HatUMinh-TKTTien

Trần Kiêm Trinh Tiên           

 

 

Hạt  U  Minh*

 

       Lần thứ hai trong năm, lúc Chùa sửa soạn cho vụ mùa, Sư bà trụ tŕ lại cho tôi hai tuần nhập thất.  Lúc nghe Sư cô Giáo Thọ báo tin, cổ họng tôi đắng khô.  Bao giờ Nhà Ḍng ở bên kia đồi cũng phái thầy Huyên kéo chiếc máy cày sang làm đất giúp Chùa vài hôm.  Như thế là tiêu tan hy vọng được gặp lại thầy mùa này. Tôi ngẩn ngơ đứng nh́n ra chiều đang vàng lắm ở trên đồi mà không thấy Sư cô Giáo Thọ quay đi, dấu tiếng thở dài.

 

      Ngay từ hôm đầu tiên vào thất, tôi đă bắt gặp cái tâm tôi như “vượn chuyền cành”.  Chỉ một tiếng người lao xao bên ngoài cũng đủ làm cho con ngựa chứng bất kham trong tôi trổi dậy. Tôi nhớ thầy Huyên.  Không biết từ mùa nào, khi Thầy kéo chiếc xe máy cày về lại Nhà Ḍng, ḷng tôi cũng đi theo về bên ấy. Bao giờ thầy cũng  tận tâm làm việc với trái tim vô ưu. Thầy nào biết trong giờ tọa thiền, tôi lại chờ nghe tiếng chuông leng keng thật vui tai từ bên ấy vọng sang cũng như khi tôi đi thiền hành quanh bốn bức tường của căn pḥng mà hồ như ḿnh đang bước  đi trên sóng.  “... Hành giả t́m tâm. Tâm nào? Tâm tham, tâm giận hay tâm si?  Tâm quá khứ, tâm hiện tại hay tâm vị lai?... Tâm ưa thích h́nh dáng như mắt con thiêu thân, ưa thích âm thanh như trống trận, ưa thích mùi hương như lợn thích rác bẩn, ưa thích vị ngon như người thích ăn  thức ăn thừa, ưa thích xúc giác như con ruồi sa đĩa mật. T́m tâm hoài mà không thấy tâm đâu...”**  Tôi quăng vụt cuốn kinh vào góc pḥng. Từ lâu rồi, trí huệ tôi ví như ngọn lá sen và bên trên ấy, kinh kệ, dù là giọt sương mai thuần khiết cũng chỉ vuột trôi đi, không sao thấm vào được. Cái tâm hiện tại của tôi có hai con “mắt của loài thiêu thân”.  Tôi quay quắt trong cái nhớ, nhớ một nhân dáng hiền lành, thanh khiết như một nhành huệ trắng... Tôi tự hỏi có bao giờ một ông thầy ḍng biết yêu không?  Trong sâu thẳm của ḷng, tôi nhận ra cái tâm cuồng si đang lừng lững tiến tới.  Nó có cái ” khứu giác của loài lợn”.  Ôi cái tâm cuồng si tội nghiệp ấy đang mang đến cho tôi vị mặn đậm của mùi mô hôi đàn ông sau một ngày lam lũ.  Tôi là hạt giống của cơi nào mà cánh chim đă  thả lạc nơi này?  Tôi chỉ muốn bật tung cánh cửa thiền pḥng, chạy ra múa hát sau đồi cho hả hê rồi về quỳ sụp dưới chân Sư bà.

 

 

-         Từ lâu, ta đă chờ đợi cái ngày hôm nay.  Con hỏi ta về song thân của con?  Ta mong con  hăy b́nh tâm lắng nghe.

          Sư bà phe phẩy nhẹ cánh quạt trong tay như muốn xua đi nỗi xúc động.  Một ngụm trà nguội vẫn chưa làm giọng bà hết run.  Cái run của vị sư cô trẻ lần đầu tiên ôm trong tay đứa con mà O Lượm vừa đẻ rơi sau hiên Chùa.  Người sư cô trẻ ấy chính là bà và đứa trẻ ấy, hai mươi mấy năm nay vẫn là mối bận tâm của bà.  Lớn lên, tâm nó hiền như lá non mà tính khí th́ đôi khi không khác một cành gai nhọn.  Trước ngày Sư bà Bổn Sư viên tịch, người c̣n căn dặn  bà hăy mang đứa bé theo vào trong Nam mà nuôi dạy, cho theo tu ở chùa do bà làm trụ tŕ.  Duyên nào đẩy đưa nó lạc vào đây để rồi ai cũng muốn giữ ǵn nó như một viên cuội trắng trong gịng suối khiết tịnh.  Thế nhưng bây giờ dưới trăng xanh, bà rờn rợn nhận ra ở đứa bé ánh mắt long lanh, rời rợi buồn của O Lượm.  Bà không biết điều bà sắp nói ra có làm cho viên cuội trắng ấy ch́m luôn trong u minh?

 

-           Ta cho con về lại Huế.  Con sẽ trông coi một ngôi chùa nhỏ ở Kim Long.  Con sẽ nhận hương liệu về và học cách làm nhang.  Điều ta muốn nói với con là hăy đi t́m mạ con về mà phụng dưỡng.

 

Nước mắt tôi chỉ chực trào…

 

 

*

 

“ Ta đi lượm hạt vui

   Đổi lấy hạt buồn

   Về làm xâu chuổi

   Mai đi cưới chồng

   Ha. . . ha . . . ha. . ha...”

 

    O Lượm xơa tóc, chạy mải miết rồi múa hát trên đồi.  Bao giờ cũng chỉ có bốn câu hát ấy, tiếp theo sau là những tràng cười.  Tiếng hát của O nghe rời rạc và  buồn thảm trong gió cao như những cánh hoa ngọc lan có ai bứt xé rồi ném tung lên trời.  O không thèm để ư đến bầy con nít cũng đang mải miết chạy theo sau lưng O, ném những trái thông khô vào chân O rồi cười nắc nẻ:

 

-         Ń,  O Lượm, lượm thêm mấy trái thông ni mà đi cưới chồng ń…

 

      Tên “Lượm” của O có lẽ do từ câu hát.  Cả vùng Nam Giao ni  ai mà không biết O Lượm có hai con mắt có đuôi. Cái đuôi mắt dài vừa buồn lại vừa t́nh.  Suốt ngày O lang thang, múa hát rồi lâu lâu lại chửa hoang.  Mỗi khi thấy O ́ ạch đi lên dốc với cái bụng to vượt mặt, các bà lớn tuổi không khỏi rủa thầm : “Thiệt quân mô mà vô hậu...”  Thuở ấy chiến tranh lan đến tận vành đai của thành phố.  Người ta lo làm hầm tránh đạn pháo kích, lo mua gạo, mua dầu hôi về dự trữ...nên cũng không c̣n ai buồn chú ư đến những lần sinh nở vất vưỡng của O.  Chỉ vắng đi một thời gian rồi lại thấy O xuất hiện, nước da tái xanh, gầy khô như chiếc khăn đă vắt kiệt nước.  Người ta thầm cảm thương cho người đàn bà nhan sắc mà mất trí, không rơ từ đâu tới.

 

       Và O Lượm là mẹ tôi.  Mẹ tôi sinh tôi sau mái hiên chùa, một đêm tháng chạp rét căm.  Tôi khóc yếu ớt trong tấm khăn nâu cũ của Sư Bà ủ ấm.  Các sư cô khiêng mẹ tôi vào nhà trong, một cô khác  chạy đi mời Cô mụ đầu xóm.  Thế nhưng trưa hôm sau, chẳng c̣n ai thấy mẹ tôi đâu.  Bẵng đi vài ngày, mẹ tôi lại trở về, tóc tai rũ rượi, tay cầm nắm xôi, xăm xăm đi t́m con rồi nhét nắm xôi vào cái miệng bé xíu của tôi lúc đó.  May có Sư cô Minh Tuệ vào trông thấy kịp.  Từ đó mỗi lần mẹ tôi về chùa, Sư cô phải xếp việc để trông chừng tôi.  Mẹ tôi chỉ vào nh́n tôi một lúc rồi bỏ ra vườn.  Từ đó, tôi lớn lên trong một viện cô nhi của Giáo hội và về lại chùa năm lên tám.

 

       Trên băi bờ hoang vu của trí nhớ, mẹ tôi là h́nh ảnh của ngôi sao khuya, xa mịt mù.  Có một lần khi giảng về chữ “Nghiệp”, Sư cô Thuần Hậu dẫn tôi đến bên gốc cây thị, chỉ cho tôi người đàn bà đang ngồi ũ rũ, hai cánh tay gầy g̣ đầy ghét bẩn ôm lấy đầu, mặt nh́n chăm xuống đất.  Sư cô không dấu đươc tiếng thở dài:

 

-         Ń, O Lượm ơi!

      Tiếng “ń, tiếng “ơi” của Sư cô kéo dài  như muốn lay động vùng trí nhớ âm u của O Lượm.  Nhưng O chỉ cúi xuống lượm trái thị rụng, đưa lên soi trong nắng vàng, mơ màng nh́n quanh rồi cười.

      Khi lớn lên, mỗi lần có ai nhắc đến chữ “Nghiệp”, tôi thường mường tượng đến O. Tại sao tôi phải gắng ” dốc ḷng mà tu” hay “tu cũng chuyển được nghiệp…” ?  Trí óc non dại của tôi ngày đó không sao hiểu được những uẩn khúc.  Tôi vẫn thường bị ám ảnh, nếu không tu, tôi sẽ biến thành người đàn bà mất hết trí nhớ, ngồi cười với trái thị rụng. Tôi c̣n nhớ O Lượm cứ về rồi lại đi, đi rồi lại về, được cho cơm ăn rồi nằm co ngủ trên tấm phảng sau bếp.  O về và đi không kể khuya hay sớm.  Nhưng dù có nán lại chùa cho đến sáng mai lúc mặt trời lên bằng nửa ngọn sầu đông, O cũng bỏ chạy, mắt long lanh, mặt mày đỏ ửng.   

         Mỗi ngày, dù có lang thang ở bất cứ đâu, đến gần giờ ngọ, O cũng ù chạy về một ngôi đ́nh quen thuộc ở dốc chợ Bến Ngự. O Lượm xơa tóc ra, quấn tóc vào cột đ́nh, xô đầu vào cột rồi khóc la vật vă.  Khoảng hai giờ sau, người mệt rủ mà dường như ḷng đă b́nh yên, O lại tiếp tục đi lang thang. 

 

                                                                  *

 

         Nơi tôi về lại là ngôi chùa nhỏ nằm lặn sâu giữa vườn cây trái.  Chuyện kể gần hai trăm năm trước, chùa do một bà công nữ lập ra.  Người thương của bà đi trận ở đất Bắc Hà, chẳng bao giờ trở về.  Bà xuất gia, cắt mái tóc dài gói trong chiếc áo cưới chưa một lần mặc qua.  Thời gian và sự thủy chung lặn sâu trong từng đường chỉ của tấm áo gấm nay đă ố vàng.  Những kỹ vật ấy ấy vẫn c̣n được giữ lại thờ ở chùa.  Sao nơi nào tôi đặt chân đến đều bàng bạc dấu vết của t́nh yêu? Đến mẹ tôi, trong bài hát của một thời xuân xanh mất trí cũng ôm ấp ước mộng “ Mai đi cưới chồng...” 

        Sau hôm về lại Huế, nhờ có Sư cô Chân Không và nhóm Hướng Thiện của Bác Siêu giúp đỡ, tôi t́m ra mẹ tôi, lúc ấy đang ngồi bên bờ sông, phía sau chợ Đông Ba. Mẹ tôi bây giờ là một bà già hiền lành và không hề nói. Tôi đến bên mẹ, nhẹ nhàng cầm lấy tay mẹ, bàn tay xương xẩu, khô ráp.  Mẹ nh́n tôi trân trối.  Phải chăng mẹ chưa hề quen với sự vỗ về dịu dàng?  Tóc mẹ tôi, có ai đó cắt ngắn, đă bạc đi nhiều.  Miệng mẹ tôi móm mém thảm hại.  Trên vầng trán mẹ, nỗi ưu phiền của người mất trí  vẫn đậu trên những nếp nhăn.  Khuôn mặt mẹ tôi héo khô như trái ổi chết non.

Mỗi lần ghé thăm, Bác Siêu đều dặn mẹ tôi:

-         Bữa ni là mệ ở đây luôn với cô nghe... mệ không đi mô nữa hết nghe...

                             Mẹ tôi gật gật cái đầu, tỏ vẻ hiểu và vâng lời.  Tôi tập làm quen với mẹ bằng cách gỡ tóc và bắt chí cho bà.  Hàng ngày mẹ ngồi nh́n tôi xe nhang, đôi khi bà c̣n giúp được tôi rải nhang ra rỗ để đem phơi nắng.  H́nh như mẹ quen dần với tôi nên không c̣n đi đâu.  Những đêm mùa đông, khi mẹ chưa ngủ, tôi ngồi kể chuyện cho mẹ tôi.  Mẹ đưa mắt nh́n mông lung lên bức tường có dán mấy bức tranh vẽ Thái tử Tất Đạt Đa đi ra bốn cổng thành hay bức bà Maya nằm mộng thấy con voi trắng…Dường như mẹ tôi bắt đầu biết chú ư và biết lắng nghe.  Tôi cố khêu t́m trong lớp bụi tro của bệnh tật một tia sáng, dù le lói, của kư ức mẹ tôi.  Đêm khuya, một ḿnh tiếng tôi đều đều lẫn trong tiếng gió đang rít từng hồi trên mái tôn.

                          Những uẩn khúc của cuộc đời mẹ dần dần như băi cát hiện ra từ ḷng sông.  Sự tật nguyền của mẹ vô t́nh đem lại cho tâm hồn tôi một nơi an trú.  Suốt ngày, mẹ chỉ quanh quẩn bên tôi, mẹ ngồi yên sau lưng tôi trong hai thời công phu sáng tối.  Bên tôi, mẹ như t́m thấy được sự  chở che.  C̣n mẹ, mẹ là mặt hồ phẳng yên cho tôi soi vào đó những sầu đau của ḿnh mà nhận ra, so với những bất hạnh của đời mẹ, với cái tâm như “vượn chuyền cành” của tôi ngày cũ, tôi không khác người hiêp sĩ mù chém những đường gươm vô minh vào khoảng không.  Hết thật rồi sớm khuya trông chờ những chuyến tàu xuôi Nam mà nhớ miên man hạt chuông leng keng vọng sang từ dăy đồi sau chùa ngập nắng chiều.  Tôi nghĩ đến thầy Huyên, ḷng b́nh lặng như  đất trời vừa qua cơn băo.  Tôi thầm cám ơn cánh chim của số phận đă thả rơi tôi, hạt giống lạc loài, xuống chốn cửa thiền.  Tôi cũng thầm cám ơn Sư bà, là người đầu tiên cắt cho tôi cuống nhau ĺa mẹ, đón tôi đến với nhân gian.  Lần thứ hai, để giúp tôi cắt ĺa cái tâm cuồng si, Sư bà đă đưa tôi về với mẹ.  Sư bà đă nuôi dạy tôi và nâng đỡ con người man dại trong tôi không dễ dàng, như người hành giả bước đi trong đôi dép bện bằng gai nhọn.

 

                    Buổi sáng, khi đi giao nhang về, có được chút tiền, tôi ghé qua sạp của  O Châu, mua cho mẹ tôi xấp vải màu khói hương để may áo.  Tết cũng sắp đến nơi.  Có lẽ trong đời mẹ chưa bao giờ được mặc qua chiếc áo mới.  Sáng nay gió lạnh mà nắng th́ trong veo.  Ḷng tôi vui như  hoa cúc vàng vườn nhà ai nở đầy.  Tôi sẽ ướm thử xấp vải mới lên người mẹ... Mẹ sẽ ra sao nhỉ?  Chỉ mong chân làm sao bước được nhanh hơn để về với mẹ...

                     Chưa kịp rẽ vào ngơ nhà bác Mẫn để dẫn mẹ về th́ tôi đă nghe tiếng bác thất thanh từ dưới bến:

-         Ới cô, cô ơi... mệ...

Tôi chạy xuống bến sông.  Người ta vừa vớt mẹ tôi lên, để mẹ nằm trên cỏ.  Người mẹ tôi đă tím, nước vẫn c̣n trào ra từ mũi miệng của mẹ.  Cổ họng tôi đắng khô.  Bác Mẫn mếu máo :

 

       -  Con gà nhà tui sẩy chuồng, c̣n bị con chó mực rượt xuống tuốt triền sông.  Tui tiếc con gà, chạy theo... Mệ thấy rứa cũng chạy theo... ham đuổi bắt con gà  mà ai dè...

 

         Tội nghiệp bác.  Chuyện con gà chỉ là chiếc cầu giúp cho mẹ tôi  nhẹ nhàng bước qua một bến bờ khác. 

“Quán tự tại Bồ tát hành thâm bát nhă ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẫn giai không độ nhất thiết khổ ách...Yết đế yết đế ba la yết đế bồ đề tát bà ha...”

 

 Niệm Tâm Kinh Bát Nhă  “ qua đi, qua đi, hăy qua bờ bên kia...” , ḷng tôi như cơn gió thổi qua thảo nguyên trống không, thăm thẳm. 

 

                  Bây giờ th́ mẹ tôi nằm đó, b́nh yên như chiếc lá khô, trên tấm chiếu đơn chẳng in hoa đă ngă màu.  Bác Siêu đă phủ lên mặt mẹ tôi một tờ giấy trắng.  Tôi mang đến chén gạo, thắp nén nhang.  Các bác trong Đạo tràng đang sửa soạn khai kinh cho lễ nhập liệm.  Tôi đứng lên, đi xếp hành lư cho mẹ mang theo: hai bộ áo vạt khách c̣n máng ở hiên sau, chiếc lược cũ tôi thường chải tóc cho mẹ và xấp vải màu khói hương tôi chưa  kịp ướm thử lên người mẹ.  

 

                  Giờ đây trong ngôi chùa xưa chỉ c̣n lại một ḿnh tôi, hạt u minh của mẹ.   

                  Và mẹ là trang cổ thư, tôi có đọc suốt đời cũng không sao hiểu hết.  

 

 

Trần kiêm Trinh Tiên

         09/1998

 

 

(*) Truyện đă đăng trên Tạp chí Hợp Lưu, Số Tân niên Kỷ Măo  (số 45, Tháng 2&3 năm 1999)

(**) Thích Nhất Hạnh, Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức, nxb Lá Bối ( Walnut Creek, California) 1997, trang 180-181.