Lời tựa

 

Phải nói ngay rằng Gửi người yêu và tin của Từ Huy là cuốn tiểu thuyết thư tín — đúng nghĩa — đầu tiên trong văn chương Việt Nam đương đại, và đây cũng là tác phẩm đầu tiên chạm đến tận căn nguyên của sự tham nhũng và băng hoại đạo đức của nền giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay.

 

Thể loại tiểu thuyết thư tín khá phổ biến trong văn chương Âu-Mỹ, nhưng trong văn chương Việt Nam, từ trước đến nay, thư tín, như một thủ pháp nghệ thuật và một h́nh thức tự sự, chỉ được sử dụng trong một số truyện ngắn và tuỳ bút,(*) chứ chưa bao giờ được sử dụng để tạo cấu trúc toàn bộ từ đầu đến cuối một cuốn tiểu thuyết. Năm 1960, Toàn Phong có xuất bản cuốn Đời phi công, gồm 14 bức thư, nhưng đó chỉ là những bức thư của tác giả gửi cho một người nữ tên Phượng, mà không hề có một bức thư nào từ người nữ ấy gửi lại, v́ thế cuốn Đời phi công giống như một cuốn sách để tác giả bày tỏ tâm sự đơn phương, hơn là một cuốn tiểu thuyết thư tín.

 

Gửi người yêu và tin của Từ Huy là một cuốn tiểu thuyết thư tín gồm 16 bức thư, trong đó có 12 bức của một giáo sư đại học ở Việt Nam, 3 bức của một phụ nữ ngoại quốc, và 1 bức của người đàn ông đă đính hôn với cô ấy.

 

H́nh thức đối đáp qua thư tín khó tạo nên sự hấp dẫn cho một cuốn tiểu thuyết so với h́nh thức đối đáp trực tiếp bằng lời nói giữa các nhân vật nhưng, ngược lại, nó có khả năng đào sâu vào nội tâm của từng nhân vật. Có lẽ đó chính là chủ đích của Từ Huy khi viết cuốn tiểu thuyết này, chị không cố ư tạo ra những t́nh tiết hấp dẫn, mà nhắm vào việc khai thác chiều sâu nội tâm: mỗi bức thư là một cuộc giăi bày tâm sự, qua đó, người viết thư diễn tả tất cả những ư nghĩ thầm kín của ḿnh.

 

Đọc 16 bức thư trong Gửi người yêu và tin của Từ Huy, tôi thấy ḿnh rơi vào một thế giới khủng khiếp — thế giới nội tâm của những con người thành đạt trong một guồng máy tận cùng thối nát của sự tham nhũng và băng hoại đạo đức của nền giáo dục đại học ở Việt Nam hiện thời.

 

Từ những năm 80 đến nay, ở Việt Nam đă có không ít tiểu thuyết, truyện ngắn và kịch bản viết về đề tài chống tham nhũng. Ở Trung Quốc — “nước xă hội chủ nghĩa anh em” của Việt Nam — đề tài này đă được các tiểu thuyết gia khai thác nhiều đến độ trở thành một thể loại gọi là “phản tham tiểu thuyết” và thu hút rất đông đảo độc giả. Tuy nhiên, ở cả hai nước xă hội chủ nghĩa này, số lượng tiểu thuyết viết về sự tham nhũng và băng hoại đạo đức của nền giáo dục nói chung, và nền giáo dục đại học nói riêng, th́ c̣n khá ít, và không chỉ khá ít về số lượng, mà c̣n khá nông cạn về nội dung.

 

Thoạt đầu, những cuốn tiểu thuyết “chống tham nhũng” đă xuất hiện dưới h́nh thức giống như tiểu thuyết trinh thám, xoay quanh những vụ án tham nhũng, và diễn biến câu chuyện được tŕnh bày theo một công thức rất an toàn cho tác giả, trong đó những nhân vật phản diện tức là những cán bộ tham nhũng (thường là những kẻ ở hàng lănh đạo trung cấp trở xuống) bị theo dơi, rồi bị phát hiện và bị đem ra trước vành móng ngựa. C̣n giới cán bộ lănh đạo cao cấp th́ luôn luôn được mô tả như những người ngay thẳng, đại diện cho lẽ phải. Những cuốn tiểu thuyết “chống tham nhũng” theo công thức ấy được cho phép xuất bản, v́ chúng truyền bá cái thông điệp rằng trong một đất nước xă hội chủ nghĩa (như Việt Nam và Trung Quốc) th́ công lư sẽ toàn thắng dưới sự lănh đạo của Đảng. Trong những năm đầu tiên ấy, đa số độc giả ở Việt Nam và Trung Quốc cảm thấy hả hê khi đọc những cuốn tiểu thuyết “chống tham nhũng” v́ trước kia họ chưa từng thấy h́nh ảnh những cán bộ tham nhũng bị đem ra phê phán và kết tội trên những trang sách.

 

Thế nhưng, chẳng mấy chốc th́ sự hả hê của độc giả đối với những trang tiểu thuyết ấy tan dần đi v́ thực trạng xă hội bày ra trước mắt họ một nạn tham nhũng càng ngày càng trở nên trầm trọng trong mọi lĩnh vực và ở mọi cấp chính quyền. Một số nhà văn bắt đầu cố gắng bước ra khỏi cái công thức an toàn trước kia để đặt ra những vấn đề về cơ chế chính trị và hệ thống quan chức. Tuy nhiên, nỗ lực của họ bị hạn chế bởi mạng lưới kiểm duyệt. Họ chỉ có thể mổ xẻ một số vấn đề trong một phạm vi và một mức độ nào đó không đụng đến bản chất của chế độ và không làm tổn hại đến uy tín của Đảng.

 

Một điều đáng lưu ư là mặc dù nạn tham nhũng từ lâu đă thâm nhập vào lĩnh vực giáo dục và đă gây nên vô số hậu quả vô cùng tệ hại, số lượng tiểu thuyết viết về đề tài này vẫn c̣n khá ít. Ở Việt Nam, từ những năm 80 cho đến nay chỉ có vài cuốn, và những cuốn ấy vẫn c̣n tự giới hạn ở việc mô tả và phê phán những hành vi “tiêu cực” của một số cán bộ giáo dục, chứ không hề chạm đến căn nguyên của sự tham nhũng và băng hoại đạo đức của nền giáo dục. Để có thể chạm đến căn nguyên của vấn đề này một cách sâu sắc, có lẽ tác giả không chỉ là một nhà văn có tài, mà c̣n phải là một người trực tiếp làm việc trong lĩnh vực giáo dục, có lương tâm chức nghiệp, có khát vọng mănh liệt trong việc cải cách giáo dục, có óc quan sát và phân tích hết sức tinh tế, có khả năng đưa ra những nhận định sắc bén, và có ḷng dũng cảm.

 

Cuốn tiểu thuyết Gửi người yêu và tin chứng tỏ rằng tác giả có tất cả những điều kiện và phẩm chất đó.

 

Qua những bức thư trong cuốn sách này, Từ Huy đưa độc giả đi vào nội tâm của một con người để nh́n thấy những nguyên nhân, những tác động và những áp lực nào từ bản thân và ngoại giới đă làm cho một nhà giáo dần dần biến đổi từ lúc c̣n là sinh viên mới ra trường với tâm hồn trong sạch và đẹp đẽ cho đến lúc trở thành kẻ thoả hiệp với một guồng máy phi nhân, rồi biến thành một nhà lănh đạo ích kỷ, tham lam, vô cảm, vô liêm sỉ, vô lương tâm, chỉ biết thăng tiến bằng sự luồn lách, dối trá và quỷ quyệt. Đó là một sự biến đổi ngoài sức tưởng tượng của người yêu của hắn, hay của bất cứ ai sinh ra và lớn lên trong một đất nước khác, nơi cuộc sống có công lư, có tự do và có một nền giáo dục nhân bản.

 

Từ Huy đă viết cuốn tiểu thuyết Gửi người yêu và tin với một ng̣i bút tỉnh táo và sắc bén của một nhà phân tích tâm lư và một nhà phê phán xă hội và, dưới ng̣i bút ấy, nhân vật chính trong tác phẩm — một nhân vật hư cấu nhưng đích thực là điển h́nh của loại người đang làm mục ruỗng xă hội và đạo đức ở Việt Nam hiện nay — tự phơi bày bản chất qua nhiều chặng biến đổi khác nhau từ trang sách đầu tiên cho đến trang sách cuối cùng.

 

Tác giả đă để cho nhân vật ấy biến đổi một lần cuối, từ sau cái chết của cô t́nh nhân ngoại quốc — “người tin và yêu” — của hắn. Trong những bức thư cuối cùng (mà hắn tiếp tục viết và gửi cho nàng, dù nàng đă chết), hắn bắt đầu tự phản tỉnh. Đó là lúc tác giả dừng ng̣i bút phân tích và phê phán của ḿnh lại, và đưa vào trang viết một thoáng hy vọng. Chính tác giả thú nhận đó là “một hy vọng nhuốm màu tuyệt vọng”, nghĩa là tác giả hy vọng rằng những con người như thế vẫn c̣n có thể thay đổi để trở lại với thiện tâm. Đó là một niềm hy vọng vô cùng mong manh, một niềm hy vọng gần như bất khả, xuất phát từ ư thức nhân bản sâu sắc của tác giả. Và chắc hẳn đa số độc giả, những con người đầy thiện tâm, cũng muốn có một chút hy vọng như thế, mặc dù ngay sau chút hy vọng mong manh ấy, tác giả cũng đành phải trao cho nhân vật ấy cái quyền tự xử.

 

Đọc xong Gửi người yêu và tin của Từ Huy, tôi chợt có thêm một thoáng hy vọng nữa, một thoáng hy vọng cũng vô cùng mong manh, rằng tác phẩm này sẽ có cơ hội được đọc bởi chính những con người mà nó phản ảnh, và biết đâu có một giây phút tự phản tỉnh sẽ xảy ra trong ḷng những con người ấy.

 

Hoàng Ngọc-Tuấn

Sydney, 3/2014

 

 

---------------------------

(*) Trong tiểu luận “Thư của các nhà văn”, Nguyễn Hưng Quốc viết: “Thư, với tư cách một thủ pháp nghệ thuật và một h́nh thức tự sự, cũng đă được sử dụng; không nhiều, nhưng có, từ Nhất Linh, trong truyện ngắn ‘Mười năm qua’ đến Toàn Phong trong cuốn Đời phi công (1960) và một số nhà văn khác, trong đó có Vơ Phiến với những ‘Thư nhà’ (1962), Thư gửi bạn (1976) và Lại thư gửi bạn (1979), v.v...”

www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=5713