MarxHienTuong

CHỦ NGHĨA MARX

 HIỆN TƯỢNG HỌC

 

 

Trần Đức Thảo

 

 

 

Nguyên tác: Marxisme et Phénoménologie

(Revue Internationale, số 2, 1946, tr. 168-174 & http://www.viet-studies.org/TDThao).

Người dịch: Phạm Trọng Luật

 

 

___________

Nếu «Chủ Nghĩa Marx và Hiện Tượng Học» là đề tài nghiên cứu suốt đời của Trần Đức Thảo, th́ tiểu luận cùng tên mà chúng tôi dịch đăng hôm nay là bài đầu tiên trong chuỗi tác phẩm của tác giả về khả năng tương trợ giữa hai triết thuyết. Tuy nhiên, câu hỏi chính ở đây là: «Hiện tượng học có thể mang lại ǵ cho chủ nghĩa Marx?», thay v́ ngược lại như ở tác phẩm nổi tiếng viết sau. Nó nói lên cái «tâm» của triết gia, khi từ hiện tượng học mà ông đă tiếp thu trên ghế đại học quay lại với chủ nghĩa Marx, không rơ đă đến với ông từ đâu và vào lúc nào [01].

Phủ nhận «chủ nghĩa cộng sản thô lậu»«chủ nghĩa duy vật lịch sử thông tục», Trần Đức Thảo ở đây là đại biểu của thứ chủ nghĩa Marx cởi mở mà khi điểm sách ông Roland Barthes gọi là «chủ nghĩa Marx tư duy» [02]. Qua hai ví dụ rút ra từ các tác phẩm kinh điển thuộc thời «Marx trẻ», một (về nghệ thuật và thần thoại Hy Lạp) để minh họa, và một (cuộc Cải Tổ tôn giáo ở thế kỷ 16) để phê phán ngay chính Karl Marx, «Thảo trẻ» đề xướng một sự «xét lại chủ nghĩa Marx trong nội dung chính thống», thực chất là sự trở về với ư hướng nhân bản ban đầu của Marx, nhưng dựa trên những thành tựu của hiện tượng học. Theo Jean-François Lyotard [03], bài viết này đă khiến một nhà xă hội học Pháp theo chủ nghĩa Marx đương thời là Pierre Naville thấy cần phải trả lời ông trong một chương của tác phẩm «Les Conditions de la Liberté» (1947) [04]. Như vậy, ngoài hai cuộc tranh luận trực diện Thảo-Kojève, Thảo-Sartre, c̣n có một cuộc tranh luận gián tiếp Thảo-Naville. Xin trở lại vấn đề này trong một dịp khác. 

Về phần kỹ thuật, ngoài những khó khăn cố hữu do sự thiếu hụt thuật ngữ, xin nói thêm đôi ḍng về các đoạn trích từ tác phẩm của Karl Marx. Trần Đức Thảo sử dụng hai bản dịch Pháp ngữ của Jean Molitor và Laura Lafargue. V́ đây là các bản đă quá xưa không mấy ai có, chúng tôi xin ghi thêm trong phần chú thích các đoạn tương ứng ở ba dịch giả khác của Editions Sociales là Emile Bottigelli, Maurice Husson và Gilbert Badia, sau đó mới chuyển ngữ từ sự đối chiếu tất cả các bản tiếng Pháp của năm dịch giả trên, hy vọng giảm bớt được thêm nguy cơ ngộ nhận về Marx.

Được thực hiện trong mục đích giới thiệu lại một triết gia người Việt viết bằng tiếng Pháp với độc giả trong nước, bản dịch này chắc chắn c̣n nhiều khiếm khuyết do năng lực khiêm tốn về triết học cũng như nghệ thuật chuyển ngữ của người dịch. Chúng tôi mong được sự tham gia của bạn đọc, hoặc chỉ giúp những vụng về sai sót, hoặc dựa trên bản này cùng nguyên bản đă công bố để dịch lại toàn bài nếu thấy cần thiết. Thay v́ chỉ có một, thế hệ sau sẽ tham khảo được nhiều bản khác nhau, và có thể không chỉ trên vấn đề ngôn ngữ, bởi v́ dịch triết luôn luôn cũng là diễn dịch phần nào.

Phạm Trọng Luật.

                                                    

__________

 

 

Trái với chủ nghĩa cộng sản thô lậu, khi nó chỉ hủy bỏ quyền tư hữu bằng sự san bằng phổ quát trong đó ngay cả phẩm cách con người cũng bị chối bỏ, chủ nghĩa Marx đề xuất một sự hủy bỏ tích cực, thực chất là chiếm hữu. Chiếm hữu ở đây không phải là lấy làm của riêng – theo nghĩa là – mà là hưởng dụng sản phẩm do con người làm ra bằng sự nhận biết ngay chính con người trong đó. Khi lên đến xă hội «không giai cấp», nhờ sự phát triển kỹ thuật hiện đại, công thức «đ̣i hỏi từ mỗi người theo khả năng, phân phối cho mỗi người theo nhu cầu» sẽ tự khắc được áp dụng. Những sản phẩm do xă hội tạo ra sẽ được mỗi cá nhân cảm nhận như sự vật hoá của bản thân hắn; nói cách khác, bằng sự nhận biết chính ḿnh trong sản phẩm, mỗi cá nhân sẽ tự  hưởng thụ trong nghĩa trọn vẹn nhất của từ này đối với ư thức con người.

 

«Con người chiếm hữu bản thể phổ cập của hắn một cách phổ quát, nghĩa là với tư cách con người tổng thể. Mỗi quan hệ mang tính người với thế giới như thấy, nghe, ngửi, nếm, rờ, nh́n, cảm nhận, suy tư, ham muốn, hành động, yêu thương, nói tóm lại, tất cả các cơ quan tạo nên cá tính hắn, nếu về mặt h́nh thức là những cơ quan xă hội trực tiếp, th́ trong quan hệ khách quan hay trong cách ứng xử đối với sự vật, là sự chiếm hữu sự vật đó, nghĩa là sự chiếm hữu thực tại người; nói cách khác, cách thức ứng xử của các cơ quan tạo nên cá tính mỗi người đối với sự vật là sự biểu thị của thực tại người. Sự biểu hiện này cũng đa tạp như những xác địnhnhững sinh hoạt của con người, hoạt độngđau khổ trong kiếp người, bởi v́ hiểu theo nghĩa nhân văn, khổ đau cũng là cách thụ hưởng riêng của con người» [05].

   

Dường như đoạn văn này cho ta ư nghĩa đích thực của chủ nghĩa duy vật lịch sử, đối lập với chủ nghĩa duy vật thông tục. Hiện thực chính là cái ǵ ta sản xuất ra, không phải chỉ độc trên b́nh diện vật chất, mà theo nghĩa tổng quát, bao gồm tất cả mọi sinh hoạt mang tính người, kể cả loại sinh hoạt gọi là «tinh thần». «Bản nhạc hay nhất cũng không có nghĩa ǵ đối với đôi tai không biết thưởng thức nhạc, nó không phải là đối tượng, bởi v́ đối tượng của tôi chỉ có thể là sự biểu hiện của một trong những năng lực của tôi» [06]. Hiện thực chính là cái thế giới đầy ư nghĩa trong đó chúng ta sống, và đúng là nó chỉ có ư nghĩa bởi ngay chính cuộc sống của chúng ta: thế giới tự nhiên đă được nhân hoá bởi bao thế hệ cần lao. Ở Marx, sự đảo lộn biện chứng từ chủ nghĩa duy tâm sang duy vật vẫn giữ lại nội dung tinh thần của học thuyết Hegel. Sự đồng hoá thế giới tinh thần với cái thế giới mà chúng ta cảm nhận không làm mất đi sự phong phú của nó về ư nghĩa: vấn đề không phải là «quy giản» ư tưởng vào hiện thực, mà là vạch ra ngay trong bản thân hiện thực phần chân lư của ư tưởng. 

 

Trong khi chủ nghĩa duy vật thông tục định nghĩa hữu thể một cách trừu tượng như vật chất thuần túy, th́ ít nhất trong buổi đầu, hệ quy chiếu của chủ nghĩa duy vật lịch sử là một kinh nghiệm toàn diện, nơi thế giới tự phơi mở trước mắt ta đầy ư nghĩa nhân sinh, xác nhận là nó tồn tại cho ta, trong khi ta sống trong ḷng nó. Đấy chính là cái kinh nghiệm nguyên thủy mà Husserl muốn quay lại, khi ông lập ra trường phái hiện tượng học vào đầu thế kỷ 20, bằng cách tập hợp một nhóm triết gia trẻ quanh khẩu hiệu nổi tiếng: «Zu den Sachen selbst»: trở về với ngay chính sự vật! Tất nhiên, sự vật ở đây không phải là đồ vật mà ta định nghĩa bằng một hệ thống phương tŕnh toán học; nó là tất cả những ǵ tồn tại đối với chúng ta, trong ngay chính cái ư nghĩa là nó tồn tại cho ta. Đ̣i hỏi hủy bỏ tính ưu tiên của vật chất chính là để dẫn tới ư thức về tồn tại cụ thể trong ư nghĩa trọn vẹn của tồn tại. Chán ngấy sự trừu tượng khô cứng của phê phán luận và của triết lư khoa học, thế hệ mới đă đón nhận lời kêu gọi này như giọt sương mai mầu nhiệm sẽ khai mở tất cả sự phong phú của thế giới cuộc sống.

 

Trong thực tế, «sự chiếm hữu» được thực hiện trên b́nh diện cá nhân và lư thuyết bằng bước lùi lại với ư thức về cái ta hay ư thức bản ngă, nơi những ư nghĩa tiềm ẩn – «tha hoá» - của cuộc sống hồn nhiên bỗng rực sáng. Dưới h́nh thức hiện sinh chủ nghĩa của nó, hiện tượng học chỉ mới là hồi kèn động viên cảm thức hành động hơn là cẩm nang hành động thực hiệu. Sự thiếu vắng bước chuyển tiếp từ cảm thức này sang một thực tiễn xă hội mạch lạc tố cáo tính chất triết lư tư sản của nó. Dù sao, chí ít nó cũng đă thực hiện được tối đa phần chân lư mà giai cấp tư sản có thể đạt đến, bằng cách chỉ ra trong nghiệm sinh thực hiệu nguồn căn cuối cùng, nơi con người rút ra ư nghĩa của tồn tại. Chỉ cần thêm vào đấy ư thức về ư nghĩa khách quan của tồn tại nữa để nh́n thấy trong những điều kiện kinh tế yếu tố xét đến cùng là quyết định đối với cấu trúc tổng quát của kinh nghiệm về thế giới.

 

Đúng thật là những văn bản kinh điển của chủ nghĩa Marx đă định nghĩa ưu thế của cơ sở kinh tế một cách khó chấp nhận cho các nhà hiện tượng học. Thượng tầng kiến trúc bị xem là ảo ảnh đơn thuần, như chỉ phản ánh những quan hệ «hiện thực» lên b́nh diện tư tưởng hệ, trong khi nét độc đáo của hiện tượng học chính nằm ở chỗ nó xem mọi ư nghĩa của nhân sinh là giá trị chân chính. Nhưng chủ nghĩa Marx đâu chỉ đơn giản khẳng định sự tất yếu của hạ tầng cơ sở như quy chiếu cuối cùng: ḍng lịch sử chỉ giải thích được bởi đấu tranh giai cấp, nhưng biện chứng đấu tranh lại được xây dựng trên những kiến trúc thượng tầng tự tồn. Quan hệ sản xuất phải thay đổi khi đă lỗi thời so với lực lượng sản xuất. Song sự thay đổi này đ̣i hỏi phải đấu tranh thực hiện dưới h́nh thức cách mạng, chính v́ quan hệ sản xuất cũ vẫn được duy tŕ, nghĩa là v́ thượng tầng kiến trúc đồ sộ vẫn tiếp tục sống mặc dù cơ sở kinh tế đă mất. Để hiểu lịch sử một cách thấu đáo, tính tự tồn của thượng tầng kiến trúc cũng thiết yếu như sự vận động của hạ tầng cơ sở. Nhưng làm sao giải thích nó, nếu đấy chỉ là phản ánh của quá tŕnh hiện thực? Cứ cho rằng sức kháng cự của hệ tư tưởng xuất phát từ một ảo ảnh đi, như ta vẫn thường nghe. Nhưng cái ảo ảnh ấy tự duy tŕ như thế nào, và hơn nữa, ngay ư niệm ảo ảnh lại không giả định ư niệm chân lư hay sao?

 

Chúng ta thử t́m một giải đáp, không phải qua tranh luận, mà bằng sự khảo sát một ví dụ. Marx đă từng tuyên bố trong Dẫn Vào Phê Phán Kinh Tế Chính Trị như sau: «Thần thoại Hy Lạp không chỉ là kho tàng mà c̣n là mảnh đất nuôi dưỡng nghệ thuật Hy Lạp. Liệu cách nhận thức tự nhiên và quan hệ xă hội nằm dưới đáy óc tưởng tượng, và từ đó, của [thần thoại] [07] Hy Lạp nay c̣n thích hợp chăng với máy kéo sợi tự động, đường và đầu máy hỏa xa, máy móc điện báo?... Nền nghệ thuật Hy Lạp giả định thần thoại Hy Lạp, nghĩa là sự tạo tác một cách mỹ thuật tuy vô thức thế giới tự nhiên và ngay chính những h́nh thái xă hội bởi thị hiếu phóng đăng của quần chúng» [08]. Ta thấy ngay rằng nghệ thuật Hy Lạp không chỉ đơn thuần phản ánh điều kiện vật chất của đời sống cổ đại: đúng hơn, nó là cả một kiến trúc được xây dựng trên loại sinh hoạt mỹ thuật tự phát, tương giao với một trực quan đầy tính thần thoại về thế giới: «tự nhiên và xă hội được tạo tác một cách mỹ thuật tuy vô thức bởi thị hiếu phóng đăng của quần chúng». Mỹ thuật tự phát là nền «đất nuôi» của nghệ thuật phản tỉnh, và chính nền mỹ thuật tự phát đó, như một thời cứ của kinh nghiệm tổng quát, mới lệ thuộc vào cấu trúc tổng quát của kinh nghiệm sống, nghĩa là vào cấu trúc kinh tế.

 

Trong ngôn ngữ hiện tượng học, ta nói rằng cuộc sống trần gian này, kinh nghiệm về thế giới này bao gồm một tập hợp ư nghĩa, trong đó có ư nghĩa mỹ thuật. Dáng dấp tổng quát của tập hợp này tất nhiên đă được phác họa bởi một số điều kiện sơ đẳng nào đó - điều kiện kinh tế. Đây không phải là một quy định dưới dạng nhân quả, mà đơn giản là sự phân ranh cần thiết nhằm định nghĩa nghiệm sinh đó như kinh nghiệm của thế giới này. Những thời cứ đặc thù không v́ thế mà mất đi phần chân lư của chúng như loại trực quan đă từng được sống thực, và chính trên phần chân lư đó mà các sản phẩm văn hoá được xây dựng. Tất nhiên, trực quan nói đây không phải là sự trực nhận thụ động những tiết lộ về một cơi-bên-kia không ai biết, nó đơn giản chỉ cái khả năng hiểu ngay tức khắc ư nghĩa của cuộc sống trong thế giới này, ư nghĩa của những sinh hoạt mà ta tiến hành, bởi v́ và chỉ v́ ta sống cuộc đời của một con người. Chính cái thế giới cuộc sống hay thế giới nhân sinh [Lebenswelt] này đă gánh chở mọi kiến trúc của thế giới văn hoá.  

 

Cái đẹp trong nghệ thuật Hy Lạp nói lên phong cách cảm nhận thế giới độc đáo của xă hội Hy Lạp dưới dạng thức mỹ thuật và trong sinh hoạt nghệ thuật vô thức. Trong kinh nghiệm mỹ thuật này, với điều kiện sinh sống vật chất của người Hy Lạp thời đó, cái đẹp đă được biểu lộ bằng cách duy nhất nó có thể bộc lộ. Giới hạn trên không giảm thiểu mà diễn đạt tính chân chính của nó như một kinh nghiệm sống có thực trong thế gian này. Như thế, tương quan giữa mỹ thuật Hy Lạp với phương thức sản xuất cổ đại không thủ tiêu mà đặt nền cho giá trị riêng biệt của các kiệt tác đương thời. «Hạ tầng cơ sở» trên đó toàn bộ lâu đài này được xây dựng không phải là cơ sở kinh tế, mà nói đúng ra, chính là cái thế giới mỹ thuật tự phát được cấu tạo bởi óc tưởng tượng của người Hy Lạp: thế giới thần thoại. Cái thế giới này không phản ánh những quan hệ sản xuất vật chất; nó diễn tả cách thức người Hy Lạp mang ư nghĩa mỹ thuật vào đời sống, cách họ sống đời dưới dạng thức mỹ thuật. Nghệ thuật của họ chỉ là sự soi sáng ư nghĩa và dạng thức mỹ thuật trong cuộc sống của họ.

 

Ưu thế của hạ tầng kinh tế không thủ tiêu mà giao trả phần chân lư của các kiến trúc thượng tầng về nguồn gốc chân chính của chúng trong kinh nghiệm sống. Các kiến trúc tư tưởng hệ không tương quan với phương thức sản xuất theo nghĩa là chúng phản ánh các phương thức này - chuyện phi lư – mà đơn giản v́: một mặt, mỗi kiến trúc tư tưởng rút lấy ư nghĩa của nó từ một nghiệm sinh tương ứng, ở đó các giá trị «tinh thần» không những chỉ được phô bày mà c̣n được cảm nhận và sống thực; và mặt khác, v́ mọi kinh nghiệm đặc thù đều xen vào kinh nghiệm tổng quát của con người trong thế giới như một bộ phận. Do thế giới này có thể được định nghĩa ở mỗi thời điểm như lệ thuộc vào quan hệ kinh tế đương thời trong các nét chính, và một thay đổi nào trong quan hệ kinh tế cũng đều kéo theo sự tổ chức lại toàn bộ cái tổng thể, đúng là xét đến cùng th́ vận động lịch sử bị quy định bởi những điều kiện của cuộc sống vật chất thật. Mỗi mức độ phát triển mới của kỹ thuật bao hàm một nền «văn hoá» mới; mới không phải bởi v́ văn hoá phải phản ánh tŕnh độ kỹ thuật, mà v́ nó chỉ là văn hoá chân chính nếu nó nói lên được những trực quan độc đáo mà điều kiện sinh sống mới đă đẻ ra. Mặt khác, cũng đúng không kém là mỗi thượng tầng kiến trúc được xây dựng trên kinh nghiệm sống trước đấy vẫn tồn tại bởi hoài niệm về phần chân lư nó đă gánh chở, đến nỗi cần phải làm cách mạng để thay thế nó bằng một tổ chức mới.

 

Sự minh giải chủ nghĩa Marx trên chỉ có trọn vẹn ư nghĩa khi những phân tích cụ thể về nhà nước, pháp chế, nghệ thuật, tôn giáo, triết học... của mỗi thời đại đă được gắn liền vào loại trực quan chính trị, pháp luật, mỹ thuật, tôn giáo, triết lư... tương ứng với nền kinh tế của cùng thời đại và cấu thành cuộc sống của người đương thời. Những hệ tư tưởng kế tiếp sẽ được hiểu trong phần chân lư lịch sử của chúng, và sự hiểu biết này sẽ cho phép ta rút ra giá trị vĩnh cửu của các thời cứ ưu việt, khi loài người biết gửi gấm lâu bền vào bao kiệt tác văn hoá ư nghĩa của bản chất người - cái bản chất vẫn c̣n là của chúng ta trong chừng mực chúng ta c̣n nhận thấy ḿnh trong đó, như chúng ta thực là nó hiện nay, và như chúng ta vẫn luôn luôn mong mỏi là nó dù trong một phong cách hoàn toàn đổi mới. Marx đă từng lưu ư: «Cái khó không phải là hiểu rằng nghệ thuật Hy Lạp và sử thi gắn bó ra sao với các h́nh thái phát triển xă hội nào đó, mà là hiểu v́ sao chúng c̣n cho ta cảm khoái mỹ thuật, và dưới nhiều khía cạnh c̣n được xem như quy phạm hay mẫu mực khó vươn tới» [09].

 

«Một người không thể nào trẻ lại thành đứa bé mà không rơi lại tuổi thơ. Nhưng bộ anh ta không biết thưởng thức sự ngây thơ của trẻ nhỏ, và đến một tuổi cao hơn, không ham muốn sống lại sự hồn nhiên ấy hay sao? Bộ mỗi thời đại không thấy cá tính độc đáo của ḿnh tái hiện như chân lư tự nhiên nơi bản tính con trẻ hay sao? Tại sao tuổi thơ lịch sử của loài người, ở điểm khai hoa rực rỡ nhất, lại không thể có được sức quyến rũ vĩnh cửu dù như một thời đă vĩnh viễn trôi qua?» (Karl Marx, Dẫn vào Phê Phán Kinh Tế Chính Trị, trong Đóng Góp vào Phê Phán Kinh Tế Chính Trị, bản dịch của Laura Lafargue, tr. 351-352) [10].                       

 

Việc áp dụng phương pháp mà chúng tôi vừa nêu lên nguyên tắc tất nhiên sẽ kéo theo yêu cầu xét lại triệt để học thuyết Marx trong nội dung chính thống, mặc dù sự xét lại này được thể hiện bằng bước quặt trở lại với ư hướng ban đầu. Dưới đây, chúng tôi thử tŕnh bày qua một ví dụ cụ thể v́ sao và như thế nào sự xét lại này lại có thể là một biến đổi toàn diện.

 

Theo Marx, cuộc Cải Tổ tôn giáo ở thế kỷ 16 chỉ là h́nh thức tư tưởng hệ mà nỗ lực tự giải phóng của giai cấp tư sản khỏi ách thống trị của giáo hoàng đă đề ra: phản ánh hư ảo của một cuộc tranh giành lợi quyền «hiện thực». Rơ ràng là lối giải thích này đă thủ tiêu ngay chính cái ư nghĩa của hiện tượng phải nghiên cứu, như một hiện tượng tôn giáo. V́ tương quan của Cải Tổ với cơ sở kinh tế đă quá hiển nhiên, về phần chúng tôi, xin diễn giải như dưới đây. 

 

Thời trung cổ, việc xây dựng Nhà Thờ thành thế quyền là thiết yếu để duy tŕ đời sống tinh thần trước sự thô bạo của phong tục tập quán đương thời. Thời cuộc nhiễu nhương khốn đốn đẩy phần suy niệm tâm linh lánh vào tu viện, trong khi hàng chức sắc tôn giáo t́m cách bảo vệ di sản của các Cha Cố bằng tổ chức chính trị và quân sự. Với sự phát triển của giai cấp tư sản và chính quyền trung ương mà nó ủng hộ, an ninh dần dần trở lại, cho phép xây dựng một đời sống tôn giáo có ư nghĩa về mặt tinh thần. Không c̣n phải rời bỏ thế gian này để tôn thờ Thượng Đế: chỉ cần gán cho công việc hàng ngày một ư nghĩa tuyệt đối như biểu hiện của ư chí tối cao, và làm bổn phận một cách lương thiện. Sự sùng bái Thượng Đế siêu thế, h́nh thức khả thi duy nhất trong thời phong kiến loạn lạc, tự khắc nhường chỗ cho sự tôn thờ Thượng Đế tại thế bằng sự thực thi các đức tính (lương thiện, cần lao, tiết kiệm) và giá trị (nghề nghiệp, hôn nhân) tư sản trong cuộc sống. Thời trung cổ, trực quan tôn giáo thoát ly thế gian này để tự thực hiện ở một cơi bờ biệt lập, với những giới luật, nghi lễ và phương tiện sinh nhai riêng. Sự vật chất hoá đức tin qua các công tác từ thiện, rồi sự định lượng giá trị tôn giáo của ḷng từ thiện một cách thuần vật chất, ... không phải là hệ quả của sự suy đồi theo nghĩa là đánh mất ư thức về các giá trị tinh thần; chúng chỉ là biểu hiện của một kinh nghiệm tôn giáo đ̣i hỏi phải chuyển hoá cụ thể giá trị của ḷng tin vào một số hành vi, vật thể đặc biệt, hầu tạo dựng một thế giới tôn giáo như cơi bờ riêng biệt, ở đó và chỉ ở đó thôi, đức tin mới có thể tự thực hiện. Vào đầu thời hiện đại, với những bước tiến của giai cấp tư sản và điều kiện sinh sống vật chất mới, tổ chức giáo hội với bộ máy nghi lễ và giới luật bỗng trở thành vô ích, chẳng c̣n quan hệ ǵ với đời sống tôn giáo tự phát, với kinh nghiệm tôn giáo mới. Những tai tiếng mà ai cũng biết, mặc dù đă gây ra bao mưu toan ly giáo và dị giáo thời trung cổ, chưa bao giờ có khả năng làm lung lay uy tín và thế lực của Nhà Thờ, bởi v́ sự hiện diện của tổ chức giáo hội đáp ứng đúng cái dạng thức sống đạo duy nhất có thể tồn tại dưới thời phong kiến.

Cuộc Cải Tổ ở thế kỷ 16, trái lại, đă tiếp nhận được sự thành công bền vững, bởi v́ nó biểu đạt những đ̣i hỏi của một kinh nghiệm tôn giáo thực sự. Sự tôn thờ Thượng Đế tại thế bao hàm yêu cầu từ bỏ các tu viện cùng nghi lễ và trật tự giáo phẩm. Sự cứu rỗi được thực hiện qua ḷng tin chứ không nhờ vào công tác từ thiện. Vấn đề không c̣n là xây dựng một cơi bờ riêng biệt, mà là cảm nhận sự hiện diện của Thượng Đế trong bất kỳ cử chỉ, hành động nào của cuộc sống b́nh thường. Tín điều về số phận tiền định đáp ứng chính xác cái trực quan về ư chí của Thượng Đế trong mỗi biến cố phàm trần, và trực quan đó đă tạo cho cuộc sống trên trái đất này một ư nghĩa tuyệt đối. Rồi sự tích lũy tư bản mang lấy h́nh thức khổ hạnh, được thi hành trong sự kính sợ Thượng Đế. Tin lành là tôn giáo của giai cấp tư sản, cái h́nh thức qua đó nó có thể sống đạo một cách chân thực. Nhờ vậy, đức tin đă được bảo tồn dễ dàng trong các quốc gia tin lành; ngược lại, giai cấp tư sản Pháp, bị chính quyền quân chủ bắt buộc phải giữ lấy đạo Cơ Đốc mặc dù nó không c̣n tương ứng với một kinh nghiệm tôn giáo thực hiệu nào, rơi dần vào t́nh cảnh chống giáo hội và phi tôn giáo.         

 

Nếu hiểu kinh nghiệm tôn giáo là trực quan về cái ư nghĩa tuyệt đối của hữu thể đă khiến cuộc sống tại thế biến thân thành nếp sống trong ḷng Thượng Đế, chúng ta sẽ nói rằng trong xă hội tư bản - tổng quát hơn, trong mọi xă hội có đấu tranh giai cấp -, tôn giáo tự thực hiện dưới h́nh thức một kinh nghiệm siêu nhiên. Thật vậy, do phân công lao động, mặc dù khách thể đối tượng là sản phẩm của toàn thể sinh hoạt tập thể, đối kháng giai cấp lại ngăn cản thành viên xă hội nh́n nhận lẫn nhau. Trong điều kiện đó, dù có cảm nhận được ư nghĩa tuyệt đối của sự vật nhờ loại trực quan huyền bí đi nữa, chủ thể vẫn hoàn toàn không hiểu biết bản chất thực của ḿnh; và sự bất khả tri đó được thể hiện qua quan niệm Thượng Đế siêu nhiên. Trong xă hội «không giai cấp», chủ thể chiếm hữu đối tượng qua sự nhận diện chính bản thân ḿnh trong đó; hắn thích thú tự chiêm ngưỡng trong sản phẩm do con người làm ra. Cái tuyệt đối được hiểu sâu sắc như sự đồng nhất của vật thể với cái tôi của chủ thể. Cuộc sống tại thế cũng mang ư nghĩa huyền bí, nhưng không phải do quy chiếu về siêu nhiên, mà trong sự hưởng thụ cái ư thức đă tự thực hiện được trọn vẹn. Thật là sai lầm nếu nói rằng tôn giáo sẽ biến mất khi không c̣n tha hoá nữa: thật ra, sự chiếm hữu hiện thực người chỉ sẽ nẩy nở trong một thứ tôn giáo nội tại thuần khiết, nơi «hạnh phúc hoàn toàn không phải là phần thưởng của đạo hạnh mà chính là bản thân đạo hạnh» [11].

 

Sau khi đă rọi sáng ư nghĩa của chủ nghĩa duy tâm ở Hegel như chính thật là một thứ chủ nghĩa hiện thực (tinh thần phổ cập thật ra chỉ là con người tại thế), sau khi đă phát hiện ư nghĩa của hiện thực người trong tất cả sự phong phú của nghiệm sinh như thế, Marx c̣n phải khai triển học thuyết của ông trong viễn cảnh của thực tiễn cách mạng. Trong cuộc đấu tranh hai mặt mà giai cấp tư sản tự do phải tiến hành đầu thế kỷ 19, vừa để tiêu diệt tàn dư của chế độ quân chủ, vừa để ḱm hăm một đội quân vô sản cực kỳ khốn khổ trước quy luật tay làm hàm nhai khắc nghiệt, tầng lớp tiểu tư sản c̣n là đồng minh của giai cấp bóc lột, luôn luôn đứng về phía tư bản mỗi khi cần phải trấn áp những phần tử b́nh dân đă được động viên trong cuộc chiến đ̣i dân chủ. Nhiệm vụ duy nhất của tư duy cách mạng thời đó nằm ở việc đánh phá những kiến trúc thượng tầng của giai cấp thống trị. Dường như chưa khẩn cấp phải xây dựng hệ tư tưởng cho xă hội tương lai, giai cấp vô sản c̣n quá chật vật v́ sinh kế để có thể quay lưng lại với những tranh chấp cục bộ trước mắt. Công cuộc xây dựng này có thể quyến rũ giai cấp tiểu tư sản, song do t́nh cảnh khách quan, nó lại quá gắn bó với giới tư bản để có thể đứng về phía cách mạng như một giai cấp. V́ thế, Karl Marx, nhà tư tưởng thực tiễn, phải dành tất cả mọi nỗ lực cho việc phân tích hạ tầng cơ sở.

 

Từ nửa sau thế kỷ 19, tiến bộ kỹ thuật kết hợp với cơ chế chính trị của nền dân chủ tư sản đă nâng cao đáng kể mức sống của giai cấp vô sản Âu châu. Hệ quả là sự tư sản hoá một bộ phận của quần chúng lao động song song với sự vô sản hoá giai cấp tiểu tư sản, cụ thể là ở thành phần trí thức mà sự thiếu vắng ư thức giai cấp đă không cho phép tự vệ một cách hữu hiệu trong cuộc đấu tranh xă hội. Kết cấu của giai cấp cách mạng khách quan, do đó, đă chịu nhiều thay đổi cơ bản. Nó không chỉ đơn giản là một giai cấp vô sản hoàn toàn lệ thuộc vào quy luật tay làm hàm nhai như hồi giữa thế kỷ 19 nữa, mà bao gồm cả nhiều tầng lớp lao động quan trọng được tư sản hoá và thành phần tiểu tư sản bị vô sản hoá. Nhu cầu trí thức của thành phần sau không c̣n có thể được thỏa măn bởi chủ nghĩa Marx dưới h́nh thức chính thống nữa, trong khi sự bài bác có hệ thống hệ tư tưởng dưới dạng thức một hệ thống tư tưởng được xây dựng trên quyền lợi giai cấp lại bỏ mặc nó trong hoài niệm về những giá trị truyền thống. Đấy là con đường dẫn đến sự phản bội thường kỳ của cán bộ tiểu tư sản ở các thời điểm quyết định của hành động, kéo theo nó sự thất bại của bao cuộc cách mạng ở Âu châu. 

 

Được nền dân chủ của các nước đế quốc bảo đảm một cuộc sống tương đối cao lúc b́nh thường, cái giai cấp mà chúng tôi vừa định nghĩa – vô sản ít nhiều đă tư sản hoá và tiểu tư sản bị vô sản hoá - chỉ ư thức được hoàn cảnh cách mạng khách quan của nó trong thời khủng hoảng hoặc chiến tranh. Những lúc ấy, xă hội có cơ may tự giải phóng khỏi loại chế độ đă sản sinh và nuôi dưỡng tha hoá, thứ chế độ thỉnh thoảng vẫn bắt buộc nó phải tiến hành nhiều cuộc thiêu hủy khổng lồ để «tiêu thụ» sản phẩm dư thừa của nền kỹ thuật hiện đại. Nhưng sự bất lực của chủ nghĩa Marx nhằm thoả măn khát vọng của các tầng lớp cách mạng mới đă phá hỏng vận hội này, và đẩy họ vào sự phi lư của một con đường xă hội chủ nghĩa phảng phất mùi vị «duy tâm». Yêu cầu  xét lại là thiết yếu, do chính những bế tắc của thực tiễn áp đặt.

 

Sự xét lại này không phải là hành động phản bội, mà đơn giản là sự «trở về cội nguồn»; nó có thể tận dụng nhiều công tŕnh nghiên cứu của trường phái hiện tượng học: mặc dù c̣n trong t́nh trạng phác thảo quá tổng quát, chúng đă có giá trị của những cuộc thám hiểm có hệ thống vào thế giới nghiệm sinh. Cố gắng t́m hiểu những sự vật «ư tưởng» trong tinh thần phục tùng tuyệt đối dữ kiện, hiện tượng học đă biết liên hệ giá trị của các sự vật ấy với nguồn gốc vật chất thế tục của chúng mà không hề làm chúng xuống cấp. Nó chỉ c̣n thiếu những khái niệm khách quan để đạt tới một phân tích thực hiệu ngay chính ư niệm tồn tại. Quan hệ tối hậu với kinh tế đưa ra một cơ sở bền vững cho phép con người đảm nhận cuộc sống tại thế với niềm tin chắc chắn rằng nó sẽ thực hiện được những giá trị đích thực. Dự án tồn tại không h́nh thành qua một chọn lựa độc đoán mà luôn luôn trên cơ sở của tri thức; bổn phận của chúng ta là soi rọi kiến thức đó càng sáng càng tốt, để cái ư nghĩa chúng ta cáng đáng bằng chính cuộc đời ḿnh đồng nhất với cái ư nghĩa vốn có của nó, cái ư nghĩa mà chúng ta phải thực hiện như «nhiệm vụ lịch sử».

«Bị ném vào thế giới», thực tại người chỉ vươn tới tồn tại chân thực nếu hắn nh́n cảnh ngộ trớ trêu đó không đơn giản như bàn đạp để phóng về một hướng nào đó, mà như chính bản thể của hắn, cái mà hắn khách quan , cái mà hắn  phải cưu mang ư nghĩa, nếu muốn đích thực là con người. «Dữ kiện» không đơn thuần là một tập hợp những quy định thụ động; «dữ kiện người» mang trong nội thân của con-người-đă-thành ư nghĩa của đ̣i hỏi con-nguời-phải-là mà sự hoàn tất chính là định nghĩa của con-người-chân-thực, và của khái niệm chân thực  hiểu theo nghĩa đích thực. Nếu đúng như câu văn tuyệt vời của Heidegger, «hiện thực người tự chọn lấy những anh hùng của hắn», th́ sự chọn lựa của con người chỉ là hành động tự do thực hiệu, nếu nó đích thị là chọn lựa trên cái số phận đă được h́nh dung trước trong cảnh ngộ khách quan của kiếp người, nghĩa là nếu dự án làm người của hắn không phải là một dự án bất kỳ nào, mà chính là dự án của kẻ bơ vơ vô chủ.

 

Tinh hoa của chủ nghĩa Marx, như phân tích thực tiễn, nằm ở chỗ: từ quan sát hiện thực nó rút ra được đ̣i hỏi siêu vượt biện chứng, nơi phần chân lư của nó thành tựu. Trong sự đảm đương đ̣i hỏi siêu vượt, con người tự thực hiện trong sự vĩnh cửu của hắn, như cái hiện tại của một hữu thể mỗi lúc tự đặt để chính nó như vẫn luôn luôn là một trong ḍng đổi mới không ngừng, tự xác lập như vĩnh viễn là một sự tự thực hiện. Marx đă từng nói: «Học thuyết của tôi không phải là giáo điều mà là cẩm nang hành động». Ư nghĩa thực tiễn của tư duy cách mạng không phải là sự bỏ rơi những đ̣i hỏi đặc thù của suy luận, mà chính là sự thực hiện chân chính những đ̣i hỏi ấy. Hữu thể đích thực không phải là hữu-thể-cho-đó như dữ kiện, mà là ư nghĩa của hắn như hữu-thể-phải-là, cái ư nghĩa đă làm cho tồn tại luôn luôn là lời mời gọi từ ta gửi đến ta: «Trở thành chính mày». Từ nhận định này, lập thuyết về con người không phải là tính toán những quy định khách quan trong tính vật chất trừu tượng của chúng, mà là t́m kiếm trong thế giới đă được thực hiện cái ư nghĩa của tồn tại mà ta phải đảm nhận. Rằng cái ư nghĩa đó không chỉ nằm trong sự xây dựng một nền kinh tế mới chính là điều đă quá hiển nhiên trong ngay chính ư niệm về một thực tại người. Sự phân tích hiện tượng học về lao động tinh thần cụ thể, như thời cứ của tồn tại hiện thực, sẽ mang lại cho biện chứng về quan hệ sản xuất cái ư nghĩa trọn vẹn của một sự chiếm hữu phổ quát.    

   

     

         

 

 



 

Chú Thích

 

[01] Trần Đức Thảo rất kín đáo về việc tiếp thu chủ nghĩa Marx. Tuy nhiên, đây không phải là vấn đề khó trả lời. Một giáo sư Mỹ viết về ông khẳng định Trần Đức Thảo đă từng gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp trong thập niên 1940 (Silvia Federici. Viêt Công Philosophy: Trân Đuc Thao. Telos, n° 6, 1970. Tr. 104-117, ct 9. Địa chỉ truy cập: http://www.viet-studies.org). Riêng ông, Trần Đức Thảo chỉ gián tiếp xác nhận tư cách đảng viên Đảng Cộng Sản Pháp vào cuối đời, khi ông cho biết đă bị Đảng này lôi ra xử về tội phản bội và trục xuất vào năm 1992 (Thierry Marchaisse, Tombeau sur la Mort de Trân Duc Thao, 1993). Dù các nguồn tin trên là đúng với sự thực hay không,  Đảng Cộng Sản Pháp đương nhiên là nơi đă đào tạo rất nhiều trí thức theo chủ nghĩa Marx tại đây từ khi thành lập, cả đảng viên Pháp lẫn cảm t́nh viên ngoại quốc, trong số đó hẳn cũng có Trần Đức Thảo. Phạm Trọng Luật.

[02] Roland Barthes. Về Quyển Sách của Trần Đức Thảo: Hiện Tượng Học và Duy Vật Biện Chứng. Địa chỉ truy cập: http://amvc.free.fr & http://www.viet-studies.org. Phạm Trọng Luật.

[03] Jean-François Lyotard. La Phénoménologie. Paris: PUF, 1999 (in lần đầu 1954). Tr. 113. Phạm Trọng Luật.

[04] Pierre Naville. Marx ou Husserl. Trong: Les Conditions de la Liberté [Điều Kiện của Tự Do]. Paris: Ed. du Sagittaire, 1947. Tr. 162-167. Phạm Trọng Luật.

[05] «L’homme s’approprie de son être universel d’une manière universelle, donc en tant qu’homme total. Chacun de ses rapports humains avec le monde, la vue, l’ouïe, l’odorat, le goût, le toucher, la pensée, la contemplation, le sentiment, la volonté, l’activité, l’amour, bref tous les organes de son individualité, comme les organes qui sont immédiatement dans leur forme des organes sociaux, sont dans leur comportement objectif ou dans leur rapport à l’objet l’appropriation de celui-ci, l’appropriation de la réalité humaine; leur rapport à l’objet est la manifestation de la réalité humaine; c’est l’activité humaine et la souffrance humaine car, comprise au sens humain, la souffrance est une jouissance que l’homme a de soi» (Karl Marx. Manuscrits de 1844. Présent., trad. et notes de Emile Bottigelli. Paris: Ed. sociales, 1968. Tr. 91). Phạm Trọng Luật.

[06] «... c’est d’abord la musique qui éveille le sens musical de l’homme; pour l’oreille qui n’est pas musicienne, la musique la plus belle n’a aucun sens, [n’]est [pas] un objet, car mon objet ne peut être que la confirmation d’une de mes forces essentielles, il ne peut donc être pour moi que tel que ma force essentielle est pour moi en tant que faculté subjective, car le sens d’un objet pour moi (il n’a de signification que pour un sens qui lui correspond) s’étend exactement aussi loin que s’étend mon sens» ( Sđd, tr. 93). Phạm Trọng Luật.

[07] Đây là từ đă nhảy mất trong nguyên bản. Bản dịch của Laura Lafargue mà Trần Đức Thảo sử dụng ghi là «art», theo bản in của K. Kautsky; bản dịch sau của Maurice Husson và Gilbert Badia ghi là «mythologie», và giải thích là dựa trên bản in ở Moscou (1939). Chúng tôi cũng nghĩ rằng «mythologie» đúng hơn, v́ mấy câu kế tiếp đều nêu danh các vị thần Hy Lạp. Xin chép lại nguyên văn: «On sait que la mythologie grecque n’a pas été seulement l’arsenal de l’art grec, ma la terre même qui l’a nourri. La façon de voir la nature et les rapports sociaux qui inspire l’imagination grecque et constitue de ce fait le fondement de [la mythologie] grecque est-elle compatible avec les Selfactors [machines à filer automatiques], les chemins de fer, les locomotives et le télégraphe électrique? Qu’est-ce que Vulcain auprès de Robert et C°, Jupiter auprès du paratonnerre et Hermès auprès du Crédit mobilier ?»... (Karl Marx, Contribution à la Critique de l’Economie Politique. Trad. de l’allemand par Maurice Husson et Gilbert Badia. Paris: Ed. sociales, 1957. Tr. 174). Phạm Trọng Luật.

[08] «L’art grec suppose la mythologie grecque, c’est-à-dire l’élaboration artistique mais inconsciente de la nature et des formes sociales elles-mêmes par l’imagination populaire» (Sđd, tr. 174). Phạm Trọng Luật.

[09] «Mais la difficulté n’est pas de comprendre que l’art grec et l’épopée sont liés à certaines formes du développement social. La difficulté réside dans le fait qu’ils nous procurent encore une jouissance esthétique et qu’ils ont encore pour nous, à certains égards, la valeur de normes et de modèles inaccessibles» (Sđd, tr. 175). Phạm Trọng Luật.

[10] «Un homme ne peut redevenir enfant, sous peine de tomber dans la puérilité. Mais ne prend-il pas plaisir à la naïvité de l’enfant, et ayant accédé à un niveau supérieur, ne doit-il pas aspirer lui-même à reproduire sa vérité? Dans la nature enfantine, chaque époque ne voit-elle pas revivre son propre caractère dans sa vérité naturelle? Pourquoi l’enfance historique de l’humanité, là où elle a atteint son plus bel épanouissement, pourquoi ce stade développement révolu à jamais n’exercerait-il pas un charme éternel?» (Sđd, tr. 175). Phạm Trọng Luật.

[11] Tất nhiên, không nên lẫn lộn sự hưởng thụ cái tuyệt đối do con người sản sinh ra một cách ư thức với t́nh cảm thụ động về tính đồng nhất chung chung của vạn vật. Ở một nơi như Ấn Độ, thứ cảm thức sau tương ứng với loại tŕnh độ kỹ thuật lạc hậu và bất lực, không làm chủ nổi thiên nhiên phong phú. Trần Đức Thảo.