Xuân Sách
Chân dung nhà văn
1.
Trên biển lớn lênh đênh sóng nước
Ngó trông về xóm mới khuất xa
Cỏ non nay chắc đă già
Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem
2.
Xung kích tràn lên nước vỡ bờ
Đă vào lửa đỏ hăy c̣n mơ
Bay chi mặt trận trên cao ấy
Quên chú nai đen vẫn đứng chờ.
3.
Dế mèn lưu lạc mười năm
Để o chuột phải ôm cầm thuyền ai
Miền Tây sen đă tàn phai
Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo
hoang.
4.
Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ
Sóng gầm sông Lấp mấy ai hay
Cơn băo đến động rừng Yên Thế
Con hổ già uống rượu giả vờ say.
5.
Bác Kép Tư Bền rơ đến vui
Bởi c̣n tranh sáng bác nhầm thôi
Bới tung đống đống rác nên trời phạt
Trời phạt chưa xong bác đă cười.
6.
Vang bóng một thời đâu dễ quên
Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên
Chén rượu t́nh rừng cay đắng lắm
Tờ hoa lại trút lệ ưu phiền.
7.
Các vị La hán chùa Tây phương
Các vị già quá tôi th́ béo
Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
Bây giờ tôi hát đất nở hoa
Tôi hát chiến tranh như trẩy hội
Đừng nên xấu hổ khi nói dối
Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu
8.
Hai đợt sóng dâng một khối hồng
Không làm trôi được chút phấn thông
Chao ơi ngói mới nhà không mới
Riêng c̣n chẳng có, có ǵ chung.
9.
Quá tuổi hoa niên đă bạc đầu
T́nh c̣n dang dở tận Hàng Châu
Khúc ca mới hát sao buồn thế
Hai nửa yêu thương một nửa sầu
10.
Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn
Ta nghĩ tới vàng sao từ thuở ấy
Chim báo băo, lựa chiều cơn gió dậy
Lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa
Thay đổi cả cơn mơ
Ai dám bảo con tầu không mộng tưởng
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Ḷng ta cũng như tầu, ta cũng uống
Mặt anh em trong suối cạn hội nhà văn
11.
Trăng sáng soi riêng một mặt người
Chia ly đôi bạn cách phương trời
Ước mơ của đất anh về đất
Im lặng mà không cứu nối đời.
12.
Nên danh nên giá ở làng
Chết v́ ông lăo bên hàng xóm kia
Làm thân con chó xá ǵ
Phận đành xấu xí cũng v́ miếng ăn.
13.
Một nắm xương khô cũng gọi mỡ
Quanh năm múa bút để mua vui
Tưởng cụ vẫn bơi ḍng nước
ngược
Nào ngờ trở gió lại trôi xuôi.
14.
Phất rồi ông mới ăn khao
Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời
Ông đồ phấn, ông đồ vôi
Bao giờ xé xác để tôi ăn mừng.
15.
Vị nghệ thuật nửa cuộc đời
Nửa đời sau lại vị người ngồi
trên
Thi nhân c̣n một chút duyên
Lại ṿ cho nát lại lèn cho đau
B́nh thơ tới thuở bạc đầu
Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân t́nh
Giật ḿnh ḿnh lại thương ḿnh
Tàn canh tỉnh rượu bóng h́nh cũng tan.
16.
Vốn cùng nhân dân tiến lên
Mùa đông năm ấy bỏ quên cờ đào
Quay về núp bóng ca dao
Giật ḿnh nghe một tiếng chào
Văn Ngan?
17.
Hỏng đôi mắt phải đâu là mất hết
Trong cặp c̣n hồ sơ điệp viên
Ông cố vấn chẳng sợ ǵ cái chết
Cao điểm cuối cùng quyết chí xông lên.
18.
Đám cháy ở sau lưng
Đám cháy ở trước mặt
Than ôi mày chạy đâu
Dưới ṿm trời quen thuộc
Đốt bao nhiêu cỏ mật
Không bay mùi thơm tho
Càng hun càng đỏ mắt
Quay về thung lũng c̣.
19.
Mải hái hoa dọc chiến hào
Bỏ quên chồi biếc lúc nào không hay
Thói quen cũng lạ lùng thay
Trồng cây táo lại mọc cây bạch đàn
20.
Trường Sơn đông em đi hái măng
Trường Sơn tây anh làm thơ cho lính
Đời có lúc bay lên vầng trăng
Lại rơi xuống chiếc xe không kính
Thế đấy! Giữa chiến trường
Nghe tiếng bom cũng mạnh!
21.
Thao thức năm canh nghĩ chẳng ra
Tṛ chơi nguy hiểm đấy thôi mà
Lửng lơ giữa khoảng trong xanh ấy
Để mối đùn lên cái gốc già.
22.
Trời thí cho ông vụ lúa chiêm
Ông xây sân gạch với xây thềm
Con đường ṃn ấy ông đi măi
Lưu lạc lâu ngày mất cả tên.
23.
Hai lần lỡ bước sang ngang
Thương con bướm đậu trên dàn mồng
tơi
Trăm hoa thân ră cánh rời
Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ.
24.
Nhọc nhằn theo bước con trâu
Hỡi người áo trắng nông sâu đă từng
Mỗi bước đi một bước dừng
Mà sao vẫn lạc giữa rừng U Minh.
25.
Mấy lần đất nước đứng lên
Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm
Hại thay một mạch nước ngầm
Cuốn trôi Đất Quảng lẫn rừng Xà Nu.
26.
Từ trong hom giỏ chui ra
Đă toan gánh vác sơn hà chị ơi
Định đem cái lạt buộc người
Khổ thân ông lăo vịt trời phải chăn.
27.
“Sông Mă xa rồi tây tiến ơi...”
Về làm xiếc khỉ với đời thôi
Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm
Sống tạm cho qua một kiếp người.
“Áo sờn thay chiếu anh về đất”
Mây đầu ô trắng, Ba V́ xanh
Gửi hồn theo mộng về tây tiến
Sông Mă gầm lên khúc độc hành.
28.
Tưởng chuyện như đùa hoá ra thật
Biết ông sằng phẳng tự bao giờ
Cái con tḥ ḷ quay sáu mặt
Vồ hụt mấy lần ông vẫn trơ.
29.
Cha và con... và họ hàng và...
Hết bay mùa thóc lẫn mùa lạc
Cho nên chiến sĩ thiếu lương ăn
Họ sống chiến đấu càng khó khăn
Tháng ba ở Tây Nguyên đỏ lửa
Tháng tư lại đi xa hơn nữa
Đường đi ra đảo đường trong mây
Những người trở về mấy ai hay
Xung đột mỗi ngày thêm gay gắt
Muốn làm cách mạng nhưng lại dát!
30.
Đường chúng ta đi trong gió lửa
C̣n mơ chi tới những cánh buồm
Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất
Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành
cơm.
31.
Tấm áo hào hoa bạc gió mưa
Anh thành đồng chí tự bao giờ
Trăng c̣n một mảnh treo đầu súng
Cái ghế quan trường giết chết thơ.
32.
Bao năm ngậm ngải t́m trầm
Giă từ quê mẹ xa ḍng Hương giang
Bạc đầu mới biết lạc đường
Tay không nay lại vẫn hoàn tay không
Mộng làm giọt nước ôm sông
Ôm sông chẳng được, tơ ḷng gió bay
33.
Một con trâu bạc già nua
Nhờ cơn băo biển thổi lùa lên mây
Trâu ơi ta bảo trâu này
Quay về đất mặn kéo cày cho xong.
34.
Tài ba thằng mơ cỡ chuyên viên
Chia xôi chia thịt lại chia tiền
Việc làng việc nước là như vậy
Lộn xộn cho nên phải tắt đèn.
35.
Em c̣n đôi mắt ngây thơ
Sống ṃn mà vẫn đợi chờ tương lai
Thương cho thị Nở ngày nay
Kiếm không đủ rượu làm say Chí Phèo!
36.
Xoắn măi dây t́nh thơ bật ra
Paris th́ thích hơn ở nhà
Đông y ắt hẳn hơn tây dược
Xe tải không bằng xe Volga
Trên đời kim cương là quí nhất
Thứ đến t́nh thương dân nghèo ta
Em chớ cho anh già lẩm cẩm
C̣n hơn thằng trẻ lượn Honda.
37.
Em không nghe mùa thu
Mùa thu chỉ có lá
Em không nghe rừng thu
Rừng mưa to gió cả
Em thích nghe mùa xuân
Con nai vàng ngơ ngác
Nó ca bài cải lương.
38.
Một mặt đường khát vọng
Cuộc chiến tranh đi qua
Rồi trở lại ngôi nhà
Đốt lên ngọn lửa ấm
Ngủ ngon a kai ơi
Ngủ ngon a kai à...
39.
Anh Keng cưới vợ tháng mười
Những đứa con lại ra đời tháng năm
Trong làng kháo chuyện ŕ rầm
Vụ mùa chưa gặt thóc đă nằm đầy kho.
40.
Ấy bức tranh quê đẹp một thời
Má hồng đến quá nửa pha phôi
Bên sông vải chín mùa tu hú
Khắc khoải kêu chi suốt một đời.
41.
Đôi vai th́ gánh lập trường
Đôi tay sờ soạng ven đường cuối thôn
Nghe anh kể chuyện đầu nguồn
Về nhà thấy mất cái hồn của em.
42.
Nhá nhem khoảng sáng trong rừng
Để cho cuộc thế xoay vần hơn thua
Xác xơ màu tím hoa mua
Lửa chân sóng báo mây mưa suốt ngày.
43.
Chị Tư Hậu đẻ ra anh
Ví như ḥn đất nặn thành đứa con
Biển xa gió dập sóng dồn
Đất tan thành đất chỉ c̣n giấc mơ.
44.
Đi bước nữa rồi đi bước nữa
Phấn son mưa nắng đă tàn phai
Cái kiếp đào chèo là vậy đó
Đêm tàn bạn cũ chẳng c̣n ai.
45.
Đă đi qua một thời giông tố
Qua một thời cơm thầy cơm cô
C̣n để lại những thằng Xuân tóc đỏ
Vẫn nghênh ngang cho đến tận bây giờ.
46.
Thơ ông tang tính tang t́nh
Cây đa bến nước mái đ́nh vườn dâu
Thân ông mấy lượt lấm đầu
Miếng mồi danh lợi mắc câu vẫn thèm.
47.
Bắt đầu từ lăo nghị hụt
Cầm dao giết một mạng người
Chị Nhàn phải đi bước nữa
Lấy đại đội trưởng của tôi
Cuộc đời mấy phen nổi gió
Phải đem tổ quốc thề bồi
Lần này ông ra ứng cử
Chắc là trúng nghị viên thôi.
48.
Ông năm Hạng trở về đất lửa
Với chiếc lược ngà vượt Trường
Sơn
Bỗng mùa gió chướng vừa nổi dậy
Ông biến thành thằng nộm h́nh rơm.
49.
Có những lớp người đi vỡ đất
Mùa mưa không trồng lúa trồng ngô
Lại gieo hạt bông hường bông cúc
Trên mảnh đất này hoa héo khô.
50.
Chuyện kể cho người mẹ nghe
Biển lửa bốc cháy bốn bề tan hoang
Đứa con nuôi của trung đoàn
Phá vây xong lại chết ṃn trong vây.
51.
Đất làng vừa một tấc
Bao nhiêu người đến cày
Thóc giống c̣n mấy hạt
Đợi mùa sau sẽ hay.
52.
Sớm nay nhấp một chén trà
Bâng khuâng tự hỏi đâu là núi đôi
Những người cùng làng với tôi
Muốn sang đèo trúc muộn rồi, đừng sang.
53.
Biên kia biên giới anh sang
Trước giờ nổ súng về làng làm chi
Mẫn và tôi tính chi li
Gia đ́nh má Bảy lấy ǵ nuôi anh.
54.
Anh chẳng c̣n sống măi
Với thủ đô luỹ hoa
Để những người c̣n lại
Bốn năm sau khóc oà.
55.
Chim chơ rao cất cánh ngang trời
T́nh như chớp trắng nháy liên hồi
Đám mây cánh vạc tan thành nước
Mà đất ba dan vẫn khát hoài.
56.
Sinh ra trong gió cát
Đất Nghệ An khô cằn
Bao nhiêu năm nằm vạ
Trước cửa hội nhà văn.
57.
Đem than từ vùng mỏ
Về bán tận thủ đô
Bị đập chiếc cán búa
Hoá ra thằng ngẩn ngơ.
58.
Tưởng anh dọn về làng xưa
Ngờ đâu về tận thủ đô nhận nhà
Sướng cái bụng lắm lắm à
Đêm là đèo gió, ngày là Hồ Tây.
59.
Với tiếng sáo thiên thai d́u dặt
Mở ra ḍng thơ mới cho đời
Bỏ rừng già về vườn bách thú
Con hổ buồn lặng lẽ trút tàn hơi.
60.
Cửa sông cất tiếng chào đời
Rồi ra đi những vùng trời khác nhau
Dấu chân người lính in mau
Qua miền cháy với cỏ lau bời bời
Đọc lời ai điếu một thời
Tan phiên chợ Giát hồn người về đâu?
61.
Nếu Trương Lương không thổi địch
sông Ô
Liệu Hạng Vơ có lên ngôi hoàng đế?
Nhưng buồn thay đă đánh mất Ngu Cơ
Đời c̣n ǵ, và thơ cũng thế.
62.
“Xưa tôi yêu quê hương v́ có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đ̣n roi”
Nay tôi yêu quê hương v́ có ô che nắng
Có ghế ngồi viết những điệu thơ vui.
63.
Nhen lên một bếp lửa
Mong soi gương mặt người
Bỗng cơn giông nổi dậy
Mây che một khung trời
Đất sau mưa hỡi đất
Màu mỡ trôi về đâu
C̣n trơ chiếc guốc vơng
Trăng mài ṃn canh thâu.
64.
Một chút hương thơm trải bốn mùa
Mười năm lăn lóc chốn rừng già
Quay về khứng chịu cơn mưa móc
Đất trắng mưa rồi đất lại khô.
65.
Xưa thơ anh viết không người hiểu
“Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”
Nay anh chưa viết người đă hiểu
Sắp sáng th́ nghe có tiếng gà.
66.
Người đi, ừ nhỉ người đi thật
Đi thật nhưng người lại trở về
Nhẹ như hạt bụi, như hơi rượu
Mà đắm hồn người trong tái tê.
67.
Không có vua th́ làm sao có tướng
Nên về hưu vẫn phải chết ở chiến
trường
Kiếm sắc chém bao nhiêu đầu giặc
Để vàng tôi trong lửa chịu đau thương.
68.
Hồn đă vượt Côn đảo
Thân xác c̣n trong lao
Bởi nghe lời mẹ dăn
Nên suốt đời lao đao.
69.
Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt trông về tám hướng phía trời xa
Chân dép lốp bay vào vũ trụ
Khi trở về ta lại là ta
Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việc Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường hoa ở đây.
70.
Tay em cầm bông bần li
Bờ cây đỏ thắm làm chi năo ḷng
Chuyện t́nh kể trước rạng đông
Hoàng hôn ảo vọng vẫn không tới bờ
Thiên đường th́ quá mù mờ
Vĩ nhân tỉnh lẻ vật vờ bóng ma
Hành tŕnh thơ ấu đă qua
Hỡi người hàng xóm c̣n ta với ḿnh.
71.
Cùng đoàn quân anh đi tới thành phố
Bị lạc đường về hội nhà văn
Ừ nhỉ bao giờ quay trở lại
Với năm anh em trong một chiếc xe tăng.
72.
Ván bài lật ngửa tênh hênh
Con đường thiên lí gập gềnh măi thôi
Thay tên đổi họ mấy hồi
Vẫn chưa tới được chân trời mộng
mơ.
73.
Mẹ và em đang ở đâu
Giữa vùng cát trắng đêm thâu gió lùa
Ổ rơm teo tóp ngày mùa
Xác xơ thân lúa vật vờ thân tôi
Bờ tre kẽo kẹt liên hồi
Bầu trời vuông với một ngôi sao dời
Đánh thức tiềm lực mấy hồi
Ai?
Chẳng ai đáp lại lời của tôi.
74.
Anh đă đứng trước biển
Cù Lao Chàm kia rồi
Nhưng khoảng cách c̣n lại
Xa vời lắm anh ơi.
75.
Ôi thằng Trần Mạnh Hảo
Đi phỏng vấn Chí Phèo
Lăo chết từ tám hoánh
Đời mày vẫn gieo neo
C̣n cái lăo Bá Kiến
Đục bản in thơ mày
Bao giờ mày say rượu
Bao giờ th́ ra tay.
76.
Em ơi buồn làm chi
Em không buồn sao được
Quan họ đă vào hợp tác
Đông Hồ gà lợn nuôi chung
Bên kia sông Đuống em trông
C̣n đâu thấy lá diêu bông hỡi chàng.
77.
Người về đồng cói người ơi
Phía ấy mặt trời mọc lại
Một thời xa vắng, xa rồi
Phủ Khoái xin tương oai oái
Ở đời gặp may hơn khôn
Nào ai dám ghen dám căi
Người đă đi Mĩ hai lần
Biết rồi, khổ lắm, nói măi!
78.
Anh đứng thành tro em có biết
Hôm qua lại gặp chuyến xe ḅ
Vẫn anh đi với vầng trăng cũ
Áo đỏ bên cầu đợi ngẩn ngơ.
79.
Ôi màu tím hoa sim
Nhuộm tím cuộc đời dài đến thế
Cho đến khi tóc bạc da mồi
Chưa làm được nhà
c̣n bận làm người
Ngoảnh lại ba
mươi năm
Tím mấy ngàn chiều hoang biền biệt.
80.
Ḳn trô dấn bước đường chinh chiến
Nửa gánh giang hồ nửa ái ân
Ngàn sau sông Dịch c̣n tê lạnh
Tráng sĩ có về với bến xuân.
81.
Văn chương thuở ấy như bèo
Thương cụ gồng gánh trèo leo tận trời
Giấc mộng lớn đă bốc hơi
Giấc mộng con suốt một đời bơ vơ
Ước chi cụ sống tới giờ
Chợ trời nhan nhản tha hồ bán văn
82.
Cũng muốn tin vào hoa hồng
Tin vào điều không thể mất
Cả tôi và cả chúng ta
Đứng trong đầm lầy mà hát
Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm đă chết
Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm ai giết!
83.
Bốn mươi tuổi mới vào đời
Ăn đ̣n hội chợ tơi bời xác xơ
Giữa hai trận tuyến ngu ngơ
Trong ḷng Hà nội bây giờ ở đâu?
84.
Vỡ ḷng câu thơ viết
Mời bác ngủ bác ơi
Đêm nay bác không ngủ
Nhà thơ ngủ lâu rồi.
85.
Thiên thai từ giă về dương thế
Nhắc chi ngày ấy buồn ḷng ta
Sân đ́nh ngất ngưởng ngôi tiên chỉ
Uống rượu say rồi hát quốc ca.
86.
Khi về xuôi anh mang theo
đồng bạc trắng hoa xoè
Với một mối
t́nh sơn cước
Mùa lá rụng trong vườn
năm này qua năm khác
Đám cưới vẫn không thành
v́ giấy giá thú chửa làm xong.
87.
Sắp cưới bỗng có thằng phá đám
Nên ông chửi bố chúng mày lên
Đầu chày đít thớt đâu c̣n ngán
Không viết văn th́ ông viết phim
88.
Biết mấy mươi chiều khói thuốc bay
Quê nhà vạn dặm khuất trùng mây
Lui về kí ức chân trời cũ
Uống chén rượu buồn không dám say.
89.
Trăm năm ông phủ... Ngọc Tường ôi
Cái nợ lên xanh rũ sạch rồi
Cửa Việt tung hoành con sóng vỗ
Sông Hương lặng lẽ chiếc thuyền trôi
Sử thi thành cổ buồn nao dạ
Chuyện mới Đông Hà tái nhợt môi
Từ biệt chốn xưa nhiều ánh lửa
Trăm năm ông phủ... Ngọc Tường ôi!
90.
Dẫu chín bỏ làm mười
hay mười hai cũng mặc
Chẳng ai dung thiên sứ đất này
Dụ đồng đội vào trong mê lộ
Rồi bỏ đi du hí đến năm ngày.
91.
Giặc giă yên rồi
về xoay khối vuông Ru bích
Đoán hậu vận rủi may
thưa quí vị, xin mời
Xanh tím trắng
đỏ vàng đều đủ hết
Ta cùng vào cuộc chơi
Không gian bốn năm chiều
thời gian xin tuỳ thích
Đảo lộn tùng
phèo thật giả trắng đen
Tôi như cục xà bông thứ thiệt
Cứ đổ rượu vào
h́nh quí vị sẽ hiện lên.
92.
Người người lớp lớp
xông ra trận
Cờ đỏ
mưa sa
suốt dặm dài
Mở đột phá khẩu
tiến lên
nhất định thắng
Lô cốt mấy tầng
đè nát vai
Dẫu sông núi cỏ cây
làm chứng
Hồn vẫn treo trên
Vọng hải đài.
93.
Ba lô trên vai từ đêm mười chín
Một tiếng chim kêu sáng cả rừng
Th́ cứ khắc đi rồi khắc đến
Sao c̣n ngồi đó cụ già Khương?
94.
Tuổi hai mươi xung phong lên Tây bắc
Nguyện hi sinh chiến đấu dưới cờ
Lại xung phong vào Nam đánh giặc
Với bà mẹ đào hầm đầu bạc phơ
phơ
Hoà b́nh rồi tiến lên đổi mới
Bất ngờ ngă ngựa chốn non cao
Dẫu nhiều lần bị lừa như thế
Th́ cuộc đời vẫn đẹp sao
T́nh yêu vẫn đẹp sao!
95.
Trái tim với nỗi nhớ ai
Như cây trong phố đứng hoài chờ trăng
Như người đàn bà ngồi đan
Sợi dọc th́ rối, sợi ngang th́ chùng.
96.
Ra đi từ bến My Lăng
Bao năm dấu kín ánh trăng trong ḷng
Tuổi già về lại bến sông
Trăng kia đă lặn phải chong đèn dầu.
97.
Giấu một chùm thơ trong chiếc khăn tay
Em hăm hở đi t́m người trao tặng
Những kẻ phong lưu, những tên du đăng
Mấy ai biết được hương thầm
của cô gái xóm đê.
98.
Chú dế góc sân hồn nhiên ca hát
Hát thành thơ như nước triều lên
Khi khôn lớn lại hồn nhiên đi giữa
Biển một bên và em một bên.
99.
Người đàn bà mà tôi ao ước
Trên vành đai chống Mĩ những năm xưa
T́nh yêu đă lụi tàn cùng kí ức
Nhưng c̣n đây tội lỗi đến bao giờ
Tự hoạ
Cô giáo làng tôi đă chết rồi
Một đêm ra trận đất bom vùi
Xót xa Đ́nh Bảng người du kích
Đau đớn Bạch Đằng lũ trẻ côi
Đường tới chiến công gân cốt mỏi
Lối vào lửa đạn tóc da mồi
Mặt trời ảm đạm quê hương cũ
Ở một cung đường rách tả tơi.
Lời cuối sách
Tiếp theo cuốn Thương nhớ tài hoa của
Nguyễn Vũ Tiềm, phác thảo chân dung của năm
mươi nhà thơ, nhà văn đă quá cố, những cây
bút có những đóng góp đặc sắc cho nền
văn học của đất nước, hôm nay Nhà
xuất bản Văn học gửi tới bạn
đọc một tập hợp khác về chân dung các nhà
văn.
Đây là những kí hoạ có tính đặc tả của
Xuân Sách, những chân dung vốn đă khá phổ biến
trong và ngoài giới văn học suốt vài chục năm
qua.
Tác giả không nêu đích danh ai, nhưng dưới nét bút
phác thảo, những độc giả quan tâm tới
văn học và người làm văn học, vẫn có
thể nhận ra từng đối tượng. Dĩ
nhiên thể loại này thường cố ư phóng to các
đặc điểm và khi nh́n vào nét đặc tả
ấy – tuy mất cân đối và đôi khi phiến
diện - vẫn dễ dàng nhận ra diện mạo,
cốt cách từng nhân vật.
Chất vui, hóm và nhất là khả năng chơi chữ có
thể khiến người ta ngạc nhiên một cách thú
vị, nhưng cũng có thể gây nên những sự không
hài ḷng đây đó...
Chúng tôi chỉ coi đây là những nét tự trào của giới
cầm bút, cười đấy nhưng cũng tự
nhận ra những xót xa, hạn hẹp của chính ḿnh,
những ǵ chưa vượt qua được trên
những chặng đường quanh co của lịch
sử và thời đại. Tự soi ḿnh hoặc hiểu
ḿnh thêm qua cái nh́n của người cùng hội, cùng
thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong
truyền thống dân gian vốn là vũ khí, ngày nay c̣n có
thể là sức mạnh thúc đẩy đi tới phía
trước.
Với ư nghĩ ấy, chúng tôi mong bạn đọc và các
nhà văn thông cảm cho những ǵ bất cập hoặc
chưa lột tả được thần thái của
từng chân dung.
Dù sao đây cũng là 100 bức tranh nhỏ về những
người có công trong văn học, những người
nổi tiếng trong làng văn, trong bạn đọc
bằng chính những tác phẩm có giá trị của ḿnh.
Rất mong bạn đọc và các nhà văn nhận ra
mối chân t́nh trong cuộc vui của làng văn, và
lượng thứ cho những khiếm khuyết.
Nhà xuất bản Văn học
Tâm sự của tác giả
Những bài thơ chân dung các nhà văn của tôi ra
đời trong trường hợp rất t́nh cờ.
Hồi ấy, bước vào thập kỉ 60, tôi đang
độ tuổi ba mươi, từ đơn vị
được chuyển về Tạp chí Văn nghệ
Quân đội, ở ngôi nhà số 4 Lư Nam Đế, Hà
Nội. Ngoài công việc của toà soạn tờ báo ra,
thời gian của chúng tôi dành nhiều cho việc học
tập chính trị. Những vấn đề thời
sự trong nước, thế giới, những
đường lối, chỉ thị nghị quyết,
những vấn đề tư tưởng lâu dài và
trước mắt... đều phải học tập
nghiêm túc, có bài bản. Học một ngày, hai ngày, có khi
cả tuần, cả tháng. Lên lớp, thảo luận, kiểm
điểm, làm sao cho mỗi đợt học, kiến
thức và tư tưởng của từng người
phải được nâng cao lên một bước.
Những buổi lên lớp tập trung trên hội
trường gồm hàng ngàn sĩ quan, anh em văn nghệ
sĩ, các nhà văn, các hoạ sĩ, nhạc sĩ...
thường ngồi tập trung với nhau ở những
hàng ghế cuối hội trường thành một “xóm”
văn nghệ. Để chống lại sự mệt
mỏi phải nghe giảng về hai phe bốn mâu
thuẫn, về ba ḍng thác cách mạng, về kiên tŕ,
tăng cường, nỗ lực, quyết tâm... mấy
anh em văn nghệ vốn quen thói tự do thường ŕ
rầm với nhau những câu chuyện tào lao, hoặc che
kín cho nhau để hút một hơi thuốc lá trộm,
nuốt vội khói, nhiều khi ho sặc sụa. Nhưng
rồi những chuyện đó cũng bị phát hiện,
bị nhắc nhở phê b́nh. Vậy phải thay
đổi, chuyển sang bút đàm.
Vào năm 1962, có đợt học tập quan trọng,
học nghị quyết 9, nghị quyết chống xét
lại, chống tư tưởng hoà b́nh chủ nghĩa,
và dĩ nhiên văn nghệ là đối tượng chú ư
trong đợt học này. Hội trường tập trung
đông, trời nắng, hơi nóng từ cái sân xi măng
hắt lên như thiêu như đốt. Quân đội
đang tiến lên chính quy, hiện đại, ăn
mặc phải chỉnh tề, đầy đủ cân
đai bối tử, đi giầy da, những đôi giầy
cao cổ năng như cùm. Bọn tôi, trừ vài
trường hợp như Vũ Cao, Nguyễn Khải có
đôi chân quá khổ, có cớ chưa có giầy đúng
số để đi dép, nhưng cũng là những
đôi dép có quai hậu, ngồi học cũng không
được tụt quai. Nhân đây tôi nói thêm về
Vũ Cao, ông là người có biệt danh “quanh năm đi
chân đất”, ở nhà số 4 các pḥng sàn ván đều
được lau bóng để đánh trần nằm
xuống mà viết. Qui định của pḥng là phải
bỏ dép trừ... Vũ Cao, bởi để ông đi dép
vào pḥng c̣n sạch hơn đi chân trần. Giờ đây
ngồi học được ưu tiên đi dép vẫn là
nỗi cực khổ đối với ông.
Trong buổi lên lớp như thế, Nguyễn Trọng
Oánh xé vỏ bao thuốc lá Tam Đảo viết một bài
thơ bằng chữ Hán trao cho tôi, ở VNQĐ Oánh
được gọi là ông Đồ Nghệ giỏi
chữ Hán, và tôi được gọi là ông Đồ Thanh
bởi cũng vơ vẽ đôi ba chữ thánh hiền. Oánh
bảo tôi dịch bài thơ Oánh viết vịnh Xuân
Thiều. Xuân Thiều cũng ở lứa tuổi chúng tôi
nhưng trông già dặn v́ cái đầu hói, tóc lơ thơ.
Con đường văn chương mới bước
vào c̣n lận đận. Mới in được tập
truyện ngắn đầu tay Đôi vai, tập
tiểu thuyết Chuyển vùng viết về cuộc
chiến đấu chống Pháp ở B́nh Trị Thiên mà
Thiều tham dự, đă sửa chữa nhiều lần,
đưa qua vài ba nhà xuất bản chưa “nhà” nào
chịu in.
Tôi thấy bài thơ Oánh viết rất hay và dịch.
Văn nghiệp tiền
tŕnh khả điếu quân
Mao đầu tận lạc tự mao luân
Lưỡng kiên mai liễu phong trần lư
Chuyển địa hà thời chuyển khắc ngân.
Dịch nghĩa:
Con đường
văn nghiệp khá thương cho ông
Lông đầu ông đă rụng trơ trụi
Đôi vai lầm lũi trên con đường gió bụi
Chuyển vùng đến bao giờ th́ chuyển thành
tiền được?
Dịch thơ:
Con đường
văn nghiệp thương ông
Lông đầu rụng hết như lông cái đầu
Đôi vai gánh măi càng đau
Chuyển vùng nào nữa làm sao thành tiền?
Dịch xong tôi chuyển bài thơ cho anh em đọc. Oánh
tỉnh bơ với bộ mặt lạnh lùng cố
hữu, c̣n mọi người phải nén cười cho
khỏi bật thành tiếng. Nguyễn Minh Châu gục
xuống bàn ḱm nén đến nỗi mặt đỏ
bừng và nước mắt dàn dụa.
Tự nhiên trong đầu tôi loé lên cái ư nghĩ mà
người ta thường gọi là “tia chớp”. Thơ
chân dung! Trong bài thơ Oánh phác hoạ một Xuân Thiều
với h́nh dáng và văn nghiệp bằng cách dùng nghĩa
kép tên tác phẩm: Đôi vai; Chuyển vùng. Và sau
chốc lát, tiếp tục tṛ đùa của Oánh tôi viết
bài thơ về Hồ Phương, đang ngồi
cạnh tôi, và bài thơ số một về chân dung các nhà
văn ra đời. Hồi đó Hồ Phương đă
là tác giả in nhiều tác phẩm, đă được
một số giải thưởng các cuộc thi sáng tác
văn học. Tôi dùng các tên các tập truyện của anh: Trên
biển lớn; Xóm mới; Cỏ non và tên cái
truyện ngắn đầu tay vẫn được
nhắc đến “Thư nhà”. Tôi viết bài thơ ra
mẩu giấy:
Trên biển lớn lênh
đênh sóng nước
Ngó trông về Xóm mới khuất xa
Cỏ non nay chắc đă già
Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem
Tôi đưa bài thơ cho Nguyễn Khải. Anh đọc
xong trên mặt có thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị
chứ không cười như tôi chờ đợi. Anh
bỏ bài thơ vào túi chứ không chuyển cho người
khác. Đến giờ giải lao chúng tôi ra ngồi quanh
gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa
bài thơ cho Hồ Phương đọc. Mặt Hồ
Phương hơi tái và cặp môi mỏng của anh
hơi run. Nguyễn Khải nói như cách sỗ sàng của
anh: “Thằng này (chỉ tôi) ghê quá, không phải tṛ đùa
nữa rồi!”
Tôi hơi hoảng, nghĩ rằng đó chỉ là tṛ
chơi chữ thông thường. Sau rồi tôi hiểu ngoài
cái nghĩa thông thường bài thơ c̣n chạm vào tính
cách và đánh giá nhà văn. Mà đánh giá nhà văn th́ có ǵ
quan trọng hơn là tính cách và tác phẩm. Bài thơ
ngụ ư Hồ Phương viết nhiều chăng
nữa vẫn không vượt qua được tác
phẩm đầu tay và vẫn cứ: “Buồn tênh lại
giở thư nhà ra xem...”
*
Trước đấy, khi c̣n là lính địa
phương, cái xă hội nhà văn đối với tôi
đầy thiêng liêng bí ẩn. Đấy là những con
người dị biệt, rất đáng ngưỡng
mộ, rất đáng yêu mến, dường như họ
là một “siêu tầng lớp” trong xă hội. Mỗi hành
động, mỗi cử chỉ, lời nói của họ
đều có thể trở thành giai thoại, và cả
tật xấu nữa, dường như cũng đứng
ngoài ṿng phán xét thông thường. Tóm lại đó là một
thế giới đầy sức hấp dẫn
đối với một người say mê văn học
và tấp tểnh nuôi mộng viết văn như tôi. Khi
tôi được về Hà Nội vào một cơ quan
văn nghệ dù là ở quân đội (hoàn cảnh
nước ta quân đội có một vị trí đặc
biệt trong xă hội kể cả lĩnh vực văn
chương) tôi bắt đầu đi vào thế giới
mà trước đây tôi mơ ước. Điều tôi
nhận ra là ngoài cái phần tôi hiểu trước đây
th́ thế giới nhà văn c̣n có những chuyện khác.
Đấy là cái mặt đời thường, cái mặt
rất chúng sinh, và chúng cũng góp phần quan trọng làm
nên các tác phẩm và tính cách nhà văn. V́ vậy chân dung
của họ không thể bỏ qua. Hơn nữa nếu
“vẽ” được chính xác những bức chân dung
đó, th́ bộ mặt xă hội của thời
đại họ đang sống, đang viết cũng
qua đó mà hiện lên. Có thể, tôi nghĩ, không có tầng
lớp nào hơn các nhà văn, thể hiện rơ nhất
bộ mặt tinh thần của dân tộc qua từng giai
đoạn. Những điều này tôi nhận ra sau
một thời gian dài, khi những bài thơ chân dung lần
lượt ra đời, được phổ biến
một cách không chính thức nhưng sâu rộng và dai
dẳng, vượt qua cả mong muốn của tôi.
Cũng chính các nhà văn giúp tôi nhiều trong sáng tác cũng
như phổ biến các bài thơ. Bởi khi nhận xét
về tính cách con người, tính cách các nhà văn th́ không
ai sắc sảo bằng các nhà văn. Người giúp tôi
nhiều nhất là anh Nguyễn Khải. Anh có mối quan
hệ rộng răi trong giới, có lối nhận xét rất
sắc sảo, chính xác dù có đôi lúc cực đoan. Anh
không mấy thích thơ, nhưng anh lại thích những chân
dung nhà văn. Anh có nói đại ư là các nhà văn chúng ta
quen đánh giá nhận xét mọi tầng lớp
người trong xă hội, th́ cũng cần tự đánh
giá giới ḿnh, cũng đều có cái tốt cái xấu
như ai. Về sau thêm anh Vương Trí Nhàn về Văn
nghệ Quân đội. Nhà phê b́nh văn học trẻ
tuổi này hết sức cổ suư tôi, đôi khi anh c̣n thách
đố. Chúng tôi thường ngồi trong cái pḥng “toilet”
khoảng ba mét vuông. Do hệ thống bơm nước lên
tầng hai bị hỏng, nên cái pḥng vệ sinh đó
biến thành “pḥng văn”, nó được ốp gạch
men trắng bóng lau sạch ngồi thật mát và thoải
mái kín đáo. Có những hôm Nhàn mua sẵn vài điếu
thuốc lá lẻ, vài cái kẹo lạc, một ấm trà
ngon, rồi thách thức tôi viết ngay tại chỗ. Và
đă có nhiều bài thơ ra đời như thế. Nhàn
nói: “Những bài thơ này ông Sách viết ra khi có con quỉ
ám vào ông ấy”. Bởi v́ Nhàn đánh giá tôi có một
giọng điệu khác hẳn trong những sáng tác không
phải thơ chân dung. Nhàn là người rất thuộc
thơ, và khi bài thơ tôi làm xong thường th́ anh là
người phổ biến rộng răi. Một số anh em
trẻ khác như các anh Định Nguyễn, Trần Hoàng
Bách thường đem những bài thơ đi phổ
biến để được chiêu đăi bia hơi. Có
thể nói đó là “nhuận bút” đầu tiên, nhưng
không thuộc về người sáng tác mà thuộc về
người phát hành.
Tất nhiên những bài thơ đó được phổ
biến rộng răi trong giới. Lúc đầu c̣n kín
đáo, nhưng dần dần thành công khai, và nhất là
thành một “tiết mục” không thể thiếu trong
những buổi liên hoan của anh em văn nghệ. Có
một buổi cũng khá đông đủ các nhà văn,
khi đă vào tiệc rượu, mọi người yêu
cầu tôi đọc về các nhà văn có mặt. Trong
không khí như vậy th́ dù các anh chị ấy có giận
cũng cười xoà làm vui, riêng tôi thấy ḿnh là
được tṛ vui cho mọi người cũng hay
chứ sao nữa. Tôi nhớ sau buổi vui anh Nguyễn
Đ́nh Thi có nói đại ư nên đem cái tài đó làm
những việc có ích hơn là châm chọc nhau. Ngay đó
một anh ngồi bên cạnh rỉ tai tôi: “Châm chọc cũng
cần có tài và có ích lắm chứ”
Những bài thơ được lan truyền trong
nhiều giới khác. Hồi đó tướng Lê Quang
Đạo là phó chủ nghiệm Tổng cục chính
trị, cấp trên của giới văn nghệ quân
đội, ông rất thích những bài thơ chân dung,
thường trong giờ nghỉ những buổi họp
với giới văn nghệ ông đề nghị
đọc cho ông nghe. Sự thích thú tuy có tính cách cá nhân
nhưng rất hay cho tôi. Tôi cũng nhận được
nhiều phản ứng khác nhau, có khi khen quá lời, có khi
bực tức. Tôi kể ra vài trường hợp
đặc biệt. Khi tôi đă t́m hiểu được
những ứng xử, những tính cách của các nhà
văn, ngoài những tác phẩm của họ mà tôi hằng
ngưỡng mộ, tôi cứ băn khoăn tự
hỏi: Sao thế nhỉ? Với bề dày tác phẩm
như thế, với vị trí trong xă hội như
thế, sao họ c̣n ham muốn những thứ phù
phiếm đến thế, một chức vụ, một
quyền lực, một chuyến đi nước ngoài...
mà đă ham muốn th́ phải mưu mẹo, phải
dối trá, và nhất là phải sợ hăi. Một lần
trên báo đăng bài thơ dài của một nhà thơ có
tên tuổi viết theo “thời tiết” chính trị, quay
ngược lại những điều vừa viết chưa
lâu, Nguyễn Khải chỉ bài thơ nói với tôi:
“Rất tiếc, một tài năng lỡ tàu”.
Tôi không nghĩ ḿnh đứng ngoài cuộc để phán
xét, mà muốn làm cặp mắt thứ hai trong mỗi bài
thơ để tự bạch, tự cảm thông với
ḿnh và cũng tự giận ḿnh. Tôi vốn yêu thích và kính
phục tài thơ Chế Lan Viên, nhưng bài thơ tôi
viết về ông lại nói khía cạnh khác. Mỗi lần
gặp lại tôi ông lại tỏ ra rất thân thiện.
Điều đó làm cho tôi bối rối, phải chăng
ông đă hiểu điều ǵ đó về ông về tôi.
Lúc ông Hoài Thanh già yếu phải vào bệnh viện tôi
đến thăm ông. Ông không giận tôi nữa, c̣n cho tôi
là người có t́nh và ông thấy những ǵ viết
về ông có phần đúng, ông đề nghị chữa
một chữ trong bài thơ. Khi ông mất, tôi đi
viếng, nh́n khuôn mặt ông qua tấm kính, và các con ông oà
khóc, tôi bỗng thấy ḿnh như người có tội.
Một lần tôi gặp Xuân Diệu trong quán bia hơi, tôi
nâng cốc bia đến chúc mừng ông vừa
được bầu làm viện sĩ của Viện Hàn
lâm nghệ thuật nước CHDC Đức, ông chạm
cốc: “Chúc mừng họ Ngô nhà ta, những bài thơ
của cậu đă đi vào cơi bất tử”
Điều tôi không ngờ là cụ Đăng Thai Mai cho
người gọi tôi đến nhà bảo tôi đọc
thơ chân dung cho cụ nghe. Con người nổi
tiếng uyên bác thâm trầm ấy, ngồi đặt
cằm lên gối cười khục khục. Đột
ngột cụ ngước cặp mắt tinh anh lên nh́n tôi:
“Thế c̣n Đặng Thai Mai?”. Tôi lúng túng: “Viết về
bác rất khó, cháu đang suy nghĩ, thưa bác”.
Dường như ông cụ không tin lời tôi. Ít lâu sau
cụ lại gọi tôi đến: “Anh viết về tôi
rồi chứ?”.
Trước tôi chỉ nghĩ cụ không để ư
đến tṛ chơi chữ ngông nghênh này, hoá ra cụ quan tâm
thật sự, khiến tôi vừa cảm động
vừa thích thú. Nhưng biết làm sao được,
viết về cụ rất khó và đến nay tôi vẫn
chưa viết được.
C̣n cụ Nguyễn Tuân, con người thích đùa một
cách cao sang và thâm trầm, thích ăn nem rán nóng bỏng th́
gắp lên đặt xuống cái nem nghe thơ và phán: “Hóm,
thằng này hóm!”.
Nói về đồng nghiệp cũng là nói về ḿnh. Cái
hay cái dở của một người cũng là của
một thời. Câu thơ: “Từ thuở tóc xanh đi
vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi
đá chửa thành cơm” đâu phải là số phận
của một nhà thơ. Hơn ai hết, tôi nghĩ, nhà
văn là đại diện của một thời, là
lương tri của thời đại. Đă đành khó
ai vượt được thời đại ḿnh đang
sống, không dễ nói hết, nói công khai những
điều suy nghĩ. Nhưng cũng thật đau ḷng
khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, cong lưng
qú gối trước quyền uy, mê muôi v́ danh lợi. Có
lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết,
nếu có nói quá cũng dễ hiểu, cái con “quỉ ám”
nếu có th́ cũng là sản phẩm của những
cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều
nghịch lư vốn tồn tại trong cuộc đời
cũng như trong nghệ thuật. Tiếng cười
nhiều khi xuất phát từ nỗi đau.
Những bài thơ chân dung đă có cuộc sống riêng
của nó, không phải ḱ lạ nhưng cũng độc
đáo. Nó được lưu truyền đến nay
đă ba mươi năm. Đă có nhiều bài “khảo
dị”, nhiều bài “ngoài luồng” cũng được
gán cho tác giả, bây giờ in ra coi như một sự
đính chính. Nó cũng là “một cái ǵ đó” như có
người nói nên mới tồn tại được,
nếu nó có ích th́ tác giả cũng lấy làm măn nguyện.
Ngày xuân Nhâm Thân
Xuân Sách