Đây là bài viết của Vũ Đức Sao Biển đăng trên Tân Văn số 68 (Tháng 3/2013) nói về người vợ của thi sĩ Bùi Giang. Điều mà ít ai biết nhà thơ này đă có vợ. T́m thấy trên mạng và gửi đến các bạn.

 

VŨ ĐỨC SAO BIỂN:

 

NGƯỜI VỢ CỦA BÙI GIÁNG

 

Đọc thơ Bùi Giáng, người ta nghĩ ông chỉ có những t́nh yêu viễn mộng. Ít ai biết ông đă có một người vợ đẹp và những bài thơ t́nh hay nhất của ông là dành cho vợ. Người phụ nữ ấy chỉ sống với ông trên đời có 3 năm.


Tháng 7.2012, tôi trở lại thăm quê nhà ông - làng Thanh Châu (xă Duy Châu, Duy Xuyên, Quảng Nam). Ghé thăm nhà thờ tộc Bùi, được người phụ nữ chăm lo hương khói nơi đây cho xem gia phả của tộc. Qua câu chuyện, tôi khẳng định một điều mới mẻ: Nhà thơ Bùi Giáng đă có vợ. H́nh tượng của bà và t́nh thương yêu, tiếc nuối ông dành cho bà là nội dung chủ đạo trong 4 tập thơ của ông: Mưa nguồn, Lá hoa cồn, Ngàn thu rớt hột và Màu hoa trên ngàn (in tại Sài G̣n từ năm 1962 - 1964).

https://3.bp.blogspot.com/-b2cNOjBoGp0/UdLvigEJ0OI/AAAAAAAADsk/nccvqIUjOTc/s400/BuiGiang2.jpg

Bà nhớ lại Bùi Giáng được cha mẹ cưới vợ cho năm 1945, khi ông vừa 19 tuổi. Hôn nhân ngày trước thường do cha mẹ đôi bên sắp đặt. Có lẽ, cuộc hôn nhân của Bùi Giáng cũng không đi ra ngoài quy ước đó. Người phụ nữ giữ nhà thờ tộc Bùi xác nhận: “Chị Bùi Giáng về làm dâu nhà ông bà bác tôi (cụ Bùi Thuyên và bà Huỳnh Thị Kiền - cha mẹ ông Bùi Giáng) năm 18 tuổi. Chị là người Duy Xuyên, đẹp lắm, tóc dài da trắng cái chi cũng đẹp. Tên thật của chị là Vạn Ninh”. 

Tất cả thành viên trong gia đ́nh đều quư yêu bà chị dâu trẻ. Ông Bùi Luân - em ruột Bùi Giáng - tỏ ḷng quư mến của ḿnh với người chị dâu trong tập thơ Chớp biển của Bùi Giáng in tại Canada năm 1996: “Phải nhận là chị xinh đẹp, cởi mở, vui tính, hồn nhiên… Gương mặt chị, h́nh ảnh chị đă nổi bật, sáng ngời măi trong kư ức tôi. Duy có điều bất cứ ai, dù không biết ǵ nhiều về tướng số, gặp chị là cũng nhận ra ngay: Chị không thể ở lâu với chúng ta trên cơi đời này, dù cơi đời vốn đă ngắn ngủi. Lấy chồng được ba năm, chị đă đột ngột ĺa đời lúc mới ngoài hai mươi tuổi… Chị trút hơi thở một cách b́nh thản”.

Vợ chồng Bùi Giáng được cha mẹ cho một khu vườn đẹp ở làng Trung Phước để lập nghiệp. Trung Phước là thung lũng trù phú ven sông Thu, kế cận mỏ than huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam ngày nay. Làng Trung Phước cách Thanh Châu trên dưới ba chục cây số. Có lẽ cuộc hôn nhân của lứa đôi trẻ trung này giữa miền đất Trung Phước không được êm ấm cho lắm. Ông Bùi Luân viết tiếp: “Chỉ một thời gian ngắn sau ngày cưới, người vợ trẻ đă phải lặn lội từ cái thung lũng ngoạn mục nhất đó, xuôi sông Thu Bồn êm đềm với ngàn dâu xanh ngát, về nhà bố mẹ chồng ở Thanh Châu cách hàng mấy chục cây số. Trên chiếc đ̣ bé nhỏ, chàng trai nói với người vợ trẻ:  Nếu em không đổi ư quay về, không bỏ qua chuyện cũ th́ tôi sẽ… nhảy ra khỏi đ̣!

Khách xuôi đ̣ tưởng người con trai đùa dọa người vợ mảnh dẻ. Để nguyên quần áo, ngay lập tức anh ḿnh gieo xuống giữa ḍng sông Thu. Và bơi theo đ̣. Để rồi thả trôi theo ḍng nước hết chỗ mấy chục cây số đó, tới tận bến nhà”.

“Bỏ qua chuyện cũ” là chuyện ǵ? Đó là một chuyện hết sức tức cười và trẻ con. Ông Bùi Luân tiết lộ: “Cô con dâu đứng bên bà mẹ chồng sụt sùi: Anh cho con ăn toàn khoai lang và rau luộc. Anh không cho con mua cá mua thịt…”. Th́ ra, Bùi Giáng đă… đi trước thời đại chúng ta về chủ trương… ăn chay. Ông hiểu một cách tuyệt đối thế nào đó về ẩm thực dưỡng sinh, nên chỉ thuận cho cô vợ ăn rau cải, củ quả mà không cho phép bà ăn gà, ḅ - hai món thịt ngon nhất của vùng Trung Phước.

Người vợ qua đời năm 1948 khi Bùi Giáng vắng nhà. Ông Bùi Luân viết tiếp: “Phút lâm chung, chị không thấy mặt chồng… Tôi chỉ biết là anh có mặt vào phút chót của buổi tiễn đưa chị về nơi an nghỉ cuối cùng - anh đứng bên cạnh chiếc quan tài với vành khăn trắng trên đầu”.

Bùi Giáng yêu vợ nhưng vẫn muốn… bỏ nhà đi chơi. Cũng b́nh thường như bao nhiêu người đàn ông Quảng Nam lăng mạn khi xa vợ, Bùi Giáng có thể gặp gỡ, giao lưu với những người phụ nữ khác và nhận ra họ vượt trội vợ ông về một vài phương diện nào đó. Thế nhưng, t́nh yêu và nỗi xót xa dành cho người vợ ở quê nhà th́ rất đỗi mặn mà, vô cùng tha thiết: “Ḿnh ơi, tôi gọi bằng nhà/Nhà ơi, tôi gọi ḿnh là nhà tôi”.

Hai năm sau cái chết của người vợ trẻ, ông dẫn một bầy dê lên Nông Sơn chăn thả, ngao du qua những đồi núi, suối khe mơ màng để nhớ thương vợ. Hai năm sau đó nữa, ông gửi bầy dê lại cho… chuồn chuồn và châu chấu, bỏ quê nhà đi chơi tiếp. Ở đâu, ông cũng phục hiện những h́nh ảnh yêu dấu xưa. Bài thơ nhớ vợ có một không khí rất đỗi bi ai, tràn đầy hoài cảm:

Em chết bên bờ lúa

Để lại trên lối ṃn

Một dấu chân bước của

Một bàn chân bé con!

Anh qua trời cao nguyên

Nh́n mây buồn bữa nọ

Gió cuồng mưa khóc điên

Trăng cuồng khuya trốn gió.

Mười năm sau xuống ruộng

Đếm lại lúa bờ liền

Máu trong ḿnh ṃn ruỗng

Xương trong ḿnh rả riêng.

Anh đi về đô hội

Ngắm phố thị mơ màng

Anh vùi thân trong tội lỗi

Chợt đêm nào, gió bờ nọ bay sang.

Bùi Giáng bỏ cố quận ra đi biền biệt. Ra đi nhưng ông vẫn nhớ, đến tha thiết năo nùng. Nhớ nhưng ông không dám trở về bởi nơi nào ở cố quận cũng nhắc ông nghĩ đến t́nh yêu của người vợ khổ.

Ông gọi bà với nhiều tên gọi khác nhau. Đầu tiên, bà được gọi là “gái trần gian”. Ông có thể gặp gỡ, cười đùa, tán tỉnh cả trăm người phụ nữ khác nhưng ḷng ông chỉ yêu và chỉ nhớ mỗi ḿnh bà, đặc biệt những khi ông c̣n lại một ḿnh, đối mặt với chính tâm thức cô đơn của ḿnh: “Đùa với Tuyết, giỡn với Vân. Một ḿnh nhớ măi gái trần gian xa. Sương buổi sớm, nắng chiều tà. Trăm năm hồng lệ có là bao nhiêu?”.

Thứ hai, ông gọi bà là “con mọi nhỏ”. Người Duy Xuyên có lệ thương yêu ai th́ gọi người ấy là “con mọi”, “thằng mọi”. Tôi lấy làm tiếc khi có vài người nghiên cứu văn học hiểu nhầm chữ “mọi” trong thơ Bùi Giáng: “Mọi em là mọi sương xuân. Ban sơ núi đỏ chào mừng non xanh”. Thơ ông viết cho “con mọi nhỏ” của ḿnh tràn đầy nỗi thương xót và t́nh yêu dấu: “Giờ ly biệt, ta xin em đừng khóc. Nào phải không? Lệ chảy có vui ǵ? Trang phượng mở giữa nguồn em hăy đọc. Nước xuôi ḍng, ngàn thu hận ra đi”.

Ông phong tặng người vợ của ḿnh - con mọi nhỏ, lên thành mẹ của giang san: “Em thành Mẹ của giang san. Em là thần nữ đoạn trường chở che”. Thơ ông viết cho vợ càng lúc càng trang trọng. Tất cả cái mẫu tính dịu dàng, hồn nhiên, tươi đẹp, đôn hậu toát lên từ con người của bà Bùi Giáng khiến ông cảm phục vợ. Từ một con người cụ thể, mảnh mai, bà vụt trở thành h́nh tượng cao quư nhất trong ḷng ông, trong thơ ông: “Em thuyền quyên ban mưa móc xum xuê. Em rắc gieo khắp xứ sở bốn bề. Suốt địa hạt t́nh quê hương ba ngơ. Anh quỳ xuống gọi em: Em mọi nhỏ”.

Lắm khi ở phương xa, ông nhớ cố quận. Qua mấy mươi năm, h́nh ảnh người vợ trẻ, hiền ngoan ấy vẫn sống trong ḷng ông. Ông uống trà giữa Sài G̣n mà h́nh ảnh của bà ngày xưa ở Quảng Nam như hiển hiện trước mắt: “Trung niên thi sĩ uống trà. Thưa em mọi nhỏ, em đà uống chưa?”. Một nửa cuộc đời ông, một nửa trái tim ông dành để nhớ bà.

Vũ Đức Sao Biển