Khoa học – Lịch sử

C1

Sự thiết yếu khoa học

của lịch sử khoa học

Tác giả : Auguste Comte*

Người dịch : Nguyễn Văn Khoa

*

Thật dễ thấy rằng chỉ có một quan hệ ngoài mặt giữa việc nghiên cứu một khoa học theo phương pháp gọi là lịch sử và sự hiểu biết thực sự  lịch sử hiện thực của môn học này.

Thật vậy, mặc dù trong trật tự của sách giáo khoa[1], chúng ta thường phải tách rời các bộ phận của mỗi ngành khoa học, những bộ phận này không những chỉ phát triển đồng thời và ảnh hưởng lên nhau – và đấy chính là lư do khiến tŕnh tự lịch sử được ưa thích –, mà nếu xem xét sự phát triển thực hiệu của tinh thần con người trong toàn bộ, th́ ta lại càng phải thấy rằng, trên thực tế, hầu hết các khoa học khác biệt đều tác động lên nhau, và trở thành hoàn hảo hơn cùng một lúc; thậm chí ta c̣n thấy rằng sự tiến bộ của các ngành khoa học và kỹ thuật đều phụ thuộc vào nhau bởi vô số ảnh hưởng qua lại, và cuối cùng, tất cả đều liên quan chặt chẽ tới sự phát triển của xă hội loài người nói chung. Cuộn mắt xích lôi kéo nhau rộng lớn này là hiệu quả đến mức rằng, để quan niệm sự phát sinh thực hiệu của một lư thuyết khoa học, tinh thần buộc phải xem xét sự phát triển của một nghệ thuật nào đó chẳng có quan hệ hợp lư ǵ với nó cả, thậm chí một số tiến bộ đặc biệt nào đó trong tổ chức xă hội mà nếu không có th́ sự phát sinh này sẽ không thể nào xảy ra được. Như chúng ta sẽ thấy trong nhiều ví dụ sau. Kết quả là người ta chỉ có thể biết lịch sử thực sự của mỗi khoa học, nghĩa là sự h́nh thành thực tế của những khám phá từ đấy nó được cấu thành, bằng cách nghiên cứu lịch sử loài người một cách tổng quát và trực tiếp. Chính v́ vậy mà tất cả mọi tài liệu thu thập được cho đến nay, về lịch sử của toán học, thiên văn học, y học, v. v… dù quư giá đến đâu, cũng chỉ có thể được xem là nguyên liệu mà thôi.

Lối tŕnh bày dựa trên tŕnh tự gọi là lịch sử này, ngay cả khi nó có thể được thực hiện nghiêm túc trong từng chi tiết của mỗi khoa học riêng biệt, khi nh́n dưới quan hệ trọng yếu nhất, sẽ chỉ đơn thuần là trừu tượng và mang tính giả thuyết thôi, ở chỗ nó đă xem xét sự phát triển của môn học đó trong t́nh trạng như thể cô lập. Nó có khuynh hướng bồi đắp cho một quan điểm rất sai, cách xa với việc làm nổi bật lịch sử thực hiệu của mỗi khoa học.

Như thế, chắc chắn chúng ta đều phải được thuyết phục rằng hiểu biết về lịch sử các khoa học có tầm quan trọng cao nhất. Thậm chí tôi c̣n nghĩ rằng ta chưa hoàn toàn biết một khoa học khi chưa biết lịch sử của nó. Tuy nhiên, phần nghiên cứu này cần phải được tiến hành cách biệt hoàn toàn với khoa học liên hệ, bởi nếu không có phần nghiên cứu đặc thù và hệ thống hóa của khoa học th́ ngay chính phần lịch sử này cũng sẽ trở thành không thể hiểu được.

Auguste Comte

Cours de Philosophie positive

(Giáo tŕnh Triết lư Thực chứng),

Xuất bản bởi Schleicher, 1830

Tập I, Bài học 2, tr. 44-45.



[1] Dogmatique trong nguyên bản. Ở đây, từ này không có nghĩa là «giáo điều» như trong bối cảnh tôn giáo, mà phải được hiểu theo nghĩa của triết lư cổ đại: ta có thái độ dogmatique khi ta chấp nhận không nghi ngờ một số «sự thật», khi khẳng định một số nguyên lư hay nguyên tắc (ngược với thái độ hoài nghi, bi quan). Và đấy chính là đặc tính của các sách giáo khoa, khi tŕnh bày một cách có hệ thống những điều phải giảng dạy.