song tôi không có máu làm chính trị. Đơn giản vỉ tôi biết chắc nó không phù hợp với con người tôi.

Có lần, khi ấy tôi đang là bí thư thứ 3 tại ĐSQ ta ở CHDCĐ, ông chú họ tôi – Nguyễn Khai (phó ban Tổ chức Trung ương) – sang chữa bệnh, tôi được phân công trực tiếp phục vụ. Trước khi về nước, ông chú tôi khuyên tôi nên chuyển sang làm công tác đảng, v́ đang rất cần những lớp trẻ như tôi, trước hết về ngay làm trợ lư cho ông. Tôi một mực xin tha, v́ lệnh của chú có khác ǵ lệnh cha!

Tôi thưa:

-         Nếu nhận cháu về, chú sẽ sớm thất vọng về cháu thôi ạ.

-         Tại sao?

-         Khi c̣n là sinh viên tại đại học Karl Marx, lúc bấy giờ cháu c̣n đang trong diện cảm t́nh đảng, suưt nữa cháu bị chi bộ đề nghị đuổi về nước. V́ trong một buổi họp bàn những vấn đề quan trọng, cháu đă phát biểu: “Chính trị là bẩn thỉu!”

-         ???

 

 

Ngày 08-02-1992 tôi gửi Bộ Chính trị một báo cáo 47 trang,  tŕnh bầy đánh giá của tôi về toàn bộ t́nh h́nh đất nước và ĐCSVN, để góp ư chuẩn bị Đại hội VII.

So với bây giờ, hiểu biết của tôi hồi ấy c̣n hạn chế lắm, song thẳng thắn nói những suy nghĩ của ḿnh, chủ yếu trên một số vấn đề đường lối – chính sách về kinh tế và về đối ngoại. Trong đó tôi nhấn mạnh vai tṛ khu vực kinh tế tư nhân, vấn đề ḥa hợp dân tộc, đường lối đối ngoại bám chắc không nghiêng ngả lợi ích quốc gia...

Trong báo cáo này, sau khi đánh giá t́nh h́nh kinh tế đất nước, tôi tŕnh bầy Bộ Chính trị 7 quan điểm cần xử lư để phát triển đất nước (trang 9-25, thực ra đó là nội dung, là chiến lược phát triển của một quốc gia, song tôi lựa chọn viết theo cách để mở như vậy cho đỡ gai góc). Đó là:

1.    Phải có một thể chế luật pháp, quản trị và điều hành tự do hóa nền kinh tế - thực ra tôi muốn nói phải có một nhà nước thích hợp cho nhiệm vụ này, song không thể viết thẳng ra như thế được.

2.    Vận dụng tối ưu nguyên tắc khuyến khích lợi ích từng con người và từng doanh nghiệp, cộng đồng...

3.    Thiết kế một nền tài chính lành mạnh do luật pháp bảo hộ.

4.    Thuế không đơn thuần chỉ để thu ngân sách, cần xây dựng một hệ thống thuế c̣n là một phương tiện điều ḥa và đ̣n bẩy của nền kinh tế theo yêu cầu của chiến lược phát triển đặt ra; hệ thống thuế càng đơn giản và thuế suất càng thấp song kinh tế tự do có nhiều hàng hóa chịu thuế, nguồn thu ngân sách và khả năng tích lũy của nhà nước càng lớn và bớt được tham nhũng…

5.    Có cơ chế và chính sách đúng sẽ có tất cả và sẽ phát huy được tối ưu mọi nguồn lực của đất nước.

6.    Trong phát triển kinh tế - xă hội của đất nước phải quán triệt quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng (sở dĩ phải nói thế này để giữ lập trường thôi, ngôn ngữ kinh tế là phát huy nền kinh tế nhiều thành phần)

7.    Nh́n nhận đúng và phát huy vai tṛ của kinh tế tư nhân.

Phần này kết luận: Đây là con đường phát triển đất nước, chứ không phải là bỏ CNXH để đi theo chủ nghĩa tư bản (nghĩa là tôi vẫn rất “lập trường” và không sai vào đâu được!). Song nếu coi CNXH là mục tiêu, chứ không phải là phương tiện, cũng phải làm như vậy…

Về ĐCSVN trong báo cáo này tôi lưu ư: Có 4 nguyên nhân ĐCSVN đă làm nên thắng lợi thời chiến là (1)hiểu được quy luật vận động của cách mạng Việt Nam, (2)đề ra được đúng lối đúng cho cách mạng, (3)tổ chức trong nhân dân thực hiện thành công, (4)bản thân đảng và đảng viên tiên phong xả thân và đồng thời gương mẫu thực hiện. Thời b́nh 4 ưu điểm này mai một, biên chế bộ máy của đảng quá cồng kềnh. Tôi nói rơ Đảng chưa bao giờ đông thế này; nhưng ngay trên đỉnh cao của chiến thắng, Đảng chưa bao giờ yếu kém như bây giờ. Đảng đang bị thách thức nghiêm trọng và biến dần thành đảng cai trị, cục bộ bè phái nặng nề. Đường lối xây dựng đảng thực ra chỉ giải quyết vấn đề nhân sự và chỉ làm “cùn” Đảng, đến một lúc nào đó sẽ bị nhân dân bác bỏ là điều không tránh khỏi (trang 46)… 

Trong toàn bộ báo cáo 47 trang này, tôi bỏ mọi thứ “chủ nghĩa” ra ngoài. Song tôi lại gửi báo Quan hệ Quốc tế của Bộ Ngoại giao bài “144 năm Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản”, đăng tháng 2-1992, mặc dù đây không phải năm chẵn kỷ niệm Tuyên ngôn. Nội dung: Căn cứ vào thực tiễn kể từ khi có Tuyên ngôn, sự thật cho thấy những diễn biến trên thế giới đến nay không giống như đă viết trong Tuyên Ngôn; trích lại nguyên văn lời tự phê của Engels những biện pháp cách mạng của Tuyên ngôn là sai… Tôi khuyến nghị nên đọc Tuyên Ngôn với con mắt hiện nay… Đơn giản v́ hồi ấy tôi không thể viết toạc ra Tuyên ngôn là sai, lại càng không thể đưa ư này vào những báo cáo gửi lănh đạo…

Đương nhiên, những thứ tôi viết ra và gửi đi như vậy chẳng bao giờ có hồi âm. Sự kiện nổi bật của khóa đại hội VII lại là Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (01-1904), đánh dấu thời kỳ thắt lại sau đổi mới 1986, và từ đây đất nước đi vào cuộc khủng hoảng toàn diện, cao điểm là 10 năm vừa qua.

Kể lại những chuyện này, tôi thầm nghĩ nếu hôm nay tôi làm những việc nói trên, với những cái khung “19 điều cấm”, “quy định 102”, “quy định 105”… tôi chắc sẽ lĩnh đủ!

 

Cũng trong thời gian này, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm đi thăm chính thức Ấn Độ, khi dừng chân tại Bangkok muốn trực tiếp nghe tôi đánh giá t́nh h́nh thế giới và chính sách đối ngoại của nước ta – tôi tự hỏi Bộ trưởng muốn sát hạch ḿnh?.. Tŕnh bầy của tôi chiếm gọn một buổi, sau đó tôi viết lại thành văn bản dài 53 trang, gửi về Bộ tháng 5-1992. Bộ trưởng muốn nghe, tôi c̣n muốn nói.

Đây là dịp tôi tŕnh bầy thẳng thắn sự sụp đổ của các nước LXĐA chủ yếu là do những nguyên nhân nội tại của hệ thống, không thể đơn  thuần đổ lỗi cho Gorbachov-Yeltsin và CIA – dù rằng những yếu tố này có góp phần nhất định – (cho đến hôm nay trong Đảng vẫn có người nhận định Liên Xô sụp đổ là do Gorbachov và Yeltsin phản bội!). T́nh h́nh đ̣i hỏi phải xem lại bàn cờ và xu thế của thế giới, CNXH như vẫn hiểu lâu nay (tập trung vào phe XHCN) không c̣n ư nghĩa thời đại.

Tôi cũng tŕnh bầy những suy yếu mới của Mỹ, những vấn đề Mỹ đang cố hạn chế xu thế đi xuống của ḿnh. Sự phụ thuộc toàn cầu lẫn nhau gia tăng. Lưu ư Trung Quốc từ sau Đặng Tiểu B́nh nhất quán khai thác xu thế toàn cầu hóa kinh tế để thực hiện chiến lược bá quyền, với tầm nh́n chiến lược sắc xảo, lựa chọn chính xác các bước đi – kể cả trong thực hiện những ư đồ Biển Đông và đánh chiếm các đảo của ta, tích tụ sức mạnh rất nhanh! – đây là thách thức quyết liệt đối với nước ta.

Về đất nước, tôi nhấn mạnh phải có một nội trị bền vững mọi mặt – bao gồm thực lực, đoàn kết ḥa hợp dân tộc, chế độ chính trị và nhà nước lành mạnh… - mới có thể có một chính sách đối ngoại đúng đắn và có hiệu quả. Đây là điểm yếu nhất của nước ta, trong khi đó thực tế khắc nghiệt là Đảng ngày càng bất cập, nhất thiết phải quan tâm khắc phục bằng được tất cả những yếu kém này! V́ những lẽ này, Việt Nam đang giữ vị trí rất thấp trong chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia, nhất là những nước quan trọng, nước ta đang bị nhiều nước ăn hiếp. Ngoài ra ta cũng phải quan tâm đến một đường lối đối ngoại dấn thân v́ các lợi ích chung của cộng đồng các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển để tập hợp lực lượng.

 

Thời kỳ làm đại sứ ở Thái Lan tôi được thực tế cuộc sống của đất nước này và những mối quan hệ của nó với thế giới kích thích suy nghĩ của ḿnh, nên tôi báo cáo về nước nhiều vấn đề khác nhau, những kinh nghiệm đắt của họ, nhận định của tôi… – với nỗi lo lắng mà có lần tôi đă viết ra thành lời:

Thái Lan hôm nay (lúc tôi đang sống ở đấy) sẽ có thể là một Việt Nam trong 20 năm tới, với nhiều bài học tệ hại, hoặc vào t́nh h́nh thực tiễn của nước ta sẽ có thể c̣n tệ hại hơn, nếu ta không chăm lo pḥng tránh từ bây giờ!.. Có những cái Thái Lan đă làm được, nước ta có điều kiện có thể sẽ làm tốt hơn…

        Tất cả những ǵ tôi đă viết ra trong nhiệm kỳ này, tuy nói lên được một số vấn đề quan trọng, song nhiều điều nói chưa được đến nơi đến chốn, nhiều điều đă trở nên lạc hậu, có không ít suy nghĩ chưa đến tầm hoặc sai so với nhận thức mới hôm nay… Nhưng tôi đă viết với tất cả hiểu biết ḿnh có hồi ấy và tấm ḷng của ḿnh.

        Duy nhất nỗi lo lắng nêu trên hầu như đang là sự thật ở nước ta, mà lẽ ra nhiều thứ ta có thể chủ động pḥng tránh hoặc giảm thiểu được. Nhiều năm nay tôi vẫn không sao dứt ḿnh ra được khỏi nỗi sót sa: Nước ta đă bỏ phí nghiêm trọng lợi thế của nước đi sau nên phải trả giá đắt, rất đắt.., nguyên nhân chính là ĐCSVN và chế độ chính trị có gen đề kháng hai chất sống cơ bản: Tự do và dân chủ.

        Bây giờ, vào năm 2018 này, câu chuyện lại khác mất rồi: Với nền kinh tế toàn cầu hóa thời cách mạng công nghiệp 4.0, việc đơn thuần chỉ vận dụng lợi thế nước đi sau không c̣n thích hợp cho hôm nay nữa! Đúng là thế giới chuyển động và biến động không ngừng!

Sống hay chết, ở cục diện trật tự quốc tế mới thời cách mạng công nghiệp 4.0 hôm nay lại là: Phải biết tận dụng mọi nhân tố mới của sản xuất kinh doanh, của công nghệ, dịch vụ, để phát triển sản phẩm mới. Mỗi doanh nghiệp nói riêng và một quốc gia nói chung phải t́m ra sản phẩm riêng, thế mạnh riêng và lối đi riêng mới có cơ may tồn tại và phát triển, v́ thế giới hôm nay đang dần dần đi vào một nền kinh tế khác, cách làm ăn khác...

Xin nêu một ví dụ về một sản phẩm mới và lối đi riêng của Amazon, đó là bán lẻ trực tuyến thời hiện đại: Cách đây dăm sáu năm, Amazon chỉ là một chợ sách đơn thuần trên mạng. Hôm nay Amazon bán từ 1 cái chổi đót của Việt Nam, đến hầu như mọi sẩn phẩm trên thế giới này có người bán, để bán cho người mua ở khắp thế giới, mà Amazon không cần kho băi, không cần cửa hàng, không cần đại lư, thậm chí với giá trị hóa đơn thanh toán mua hàng ở mức tối thiểu trở lên (tùy theo loại hàng) sẽ không lấy phí vận chuyển hàng (thực ra Amazon đă tính phí vận chuyển vào giá mua/bán hàng, hoặc phí quảng cáo của người làm ra sản phẩm để bán, thu phí quảng cáo và các dịch vụ khác nói chung để có thu nhập và có nguồn lực nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của toàn hệ thống), có phần mềm hiện đại và kỹ năng tổ chức các mạng công việc – networks – và  các “chợ mạng” khác nhau, tận dụng internet – bưu điện – hệ thống giao thông vận tải hiện có của cả thế giới, có khả năng điều hành toàn bộ hoạt động hệ thống ở phạm vi thế giới – cốt lơi là hệ thống tin học thời CMCN 4.0… Tất cả để thực hiện được: Người mua chỉ cần một cái smart phone liên hệ t́m hàng và đặt hàng, được tư vấn trong quá tŕnh mua hàng, và thanh toán, phương thức xử lư các khiếu nại… Toàn bộ quá tŕnh giao dịch diễn ra qua trang web của Amazon là xong, hàng về đến người nhận theo đúng lịch, người mua có thể thực hiện mọi khiếu nại nếu hàng nhận được không như nội dung giao dịch..!

Nói khái quát: Amazon làm được cái việc tận dụng các mối liên kết mạng và kết cấu hạ tầng sẵn có của cả thế giới để có hàng để bán lẻ ở mức cạnh tranh toàn diện cao nhất từ cả thế giới, cho người mua ở khắp thế giới! Amazon hiện nay là nhà bán lẻ trực tuyến lớn nhất thế giới, nhưng từ khoảng một năm nay đă bị Alibaba (Trung Quốc) đẩy xuống hàng thứ hai!.. Lợi thế lớn của Alibaba là có thêm sự hỗ trợ của dịch vụ thanh toán trực tuyến “Alipay” và “We chat”, cũng do Alibaba lập ra. Chủ tập đoàn Alibaba, Jack Ma: ai thống trị được dịch vụ sẽ thắng!

Ví dụ này đủ cho thấy: Hôm nay đi đường ṃn không c̣n chỉ là trâu chậm uống nước đục, mà gần như cầm chắc phá sản. C̣n hơn thế, không thường xuyên dấn lên phía trước cũng sẽ mất chỗ! Viết tới đây tôi liên hệ đến dự án về 3 đặc khu kinh tế Vân Đồn, Vân Phong, Phú Quốc và dự luật đi kèm đang gây nhiều tranh căi cả nước, sẽ xin góp vài ư riêng ở phần ba của sách này.

        Hôm nay, năm 2018 này, sau chuyến đi thăm Thái Lan gần đây nhất của tôi, trong mắt tôi nước ta vẫn tụt hậu tiếp khoảng 20 năm so với Thái Lan – hoặc thậm chí có mặt c̣n xa hơn… Lại thêm những thách thức mới của thế giới hôm nay! Việc nước ta phải cạnh tranh sống c̣n chắc sẽ quyết liệt hơn nữa, thậm chí sẽ có thể rất nguy nếu cứ dùng dằng vừa tiến vừa lùi như hiện nay.

 

        Một kỷ niệm vui: Bộ giao cho tôi nhiệm vụ đàm phán với đại sứ Hàn Quốc ở Bangkok thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước và trao đổi đại sứ (thành lập đại sứ quán). Nhiệm vụ hoàn thành nhanh chóng v́ mọi chuyện đều thuận lợi. Vợ chồng tôi được Bộ Ngoại giao Hàn Quốc mời đi thăm xă giao, coi như miếng trầu là đầu câu truyện. Bộ cho phép chúng tôi thực hiện chuyến đi này, thấm thoắt hôm nay đă là 25 năm! Có nghĩa tôi đă già nhanh quá! Tôi có dịp hiểu thêm quốc gia này.

        Một chuyện không được vui lắm liền ngay sau đó: Đại sứ Israel tại Bangkok chủ động gặp tôi, chuyển đạt đề nghị Israel muốn thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, bất chấp lúc này Mỹ c̣n áp dụng cấm vận đối với nước ta. Báo cáo của tôi về nước không đem lại kết quả mong muốn, được giải thích nên chờ Việt Nam thêm chút nữa. Phía Israel không bỏ cuộc. Để tỏ thiện chí và sự sẵn sàng của ḿnh, Israel đề nghị phía Việt Nam cho mượn một ít đất canh tác (có thể một hai chục ha – tôi đoán vậy) để giới thiệu một số mẫu canh tác nông nghiệp hiện đại của Israel… Kết quả bạn lại phải chờ… (sau đó tôi măn nhiệm về nước).

        Trong khi làm đại sứ, tôi đă dành khá nhiều công sức thuyết phục phía Thái Lan cũng như thuyết phục phía Việt Nam: Thành lập một phân viện Học viện Công nghệ Châu Á (Asian Institute for Technology - AIT) tại Việt Nam. Đây là nơi đă đào tạo hàng trăm cán bộ kỹ thuật Việt Nam sau đại học, nhiều người thành đạt suất sắc, một số trở thành các vụ trưởng, thứ trưởng… trong các Bộ chuyên môn của nước ta.

Có thể nói đến mức thế này, chỉ vài tháng sau khi đặt chân lên Bangkok tôi đă ngay học viện rất có tiếng tăm này, học viên đến từ nhiều nước châu Á, có những người trở thành bộ trưởng, thứ trưởng ở các quốc gia họ, trong đó có nhiều thứ / bộ trưởng và một phó thủ tướng ở Thái Lan, nước ta có bộ trưởng Trần Hồng Quân v… v…  Trong khi tiến hành, tôi tự nói với ḿnh: Tôi quyết chiến đến cùng để thực hiện bằng được ước mong này. Thuyết phục hai đầu cứ như hoạt động của con thoi, mệt vô cùng. Thú thực thuyết phục đầu phía Việt Nam khó hơn nhiều, việc lo địa điểm cho phân viện này ở Việt Nam c̣n khó nữa…

        Thế mà Phân viện AIT ở Việt Nam cũng 25 năm rồi! Thời gian đúng là luôn thù dai tôi! Song 25 năm cũng có nghĩa AIT ở Bangkok và  AIT CV (ở Việt Nam) nếu muốn trụ được trong thế giới hôm nay, nhất thiết cần tự thay đổi trong diễn tiến của cách mạng công nghiệp 4.0 đang lan tỏa khắp thế giới…

       

25 năm AIT CV cũng là  bằng ấy năm tôi giấu trong ḷng sự tiếc nuối và nỗi buồn sâu thẳm: Tôi thành công trong việc đưa được AIT CV về Việt Nam, nhưng tôi thất bại hoàn toàn trong hy vọng AIT CV sẽ là một gợi ư thiết thực, một cú hích, để Việt Nam tự nội lực của ḿnh xây dựng nên cho ḿnh một mô h́nh đào tạo như thế cho nền giáo dục nước nhà. Chuyện này hoàn toàn không xảy ra, trong khi đó hàng chục năm qua trong cả nước đă mọc lên hàng chục hàng trăm trường đại học rởm! Nghĩa là giáo dục nước nhà cũng đang mắc phải căn bệnh chung của quốc gia: Không chịu đi t́m con đường sống bằng phát triển nội lực của chính ḿnh!

Căn bệnh nền kinh tế quốc dân của chúng ta không có nội lực đang là căn bệnh vô cùng trầm kha của đất nước: Ta thu hút FDI không phải là để dựa vào FDI mà sống, mà là để có cú hích ban đầu và để có kinh nghiệm giải phóng, phát huy nội lực của chính ḿnh, để ngày càng dựa vào nội lực của ḿnh là chủ yếu, là quyết định để sống! Song đă 30 năm công nghiệp hóa – hiện đại hóa, với mọi nguồn lực trong ngoài huy động được vô cùng lớn, nhưng sức sống của nền kinh tế nước ta hôm nay vẫn phải dựa vào FDI là chính! Nguyên do hàng đầu là thiếu một thể chế chính trị / nhà nước khuyến khích mở ra con đường phát huy nội lực, để cho tham nhũng và ăn bám hủy hoại tất cả!

Nền giáo dục nước nhà cũng đang be bét dang dở như vậy.

Kính mong các thầy Phạm Phụ, Nguyễn công Thành, Huỳnh Ngọc Phiên… của AIT và các AIT alumni nổi tiếng như bộ trưởng Trần Hồng Quân, tiến sỹ Tô Văn Trường.., nhiều nhà kinh doanh thành đạt, nhiều nhà khoa học và nhà quản lư… góp công sức với cả nước dựng nên nền giáo dục phải có của nước Việt Nam độc lập thống nhất trong thế giới quyết liệt hôm nay!

 

Một nhiệm vụ khác cũng mở mắt cho tôi rất nhiều: Tôi dành mọi nỗ lực có thể hậu thuẫn nhóm cán bộ của ta trong Ủy ban thư kư Sông Mekong tại Bangkok, v́ quyền lợi quốc gia đă đành, song nó c̣n là đấu tranh chính trị - ngoại giao giữa các nước liên quan, nhất là trong những vấn đề: Các mưu đồ hạ thấp hay vô hiệu hóa Ủy ban này, sự lấn át của Thái Lan, ư đồ vượt mặt và bỏ qua quyền lợi của Việt Nam… Nội dung kỹ thuật của vấn đề sông Mekong đă khó, thái độ chính trị của các nước không thân thiện với ta hồi ấy làm cho vấn đề phức tạp hơn, song phải nói có một số vấn đề phải thuyết phục trong nước không đơn giản chút nào! Tôi nể phục anh chị em ta công tác tại Ủy ban này về những nỗ lực chuyên môn và tinh thần bảo vệ lợi ích quốc gia – thật không đơn giản chút nào!..

Ngày nay vấn đề sông Mekong c̣n khó cho nước ta gấp bội, một mặt trận mới quyết liệt có tầm quan trọng sống c̣n đối với đất nước. Trên mặt trận này nước ta đang “đuối”, không chỉ v́ ta có vị địa lư hạ nguồn, mà thực sự c̣n có rất nhiều hạn chế về năng lực đấu tranh với các quốc gia phía trên sông.

 

Sự cố của cái duyên: Mọi việc chuẩn bị cho chuyến thăm chính thức Thái Lan đầu tiên của Thủ tướng Vơ Văn Kiệt xong xuôi, rất tỷ mỷ từ A-Z cho mọi vấn đề trong toàn bộ nôi dung chuyến thăm có ư nghĩa này. Ngày mai Thủ tướng đến, tối hôm nay tôi chảy máu dạ dày cấp tính, phải đưa vào bệnh việc cấp cứu. Đây là lần tôi chảy máu dạ dày nặng lần thứ ba (hai lần trước một ở Đức, một ở Việt Nam, tôi sớm đau dạ dày từ năm 1959 chữa măi không khỏi, dăm năm gần đây mới tàm tạm yên…).

Cuộc đi thăm của Thủ tướng vẫn diễn ra suôn sẻ, người phó của tôi làm thay các nhiệm vụ của đại sứ. Tôi trở thành bệnh nhân nổi tiếng trong bệnh viện, v́ được 2 Thủ tướng gởi hoa và quà vào hỏi thăm! Cả bệnh viện x́ xào…

Song chính kết quả của chuyến đi này – nói theo ngôn ngữ lăng mạn -  tôi rơi vào mắt xanh của Thủ tướng. Kết thúc nhiệm kỳ ở Thái Lan đầu năm 1993, tôi được mời về Văn Pḥng Chính phủ. Sự nghiệp 4 thập kỷ gắn bó với ngoại giao của tôi kết thúc.

 

Nh́n lại, hôm nay tôi có thể nói, những năm lăn lóc trên mặt trận ngoại giao của đất nước, đặc biệt là từ thời kỳ làm đại sứ ở Thái Lan cọ mặt với cả thế giới, tôi có điều kiện tiếp cận gần nhất những vấn đề sống c̣n của đất nước, hiểu thêm nhiều điều. Qua đó, nỗi day dứt của tôi về thân phận đất nước ngày càng dày ṿ tôi nhiều hơn! Tôi không bao giờ thích làm chính trị, hôm nay cũng vậy. Song nỗi day dứt cứ buộc tôi không tha vào những vấn đề chính trị của đất nước!

Khi kết thúc cuộc đời ngoại giao, nhất là từ khi tôi là người tự do, tôi thực sự bước vào một cuộc chiến đấu mới – nói cho oai một chút là như vậy! Không hiếm lúc chùng chân, mỏi gối, hai tay muốn buông xuôi…  Trong thâm tâm tôi thừa nhận: Nhân dân ta, đất nước ta bị  thử thách lớn quá, không lúc nào dứt… Nhưng cũng tại chính chúng ta một phần không nhỏ - những người đă và đang tham gia vào sự nghiệp này!.. – từ đáy ḷng tôi nghĩ như vậy.

Chỉ có một niềm an ủi duy nhất: Tôi không phải xấu hổ với chính ḿnh: Tôi không cưỡng lại được định mệnh buộc vào ḿnh, song tôi đă nh́n thẳng vào nó… Và trước sau: C̣n nước c̣n tát!…

 

Xin cho phép tôi tại đây – cũng là cách hôm nay (06-05-2018) tôi nói lời chia tay muộn mằn với ngành đối ngoại đă làm nên con người tôi, với tính cách người lính già trên mặt trận đối ngoại, được lưu ư đôi điều theo nhận thức của tôi – dù đúng dù sai – để mong được tham khảo, bàn luận:

1.   Ngoại giao CHXHCNVN (tôi không nói đơn thuần về Bộ Ngoại giao) trong 43 năm đất nước độc lập thống nhất đầu tiên có nhiều nhiệm vụ thực hiện không bằng thời kỳ phải tiến hành 4 cuộc kháng chiến, nhất là trên phương diện tạo ra một tập hợp lực lượng thế giới mới mà sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời b́nh đ̣i hỏi. Về nhiều mặt cơ bản, ngoại giao CHXHCNVN không thực hiện được tốt nhiệm vụ chiến lược của nó là tạo ra môi trường thuận lợi nhất cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời b́nh, trên thực tế chủ yếu là bị động chống đỡ. Yếu kém này nói lên việc xác định lợi ích quốc gia vẫn bị tầm nh́n thế giới c̣n nhiều mặt hạn chế, ư thức hệ và lợi ích của chế độ chính trị chi phối.

2.   Trong thời kỳ này ngoại giao CHXHCNVN vấp nhiều thất bại nghiêm trọng nhất kể từ Cách mạng Tháng Tám: Ngoại giao CHXHCNVN chưa chủ động đóng góp được bao nhiêu vào nhiệm vụ xây dựng một nền nội trị mạnh của đất nước để làm nền tảng và hẫu thuẫn cho đối ngoại. Nh́n chung vẫn là một nền ngoại giao chủ yếu thực thi nhiệm vụ được giao h́nh thành từ những đ̣i hỏi t́nh thế của đối nội, có nhiều nét bị động và đối phó, thành tựu đạt được có nhiều hạn chế; đất nước vấp phải không ít sai lầm chiến lược và thua thiệt lớn, chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ quốc gia bị uy hiếp và xâm phạm nghiêm trọng, lỡ những cơ hội lớn.

3.   Ngoại giao CHXHCNVN thiếu hẳn sự chủ động đóng góp phải có vào nhiệm vụ xây dựng một chiến lược lựa chọn cho quốc gia con đường phát triển nào, vị thế quốc tế nào nhất thiết phải giành lấy của một Việt Nam độc lập thống nhất trong một thế giới đă và đang thay đổi ngày càng quyết liệt. Về cơ bản, ngoại giao CHXHCNVN chưa được xây dựng trên nền tảng của (a) tầm nh́n chiến lược lẽ ra phải có phù hợp với vị thế khu vực và toàn cầu của quốc gia và sự giác ngộ sâu sắc nhất lợi ích quốc gia trong thế giới hôm nay, và (b)ngoại giao không dựa vào và phát huy sức mạnh của ḥa hợp đoàn kết dân tộc, không có một nền nội trị vững mạnh làm nền tảng và hậu thuẫn. Nói cho công bằng: Trong thể chế chính trị hiện nay, đảng quyết định tất cả với tầm nh́n hạn chế khác hẳn với Trung Quốc, nên dù muốn nền ngoại giao hiện tại cũng không làm được.

So sánh như sau để dễ nhận diện:

-  Ngoại giao Trung Quốc chiến đấu cho phục hưng đế chế Trung Hoa, ĐCSTQ nắm tuyệt đối quyền lực để phục vụ mục tiêu chiến lược này, ngọn cờ ư thức hệ CNXH đặc sắc TQ kỷ nguyên mới chỉ là phương tiện của mục tiêu chiến lược này. Từ ngày CHDCNDTH ra đời ngoại giao Trung Quốc kiên định mục tiêu chiến lược này bất luận mọi bước đường thăng trầm Trung Quốc đă phải trải qua. ĐCSTQ nắm quyền tuyệt đối và giương cao ngọn cờ ư thức hệ để thực hiện ngoại giao của đế chế Trung Hoa t́m đường phục hưng! Chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc và giấc mộng Trung Hoa là động lực tinh thần, cùng với nền kinh tế của 1,3 tỷ dân đang có quy mô trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới và ưu thế quân sự tuyệt đối so với chung quanh ở Biển Đông là tiềm lực vật chất, đế chế đang trên đường phục hưng này đang một mặt giương cao ngọn cờ bành trướng mang tên ư thức hệ là CNXH đặc sắc TQ và CNM kỷ nguyên mới, một mặt xúc tiến “một vành đai – một con đường” để tranh giành thị trường thế giới, tất cả đă tạo ra một bước phát triển mới chưa từng có trong lịch sử TQ: Thế kỷ 21 ngày càng mang nhiều dấu ấn TQ, vấn đề TQ ngày nay trở thành vấn đề của cả thế giới! Thực tế này khẳng định sức sống dai dẳng của đế chế Trung Hoa 5000 năm, nó đă ra khỏi giấc ngủ 100 năm khi thành lập CHNDTH 1949, và hôm nay đang muốn vươn lên ôm cả thế giới trong ṿng ảnh hưởng của nó.

- Trong khi đó ngoại giao CHXHCNVN lại lấy bảo vệ sự tồn tại quốc gia trong chế độ toàn trị của ĐCSVN làm gốc nhân danh độc lập dân tộc gắn với CNXH, ư thức hệ sai lầm của CNML lại trở thành ngọn cờ và định hướng cho quốc gia, trên thực tế dẫn tới đặt lợi ích đảng lên trên lợi ích tổ quốc. Cho nên ngoại giao CHXHCNVN luôn luôn trong trạng thái hoặc phải “leo dây”, hoặc phải theo ai / chống ai. Cho đến hôm nay ngoại giao CHXHCNVN chưa đặt ra cho ḿnh mục tiêu chiến lược: Giành cho tổ quốc Việt Nam chúng ta chỗ đứng nào trong thế giới hiện tại. V́ không có khả năng đặt ra được mục tiêu chiến lược của quốc gia như vậy, ngoại giao CHXHCNVN không dựa vào nhân dân[8], không nuôi dưỡng sức mạnh của dân để phát huy truyền thống quốc gia, thậm chí chế độ toàn trị hôm nay đối nghịch và đang đánh mất dân. Một nền ngoại giao như đang có không thể đảm đương nhiệm vụ quốc gia nó phải làm. Toàn bộ thành tích ngoại giao đạt được 43 năm độc lập thống nhất vẫn chỉ là bảo vệ quốc gia trong sự tồn tại của chế độ toàn trị. So với Trung Quốc, có thể nói: ở nước ta thực chất hay cốt lơi đó là ngoại giao đảng giữ đất nước trong “định hướng XHCN” và trong chế độ toàn trị, chứ không phải là nền ngoại giao v́ một quốc gia Việt Nam phải giành được chỗ đứng phải có trong thế giới của cục diện quốc tế mới hôm nay! Nguy hiểm hơn nữa, h́nh như cho đến hôm nay ư thức hệ đă khiến cho ĐCSVN chưa một lần nhận ra đế chế Trung Hoa đă ra khỏi giấc ngủ 100 năm từ năm 1949, thậm chí c̣n tự nguyện lựa chọn con đường Thành Đô để dựa dẫm, lầm lẫn coi đế chế đă thức dậy này như một đồng minh ư thức hệ, và 43 năm độc lập thống nhất vừa qua đă đi trên một con đường sai lầm: Không nhằm vào mục đích chiến lược tối thượng của quốc gia là phải trở thành một nước phát triển, cùng đi với cả thế giới, để có thể chung sống ḥa b́nh, thực hiện được hữu nghị thật, hợp tác thật với Trung Quốc. Việt Nam không phải là Trung Quốc trước hết v́ lẽ này! Tuy đă bỏ phí mất 43 năm độc lập thống nhất đầu tiên, song bằng mọi giá Việt Nam từ nay trở đi phải t́m đường thực hiện mục tiêu chiến lược tối thượng của quốc gia vừa nói trên, không bao giờ là quá muộn! Từ thế hệ chúng ta hôm nay trở đi, cả nước cha truyền con nối, nguyện đời đời phải trung thành thực hiện mục tiêu chiến lược tối thượng này của quốc gia!

Tóm lại, ngoại giao CHXHCNVN là một nền ngoại giao mang bóng dáng tiểu nhược quốc (một quốc gia chưa trưởng thành, có hơi hướng phong kiến), bởi v́ nền ngoại giao này được dẫn dắt và chi phối bởi một nền nội trị của “tư tưởng nhiệm kỳ, nền kinh tế GDP tỉnh, quốc doanh giữ vai tṛ chủ đạo, đất đai sở hữu toàn dân”. Đó là một nền ngoại giao mang nặng những nét “dựa” và “theo”, mang tư duy của đảng cai trị nhiều hơn là đ̣i hỏi của quốc gia. Về mặt nhiều nền ngoại giao CHXHCNVN chưa ra khỏi được cái bóng Trung Quốc từ ngàn xưa, chưa xác định rơ được chính ḿnh (identity của chính quốc gia ḿnh) trong thế giới hôm nay.  

Thực trạng này một phần do hệ quả của đất nước bị đô hộ thời thực dân Pháp. Song nguyên nhân nghiêm trọng là:

(a)          ĐCSVN hôm nay với mọi yếu kém của ḿnh đă tự đồng nghĩa ḿnh với quốc gia, nên không thể giác ngộ thấu đáo lợi ích quốc gia, và

(b)         về nhiều mặt trên thực tế đảng coi quốc gia là của ḿnh, cho ḿnh có độc quyền yêu nước; trong chế độ toàn trị, độc quyền yêu nước trở thành chiếm hữu đất nước.

Thực chất là tổ quốc hiện nay đang bị chiếm hữu – nó không phải do dân tộc làm chủ, khác chăng lần này là do nội bang chiếm hữu. Trong khi đó, khác hẳn với ĐCSVN thời Cách Mạng Tháng Tám và 4 cuộc kháng chiến, ĐCSVN hôm nay không phải là lực lượng tinh hoa của đất nước. Trong khi đó ĐCSTQ lại là hiện thân hôm nay của đế chế Trung Hoa. Như vậy, tính chất, nội dung và chất lượng đại diện quốc gia của 2 đảng này khác nhau một trời một vực! Nói cho đến cùng của sự vật theo tinh thần này: Ngoại giao Việt Nam 43 năm độc lập thống nhất đầu tiên là ngoại giao của một Việt Nam bị đảng chiếm hữu.

V́ vậy, nh́n chung, ngoại giao của CHXHCNVN 43 năm qua về cơ bản là một nền ngoại giao hướng trong (inwards orientation) để cố thủ, nhằm chủ yếu đáp ứng những yêu cầu sống sót và tồn tại (survival) của quốc gia trong chế độ toàn trị của ĐCSVN. Ngoại giao CHXHCNVN chưa chuyển sang được nền ngoại giao hướng ra bên ngoài (outwards orientation) mà thế giới hôm nay đ̣i hỏi Việt Nam phải có, để dẫn dắt và phục vụ quốc gia trong quá tŕnh phát triển và giành lấy vị thế phải có tại một vị trí địa đầu trong khu vực Đông Nam Á – nhất là từ vài thập kỷ nay khu vực CÁ-TBD đă trở thành trung tâm phát triển năng động nhất thế giới.

Cứ nh́n xem cách lănh đạo Trung Quốc lựa chọn và xây dựng chiến lược quốc gia như thế nào, phục vụ đế chế Trung Hoa như thế nào, sẽ thấy rơ những yếu kém của nước ta, sẽ thấy được ĐCSVN hôm nay đă làm được ǵ và đă không làm được ǵ cho đất nước. So sánh nước ta với cả thế giới, sẽ càng rơ hơn. Thực tế này chứng minh: Chỗ yếu kém cơ bản của ĐCSVN hôm nay là  không giác ngộ đúng tầm lợi ích và chủ quyền quốc gia trong một thế giới ngày càng sôi động và quyết liệt, thậm chí đang gia tăng xu thế ngày càng tha hóa theo hướng đối kháng với lợi ích và chủ quyền quốc gia – một hiện tượng phổ biến trong lịch sử đất nước của các triều đại khi đi vào thời kỳ suy mạt (ví dụ: Xin hăy thử so sánh nước ta hôm nay với nước ta thời Lê mạt được mô tả trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí).

V́ những lẽ nêu trên, ngoại giao CHXHCNVN chưa phải là một nền ngoại giao quốc gia Việt Nam, càng chưa phải là một nền ngoại giao của một quốc gia Việt Nam trưởng thành trong thế giới hôm nay. Nó thực chất là ngoại giao của đảng nắm quyền cai trị đất nước – một dẫn chứng nghiêm trọng của Điều 4 trong Hiến pháp trên phương diện đối ngoại – hội nghị Thành Đô và vụ Trịnh Xuân Thanh là 2 ví dụ tiêu biểu. V́ vậy, ĐCSVN hôm nay cần phải nh́n thẳng vào sự thật này, để tự quyết định vận mệnh của chính ḿnh: Cam chịu thối nát tiếp trong tha hóa chiếm hữu đất nước, hay tự lột xác dựa vào dân để phấn đấu trở thành lực lượng tinh hoa của dân tộc?

Những thiếu sót nói trên chủ yếu thuộc về trách nhiệm của đội ngũ lănh đạo đảng và nhà nước và toàn bộ đội ngũ trí thức của đất nước.

Nh́n vào những diễn biến trên bán đảo Triều Tiên bắt đầu từ quư II-2018, đến mức bàn cờ lớn đang chơi tại đây đă bị các chủ thể tại chỗ là 2 miền trên bán đảo Triều Tiên tự tay xóa đi, để chính họ mở ra cho họ một cuộc chơi mới, lôi kéo các “ông lớn” phải tham gia cuộc chơi của họ và do họ bày ra. Cả thế giới đang chứng kiến một thực tế khách quan mới tại đây đang dần dần lộ diện! Sự việc c̣n đang diễn tiến và để ngỏ mọi khả năng từ triển vọng nhất đến xấu nhất. Dù thế nào, sự kiện bán đảo Triều Tiên sẽ tác động mạnh mẽ đến Đông Nam Á và Biển Đông – c̣n  hơn cả dứt dây động rừng! Đại thể như: Nếu Mỹ đấm Trung Quốc vào vai trái, Trung Quốc sẽ trả miếng lại Mỹ vào vai phải – nhiều khả năng là ở Biển Đông! Lại cảnh trâu ḅ húc nhau ruồi muỗi chết hay sao? Biển Đông hiện nay đang nóng lên từng ngày![9] Thực tế mới này thôi thúc Việt Nam phải sớm đứng lên, tự tay mở ra cho ḿnh con đường đi vào một nền ngoại giao quốc gia hướng ra bên ngoài!

    Tôi đứng ngồi không yên với câu hỏi:

-         Chẳng lẽ thân phận nước ta cứ cam tâm măi măi cảnh ruồi muỗi chết như thế này?

Trả lời câu hỏi này trong cục diện quốc tế mới hôm nay, đất nước phải thông qua cải cách chính trị đổi đời để có một nền ngoại giao của một quốc gia trưởng thành, quyết giành lấy vị thế quốc tế xứng đáng của một quốc gia quan trọng tại vị trí địa đầu của khu vực Đông Nam Á.

Trả lời câu hỏi này trước hết là nhiệm vụ của ĐCSVN đang nắm quyền đấy, đồng thời là nền ngoại giao Việt Nam!

Trả lời câu hỏi này cũng là nhiệm vụ của toàn dân cả nước ta, trước hết là của trí thức cả nước!



[1] Một kỷ niệm: Một hai năm sau tôi về học tại trường trung học Yên Bái cho gần nhà hơn. Một hôm nhà trường cho bọn học sinh lớn nhất chúng tôi trong trường biết: Có ông Trần Văn Giàu về Tuyên Quang nói chuyện kháng chiến và triết học, ai muốn đi nghe nhà trường sẽ giới thiệu. Thế là đám bọn lớn chúng tôi rủ nhau đem cơm nắm muối vừng đi ăn đường, màn chiếu và ba-lô để ngủ lại, cuốc bộ một ngày đi, rồi một ngày về mỗi lượt hơn 40 km, có một thày giáo đi cùng, chỉ để nghe một buổi tối nói chuyện như thế! Tôi có cảm tưởng sức trai thời đó làm ǵ cũng được!

[2] Tôi đưa chi tiết này vào trong tiểu thuyết “Ḍng đời”, xuất bản năm 2006, và tiểu thuyết “”, xuất bản 2015..

[3] Hàng ngày sống với những người này, tôi cứ nhứ đến chuyện ngụ ngôn của Nga về con gấu: Nó thấy chủ đang ngủ bị ong đốt trên mặt, nó lấy ḥn đá to đập con ong nát bét! Cả muỗi và chủ nó cùng chết!...

[4] Thú thực, nhiều khi tôi nh́n thân phận của Faust trong tác phẩm cùng tên của Goethe, để tự an ủi ḿnh: Hiểu biết phải giành lấy mới có được, dám sống th́ phải trả giá!

[5] Sau khi măn nhiễm đại sứ về nước, trong báo cáo của tôi gửi Bô Chính trị ngày 09-051994, tôi chính thức đề nghị xây Camranh thành một khu cảng quốc tê, đi liền với khu công nghiệp, vừa phục vụ quốc pḥng, vừa phục vụ kinh tế, chú ư thu hút đầu tư của Mỹ và các nước phương Tây – theo mô h́nh đă có một số nơi trên thế giới (trang 15).

[6] Xem Trần Quang Cơ “Hồi ức và suy ngẫm”, https://lehonghiep.files.wordpress.com/2015/06/hoi-ky-tran-quang-co.pdf

[7] Tôi đă viết một quyển sách về đề tài này, một nhà xuất bản đă nhận in, sau đó lại từ chối. Tôi giữ bản thào làm kỷ niệm… Có lẽ tôi sẽ lưu lại trên mạng.

[8] Có thể xem việc đàm phán biên giới Việt – Trung là một trong rất nhiều ví dụ điển h́nh ngoại giao CHXHCNVN không cần dân, không lấy dân làm hậu phương và làm hậu thuẫn trong đấu tranh giải quyết vấn đề chiến lược này! Cũng có thể xem đây là một dẫn chứng ngoại giao CHXHCNVN không bước được ra ngoài cái bóng của Trung Quôc,

[9] Tham khảo:  Trong cuốn “The risk of America’s New Nationalism – World War Trump” NY – 2018, tác giả Hall Gardner cho rằng vấn đề Bắc Triều Tiên – Trung Quốc gây ra nguy cơ chiến tranh lớn trên Thái B́nh Dương / Biển Đông, Nga tuy có quan hệ nhất định với Việt Nam song có những biểu hiện cho thấy sẽ không bảo vệ Việt Nam trong t́nh h́nh chiến tranh xảy ra (trang 179); t́nh h́nh càng trở nên phức tạp do Trung Quốc và Nga đang cố dựng lên một liên minh nhằm vào chống Mỹ và các đồng minh của Mỹ ( to push the China-Russia marriage of convenience to a proto-alliance in opposition to the US and its allies.)