“Để biết ḿnh, hăy nh́n vào mắt người khác!”

Bùi Văn Nam Sơn - Nguyễn Thị Từ Huy

 

 

 

 Nguyễn Thị Từ Huy (NTTH): Tiếp tục cuộc tṛ chuyện với nhiều vấn đề triết học sẽ lần lượt được đề cập, ta không thể không đến với những triết gia lớn trong quá khứ. Tác phẩm và tư tưởng của họ có thể mang lại câu trả lời cho những câu hỏi nóng bỏng của chúng ta ngày nay?

Bùi Văn Nam Sơn (BVNS): Chắc hẳn không ai bỏ công nghiên cứu triết học và nỗ lực diễn giải những tác phẩm cổ đại hay hiện đại nếu không tin rằng sẽ t́m được ở đó câu trả lời hay ít ra những gợi ư cho những câu hỏi của chúng ta ngày nay. Chỉ có điều, những câu trả lời không có sẵn, trái lại, chúng ta phải đi đến với họ bằng những câu hỏi của chính ḿnh. Ta sẽ không khỏi kinh ngạc khi thấy không chỉ những tác giả cận và hiện đại mà cả cổ đại cũng c̣n đầy đủ tính thời sự.

NTTH: V́ thế, lần trước chúng ta có nói vài điều về Socrates. Bây giờ, có lẽ cần lùi xa hơn để nhớ lại một câu châm ngôn được xem là linh hồn của tư tưởng Socrates cũng như của nền văn minh phương Tây: "Hăy tự biết ḿnh!" (Gnothi seauton). Các triết gia đă khai phá nhiều con đường dẫn tới nội tâm, cho tới khi Freud xuất hiện. Thế nào là tự biết ḿnh, đặt trong cả lịch sử lâu dài của những diễn giải rất phong phú về mấy từ ngắn ngủi này?

BVNS: “Gnothi seauton” (Hy Lạp: “Hăy tự biết ḿnh!”) - bên cạnh “médén ágan” (Không làm ǵ quá độ!”) -  là lời răn trong tư duy Hy Lạp cổ đại, được khắc trên một chiếc cột ở tiền sảnh đền Appollon ở Delphi vào khoảng giữa thế kỷ 5 tr. CN. Tương truyền là đến từ chính thần Appollon, nhưng, về lịch sử, người nào đă nói ra câu ấy đầu tiên th́ vẫn c̣n đang tranh căi! Người ta t́m thấy câu ấy trong một di văn của Heraklitus: “Mọi người đều có khả năng tự biết ḿnh và suy nghĩ một cách hợp lư”. Nhưng, ngay từ thế kỷ 4 tr. CN, các lời răn ấy được cho là bắt nguồn từ “Thất Hiền”, trước đó rất lâu. Câu ấy có thể của Chilon, Thales hoặc Solon…, tức của những vị trong Thất Hiền.

Yêu cầu “hăy tự-biết ḿnh!” thoạt đầu hướng đến việc nhận ra sự giới hạn và yếu đuối của con người (so với thần linh). Con người ở đây hiểu theo nghĩa giống loài, và lời răn không chỉ muốn nói đến những giới hạn con người không thể vượt qua được, mà c̣n là lời cảnh cáo trước sự kiêu ngạo và tự đánh giá quá cao năng lực của chính ḿnh. Trong rất nhiều văn bản của cổ đại Hy Lạp, ta luôn t́m thấy sự lư giải rằng con người luôn ư thức về sự bất toàn, bất túc và không thể bất tử của ḿnh. Hiểu được lời răn cũng là hiểu được hạnh khiêm hạ. Cách hiểu ấy luôn có mặt trong suốt thời cổ đại Hy Lạp và kéo dài măi đến thời đế chế La Mă và Hy Lạp hóa. Chính trong cách hiểu ấy mà Seneca, triết gia khắc kỷ La Mă, nhấn mạnh sự yếu đuối, dễ tổn thương của con người: không cần đến một trận cuồng phong, chỉ một tai họa nhỏ bé nào đó cũng đủ hủy diệt con người. Truyền thống khắc kỷ về gnothi seauton dẫn đến quan niệm rằng con người phải biết đặt ḿnh vào trong toàn bộ mối quan hệ với tự nhiên. “Tự-biết ḿnh” gắn liền với nỗ lực “sống ḥa điệu với Tự nhiên” (homologounenos tè physei zèn). Nhưng, người đầu tiên thực sự mang lại chất lượng triết học cho gnothi seauton không ai khác hơn là Socrates…

NTTH: Vâng, với Socrates, tự biết ḿnh là tự nhận thức được sự thiếu hiểu biết của ḿnh, tự nhận thức được sự không biết của ḿnh. Ông bị người ta kết tội báng bổ thần thánh. Nhưng thực ra, người ta tử h́nh ông v́ ông đă dám vạch rơ rằng con người không biết ǵ cả, rằng con người chỉ làm ra vẻ hiểu biết mà thôi. V́ thế mà trước ṭa, Socrates tin rằng thần thánh không bỏ rơi ông, cho dù con người không tha thứ cho ông cái tội đă chỉ ra sự ngu dốt của họ, "bởi v́ họ không dám thú nhận sự thật là đă bị bắt quả tang chỉ giả bộ thông thái chứ thực sự không có hiểu biết chi hết", ông nói như vậy trong Tự biện. Và Socrates lặp lại ư này nhiều lần: "không thiếu ǵ những người trên đời này tưởng rằng ḿnh hiểu biết tất cả, mặc dù thật ra chẳng hiểu ǵ bao nhiêu, thậm chí không biết chi hết". Bản thân Socrates tự nhận rằng ḿnh không biết ǵ hết : "Tôi chỉ biết một điều, là tôi không biết ǵ cả" ("Je ne sais qu’une chose, c’est que je ne sais rien" - câu dịch sang tiếng Pháp). Ông cố thuyết phục mọi người đi tới cùng nhận thức đó, ông cho rằng đấy là nhiệm vụ mà thần thánh trao cho ông. Thay v́ khiến mọi người tin rằng họ thông thái, hiểu biết, ông muốn họ tin rằng họ không biết ǵ cả ; v́ ông hiểu rằng đấy là cách khiến họ trở nên thông thái hơn. Nhưng ông đă bị giết chết, bởi có lẽ, đối với những kẻ phán xét ông, tội phá vỡ ảo tưởng về sự hiểu biết của con người bị đặt ngang với tội báng bổ thần thánh. Tại sao việc từ bỏ ảo tưởng về sự hiểu biết của bản thân lại khó khăn đến thế ?

BVNS: Socrates không có văn bản nào để lại. Những ǵ ta biết về Socrates chủ yếu là từ Platon và các triết gia đời sau, tuy nhiên, mức độ khả tín khá cao, theo nghiên cứu của các học giả. Trước hết, “tự - biết ḿnh” hay “tự - tư duy về ḿnh” hầu như đồng nghĩa với triết học. Thế nhưng, công việc triết lư lại diễn ra chủ yếu thông qua đối thoại. Tự -tư duy và đối thoại không loại trừ nhau, có lẽ đó là điểm độc đáo đầu tiên của Socrates. Khi Socrates được lời sấm ngôn của Apollon dặn ḍ phải tự tra hỏi chính ḿnh một cách chính xác hơn, ông không ngồi yên suy nghĩ mà đi đến với những người khác - đến với những người thợ thủ công, thủy thủ và nhà chính trị, để, bằng sự so sánh với họ, mà nhận ra chính ḿnh là ai. Và khi Alkibiades hỏi ông làm thế nào để tự - biết ḿnh, ông trả lời: hăy nh́n vào mắt người khác! V́ thế, đối thoại, tranh biện, gặp gỡ người khác là “con đường vương giả” của triết học. Kể cả đối thoại âm thầm với người khác ngay trong đầu óc ḿnh! Bao nhiêu đại triết gia - Spinoza, Kant, Hegel hay Nietzsche…. - đă có những thành tựu lớn bằng cách ấy. Rồi ngay cả vũ trụ, thế giới, xă hội - khi được nắm bắt trong tư tưởng - cũng có thể được xem như tư tưởng của một “người khác”.

Trở lại vụ án Socrates, nhiều nghiên cứu xác thực về bối cảnh xă hội của Athens cổ đại cho thấy: Socrates đi trước thời đại của ḿnh, nên không tránh khỏi trở thành nạn nhân của nó. Về chính trị, tuy Socrates làm tṛn nghĩa vụ công dân (thực hiện nghĩa vụ quân sự, nhận chức vụ do bốc thăm, không bỏ trốn khi bị kết tội tử h́nh…), nhưng ông không chịu tham gia tích cực vào định chế. Hơn thế, ông thực sự theo đuổi một loại h́nh chính trị khác - mà ông gọi là “chính trị đích thực” - nằm bên ngoài thể chế, xem nhẹ kỹ thuật tu từ, đề cao nghệ thuật đối thoại (tức: phép biện chứng). Điều này gắn liền với niềm xác tín triết học chưa từng có trước đó: hăy xuất phát từ tâm hồn thực sự của cá nhân, sống trọn vẹn ư thức cá nhân như là điều kiện tiên quyết của một nền chính trị mới mẻ. Thế hệ trẻ - tầng lớp ưu tú tương lai của Athens - thấy hứng khởi trước phong cách mới ấy của ông, và, tất nhiên, ông trở thành mối đe dọa cho trật tự hiện tồn.

Socrates không tin vào giá trị tự thân của số đông (qua lá phiếu kết tội ông); cũng không c̣n tin vào mười hai vị thần cố hữu của thế hệ những Homer, Hesiod, v́ quả thật ông đă có một niềm tin khác: tin vào vị “thần Daimonion” trong đáy ḷng ông mà ngày nay ta gọi là “lương tâm”. Từ đó, Socrates vững tin vào “sứ mệnh” thiên phú của ḿnh (có nét tương tự nào đó với Khổng Tử: “Thiên sinh đức ư dư…”), một “sứ mệnh tiên tri” vốn xa lạ với truyền thống Hy Lạp, v́ Athens không phải là Jesusalem!

NTTH: Vụ án Jeremias?

BVNS: Đúng thế! 100 năm trước Socrates, Jeremias cũng bị mang ra ṭa v́ ông đă nói những lời tiên tri về sự bất hạnh sẽ xảy đến cho Jesusalem. Jeremias đă phát biểu trước ṭa không khác Socrates là mấy: "Thượng đế đă thực sự gởi ta đến đây để nói những lời này cho các ngươi". Nhưng, khác với ở Athens, các quan chức và nhân dân Jesusalem lại bảo: người này không đáng chết, v́ đă nói với chúng ta nhân danh Thượng đế, Thiên Chúa của chúng ta!” và nhắc đến tiền lệ là Micha, vào thời vua Hiskija (khoảng năm 700 tr. CN), đă tự do hành nghề… tiên tri! Một thứ chân lư vượt lên trên định chế và nền chính trị hiện hành, dành cho từng người công dân một vị trí độc sáng, đă không thể và không được phép tồn tại trong nền dân chủ Athens thời ấy! Vào thời cổ đại Tây phương, Jesusalem và Athens có thể được xem như hai mô h́nh đối lập tiêu biểu.

Xét ở các phương diện ấy, Socrates đă không bị xử… oan! Ông đón nhận số phận của ḿnh, với tư cách trọn vẹn của một “nhân vật bi kịch” đúng như nhận xét thâm thúy của Hegel (trong “Các bài giảng về lịch sử triết học”, tập I).

NTTH: Hăy thử điểm qua những nhận xét của Hegel…

BVNS: Trước hết, theo Hegel, đó là phương thức làm triết học của Socrates. Điều duy nhất tôn vinh Socrates chính là ở chỗ ông không có ảo tưởng về tri thức nhất thời của riêng ḿnh. Ông luôn tự hỏi: tại sao thế giới không tương ứng với những h́nh dung đẹp đẽ của những Anaxagoras? Tại sao lại có chiến tranh liên miên giữa các thành quốc Hy Lạp? Thời bấy giờ, những đại nghị hội của Athens (12 ngày một lần!) bị thống trị bởi kỹ thuật tu từ; người ta chỉ giỏi thuyết phục nhau, nhưng trong khuôn khổ những sự nhất trí theo truyền thống, trong những quan niệm cố hữu về luân lư, đạo đức công cộng. Trong khi đó, Socrates đ̣i hỏi ngược hẳn lại: “ta phải nghi ngờ tất cả; ta phải từ bỏ mọi tiền-giả định để khôi phục niềm tin từ những ǵ do lư trí mang lại”. Phương cách đối thoại nổi tiếng của Socrates là làm cho những niềm tin có vẻ vững chắc bị vướng vào những mâu thuẫn nội tại. Chẳng hạn, ông hỏi: “công lư là ǵ?”. Dựa vào các ví dụ của người đối thoại, ông cho thấy: quả là bất công khi cướp bóc, dối trá và lừa đảo. Nhưng, trong những hoàn cảnh khác (vd: khi đối phó với giặc ngoại xâm), những việc làm ấy có khi là cần thiết! Do đó, Hegel rất đắc ư khi nhận xét: những khái niệm chung chung - như khái niệm công lư - không thể áp dụng được, trái lại, điều quan trọng là phải luôn tra hỏi những điều kiện cụ thể. Sự phân biệt nổi tiếng của Hegel giữa cái “phổ biến trừu tượng” và cái “phổ biến cụ thể” không phải lúc nào cũng quen thuộc với ta!

Tra hỏi về những tiền - giả định, theo Hegel, Socrates cho thấy “những luật lệ hiện hành được tuân thủ một cách tự động và mù quáng, là không có chân lư”. Chúng phải được “vượt bỏ” bằng lư tính, tức bằng một h́nh thức cao hơn của luân lư/đạo đức (= biện chứng!). Chính điều này gây bất an cho những người đồng hương Hy Lạp của ông! “Cách tra hỏi nh́ nhằng của Socrates quấy nhiễu cuộc sống b́nh lặng của người Hy Lạp. Ông làm lung lay những ǵ tưởng đă là vững chắc”. Aristophanes, trong vở hài kịch “Đám mây”, không chỉ chế nhạo Socrates mà c̣n thẳng tay lên án: “Socrates đáng bị kết án, v́ ông ta đă truyền dạy nghệ thuật không chịu vâng lời”. Hegel nhấn mạnh ngắn gọn: “ông bị kết án là phải!”.

Về mặt thực hành, Socrates kiên quyết không chịu để cho số đông có quyền phán xử “lương tâm” của ḿnh. Ông không sẵn sàng phục tùng phán quyết của định chế, mà chỉ phục tùng tiếng gọi nội tâm: “Socrates sở dĩ bị kết án tử h́nh v́ ông đă không chịu thừa nhận “sự uy nghiêm của nhân dân””. Một vấn đề hệ trọng nảy sinh: ngay cả “nhân dân” và “nền dân chủ” của nó cũng không phải là toàn quyền và toàn năng. Hegel nhấn mạnh: “sự tự do đáng thương là được suy nghĩ theo ư ḿnh mà ai cũng muốn đă không có mặt lúc bấy giờ”. Tính chất bi kịch của Socrates – Hegel kết luận – là ở sự xung đột bất khả ḥa giải giữa hai “lẽ phải”. Mỗi bên đều có “cái lư” của riêng ḿnh, và loại trừ lẫn nhau. Chỉ có sự vượt bỏ cả hai để đi đến một sự thống nhất mới, hiểu cụ thể là thể chế mới, cao hơn - thường là công việc của thế hệ sau! - mới có thể ngăn chặn lập trường phiến diện và cái nh́n cục bộ.

NTTH: Sau Socrates, học tṛ của ông là Platon đă xem tâm hồn như là yếu tố căn bản tạo nên phẩm tính người, v́ thế mà việc nhận biết bản thân được đồng nhất với việc t́m hiểu về tâm hồn ḿnh (hẳn nhiên về sau, Freud không đồng ư với việc thể xác bị lăng quên như vậy). Và việc tự biết ḿnh không phải chỉ là để phục vụ cho riêng bản thân ḿnh mà c̣n để phụng sự người khác. Điều này có ảnh hưởng đến quan niệm của ông về người lănh đạo chính trị giỏi cũng như về một nền chính trị tốt?

BVNS: Trong triết học Platon, “tự biết ḿnh” bắt đầu có một sự phát triển kiểu khác. Tiếp thu tư tưởng của người Thầy là Socrates rằng con người phải đạt đến chỗ biết về sự không biết của chính ḿnh, Platon nhấn mạnh nhiều hơn về mục đích của nó: nỗ lực vươn tới nhận thức đúng đắn, và, qua đó, trau dồi tính cách. Nỗ lực “tự - biết ḿnh” của Platon là bộ phận của một “kế hoạch” tổng thể về đạo đức để chăm lo cho “linh hồn”, mà sự lành mạnh của nó phụ thuộc vào việc vun bồi “đức hạnh” (arete). Thế là bắt đầu có một biến đổi sâu sắc về ư nghĩa. Bên cạnh cách hiểu truyền thống về ḷng khiêm hạ, tô đậm những giới hạn không thể vượt qua được của con người, bây giờ có một cách hiểu “lạc quan” hơn nhiều. Yêu cầu “tự - biết ḿnh” trở thành điểm xuất phát cho việc nhận rơ về những tiềm lực và khả thể phát triển mà con người có được, nhờ vào nguồn gốc và bản tính siêu - tự nhiên của linh hồn. Đó là nhận biết rằng bên trong ngục tù tạm thời là thân xác dễ hư hoại này, con người c̣n có một linh hồn bất tử và không thua kém thần linh.

Quan niệm mới mẻ này gây ảnh hưởng rất sâu sắc đến các thế hệ sau. Cicero nhấn mạnh: ư nghĩa của Gnothi seauton không giới hạn ở việc giản thiểu tham vọng mà c̣n mời gọi con người nhận thức và hướng đến “cái Thiện bản nhiên” (bona nostra).

Các nhà Platon-mới (Porphyrios, Macrobius…) c̣n đi xa hơn. Họ quy sự yếu đuối và mong manh cho thân xác, c̣n sự linh thánh cho nỗ lực tinh thần của linh hồn. Họ lư giải câu châm ngôn của đền Delphi theo hướng siêu linh: không đi t́m chân lư giải thoát trong thế giới bên ngoài mà trong sự suy niệm về chính ḿnh, dựa trên nguồn gốc, bản tính và vận mệnh thiêng liêng của linh hồn. Các tác giả Kitô giáo cổ đại như Clemens ở Alexandria và Origenes cho rằng lời răn này bắt nguồn từ Kinh Thánh Cựu Ước và được người Do Thái du nhập vào Hy Lạp. Petrus Abaelandus dùng lời răn này làm nhan đề cho công tŕnh đạo đức học của ḿnh (Ethica seu scito se ipsum/Đạo đức học hay “tự-biết ḿnh”), xem lư tính chủ quan và sự phản tỉnh là cơ sở cho hành vi luân lư.

Đến thời cận đại, lại chính Hegel đă phát triển gnothi seauton thành “ư chí tự do đúng thật” trong quan niệm chung của triết học duy tâm Đức về vai tṛ đặc biệt quan trọng của Tự-ư thức. Theo Hegel, ư chí chỉ tự do, khi nó vừa thực sự là như thế, vừa biết về điều ấy. Ông hoàn toàn đồng ư với Kant và Fichte rằng: chính sự tự do tự giác mới là “nguyên lư của pháp quyền, của luân lư và trật tự đạo đức (xă hội)”. Ông nêu ví dụ: “người nô lệ không biết về bản chất, về tính vô hạn và sự tự do của ḿnh, sở dĩ như thế là v́ không suy tưởng về chính ḿnh”. (Xem: Hegel: Các Nguyên lư của triết học pháp quyền, NXB Tri thức, tr. 206 và tiếp).

Tuy nhiên, Tự - ư thức không chỉ được hiểu theo nghĩa “lư thuyết” đơn thuần (như là: biết về cái biết của chính ḿnh”) mà c̣n cả theo nghĩa “thực hành” theo nghĩa “muốn hành động”. Chính hai mặt này (“biết chính ḿnh” và “muốn chính ḿnh”) tạo nên “động lực tuyệt đối” của Tinh thần tự do.

NTTH: Trở lại với Platon đi…

BVNS: Ồ, xin lỗi đă đi quá xa, nhưng thật ra không… lạc đề! Chính cách hiểu mới nói trên của Platon đă khởi động cả một diễn tŕnh tư tưởng đồ sộ. Tiếc rằng, ta không thể “tóm gọn” tư tưởng Platon, cũng như không thể “nhét cả Paris vào một cái chai”! Cuộc tṛ chuyện đă khá dài, xin dành lại cho lần khác để t́m hiểu hai câu chuyện cốt lơi nhưng có vẻ dị thường và khó hiểu trong triết học của ông: trong nền Cộng Ḥa lư tưởng, “triết gia phải… làm vua?” (do năng lực cao độ về “tự - biết ḿnh”) và nền tảng lư luận của nó: học thuyết về ư niệm.

                         

                                         Bài đă đăng ở VHNA online ngày 13 Tháng 10-2012