LuQuetXuanDai

LŨ QUÉT…

 

Truyện ngắn của XUÂN ĐÀI

 

Chuyện thằng Thành con cô Ngoạn ở làng Đông cuối tháng này tổ chức đám cưới với con Thuư con cô Lâm ở làng Nổi, dân xă Vĩnh Sơn ai cũng tỏ tường. Cái đận cô Lâm có chửa, điều tiếng khắp làng, người ta đoán già đoán non về cha của đứa bé. Đoán vụng đoán trộm, th́ thầm nhỏ to sau lưng, chứ thấy bóng cô đi ngang qua là họ im bặt. Nó mà nghe được nó tế cho! Nó vén mồm, vén váy, réo tên cúng cơm ba đời nhà ḿnh ra mà chửi. Con ấy đâu vừa! Vắng mặt cô Lâm người ta lại xầm x́ chắc con của lăo Ngộ lùn hay con của lăo Thống rỗ trưởng xóm. Nghe những lời ong tiếng ve như thế, mụ Kinh Cọng ngồi bán tạp hoá ngoài cây đa đầu làng, bĩu môi: các ông các bà chẳng biết cái chi hết! Thấy lăo Thống rỗ với thằng Ngộ lùn hay thậm thà thậm thụt ra vô nhà cô Lâm th́ đổ vấy cho người ta, chứ “giống” ấy là của người quê ḿnh tận Hà Nội hay tít trong Sài G̣n chứ không quanh quẩn đây đâu. Con Lâm nó ngoa ngoắt nhưng nó không ngu. Mấy đận nó bảo xuống thị xă chơi với d́ dượng, thực ra là nó đi thật xa để “kiếm” đứa con. Thử hỏi lăo Thống với thằng Ngộ cùng người họ Bùi với nó, đâu dám trắng trợn loạn luân như vậy. Người quê ta, có chức có quyền, có học vị bằng cấp đang công tác khắp nước, thơm ngon mát bổ, ngu ǵ lại đi chung chạ với đứa chân lấm tay bùn, hàng tháng trời không tắm, hôi ŕnh như khỉ…

Làng Vĩnh Sơn nằm dọc sông Vạn Phường có đến tám ḍng họ. Họ Trần và họ Lê là hai họ lớn, gia phả họ Lê trên bốn mươi đời . Nhà thờ rộng và đẹp hơn cả chùa làng. C̣n họ Bùi là dân ngụ cư. Cô Bùi Thị Lâm là con ông Bùi Viết. Tính đến ông Viết mới có năm đời. Bố mẹ cô Lâm vừa buôn bán vừa làm ruộng. Từ lúc nhỏ, Lâm đă biết theo cha mẹ chạy chợ. Mùa nào thứ đó, chỉ có buôn trâu là chưa làm. Khi nhỏ Lâm đă đẹp, lớn lên càng đẹp. Người tầm thước, thon nhỏ, da trắng, ăn nói khéo léo, chả thế mà thanh niên trong làng nhiều anh “xin chết” nhưng anh nào cũng được Lâm tặng cho một chiếc guốc vào mông. Cô Lâm cùng lứa với cô Diệu, cô Ngoạn, đều sinh giữa thập niên bốn mươi, cùng tốt nghiệp lớp mười một khoá. Chỉ có Diệu vào được đại học Bách Khoa, c̣n Ngoạn với Lâm ngày nào cũng lên ủy ban lục ḥm thư. Giấy báo đại học đâu chẳng thấy, chỉ lượm được toàn vỏ chuối…

Bấy giờ, thanh niên trai tráng nuờm nuợp đi bộ đội. Con gái rủ nhau đi thanh niên xung phong. Xă Vĩnh Sơn đợt đó có năm cô lên huyện khám tuyển, bốn cô trúng trong đó có Ngoạn, c̣n Lâm bị loại, quay về làng khóc như cha chết. Mụ Kinh – Cọng – tạp – hoá vừa nguưt vừa bảo con ấy khoẻ như voi, chắc là đỏng đảnh nên người ta mới đuổi về, liền bị cô Lâm đứng ngay trước ngơ, xắn quần, tốc áo, chửi cho một trận. Dẻo mồm dẻo mép như mụ Kinh Cọng cũng phải câm miệng hến, ngồi trong bếp dỏng tai lên nghe Mụ sợ cô Lâm một th́ sợ ông Viết mười. Ông Viết dám mang khâu liềm cào sập nhà mụ rồi cho một mồi lửa, chứ mụ Kinh đừng có cậy giàu mà gieo tiếng xấu cho con gái ông. Thời chiến mà trốn nơi ḥn tên mũi đạn là đồ hèn. Người họ Bùi nghèo chứ không hèn.

Không đậu đại học, không trúng thanh niên xung phong, cô Lâm dựng lều ngoài đường cái quan mở hàng nước. Gọi là hàng nước, thực ra cô bán đủ các loại thượng vàng hạ cám. Ai hỏi cô Lâm làm ǵ, ông Viết trả lời rất thời thượng: cháu nó làm thương nghiệp! Các anh bộ đội hành quân qua quán th́ vẫy tay: chào em cô gái Lam Hồng!

Làm nghề buôn bán trên đường cái, khách thập phương ghé đến, có anh lấy cớ uống nước chè, ăn kẹo lạc mà ngồi từ trưa cho đến khi chủ quán dẹp hàng. Tán tỉnh thế nào cô Lâm cũng chỉ che miệng cười, miễn là nước cứ uống śnh bụng, kẹo cứ ăn cho mẻ răng và tiền cứ nộp đầy đủ là được. Nghe đâu dân làng đồn đại cô cũng có mối t́nh với anh lính trẻ trên huyện đội. Sâu đậm lắm, dám cả gan vô hiệu ảnh Thanh B́nh, ôm vai ghé má “chơi” một kiểu làm kỷ niệm. Duyên vừa mới bén hơi, thề non hẹn biển, chung thuỷ một đời th́ anh huyện đội được chuyển sang quân chủ lực rồi đi chiến trường vào Nam. Thằng Tuấn Sún, cháu gọi mụ Kinh Cọng bằng bà d́ bảo đă được nh́n tận mắt tấm ảnh cô Lâm chụp chung với anh huyện đội, bị mụ Kinh cho một cái tát nổ đom đóm mắt, kèm theo một câu xỉ vả: mi chỉ ăn nói ba láp! Ngữ con Lâm chỉ có chụp ảnh chung với lợn, chứ bộ đội nào mà thèm áp má kề vai với nó. May cho mụ Kinh Cọng câu xỉ vả vô cớ của mụ được gió cuốn ra đồng, chứ đến tai cô Lâm th́ chắc lần này ông Viết ông đốt nhà mụ thật.

Chuyện t́nh duyên của cô Lâm người đồn thế này người đồn thế nọ, chẳng biết thực hư ra sao, chứ đến năm ngoài ba mươi cô vẫn ế chồng. Bây giờ băm tư rồi mới sắp được làm mẹ. Cha đứa bé là ai chỉ một ḿnh cô biết. Cha cô – ông Viết – có cạy mồm, cô cũng không nói. Chỉ có mụ Kinh Cọng đi đâu cũng hát nghêu ngao bằng giọng hát xẩm: Không chồng í – a mà chửa mới ngoan. Có chồng í – a mà chửa… thế gian í – a cũng nhiều… Dân xă Vĩnh Sơn chẳng ai đồng t́nh với cách hát ḥ độc miệng của mụ. Người ta thương cô Lâm đẹp nhất xă mà số phận hẩm hiu, quá lứa lỡ th́. Người ta thương ḍng họ Bùi nghe đâu nguồn gốc tận tỉnh Hoà B́nh, nghèo đóùi cơ cực mới dắt díu nhau vào tận miền Trung này làm dân ngụ cư.

Ông Trần Lê Đệ, em bà con cô cậu với mụ Kinh Cọng, bất chấp máu mủ ruột rà, làm một bài vè dạy cho con nít hát, giễu cợt lại mụ Kinh lắm điều. Hát rằng: Mụ Kinh là mụ Kinh Cọng / chồng thời không có mà con cả bầy / mụ Kinh là mụ bầy hầy / con cái cả bầy chẳng thấy chồng đâ. Trẻ con cứ lượn qua lượn lại trước cổng nhà mụ Kinh hát nghêu ngao. Chồng mụ vác gậy chạy ra, trừng mắt: rứa tao là ǵ hả? đồ chó đẻ! Trẻ con xô nhau chạy, vừa chạy vừa la: ông là nhôông chứ không phải chồng. Bà là gấy chứ không phải vợ[1] (1)… Ông Kinh ph́ cười, chửi: tổ cha bây! Đồ mất dạy…

Cô Lâm sinh đứa con gái bụ bẫm, cười có lúm đồng tiền, đặt tên như ca sĩ Bùi Diễm Thuư. Diễm Thuư ngoan và học giỏi. Càng lớn càng giống mẹ, may mắn hơn mẹ, diễm phúc hơn mẹ, thời của Diễm Thuư là thời b́nh yên. Diễm Thúy thi đại học lần đầu tiên đă đậu ngay hai trường.

Hôm cầm giấy báo đậu hai trường đại học, Diễm Thuư vừa mừng vừa lo, nói với mẹ chỉ học một trường để mẹ đỡ vất vả. Mẹ cô cười trong tiếng khóc, chửi yêu con…

- Cha mi, mi có học đến… tỷ trường, tao cũng nuôi được. Học phí là thứ giẻ rách, đứa hèn mới không lo được cho con…

Nói đến đó mẹ Thuư thấy ḿnh hơi quá lời liền dịu giọng hỏi: chứ học phí mỗi trường một năm bao nhiêu con?

- Cứ bán hết cả lều hàng xén của mẹ, may ra mới nộp đủ một trường. C̣n trường thứ hai th́ phải bán cả nhà.

- Tổ cha mi, đừng doạ tau, làm chi có đắt như rứa!

- Ban năy mẹ mạnh mồm, bây giờ run rồi hả? Không tin mẹ đi hỏi thiên hạ, thiên hạ người ta biết “giá” của đại học cả đó.

Mới đó mà đă sáu năm, Diễm Thúy bây giờ đă là kỹ sư chế tạo máy, làm việc ngay giữa thủ đô, sắp làm lễ cưới với cậu Thành, lập tŕnh viên phần mềm, thua ḿnh hai tuổi, con cô Ngoạn người họ Vơ, cũng là ḍng họ ngụ cư.

Thành và Thuư bén duyên nhau, bất chấp tuổi tác, bất chấp giàu nghèo. Những năm học cấp II, Thuư và Thành vẫn xưng hô chị chị em em. Khi lên cấp III, tuy hơn Thành hai tuổi nhưng Thuư chỉ học trước Thành một lớp. Thành là đứa thông minh. Từ năm Thuư học lớp mười một, Thành học lớp mười th́ hai từ “chị em” tự dưng biến mất, thay vào đó là xưng tên. Đại để “Thuư đừng thức khuya nhiều mà ốm đấy”, “Thuư có hai quả lê chia cho Thành một quả này”. Đến giờ học, Thành ghé nhà chở Thuư đi bằng xe đạp đến trường. Thuư và Thành là đôi song ca hay nhất huyện. Không chỉ những bạn học cùng trang lứa mà bàn dân thiên hạ xă Vĩnh Sơn đều biết Thuư Thành yêu nhau. Bạn học cùng trường, đứa nào cũng vun vào, chỉ có cô bé Lê Thị Na, người cùng xóm với Thuư, học sau Thành một lớp là mỗi lần gặp Thuư th́… ngó lơ. Thuư biết là Na ghen nhưng cứ tảng lờ như không biết ǵ, nên lúc nào gặp Na, Thuư cũng vồn vă. Có lần Thuư đưa cho Na một nắm kẹo. Na ngúng nguẩy “em không quen ăn của ngọt, thôi chị để dành cho anh Thành”.

Từ sâu thẳm trong tâm hồn, Na biết ḿnh vô lư. Từ nhỏ đến giờ anh Thành vẫn coi ḿnh như em ruột. T́nh yêu của ḿnh là đơn phương. Đơn phương th́ đau khổ, tức giận vô cớ với người con gái được người con trai ḿnh yêu, yêu thực ḷng, chỉ có ở những người nhỏ nhen. Từ khi nhận ra điều phức tạp mà đơn giản ấy, Na dần dần thay đổi cách cư xử với Thuư. Hễ gặp Thuư là Na vồ vập trước, nhiều lần Na mời Thuư đi ăn kem. Dù đang rất bận, Thuư vẫn nhận lời. Thuư hiểu những day dứt, chua xót, cả sự cao thượng mới chớm nở trong ḷng Na.

Có lần mụ Kinh Cọng ngồi rửa rau muống trên bến sông, Na đang tắm, bơi lượn trước mặt mụ. Mụ ngoắc Na vào. Na ngồi lên phiến đá bên cạnh. Mụ liền oang oang:

- Báu bổ chi cái thằng con hoang mà mi cứ đeo đuổi hắn. Con hoang nó yêu con hoang. Nó lấy nhau là phải đạo rồi. Mi là con nhà tử tế…

Không nói không rằng, Na hất tung rổ rau muống lên bờ, rồi xô mụ Kinh Cọng ngă nhào xuống nước. Bến sông sâu, may mà mụ Kinh Cọng biết bơi. Vừa lổm ngổm ḅ lên bờ, mụ vừa chửi Na là đồ con đĩ. Na đâu có vừa, hai tay xỉa xói vào mặt mụ:

- Tôi nể bà là người trong họ, không th́ tôi đánh cho bà một trận. Bà không được xúc phạm mẹ con anh Thành, mẹ con chị Thuư. Lần sau bà c̣n gọi tôi là con đĩ, tôi nhất định cho mấy cái răng của bà đi… sơ tán!

- Tao thách mi đánh tao, đánh đi!

- Này đánh! Nói chưa dứt câu, Na đấm thẳng vào mặt. Mụ Kinh Cọng kịp giơ cái rổ lên che. Na dang cả hai tay khoẻ mạnh của tuổi mười bảy, một lần nữa xô mụ Kinh Cọng xuống sông.

- Ơùi bà con làng nước ơi, nó giết tôi, nó giết tôi. Cứu tôi với! Con đĩ Na nó giết tôi, ới làng nước ơi…

Bà con đứng dọc bến sông, từ năy đến giờ chứng kiến sự việc chỉ cười. Ông lăo Tần, phơ phơ tóc bạc, cười móm mém: mụ Kinh ơi, mụ có chết cả làng này cũng chẳng ai thương.

Na từ bến sông leo lên bờ, để nguyên quần áo ướt đi về nhà. Mụ Kinh Cọng lại buông theo lời xỉ vả: con nhà tử tế, cha mẹ đàng hoàng, yêu người tử tế không yêu lại say như điếu nổ cái thằng con hoang mà không biết nhục! Con gái nhà họ Lê nhà tao không có thứ đó, đồ mất nết.

Ôm bộ quần áo hoa sặc sỡ Na bước thẳng, không thèm ngoái lại. Về đến nhà, chui vào buồng thay quần áo rồi cô lăn ra giường, ôm gối khóc tức tưởi. May mà cả nhà đi vắng. Cơn tức giận nguôi dần, thôi khóc, Na lại nghĩ về Thành. Ngày nhỏ mọi người trong làng đều nói với lũ trẻ, bố Thành là bộ đội, chiến đấu ở bên Miên không biết thất lạc hay đă hy sinh, đến nay vẫn không thấy có giấy báo tử… Măi cho đến khi gần đến tuổi trăng tṛn, Na mới biết về số phận của Thành. Không phải ai mà chính anh Thành kể cho Na nghe tường tận…

*

*       *

Ngày đi thanh niên xung phong cô Ngoạn mới mười chín tuổi, hết đội bom ở Bến Thuỷ, Đồng Lộc… rồi vào mở đường tận miền tây Quảng B́nh. Năm cô xuất ngũ về làng đă ngoài ba mươi. Cha mẹ cô mong ngóng hai đứa con. Một thằng anh bộ đội, một đứa em thanh niên xung phong cứ biền biệt ở phương trời xa ngái. Không một lời nhắn về, không một lá thư. Đến khi nhận giấy báo tử người con trai, mẹ cô Ngoạn vật vă mấy ngày, nằm liệt giường cả tháng, khi đứng dậy đi lại được th́… hoá điên. Ngày ngày cầm một cành cây trên tay, hết ra chợ nhảy múa lại đi dọc bờ sông nói lẩm bẩm đúng hai câu “con Ngoạn sắp về lấy chồng, thằng anh nó cũng sắp về lấy vợ”. Nghe vậy bà con làng nước thương quặn ḷng. Có người nh́n bà, ái ngại: anh ấy hi sinh rồi, thôi bà về nghỉ đi, con dắt bà về nào. Bà lăo căi: hắn hi sinh chứ đă chết mô! Bà con đứng xúm quanh không ai nỡ cười trước câu nói ngớ ngẩn của bà mẹ điên. May mà cha cô Ngoạn biết nén cái đau, cái thương vào ḷng để khoẻ mạnh chăm sóc, cơm cháo cho bà lăo. Hơn một năm sau bà lăo về với đất để lại ông lăo đơn côi. Chiều chiều ông ra bến sông nh́n về phương trời xa lắc, ngóng chờ đứa con gái. Trời thương, cuối năm bảy hai ông lăo nhận được thư con từ tận đường 20 trong Quảng B́nh gửi về kèm theo một tấm ảnh chụp chung với hai ngừơi bạn trai và ba người bạn gái. Đúng dịp cô Diệu kĩ sư nghỉ phép về làng, ông đưa cho Diệu xem thư và xem ảnh. Diệu tính t́nh xởi lởi pha chút láu cá, liền chỉ anh thanh niên đứng cạnh Ngoạn trong ảnh, cao ráo, khuôn mặt hốc hác nhưng hai mắt sáng, nụ cười tươi, dáng dấp đẹp trai, b́nh phẩm:

- Chắc anh này là người yêu của Ngoạn. Đứng sát với nhau thế này chụp ảnh, thường là những ngừơi yêu nhau, ông ạ. Vài hôm nữa ra Hà Nội, con viết thư cho Ngoạn nói Ngoạn gửi về cho ông một tấm ảnh chỉ hai người chụp với nhau.

Ông lăo cười:

- Được rứa th́ hay quá. Khi mô hoà b́nh con Ngoạn dắt anh ni về làng, ông tổ chức đám cưới linh đ́nh rồi cho anh ở rể. Hai đứa mà thuận ḷng th́ sướng quá, con hè.

Ngoạn chưa kịp về để thực hiện điều tưởng tượng của Diệu, th́ dịch sốt thương hàn đă đưa ông lăo về với đất.

Mùa thu năm Bính Th́n (1976), Ngoạn khoác ba lô con cóc, đội mũ tai bèo về làng th́ chỉ c̣n lại ngôi nhà lá đơn sơ và cái bàn thờ với ba tấm ảnh cha mẹ và anh trai, vây quanh tấm bằng tổ quốc ghi công. Điều cô ngạc nhiên là ba nén hương ai đó vừa mới thắp tỏa khói thơm khắp nhà.

Buổi đầu bà con làng nước, ḍng họ, mỗi người một tay xúm lại sửa chữa ngôi nhà bao năm lạnh lẽo không có hơi người. Sự cảm động của Ngoạn rồi cũng mau chóng qua đi, chỉ c̣n lại nỗi cô đơn, sự mất mát người thân và đồng đội là c̣n măi day dứt…

Mỗi lần bà Tám, cô ruột, bà Quỳnh, d́ ruột nhắc đến chuyện chồng con, Ngoạn chỉ thở dài và buông một câu: con già rồi biết lấy ai, ai lấy.

Bà Tám, bà Quỳnh thương cháu, nghĩ đến hạnh phúc của cháu th́ nói vậy chứ cả cái xă này nồi tṛn đă úp vung tṛn, nồi méo đă úp vung méo, chỉ c̣n bọn choai choai mới lớn và ông Đông goá vợ, tối ngày ôm chai rượu đi ngất ngưởng khắp xóm, không thể gả cháu ḿnh cho ông được.

Gần hai năm sống lủi thủi trong ngôi nhà rách nát, niềm vui duy nhất của Ngoạn là nhận được thư của bạn bè, đồng đội một thời, cư ngụ khắp các tỉnh. Thư từ theo năm tháng cứ thưa dần. Đầu năm bảy bảy, Ngoạn ba lô khăn gói ra ga lên tàu . Mọi người trong xă chỉ biết Ngoạn đi thăm bạn, theo như Ngoạn nói. Cuối năm đó Ngoạn bồng về làng một bé trai kháu khỉnh, c̣n đỏ hỏn. Đó là thằng Thành của ngày hôm nay, làm đám cưới với con Thuư. Khác với cô Lâm dạo nọ, dân xă Vĩnh Sơn cũng ít bàn tán về ai là cha của đứa bé. Cuộc chiến tranh để lại vô vàn những hố bom trong làng, những người trẻ tuổi ra đi không trở về… và bốn đứa trẻ không biết cha ḿnh là ai. Cách nay đă hơn ba mươi năm, dạo cô Liên, chồng đi bộ đội vào Nam, bặt tin tức bỗng nhiên có chửa. Không biết ai dạy mà trẻ con chăn trâu trong xă cứ hát oang oang theo nhạc của bài “Đường cày đảm đang”, một bài hát rất phổ biến của thời bấy giờ:

Từ ngày anh đi ở nhà em chửa hoang / đẻ đứa con trai nó giống cả làng…

Cô Liên xấc bấc xang bang một dạo, mất chức đội trưởng sản xuất, bị khai trừ Đảng. Theo như cách nói của nhiều người thời bấy giờ là rơi xuống hố phân, mất hết. Không có chuyện mất hết. Bố mẹ chồng nhất định không cho Liên ôm quần áo về nhà bố mẹ đẻ. Mẹ chồng cô bảo con là con dâu mẹ. Sinh con trai hay con gái th́ cháu vẫn là cháu của ông bà. Mai mốt chồng con về, nó phải biết thông cảm và tha thứ. Bằng không, mẹ sẽ lấy thêm vợ cho nó, làm nhà riêng cho nó ở th́ con vẫn là vợ cả, đứa tê là vợ lẻ.

Ba năm sau chồng Liên về thật, lành lặn khoẻ mạnh. Đi đâu anh cũng dắt thằng cu đi theo. Lúc th́ ngồi sau yên xe đạp, lúc cơng chạy nhong nhong. Thằng bé cười nắc nẻ mỗi lần được bố cù (thọc lét). Từ đó ba năm đôi, mắn như gà. Bây giờ vợ chồng Liên đă có năm con, đứa con gái út mới vào đại học.

Trước cách đối xử cao thượng của người lính đă dẹp tan những lời ong tiếng ve của kẻ xấu miệng. Và trẻ con, không hiểu sao, cũng thôi không hát các bài lếu láo… từ ngày anh đi ở nhà em chửa hoang…

Theo “lệnh” hai bên gia đ́nh, Thuư và Thành thức đến một giờ đêm liệt kê danh sách khách mời đám cưới dài mười tám trang sách học tṛ. Khách trong làng ngoài xă không bỏ sót ai đă đành. Khách là người làng, người trong họ, ngoài họ, những ai thân t́nh nhất đang công tác, làm ăn buôn bán khắp cả nước, phải gửi thiệp mời đến tận nơi. Sót là không được. Ḿnh phải mời người ta, c̣n người ta có về hay không đó là việc của họ. Cái danh sách ngoài xă cũng dài dằng dặc đến hơn ba mươi ngừơi, mở đầu là ông Lê Mỹ Nhàng hiện đă nghỉ hưu đang ở trong Sài G̣n. Ông Nhàng không những là ân nhân của ḍng họ Lê mà c̣n là ân nhân của cả xă. Cái xă Vĩnh Sơn ở vùng quê heo hút này thời nào cũng có ngừơi làm lớn. Dưới triều Nguyễn có ông làm đến thượng thư. Không tính ông bộ trưởng đă nghỉ hưu, xă c̣n vài ông tướng, ông tá đương chức đương quyền, cỡ cán bộ cấp cục, cấp vụ, giáo sư tiến sĩ, kĩ sư, bác sĩ… th́, theo cách nói mụ Kinh Cọng là đông như… lợn con. Dù vậy, làng trên xóm dưới vẫn quư ông Lê Mỹ Nhàng. Ông đă xuất tiền xây bốn căn nhà t́nh nghĩa t́nh thương cho xă, trong đó hai ngôi nhà, theo chỉ đạo của ông, xă dành cho mẹ con cô Ngoạn, mẹ con cô Lâm v́ là mẹ goá con côi. Ngôi trường cấp II khang trang nằm ngay chính giữa xă, xây hết tám trăm triệu là tiền đóng góp của những người công tác trong ngành ông, lúc ông đang tại chức. “Một người làm quan cả họ được nhờ”, câu nói của ngày xưa, bây giờ cũng… xưa rồi. “Một ngừơi làm quan, cả xứ… được nhờ”. Thời hiện đại, phải nói thế mới… hợp nhăn!

Ông Nhàng về hưu ở lại Sài G̣n, một vợ một con gái, không biết làm ăn những ǵ mà giàu quá vậy? Đó là điều mà dân xă Vĩnh Sơn hay xầm x́ bàn tán. Bàn tán cũng chỉ là bàn tán chứ chẳng ai biết đầu cua tai nheo ông Nhàng làm ăn những ǵ. Măi cho tới khi có anh nhà báo, cũng là người họ Lê, con dân của làng, làm phóng viên một tờ báo ngoài Hà Nội, từng ngang dọc hết Tây, Tàu, Mỹä… biết tường tận mọi chuyện trên đời kể ra, mọi người mới vỡ nhẽ. Anh bảo ông Nhàng lúc từ Hà Nội vào Sài G̣n đă được phân cái nhà mặt tiền trên con đường lớn ở quận nội thành. Đến khi ông được đề bạt lên cấp cao hơn, người ta lại điều cho gia đ́nh ông chuyển sang cư ngụ trong một villa chỉ cách chợ Bến Thành không quá hai cây số. Lại vẫn theo lời kể của anh phóng viên, cuối thập kỷ 80 người ta hoá giá rẻ rề như là cho không. Cái này gọi là lộc nước, anh nhà báo b́nh luận. Ấy vậy mà có đứa lếu láo trong đám làm báo, dám gọi lộc nước ra chữ khác, na ná như nước. Giấy hoá giá chưa ráo mực, chớp thời cơ, ông bán ngay nhà với giá gần một ngh́n lượng vàng (giá hiện nay th́ villa đó phải hơn hai ngh́n lượng). Ông mua một ngôi nhà trong hẻm với giá sáu mươi bảy lượng năm chỉ (anh nhà báo nói chi tiết đến từng chỉ, gớm thật!). Hơn chín trăm cây vàng c̣n lại, ông ra ngoại thành mua đất, phân lô, bán lại cho mọi người. Giá đất tăng ṿn vọt. Ban đầu giá mua một bán gấp hai gấp ba, đến những năm cuối thế kỉ đất ông mua một, bán gấp năm gấp bảy. Ngoài việc mua bán đất, ông c̣n xây nhà khắp các quận huyện để cho thuê. Kể đến đó, anh nhà báo hạ giọng: cho đến nay, đất của ông nằm rải rác nội thành, ngoại thành, c̣n chừng vài hécta chưa bán. Nói đi phải nói lại, cũng có người được lộc nước, bán, mua nhà khác nhỏ hơn để ở. Tiền dư ra gửi về quê xây nhà thờ họ, xây trường, lập quỹ khuyến học. Số người làm giàu sống sa đoạ rồi đạo đức giả kiểu ông Nhàng không nhiều nhưng cũng chẳng ít.

- Số người thực ḷng nghĩ đến quê hương bản quán nhiều hay ít hơn loại người như ông Nhàng?

Anh nhà báo:

- Bà con bắc thang lên hỏi trời, chớ tôi không biết…

Nghe anh nhà báo nhởn nha tṛ chuyện, chồng cô Liên, cái anh bộ đội coi con người như con ḿnh, rít một hơi thuốc lào, ngểnh cổ nhả khói lên trời, hạ giọng:

- Ông Nhàng biết nghĩ đến dân làng như thế là quá tốt, kể ra ông cho chừng này tiền để xây dựng xă là c̣n quá ít, giá như ông cho mỗi thằng lính như tôi một cái nhà th́ hay biết mấy.

Cô Liên nguưt chồng, vừa đi vào bếp vừa nói: cho tất cả các ông cựu chiến binh nhà anh mỗi người một cái nhà, có tiền là vỏ hến.

- Mẹ nó chẳng biết cái ǵ cả. Cựu chiến binh xă này, hồi mới hoà b́nh là hơn tám mươi ngừơi, gần ba mươi năm nay, chết dần chết ṃn, bây giờ chỉ c̣n lại hai mươi ba mống. Mỗi cái nhà, giá cao nhất là tám triệu, tính ra tất cả, cũng chưa đến hai trăm triệu.

Chồng cô Liên buông điếu cày đứng lên nói với tất cả mọi người đang ngồi xung quanh:

- Ông Nhàng giàu nứt đố đổ vách như rứa là cũng nhờ xương máu của bọn lính tráng chúng tôi, đúng không anh nhà báo?

Mụ Kinh Cọng từ năy giờ chỉ há hốc mồm ngồi nghe, lúc này nhổ quệt trầu vào góc nhà, to tiếng:

- Xưa nay tôi cứ nghĩ ông Nhàng rộng ḷng, cho xă như thế là nhiều. Nói là tiền cán bộ trong ngành đóng góp, thực chất là tiiền thuế má của dân. Bây giờ mới biết của nả nhiều như rứa, số tiền xuất ra cho xă từ trước đến nay chỉ mới bằng một nắm thóc trong kho thóc. Khi mô ông Nhàng về đây, tôi đề nghị ủy ban xin tiền ông xây thêm cái trạm xá với mấy ngôi nhà cho các gia đ́nh liệt sĩ. Xă ta có bao nhiêu liệt sĩ? Chưa ai kịp trả lời, mụ đă quay sang hỏi anh nhà báo: thế chú có biết vợ ông Nhàng làm chi không, chẳng lẽ chỉ ăn rồi chơi à. Anh nhà báo chẳng thèm nh́n vào mặt mụ Kinh Cọng, đáp: bà ấy gốc gác con nhà nông, ngồi chơi, chịu sao nổi. Bà cũng chạy ngược chạy xuôi buôn bán bằng nước bọt, rồi chơi hụi, quê ta gọi là chơi họ. Thắng cũng nhiều, bể hụi cũng lắm. Hồi mới vào Sài G̣n bà xấp xỉ bốn mươi, nghe nói chịu khó đi đền đi chùa, xin một thằng con cầu tự. Trời phật cũng thương t́nh , đâm nụ kết hoa cho một cái bầu. Thời đó chưa có siêu âm, bà đi thầy lang bắt mạch bốc thuốc, nghe nói con trai. Mừng hơn bắt được vàng. Đến tháng thứ bảy vô ư vô tứ, xuống cầu thang trượt ngă. Thế là sẩy thai. Mụ Kinh Cọng suưt xoa: tội nghiệp hè, rứa là vẫn không có thằng chống gậy. Mụ lại ngoảnh sang anh nhà báo: lâu nay chú có gặp ông bà ấy không? Anh nhà báo: ông vẫn tráng kiện, da dẻ hồng hào, chỉ tóc là trắng như cước. C̣n bà Nhàng, mới ngoài sáu mươi, ăn uống muốn ǵ có nấy, ấy vậy mà gầy c̣m như cây sậy, chẳng bù cho cô giúp việc béo phây phây. C̣n cô con gái, du học bên Liên Xô. Hồi Liên Xô tan ră, sẵn đô la trong tay, cô dông tuốt sang Mỹ. Học hành bằng cấp thế nào không ai hay, chỉ biết là cô lấy một ông chồng Mỹ nghe nói cũng nghèo, thất nghiệp. Ông bà Nhàng có đưa cho tôi coi ảnh cháu ngoại. Một đứa cháu gái bụ bẫm, tóc vàng mũi tẹt, vừa giống búp bê vừa giống vượn.

Mụ Kinh Cọng từ năy đến giờ lắng nghe, đột nhiên thở dài: tội nghiệp hai ông bà già, con trai không có, con gái lại làm me Mỹ . Ông trời chi mà ác rứa hè!

*

*    *

Dân xă Vĩnh Sơn chuẩn bị lễ cưới cho Thuư và Thành nhiệt t́nh hết chỗ chê. Trang trí hội trường lộng lẫy, hai chữ Hỷ đỏ chói, cắt từ hai khổ giấy to hơn hai cái nia. Lời chúc hạnh phúc cho đôi trẻ bằng tiếng Việt, tiếng Tàu, tiếng Anh… đủ cả. Hai cái rạp dựng ở nhà cô Ngoạn, cô Lâm cao vút trời, rộng mênh mông, bàn ghế để tiếp bà con phải huy động gần như là khắp xă, kê san sát vào nhau. Ai cũng nhiệt t́nh giúp đỡ cô dâu chú rể. Xăng xái nhất, ngoài Lê Thị Na ra, là mụ Kinh Cọng. Mụ Kinh là người khẩu xà tâm phật, cả làng ai cũng biết nên không ai giận mụ. Hai ngày hôm nay, dẹp gánh hàng xén đầu làng, mụ chạy ngược chạy xuôi, ḥ hét đám thanh niên trang hoàng hội trường, đốc thúc bọn trai trẻ dựng rạp, khiêng bàn khiêng ghế, rửa bát rửa nồi…

Họ hàng thân thuộc của cô dâu chú rể từ ngoài Bắc kéo về, từ trong Nam dồn ra, đă hơn hai chục. Duy có một người, cô Ngoạn cô Lâm và bà con hai họ trông ngóng đó là ông Nhàng th́ chưa thấy tăm hơi đâu cả.

Ngày tốt, giờ tốt đă được thầy coi. Đúng đầu giờ Th́n, họ nhà trai đến rước dâu. Bong bóng nổ đùng đoàng thay pháo. Vui quá trời. Hai họ cười nói, tṛ chuyện, ăn uống, vài người say bét nhè. Cuối giờ Ngọ mọi người lục tục kéo lên hội trường để đại biểu chính quyền đoàn thể, họ nhà trai nhà gái… kính thưa và hát ḥ.

Ông chủ tịch xă vừa bước lên micrô gơ gơ th́ nghe tiếng ô tô. Ngoái nh́n ra cánh đồng thấy chiếc xe màu phớt trắng đang từ từ ḅ vào làng. Không ai bảo ai, mọi ngừơi reo ầm lên: cụ Nhàng, cụ Lê Mỹ Nhàng về đúng lúc quá!

Chiếc xe vừa ḅ vào sân hội trường mọi người đă xúm đông xúm đỏ vây quanh. Chú tài xế bước ra khỏi xe, không có cách nào dẹp được bà con, mở cửa cho ông chủ. Trong xe, ông chủ Nhàng ăn mặc xuềnh xoàng, ngoài sự tưởng tượng của bà con. Măi khi anh tài xế dẹp được đám đông, mở cửa để ông chủ bước ra th́ mọi người kinh ngạc khi thấy mặt ông Nhàng tái mét như đít nhái, mồ hôi vă ra như người mới tung chăn khỏi nồi nước xông. Bước xuống xe, loạng choạng, h́nh như ông cố gượng đứng lên thật vững. Không kịp bước vào hội trường, ông rướn người đưa hai tay lên trời, không phải nói mà kêu, mà hét thật to: Trời ơi! Con Thuư, thằng Thành, cả hai đứa đều là con tôi, đều là người họ Lê.

Chỉ nói được vậy, rồi ông ngă nhào ra sân.

Mụ Kinh Cọng hét lên: cấp cứu, cấp cứu mau lên chú lái xe ơi.

Dân xă Vĩnh Sơn không ai hốt hoảng, có lẽ họ đă linh cảm điều này từ lâu, chỉ có bọn choai choai là thảng thốt, ngơ ngác.

Ông chủ tịch xă leo lên ghế trước ôtô. Hai anh thanh niên trèo lên ghế sau, đỡ ông Nhàng nằm gối đầu, gác chân lên người họ. Chiếc xe trực chỉ hướng về phía bệnh viện huyện.

Mụ Kinh Cọng lặng lẽ nh́n theo, thở dài…

Trước thềm hội trường, cô Ngoạn cô Lâm đứng cứng đờ, vô cảm như hai cái cột điện.

Hơn hai mươi năm trước các cô đi “kiếm” một đứa con mong ấm cửa ấm nhà, lúc tuổi già có nơi nương tựa, láng giềng làng nước ai cũng thương mến và cảm thông. Các cô cứ ngỡ t́m đến ông Nhàng là “giống” tốt của một ḍng họ bề thế, có bề dày lịch sử mà quên rằng họ Lê hay bất cứ họ nào cũng có người anh hùng và thằng đốn mạt. Bất hạnh đă ập đến và hạnh phúc không mỉm cười. Nhờ cuộc chiến tranh đẫm máu, ông Nhàng hoạt động ở những vùng hậu phương xa ngái, nơi ḥn tên mũi đạn không lao tới mà mau chóng thăng quan tiến chức. Khi cuộc chiến tranh kết thúc, ông lại sống ở thành phố giàu đẹp, hưởng nhiều bổng lộc, sống thừa mứa để… luôn dậm dật chân tay. Ngoài đứa con gái chính thống, ông cũng không tài nào biết hết những đứa con vương văi của ḿnh đang sống cù bơ cù bất ở những đâu.

Mụ Kinh Cọng ngồi thụp xuống đất, tấm tức khóc và nói như nói riêng với chính ḿnh: khổ cho thằng Thành với con Thuư. Con Thuư có chửa ba bốn tháng rồi, nh́n vào cái ngực, cái cổ nó là tôi biết. Mụ bỗng la lên: làm răng bây giờ trời ơi, chức quyền tiền bạc mà làm chi để hại đời hai ngừơi đàn bà, hại cả ḍng họ Lê nhà tui.

Cụ Hiền mấy hôm nay vui vẻ đi khắp làng xởi lởi thăm hỏi mọi người, bây giờ trầm ngâm chắp tay sau lưng đi đi lại lại, bỗng cụ ngẩng lên nói như quát:

- Cấp cứu mà làm ǵ. Hạng người đó chết đi cho sạch xă, sạch nước!

Dứt lời cụ quay gót đi thẳng. Nhiều người nh́n theo cụ. Cụ cũng là người họ Lê, vai chú Lê Mỹ Nhàng. Cụ là tiến sĩ ngữ văn, dạy học trong Sài G̣n, cũng đă nghỉ hưu.

- Thằng Thành, con Thuư chạy đi đâu rồi ? Vẫn là câu hỏi thảng thốt của mụ Kinh Cọng.

Mấy hôm nay trời đă mưa rả rích suốt ngày đêm, báo hiệu sắp có lụt lớn. Xe cấp cứu ông Nhàng vừa chuyển bánh được một lát, trời bỗng vặn ḿnh nổi cơn băo, mưa như ném đá vào các nóc nhà, cây cối… Con sông Vạn Phường chảy dọc làng gầm réo, gạch đá, rác rưởi… tuôn ào ào. Lũ quét đă về… Tiếng loa kêu gọi chống lũ oang oang, oang oang. Sẽ ra sao sau cơn lũ này, làng xóm của tôi?

 

Hà Tĩnh 11/1999

 



[1] Tiếng địa phương vợ chồng gọi là “gấy – nhôông”