Điều kiện để h́nh thành tinh thần khai phóng

   

Bài viết này chia sẻ một vài suy nghĩ về các điều kiện cho sự h́nh thành tinh thần khai phóng, những suy nghĩ này được tŕnh bày ngắn gọn trong khuôn khổ một bài báo ngắn.

 

Một nền giáo dục khai phóng

 

Muốn cho các thành viên trong xă hội có được tinh thần khai phóng th́ điều kiện trực tiếp là phải có một nền giáo dục khai phóng.

Thời gian gần đây khái niệm "giáo dục khai phóng" được sử dụng nhiều. Có lẽ những người đầu tiên dùng nó đă mượn hoặc dịch từ khái niệm của Paulo Freire: "éducation libératrice". Đây là một giả định, bởi muốn khẳng định phải có các khảo cứu cần thiết mà người viết bài này hiện tại chưa thực hiện được.

Khái niệm "éducation libératrice" được Freire tường giải trong cuốn Pédagogie des opprimés (tôi dựa vào bản tiếng Pháp, v́ không có khả năng đọc bản gốc bằng tiếng Bồ Đào Nha). Ở đây tôi chỉ tập trung vào một vài điểm.  Nhan đề cuốn sách có nghĩa là: giáo dục học của những kẻ bị áp bức. Không là loại giáo dục học dành cho những kẻ chấp nhận chịu áp bức, mà là dành cho "những người dấn thân vào cuộc đấu tranh để giải phóng chính họ". Chữ "opprimé" của Freire phải được hiểu theo nghĩa đó, những kẻ bị áp bức có sứ mệnh giải phóng cho chính ḿnh và cho cả những kẻ đi áp bức. Bởi v́, những kẻ áp bức, dù có đủ quyền lực và bạo lực, không thể t́m thấy sức mạnh để giải phóng cho chính họ và giải phóng cho những kẻ bị áp bức. Sức mạnh giải phóng thuộc về những kẻ bị áp bức, và sức mạnh đó đủ để khai phóng cho cả kẻ bị áp bức lẫn kẻ áp bức. Và khai phóng ở đây là khai phóng cho các tiềm năng của con người, khai phóng cho các năng lực tiềm tàng của con người. Quan niệm này dẫn tới sự h́nh thành ư tưởng về một nền giáo dục khai phóng trong đó vai tṛ của các thành phần tham gia quá tŕnh giáo dục thay đổi một cách căn bản: giáo viên không c̣n chỉ đóng vai tṛ duy nhất là nhà giáo dục, học sinh không c̣n chỉ đóng vai tṛ duy nhất là người được giáo dục ; mà trong quá tŕnh giáo dục vai tṛ của hai bên có thể được hoán đổi cho nhau, giáo viên và học sinh cùng giáo dục lẫn nhau. Tinh thần này thể hiện trong mệnh đề nổi tiếng của Freire: "Không ai giáo dục người khác, không ai tự giáo dục chính ḿnh, mọi người cùng giáo dục lẫn nhau, thông qua trung gian của thế giới". Một đường lối giáo dục như vậy không cho phép tồn tại phương pháp truyền thụ - tiếp nhận, nó có phương pháp riêng của nó: đối thoại. Đối thoại chính là phương thức để thực hiện sự giải phóng con người. Hoạt động dạy học trở thành hoạt động đối thoại. Chỉ với đối thoại học sinh mới có thể ngừng là đối tượng để trở thành chủ thể, trở thành trung tâm của quá tŕnh giáo dục. Từ quan điểm này ta sẽ thấy, dù chúng ta có tuyên bố hàng ngh́n lần trên đủ mọi phương tiện truyền thông rằng chúng ta đang thực hiện một nền giáo dục lấy học sinh làm trung tâm, nhưng nếu chúng ta không cho phép học sinh, sinh viên tŕnh bày suy nghĩ riêng của họ, kể cả những suy nghĩ đó có thể đối lập với bài giảng của giáo viên, th́ lúc đó vẫn chưa thể có chuyện học sinh là trung tâm. Khi quá tŕnh giảng dạy c̣n chưa phải là một quá tŕnh đối thoại, và giáo viên chưa phải là người tổ chức đối thoại và chưa trở thành đối tượng đối thoại với học sinh, sinh viên, th́ vẫn chưa thể nói tới giáo dục khai phóng.  Và lúc đó, chúng ta lấy cơ sở nào để hy vọng rằng có tinh thần khai phóng ở giới trẻ ?

Theo tôi, chữ "khai phóng" là chữ rất hay. Tất cả chúng ta nợ người đầu tiên sử dụng khái niệm này để chuyển dịch hay để nghiên cứu. Từ « libérateur/libératrice » trong tiếng Pháp dùng để gọi người giải phóng, khi là tính từ nó dùng để chỉ hành động giải phóng: éducation libératrice có nghĩa là nền giáo dục giải phóng cho con người. Từ « khai phóng » trong tiếng Việt có thể hiểu theo nghĩa rộng hơn. Tôi chiết tự từ "khai phóng" để hiểu từ này như là một kết hợp của hai nghĩa: khai minh và giải phóng. Dĩ nhiên đây chỉ là cách hiểu của cá nhân tôi. (Cũng có thể hiểu yếu tố « khai » là « khai mở », « giải tỏa », và theo nghĩa này th́ nó có nét nghĩa chung với yếu tố « phóng »). Muốn đạt tới việc tự giải phóng cho bản thân ḿnh và giải phóng cho người khác, trước hết con người phải được khai minh. Và khai minh ở đây được hiểu theo nghĩa của Kant: có khả năng sử dụng trí tuệ của ḿnh một cách độc lập. Và muốn có thể độc lập sử dụng trí tuệ của ḿnh th́ phải có hai điều: tri thức và sự dũng cảm. Sau Kant, càng ngày nhân loại càng hiểu rơ vai tṛ của tri thức. John Dewey, nhà giáo dục học nổi tiếng của Mỹ, có trách cứ khiếm khuyết trong chương tŕnh lịch sử phổ thông (dĩ nhiên, nhận xét của ông nhằm vào sách giáo khoa thời đại ông) : « Trong lịch sử phổ thông có lẽ lịch sử tri thức là ngành lịch sử bị bỏ quên nhiều nhất. Chúng ta chỉ mới bắt đầu hiểu ra rằng các anh hùng vĩ đại đem lại sự tiến bộ cho số phận của nhân loại KHÔNG PHẢI LÀ (tôi nhấn mạnh – NTTH) các chính trị gia, các vị tướng, các nhà ngoại giao, MÀ HỌ LÀ (tôi nhấn mạnh –NTTH)  các nhà phát minh và sáng chế khoa học, những người đă đặt vào tay con người những phương tiện của một kinh nghiệm đang phát triển và được kiểm soát, và các nghệ sĩ và thi nhân, những người đă ngợi ca những cuộc tranh đấu, những chiến thắng, và thất bại của nhân loại bằng thứ ngôn ngữ nào đó, dù là ngôn ngữ h́nh ảnh, tạo h́nh hoặc chữ viết, khiến tất cả những người khác đều có thể cùng sử dụng được ư nghĩa của chúng »[1] Một trong những vai tṛ của tri thức, mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây, đó là nó tạo điều kiện cho sự h́nh thành tinh thần khai phóng. Và giáo dục khai phóng không chỉ làm nhiệm vụ truyền đạt tri thức, mà, như trên đă nói, nó c̣n có sứ mệnh chuẩn bị cho học sinh khả năng tạo ra tri thức.

 

Một nền chính trị khai phóng

 

Muốn có được một nền giáo dục khai phóng th́ điều kiện trực tiếp là phải có một nền chính trị khai phóng.

Dĩ nhiên ở đây tôi không có một khái niệm nào (chẳng hạn như « politique libératrice ») để dựa vào. Bằng cụm từ « nền chính trị khai phóng » này tôi muốn nói tới một h́nh thức chính trị, một h́nh thức tổ chức, điều hành xă hội cho phép các cá nhân giải phóng và phát triển các năng lực của họ, tôi muốn nói tới một nền chính trị không ḱm hăm con người và không ḱm hăm sự phát triển của xă hội. Trong tất cả các h́nh thái chính trị mà nhân loại đă biết cho tới hiện nay, ta thấy một nền chính trị dân chủ và tiến bộ có khả năng đảm bảo sự khai phóng cho con người trên diện rộng, tức là sự khai phóng ở cấp độ cả cộng đồng. Tôi không phải là nhà tiên tri, nên không biết trong tương lai liệu loài người có thể đạt tới h́nh thái nào khác tối ưu hơn h́nh thái dân chủ để điều hành xă hội một cách có hiệu quả và đảm bảo tính nhân bản, đảm bảo cho tự do của con người. Tôi dẫn ra đây nhận định của John Dewey : « Một xă hội tiến bộ bao giờ cũng trân trọng những khác biệt cá nhân bởi nó t́m thấy ở đó phương tiện cho sự tăng trưởng của chính nó. V́ thế, một xă hội dân chủ, phù hợp với lư tưởng của nó, bắt buộc phải cho phép tự do trí tuệ và sự phát huy các năng khiếu và hứng thú đa dạng tồn tại trong các biện pháp giáo dục. »[2]

Như vậy, tự do trí tuệ và tự do phát triển các năng lực cá nhân là điều kiện cho sự tăng trưởng của toàn xă hội. Tự do trí tuệ là điều kiện cho sự tiếp thu và sáng tạo tri thức ; tiếp thu và sáng tạo tri thức chính là hoạt động khai phóng. Nếu chúng ta không hiểu được điều này, không biến sự hiểu biết này thành các chính sách, các chương tŕnh hành động cụ thể, th́ khó mà có thể nói đến sự tăng trưởng hay sự phát triển của xă hội. Nếu không có một nền chính trị cho phép tồn tại và phát triển nền giáo dục khai phóng, cho phép tự do trí tuệ, tự do chiếm lĩnh và sáng tạo tri thức, th́ các điều kiện cho sự phát triển bền vững sẽ không h́nh thành được. V́ các điều kiện đó h́nh thành trên nguồn lực con người. Một nền chính trị áp  chế sẽ thủ tiêu các năng lực, các tiềm năng sáng tạo của con người.  Đó là căn nguyên sâu xa nhất của mọi sự tŕ trệ, lạc hậu, kém phát triển, yêú kém, lệ thuộc.

Trong một nền chính trị áp chế, khi nhà trường trở thành công cụ tuyên truyền cho các đường lối mang tính độc đoán, th́ dĩ nhiên phương thức đối thoại ít có cơ may được sử dụng, hoặc đối thoại chỉ mang tính h́nh thức, v́ rốt cuộc các trao đổi, nếu có, cũng chỉ dẫn tới việc sinh viên buộc phải chấp nhận các kết luận mang tính áp đặt của giáo viên. Một nền giáo dục mang tính áp đặt, hệ quả của một đường lối chính trị áp đặt, khó mà có thể phát triển tư duy cho học sinh, cùng lắm chỉ có thể giúp phát triển các năng lực nhớ trong năo bộ của học sinh. Trong lúc đó, từ lâu, từ thế kỷ XIX, với John Dewey, học đă không c̣n là học thuộc ḷng, không c̣n là tích lũy kiến thức, mà « học tức là học tư duy ». Mục đích của giáo dục là h́nh thành các năng lực tư duy. Mục đích đó chỉ đạt được khi đối tượng của tư duy là thực tại, là những ǵ gắn với đời sống của người tư duy. John Dewey viết : « Nếu tư duy chẳng liên quan ǵ đến điều kiện có thực và nếu nó không xuất hiện một cách hợp lo-gich từ những điều kiện này để đi tới sự suy tưởng về mục đích phải đạt được, khi ấy con người sẽ không bao giờ phát minh, hoặc không bao giờ lên kế hoạch, hoặc không bao giờ biết cách nào để thoát khỏi bất kỳ sự rắc rối hay khó khăn nào. Như chúng ta đă lưu ư, nhờ những yếu tố cố hữu lẫn sức ép của hoàn cảnh mà tư duy có những đặc tính lo-gich hoặc đặc tính của tư duy đích thực »[3]

Như vậy, rơ ràng đặc tính của tư duy đích thực chỉ h́nh thành khi tư duy cọ xát với các vấn đề của thực tại, mà John Dewey gọi là « điều kiện có thực ». Nếu một nền chính trị, thông qua trường học, không cho phép học sinh sinh viên đối chiếu kiến thức sách vở với thực tế của họ, không cho phép  họ dùng các kiến thức sách vở để suy nghĩ về các vấn đề có thực của đời sống, th́ học sinh sinh viên sẽ không thể phát triển tư duy. Hệ quả là dù có trải qua bao nhiêu năm trên ghế nhà trường đi nữa, dù có các bằng cấp cao đến mấy đi nữa, th́ những con người bị đào tạo bởi một nền giáo dục áp chế, trong một nền chính trị áp chế, sẽ không thể có phát minh, như Dewey nhận xét, sẽ không có khả năng giải quyết các khó khăn, không có khả năng giải quyết các vấn đề do thực tại đặt ra. Chúng ta có thể kiểm chứng kết luận này, mà John Dewey đă nêu ra cách đây cả thế kỷ, bằng hiện thực của chúng ta ngày hôm nay, cái hiện thực về sự lúng túng của toàn bộ cộng đồng chúng ta trong việc giải quyết các vấn nạn của xă hội. Sự lúng túng này là dấu hiệu bộc lộ sự yếu kém chung của chúng ta, là dấu hiệu chứng tỏ các năng lực người của chúng ta bị cạn kiệt, chứng tỏ năng lực tư duy của chúng ta suy yếu. Chúng ta rất đông về dân số, nhưng so với một cộng đồng ít ỏi như Singapour, chúng ta quả thật là kém họ trên rất nhiều phương diện. Các năng lực tiềm tàng của chúng ta không thua kém họ, tôi tin là như vậy. Nhưng các năng lực đó đă không được khai phóng để tạo thành sức mạnh. Chúng ta nên làm cái thao tác kiểm chứng này để hiểu tại sao cần một nền giáo dục khai phóng và một nền chính trị dân chủ, không phải cho ai khác, mà cho chính mỗi chúng ta, cho con cháu chúng ta và cho tương lai của cả xứ sở này. Chúng ta cần phải nh́n vào tương lai để điều chỉnh những cách vận hành của hiện tại, bởi nếu chúng ta không điều chỉnh hiện tại này th́ có nguy cơ sẽ đánh mất tương lai. Tôi dẫn lại ở đây ư kiến của Dewey : « Con người không dùng hiện tại để kiểm soát tương lai. Con người dùng sự nh́n thấy trước tương lai để điều chỉnh và mở rộng hoạt động hiện tại. Sử dụng sự ham muốn, sự suy nghĩ và lựa chọn theo cách này, tự do được hiện thực hóa.»[4]

 

Trên đây là các điều kiện (dĩ nhiên chưa đầy đủ), theo tôi, để h́nh thành tinh thần khai phóng cho các thế hệ, trên phạm vi rộng. Thiếu các điều kiện đó th́ hậu quả là cộng đồng sẽ không được khai phóng. Tuy nhiên, đối với các cá nhân th́ không hẳn. Trong một môi trường không có cả giáo dục khai phóng lẫn chính trị khai phóng ta thấy vẫn có các cá nhân được khai phóng. Nhưng chúng tôi sẽ không đề cập đến vấn đề này trong phạm vi bài viết này, ngoại trừ một điều : môi trường càng thiếu vắng các điều kiện cho sự khai phóng cộng đồng, th́ lại càng cần có các cá nhân có tinh thần khai phóng.

 

Sài G̣n, 25/12/2012

Nguyễn Thị Từ Huy

 

Bài đă đăng trên tạp chí Tia Sáng dưới nhan đề « Tinh thần khai phóng »

 



[1] John Dewey, Dân chủ và giáo dục, Phạm Anh Tuấn dịch, NXB Tri Thức, 2008, tr. 257.

[2] Dân chủ và giáo dục, sđd, tr. 361.

[3] John Dewey- Về giáo dục, Phạm Anh Tuấn dịch, NXB Trẻ & Dtbooks, 2012, tr. 343.

[4] John Dewey- Về giáo dục, Phạm Anh Tuấn dịch, NXB Trẻ & Dtbooks, 2012, tr. 156