ParisAmNhacVaChopin-Nikonian

Paris, âm nhạc và Chopin

Posted on 13/03/2009 by Dr. Nikonian

 

“Nhạc cổ điển của “tụi hắn” làm hoa cỏ đơm bông kết trái, trẻ nhỏ thêm thông minh, cây cối đâm chồi nảy lộc. Nhạc chi mà lạ lùng rứa hè?”[1]

Trong kư ức tuổi thơ mịt mù của tôi, chẳng thể nào quên được những bài học âm nhạc đầu đời mà thầy tôi, một người có tâm hồn trong sạch như nước suối đă truyền thụ. Thứ âm nhạc của những bậc thầy cổ điển như Bach, Mozart, Mendelssohn, Scarlatti,… mà thầy tôi đă gieo vào ḷng trẻ thơ thuở đó, là những âm thanh thuần khiết, êm đềm nhất đă nuôi dưỡng trong tôi t́nh yêu âm nhạc và ḷng ngưỡng mộ với ḥa âm êm ái, tiết điệu du dương, giai điệu nhịp nhàng, niêm luật chặt chẽ! Đó là những ǵ mà đầu óc non nớt của tôi biết về âm nhạc trong những tháng ngày xa xưa đó!

Cho đến một ngày…

Ngày đó, trường Y có một thói quen rất hay ho, chẳng biết giờ có c̣n hay không? Là mở nhạc cổ điển của đài FM trên loa phóng thanh trước giờ vào học. Trưa hè nắng như đổ lửa, rảo bước vào giảng đường, một giai điệu vang lên, lấp lánh, long lanh như ngọc… Cái giai điệu lạ lùng, lúc khoan lúc nhặt, tưởng như không có một qui luật nào cả, đă làm tôi sững người lại trong phút chốc, lắng nghe, ngẫm nghĩ mà vẫn không tài nào hiểu được cái qui luật của chùm âm thanh tuyệt đẹp đó, như đă từng được thầy tôi giảng giải về các niêm luật ḥa âm hay tiết điệu.

Cho đến ngày tôi gặp Vũ, gă pianist lăng tử với chiếc Rebel cà tàng, tóc xơa bay trong gió. Vũ đàn cho tôi nghe những giai điệu đó, mặt tái xanh như chàm đổ, nghiêm trang như đang hành lễ, trầm ngâm như hiền triết…Vũ dốc cạn ḿnh trong những Marche Funèbre, Fantaisie Impromtu, Valse L’Adieu, Polonaise, Mazurka…Những buổi chiều xưa cũ đó, Vũ đă chỉ cho tôi thấy một thứ âm nhạc khác, vượt lên trên những giai điệu cân đối, êm ái mà tôi đă được dạy dỗ. Một âm nhạc không kém phần chặt chẽ, qui tắc nhưng khoáng đạt và tinh tế vô song!

Âm nhạc của Chopin!

Điều lạ lùng là cho đến giữa thế kỷ 19, Paris mới thật sự tỏa sáng như một thủ đô âm nhạc. Đến lúc ấy, kinh thành ánh sáng mới là nơi hội tụ của nhiều thiên tài âm nhạc. Rossini, Liszt, Wagner, Offenbach, Saint Saens, Fauré, Ravel, Debussy… Trong những cái tên bất tử đó, không thiếu những di dân, mang âm nhạc của họ đến tô điểm cho Paris hoa lệ. Mái đầu xanh của chàng trai Chopin, người con mang hai ḍng máu Ba lan và Pháp, đă tung bay dưới bầu trời Paris thưở đó. Dưới đôi tay tài hoa của người nghệ sĩ, những Nocturne, Polonaise, Berceuse…đă vang lên đầy mê hoặc trong các thính pḥng, đến nỗi hậu thế phải tôn vinh Chopin là người đă “đội vương miện cho cây piano” khệnh khạng. Cây đàn to lớn dềnh dàng, nặng hàng trăm kư, với 88 phím đen trắng đan xen, với lực căng dây lên đến 52 tấn! Một nhạc cụ mà khi chạm tay lên phím đàn, phải truyền dẫn qua 25 cơ phận mới nghe thấy âm thanh. Làm sao một nhạc cụ to lớn, dềnh dàng như vậy có thể hát lên những cung bậc của t́nh cảm con người một cách tinh tế và đầy thấu cảm đến như vậy? Nếu không có Chopin, người được Lizst[2] xưng tụng là “nhà thơ của piano”!

Phần đóng góp của Chopin cho đàn piano th́ vô cùng lớn lao và quá tầm hiểu biết của tôi. Nhưng trước hết, không thể không kể đến Chopin là cha đẻ của thể loại Nocturne (Dạ khúc hay nhạc đêm). Thật ra, John Field, một nhạc sĩ người Ireland đă khai sinh thể loại này từ lâu. Nhưngvới Chopin, thể loại này mới thật sự tỏa sáng, cây piano mới thực sự vang lên nhưng giai điệu đêm, huyền ảo và tinh tế lạ thường. Vi diệu đến mức, khi ḷ ṃ t́m được một cuốn sách trên mạng dạy chơi Chopin, tôi đọc được những chỉ dẫn đại để như thế này:

“Hăy chọn một đêm hè, trăng khuyết, ngồi dưới một khóm tử đinh hương, hít thở cái không khí tịch mịch và ngát hương đó, nghe tiếng họa mi thổn thức giữa đêm thâu, tắm ḿnh trong ánh trăng non thượng tuần…, rồi hăy chơi hay lắng nghe bản Nocturne cung Đô thăng thứ bất hủ của Chopin”

Có loại âm nhạc nào đ̣i hỏi sự lắng đọng và thăng hoa của tâm hồn như thế không?

Cuộc sống t́nh cảm đầy sóng gió của người nhạc sĩ tài hoa, mối t́nh băo tố và đầy u uẩn với George Sand, hậu thế đă tốn nhiều giấy mực. George Sand, người phụ nữ lớn hơn Chopin 6 tuổi, viết tiểu thuyết, mặc trang phục đàn ông, hút thuốc bằng tẩu, bạn t́nh của Prosper Mérimée[3], Alfred de Musset[4]. Và có lẽ c̣n là kẻ đồng tính luyến ái, qua mối quan hệ với nữ diễn viên Marie Dorval. Chính người phụ nữ phóng túng này đă chủ động chinh phục Chopin để trải qua 4 năm chung sống ở lâu đài Nohant của ḿnh. Trong những năm tháng đó, một phần lớn âm nhạc của Chopin đă nở hoa, như một kết quả tất yếu của một mối t́nh thơ mộng và đầy sóng gió. Từ chiếc piano hiệu Pleyel của Chopin ở Nohant, đă vang lên những giai điệu u buồn, thơ mộng đến nao ḷng . Cái tố chất melancholic u buồn đầy tao nhă của bậc thiên tài đă ghi dấu lại trên những kỹ thuật mà người chơi piano nào cũng phải lè lưỡi lắc đầu. Những đoạn appregio khoáng đạt, lả lướt bằng tay trái, những khúc prestisimo, cadenza lấp lánh như pha lê và cực kỳ khó bằng tay phải, những luyến láy hay tremolo sang trọng, những thời điểm đạp pedale để giữ độ ngân của âm thanh cực kỳ chính xác và hợp lư. Tất cả những kỹ thuật đó, dễ dàng làm nản ḷng bất cứ người nào ngồi trước piano. Nhưng chưa hẳn thuộc được, chơi chính xác là xong. C̣n phải biết rubato, chơi sao cho ngập ngừng mà không ẻo lả, lúc khoan lúc nhặt nữa. Chính cái tiết điệu tempo rubato, ngập ngừng khẽ khàng đầy vi diệu này làm nên chất thơ tuyệt diệu không ǵ sánh nổi của Chopin. Cũng chính cái giai điệu khi như khựng vấp lại, khi thoảng nhanh như gió, tưởng chừng như phá hỏng những qui luật về tiết điệu, đă làm nên sự khác biệt giữa các danh cầm và với kẻ tập tành. Nhiều khi, thuộc ḷng từng nốt, chơi không sai một giai điệu, nhưng chơi rubato không xuất thần, âm nhạc Chopin bị biến dạng ghê gớm, giật cục, máy móc không thể tưởng được. Ngược lại, với bàn tay thần kỳ và cảm thụ âm nhạc tinh tế của các danh cầm, cái kỹ thuật khó khăn đó lại long lanh và tỏa sáng hết vẻ đẹp vô song của nó. Tôi không tả được, không diễn đạt được vẻ đẹp thanh nhă và cao quí của âm nhạc Chopin, chỉ biết rằng nó tắm gội ḷng ta, nó dẫn ta về một nơi chốn thanh khiết, u sầu nhưng không bi lụy, cuồng nhiệt và đắm say nhưng không buông thả. Nó dẫn ta đến những cung bậc t́nh cảm rất lạ lùng mà tưởng chứng trước giờ ta chưa bao giờ biết tới. Nó “làm tan vỡ ḷng ta” trong những “đêm mờ trăng úa” như trong Nguyệt cầm bất hủ của Cung Tiến.

Trong một buổi chiều hè lang thang, tôi lại nghe văng vẳng một giai điệu Chopin từ một góc phố Paris, vụng về, lỗi nhịp, có lẽ từ một người mới tập, nhưng không hề thấy khó chịu. Ai cũng có quyền yêu và chơi Chopin theo cách của ḿnh phải không? Không phải ngày một ngày hai, có thể diễn đạt được cái đẹp và sự tinh tế vô song đó. Thế nên, Vladimir Askhenazy, danh cầm người Nga, phải bỏ công làm một bộ 25 CD study work cho lũ hậu sinh tập tành nghiên cứu.

Cũng trong một buổi café với anh T., một nhà báo được nhiều người yêu mến và kính trọng, tôi đă được nghe một sự so sánh ngộ nghĩnh đầy thú vị. Trong phút cao hứng, anh T. cho rằng cái sự đi Trung Quốc th́ giống như về quê nội, v́ nó thâm nghiêm, kín cổng cao tường. Sự đi Mỹ th́ giống như qua chơi với thằng bạn nhà giàu, xa hoa, tráng lệ, nhưng vẫn cảm thấy xa lạ, nhàn nhạt. Chỉ khi đi Pháp, mới có cảm giác thân thuộc khi về ngoại, thoải mái và dễ dàng. Lời anh T quả t́nh là chí lư, v́ Paris nơi tôi đến, có một địa chỉ vô cùng thân thuộc!

Thế nên, trong lần quay lại Paris năm rồi, tôi đă hăm hở nhảy metro, ḷ ṃ đến nghĩa trang Père Lachaise, nơi người nhạc sĩ tôi yêu mến yên nghỉ. Như Montparnasse, Père Lachaise là một nghĩa trang rộng mênh mông, rợp bóng cây và lọt thỏm yên ả giữa ḷng Paris náo nhiệt, nơi yên nghỉ của vô số danh nhân. Chỉ cần bước vào, đă thấy ḷng thanh tĩnh lạ lùng giữa trùng điệp mộ chí rêu phong nhưng không kém phần mỹ thuật. Thời gian như dừng lại ở đây, chỉ có tiếng lá rơi, gió xào xạc, thoảng chút tiếng ve sầu mùa hạ. Thời gian cho tôi 3 tiếng đồng hồ để lần t́m đến một ngôi mộ bằng đá hoa cương trắng, có tượng thiên thần bên trên và một bức chân dung bằng cẩm thạch. Ngôi mộ không bao giờ vắng hoa tươi, kể cả trong những ngày đông tháng giá khắc nghiệt, là nơi an nghỉ của Chopin. Nơi chốn này, mọi âm thanh đều bị xóa nḥa, kể cả tiếng lá rơi nhẹ như hơi thở. Chỉ có những giai điệu của bậc thiên tài cứ măi vang lên trong tâm tưởng. Lần chần hồi lâu, tôi thấy bao nhiêu khách thập phương đủ mọi màu da cũng đến, cũng nhẹ nhàng đặt một nhành hoa với vẻ thành kính. Có đi đến chốn này, mới thấy, mới hiểu Chopin đă và đang sống măi với người yêu nhạc như thế nào.

Nhưng điều cảm động nhất, trước lúc ra về, tôi nghe một lời chào khẽ khàng từ một cô tây ba lô đỏ au rám nắng: “Salut, Chopin”! Tự dưng, tận đáy ḷng một gă lữ khách da vàng cũng th́ thầm bật lên một câu chào, ngập tràn yêu mến và ngưỡng mộ: “Salut, mon Chopin!” [5]

Trước giờ lâm chung v́ bệnh lao phổi, Jean Baptist Clesinger, một nhà điêu khắc đă đổ khuôn bàn tay và khuôn mặt của người nghệ sĩ thiên tài để lưu giữ cho hậu thế. Quả tim Chopin, nơi bắt nguồn của những bản Polonaise da diết ḷng thương nguồn nhớ cội, được mang về Ba lan, quê hương bản quán của người nhạc sĩ tài hoa. Sẽ có một ngày, tôi ao ước được dừng chân ở nhà thờ Kościół Świętego Krzyża, nơi yên nghỉ của quả tim vĩ đại đó, để nghiêng ḿnh và chiêm ngắm một thánh tích âm nhạc.

V́ Chopin của tôi, v́ tuổi hoa niên và t́nh yêu âm nhạc trong tôi đă được nuôi dưỡng từ trái tim nhạy cảm và rất đỗi dịu dàng đó!

 

x