Mai Ninh phong van NTH

 

Mai Ninh thực hiện

 

phỏng vấn Nguyễn Thị Hoàng,  Người Yêu Của Đấng Trời.

 

Trong các nhà văn nổi tiếng của miền Nam trước 75, Nguyễn Thị Hoàng mang trên thân định mệnh một cuốn tiểu thuyết. Chưa một nhà văn Việt nào được các thế hệ thanh niên say mê và tác phẩm đầu tay đem đến tiếng tăm lẫn sóng gió nhiều như Nguyễn Thị Hoàng. Ṿng Tay Học Tṛ, thập niên 60, đă biểu trưng tâm t́nh nổi loạn của cả một thế hệ trẻ trong một thời đại bắt đầu làm quen với văn chương ‘‘hiện sinh’’, trong t́nh yêu và trước xă hội, với khao khát một cách sống độc lập. Từ Ṿng Tay Học Tṛ đến nay đă gần 40 năm, Nguyễn Thị Hoàng trở lại tiểu thuyết với tác phẩm Người Yêu Của Đấng Trời. Bài phỏng vấn dưới đây, thực hiện qua điện thư, sẽ giúp bạn đọc phần nào biết thêm mối tương quan được tác giả xem như một ánh chớp của tâm thức, trong cuộc đi t́m và bắt gặp, giữa Nguyễn Thị Hoàng và Người Yêu Của Đấng Trời. 

1.

MN: Từ nhiều năm nay, ngoài Nhật Kư Của Im Lặng, ít hoặc hầu như không thấy xuất hiện tác phẩm của Nguyễn Thị Hoàng trên văn đàn Việt Nam trong lẫn ngoài nước, xin chị cho độc giả Hợp Lưu biết lí do của sự vắng mặt này.

NTH: Rất cám ơn câu hỏi đă minh định được t́nh thế của NTH: không thấy xuất hiện tác phẩm của NTH trên văn đàn VN Trong lẫn Ngoài nước. Một tác phẩm có mặt từ ba yếu tố: nghĩ (hay cảm), viết, và in. Nghĩ th́ như thở, càng bị rượt đuổi vây khổn, càng dập dồn, chồng chất. Viết ra th́ khó liên tục nếu ăn ở không yên và chèo chống không ngừng với mọi vấn đề. Nếu vượt hai điều trên được, lại phải đứng dừng trước bức tường thứ ba: in ra, ngoài khả năng của một tác giả tận cùng đơn độc, trong mọi nghĩa. Khi qua đi một khúc đoạn ở cuộc đời hay nỗi niềm riêng, NTH vẫn ngạc nhiên là ḿnh vẫn c̣n sống và câu hỏi duy nhất là làm sao để in ra, cũ và mới những ǵ đă ứa ra từ quá tŕnh sống… chín này.

2.

MN:    Cho đến nay tác giả Nguyễn Thị Hoàng đă cho ra đời bao nhiêu tiểu thuyết? kể cả tác phẩm đă hoặc chưa xuất bản.  Chị quan niệm thế nào về một tiểu thuyết hay? Nó chỉ cần quyến rũ người đọc, hay nhất thiết phải chuyên chở một tư tưởng?

Cũng xin chị cho biết, những nguyên tắc cùng cảm nhận khác biệt nào đă có khi chị viết tiểu thuyết thay v́ các thể loại khác, chẳng hạn như truyện ngắn, tùy bút, kư.

NTHChỉ mới cho đến hôm nay thôi, trên 30 cuốn đă xuất bản, khoảng 10 th́ chưa (gồm những thể loại khác tiểu thuyết). Chỉ là những dấu chân đă qua, dù vẫn trên đường. Nhiều để làm ǵ, chỉ cần ba, vẫn chưa có mặt.

Thế nào là một tiểu thuyết hay th́ có thể đáp gọn trong vài chữ, có thể thuyết tŕnh trong một lần nói huyên thuyên, ở đây vẫn chỉ góp ư ch́u theo câu hỏi:

Hiếm có một tiểu thuyết nào đáp ứng được mọi thể loại và đẳng cấp độc giả. Tính quyến rũ, nếu có, chỉ cho một phần nào trong tất cả độc giả. Yếu tố quyến rũ chỉ là một phần trong toàn thể những yếu tố khác quyết định giá trị tác phẩm; c̣n tùy cái ǵ làm nên sự quyến rũ.

Tiểu thuyết chuyên chở tư tưởng, chất liệu cần thiết để đắp xây hay phá hủy; nhưng tư tưởng lại không chuyên chở được tiểu thuyết - đương nhiên không thể là yếu tố chính để “làm hay” mà động lực tồn tại qua không gian và thời gian. Một cuốn sách hay do tư tưởng th́ không là tiểu thuyết mà luận thuyết. Một tiểu thuyết hay hội tụ nhiều yếu tố, cách thế cảm nhận suy nghĩ trước tự thân và ngoại giới của tác giả, được thể hiện tŕnh bày nó chân thực hồn nhiên như hít thở. Nên nếu phải hít thở theo nhịp điệu nào đó th́ chỉ là bài tập thể thao không c̣n tự do sáng tạo. Nếu người viết có xúc động để sáng tạo th́ người đọc mới xúc động được sáng tạo ấy.

Là một tác phẩm văn chương, nên văn chương vẫn là yếu tố tiên quyết. Ngôn ngữ âm điệu, cách sử dụng, như kiếm báu, dẫu rèn đúc hay lưu truyền th́ hiệu lực không do chính nó mà từ kiếm khí, cách khác, là cung cách thể hiện một hiện thể.

Tiểu thuyết hay khi người đọc mỗi một và tất cả dẫu khác xa nhau, đều t́m thấy một phần ḿnh muốn, thích, cần sống không có được trong đời sống. Qua tiểu thuyết, người đọc sống lấy ḿnh bằng xúc động và đồng cảm với tác giả.

Sự quyến rũ, ở vật thể hay phi vật thể là hiệu quả của chất chứa và phóng tỏa một nội thể đă sống lấy tận cùng nó.

Về nguyên tắc và cảm nhận khi viết tiểu thuyết th́, một dàn dựng không công phu nhưng phức tạp uyển chuyển theo chủ ư hay chủ đích riêng, giữa các sự kiện nhân vật bối cảnh có thực cùng mức độ và khả năng (hoặc tài năng) phóng hóa nó để mỗi sinh vật thể được là như thế khi nó chưa là hoặc không bao giờ là như thế. Chỉ có xúc động của mỗi nhân vật mà tác giả hóa thân hay nhập vai tùy lúc là có thật. Riêng đối thoại và diễn tả về những trạng thái ấy th́ hay hay dở tùy theo khả năng vận dụng tính đạo diễn của tác giả. Cách của NTH, chỉ khi cảm nhận được tận cùng (xúc động hay chấn động tận đáy thẳm linh hồn) đến rơi vỡ nước mắt (đôi khi nước mắt trên môi và nụ cười trong mắt) về một vẻ đẹp (không phải chỉ beauté esthétique1!), ḷng đau hay niềm yêu th́ khởi sinh sáng tạo như một ứa tràn hồn nhiên không ngăn cấm, không hạn chế.

Tiểu thuyết là thế giới tác giả sống lấy ḿnh nơi mỗi một nhân vật, hoặc ít ra là sống với, một thể hiện hoàn toàn tự do về mọi nỗi niềm cách thế, vô điều kiện, hoặc điều kiện duy nhất: ḿnh có đáng là như thế hay không.

Truyện ngắn lại khác, cần súc tích, bao gồm, trọn vẹn và bắt buộc hạn chế, v́ kiến trúc sự kiện lẫn nhân vật, v́ ư tưởng xoay quanh một trục thèse2 nào đó cho một lănh vực của nhân sinh. Nó cần chuyên chở; nhắn gửi một thái độ, một quan niệm, tối thiểu là một ư kiến, xao xuyến nào đó của tác giả về một vấn đề hay một hiện tượng, một t́nh trạng.

Thời này, tự do được tuyên dương nên người ta cứ viết ǵ tùy thích, xong gọi là ngắn v́ không dài, tùy bút v́ không chủ đề, kư v́ chỉ muốn nhận mà không phải tốn hao ǵ cả.

3.

MN:   Hợp Lưu số này được hân hạnh giới thiệu một chương trích từ tiểu thuyết ‘‘Người Yêu Của Đấng Trời’’  chưa đăng báo cũng chưa xuất bản của chị, và theo ghi chú ở Lời Ngỏ th́ chị đă khởi đầu cách đây 13 năm. Đây là một tác phẩm mà trong đó chị đă luận giải những tương quan giữa Tôn giáo, Con người và T́nh yêu. MN đọc thấy hai đoạn như sau :

‘‘Tất cả đều in bóng lên nền xanh bát ngát của ḷng trời, và những đôi mắt linh hồn măi măi t́m nhau, vẫn dồn trút niềm yêu và nỗi đau trong cái nh́n đáy thẳm tuyệt vời của im lặng và bóng tối.’’

…..

‘‘Khoác lên trái tim chưa yêu của Chúa một vầng hoa nguyệt quế ngh́n thu. Và trái tim nào đă yêu đến tan nát cả chân như thể tánh ḿnh, hăy lấy búa kim cương đóng lên một chiếc đinh vàng, để dưới bóng Chúa lung linh  nến hồng thuở trước, trên t́nh yêu không bao giờ có thực của chúng ta, một giọt máu trường sinh nhỏ xuống.’’

Như thế, phải chăng có sự mâu thuẫn? : Linh hồn t́nh yêu t́m nhau trong đáy thẳm của im lặng và bóng tối, vậy là đă tin có t́nh yêu, rồi sau đó lại hoài nghi, hơn cả hoài nghi nữa, một xác tín, là nó không bao giờ có thực.

Theo chị Hoàng, Chúa chưa từng yêu? V́ sao lại phong quang cho ‘‘Trái tim chưa yêu’’ này bằng một ṿng nguyệt quế ?

NTH:  Nếu đọc hết toàn bộ gồm những chương khi chưa cắt xén trong sách lẫn những đoạn đă tháo gỡ bớt th́ NYCĐT không luận giải ǵ, lại càng không có ư thiết lập tương quan giữa Tôn giáo, Con người và T́nh yêu. T́nh yêu nơi đây, dẫu thế nào, chỉ là ngọn lửa sưởi ấm soi sáng, phản chiếu tính cách của một siêu thể trên đường đi và đến. Cũng không luận giải một tôn giáo mà chỉ là cách thế nh́n ngắm, xao xuyến đối với một biểu tượng, một hiệu lực, của một kẻ (tác giả) không phải tín đồ Thiên chúa giáo, lại càng không đọc, hiểu ǵ về tôn giáo này. C̣n Con Người th́ không phải con người nói chung, mà Con Người viết hoa nào đó trên hành tŕnh chuyển hóa và thắng vượt để trở thành.

Mâu thuẫn, nếu có th́ từ phía nh́n khách quan. Thuần túy chủ quan của tác giả (chép lại cảm nhận ḿnh hơn là luận giải một vấn đề), trên những ḍng này của Lời Ngỏ, mỗi câu đều có định ư riêng. “Trên t́nh yêu không bao giờ có thật của chúng ta”, ư nghĩ của người viết khi nói với một con người. Có thể chỉ là với một cái bóng, nguồn cơn của đối thoại. Một ư niệm trừu tượng, một đối thể không có thật, t́nh yêu v́ vậy cũng không bao giờ có thật trong trạng huống này. Nhưng nếu mà yêu, người viết hay nhân vật hay bất kỳ ai, nếu đă yêu đến mức tan nát cả chân như thể tánh ḿnh th́ xứng đáng với một khổ h́nh trừu tượng tuyệt vời: búa kim cương đóng đinh vàng (MN này, đinh vàng th́ vô khối, nhưng biết t́m đâu ra búa kim cương?), chỉ là một giọt máu từ vết thương vĩnh cửu này sẽ nối truyền đời đời sự sống. Trong phạm vi lời này, chuyện này là như thế. C̣n t́nh yêu có thật hay không bao giờ có thật, như một định lư phổ quát, th́ là một chủ đề khác. (Khi nào HL hay diễn đàn nào cần, xin cứ gọi, sẽ thưa sau). Tất cả đều là trừu tượng, chỉ niềm đau không cùng tận là có thật. Niềm đau hơn cả sự chết. Sự chết chỉ là một hơi thở, niềm đau th́ không cùng tận. Chẳng phải thế giới cũng đang đau không cùng tận bằng chính tay con người đóng gơ đó sao?

Chúa chưa từng yêu? Chúa, Jésus thật, đă từng yêu hay chưa làm sao một con người trong khoảng cách không gian thời gian và mọi điều kiện khác lại có thể biết được Chúa đă từng yêu chưa? Điều ấy ngoài Chúa ra không một ai được biết đúng, đôi khi kể cả trời.

Nhưng hai điều cần được nói ra: nhân vật (v́ là trong tiểu thuyết) Chúa trong cảm niệm của người viết, giữ ḿnh trọn vẹn thánh tính trên hành tŕnh đi và đến, không tiếp nhận ở ḿnh với ḿnh, ḿnh với người khác cái gọi là t́nh yêu hạ giới, dẫu đến như thế nào, dành ḿnh cho t́nh- yêu- tuyệt- đối-không- cùng- tận đối với trần gian. Một ṿng hoa nguyệt quế ( chiến thắng, thắng vươt)  cho một thánh tính, vầng hương nơi một bông hoa, hay bông hoa cho một vầng hương, sao lại không?

4.

MN:Tin rằng Chúa chưa yêu, hay giả là Chúa có yêu nhưng đó là t́nh yêu biển trời bao la, t́nh yêu cho mọi nhân loài, và dựa theo cả cốt truyện, nếu bây giờ độc giả cho rằng tựa cuốn tiểu thuyết này nên là ‘‘Người Yêu Đấng Trời’’, như thế sẽ thích hợp hơn ‘‘Người Yêu Của Đấng Trời’’ th́ tác giả Nguyễn Thị Hoàng nghĩ sao ?

NTH:  Sách chưa được in lại phải giải thích một điều trong sách th́ thật… chưa từng có. Đành vậy, biết sao hơn trong t́nh thế cũng chưa từng có này.

Theo lẽ, th́ NYCĐT phải là nhân vật chính của câu chuyện. Nhưng theo bố cục tổng quát một dàn dựng gồm ba bộ: Ông Chúa, Ông Phật, Ông Người, th́ vấn đề (hay tương quan giữa nhân vật và Đấng Trời) không phải ở chính mỗi bậc vị này mà nơi đáp số hay hiệu lực của họ đối với nhân loại. Trong NYCĐT giai đoạn trước có ba nhân vật Jésus, Maria, Madeleine, vai phụ hay doublure3 của J., Angel. Giai đoạn sau là Dominico, Thérèse. Ai làm nên và đem lại hiệu quả nơi trần thế đúng ư Trời th́ đó là NYCĐT. (Xin hiểu Trời theo nghĩa là Đại Huyền Lực Vũ Trụ vận hành cuộc Tiến Hóa muôn loài).

Vậy nên, NYCĐT không phải Jésus. Thế th́ ai?

5.

MN: ‘‘Không phải Chúa chịu khổ h́nh, như một biểu tượng cứu chuộc thương đau như cũ, v́ con người không c̣n biết xúc động trước cái đẹp siêu linh hay những giá trị tinh thần tột đỉnh mà bằng một vóc dáng, một thể hiện mới, trên biểu tượng lẫn hành vi, đáp ứng được cơn đói khát đương thời mà con người đang gào la khắp cùng thế giới th́ quả thật đó là Chúa trở lại, một Chúa mới của con người đương đại.’’

Đây là tư duy của Bà Nhất, người sơ trưởng trong tu viện, về sự trở lại của Chúa với con người mới. Con người đương đại khác với con người thời Chúa chịu khổ h́nh ra sao? Con người thời nay không c̣n những xúc động siêu linh mà chỉ muốn Chúa đáp ứng đ̣i hỏi của họ? Chị quan niệm như thế?

NTH: Chỉ khi xuyên suốt một tác phẩm (không cắt xén một phần, một chương hoặc dẫu một khúc đoạn nào) mới nắm bắt trọn vẹn được ư định tác giả. Lời của Bà Nhất chỉ là ư kiến dẫn khởi cho hàng loạt những biến chuyển về sau sẽ giải tŕnh ư định ấy. Thời này, thời ấy khác nhau, nhưng con người thời nào cũng đều có xúc động và đức tin, phóng tỏa hay giới hạn tùy thuộc vấn đề và nhu cầu sống từ môi trường quanh đời. Con người đi dạo trong thiên nhiên phóng khoáng sẽ cảm ứng nhanh những quyền phép siêu linh, con người trong thang máy chỉ trông cậy vào cái nút bấm để xuống lên và đôi khi sống chết v́.

Vấn đề là thời này Ư Chúa có được thể hiện nối truyền đúng và do đó hiệu lực có c̣n trọn vẹn không. Đức tin và khát vọng về cái đẹp măi măi tồn lưu nơi con người, nhưng với những nhu cầu khẩn cấp và cay nghiệt hiện thời, con người mong muốn và đợi chờ cái hiệu quả tức th́ và hiển nhiên như một công thức hay đáp số giải được mọi bài toán khó. Không phải là một Chúa mới hay Chúa trở lại mà một con người có vóc dáng và tính cách Chúa, nhận ra toàn bộ vấn đề xưa sau, xoay vần và phục sinh lại Ư Chúa.

6.

MN:  Vẫn nói về ‘‘xúc động’’, trong chương cuối của tiểu thuyết, Chúa của tác giả Nguyễn Thị Hoàng đề cập và phân biệt tách bạch ‘‘Con người trên trái đất’’ và ‘‘Giống dân trên các hành tinh khác’’ của giải ngân hà. Chúa ở đây, c̣n cho rằng con người trái đất có thể thua các sắc dân ấy về trí tuệ và nhiều cơ năng khác nhưng hơn hẳn họ ở khả năng kỳ diệu là biết cảm xúc.

Dựa trên căn bản nào, khoa học, thần học hay cũng là do trí tuệ siêu phàm mà Chúa đưa ra luận thuyết ấy?  Chúa nói ra những điều đó trên cương vị một con người trái đất hay Đấng Trời bao trùm cả vũ trụ?

NTH: Câu hỏi đă phân định rơ, Chúa của tác giả NTH. Vậy những lời nói ra của Chúa trong tiểu thuyết này không phải là của Chúa Thánh Kinh mà chỉ là những suy nghiệm của người viết. Nếu là nghiên cứu biên khảo th́ lời Chúa biên khảo phải đúng là lời Chúa. Trong phạm vi tiểu thuyết, một sáng tạo, hoặc phóng tác, mô phỏng th́ cũng như trang phục, vóc dáng, chuyển động, hành xử, lời lẽ một personnage4 có được phép là, của, do, từ, bởi chính người viết không? Dựa trên căn bản nào, khoa học, thần học, trí tuệ siêu phàm. Chủ từ chữ “ dựa” trong câu hỏi hẳn là người viết. NTH khởi viết, trước tiểu thuyết, bằng thơ (Tạp chí Bách Khoa 1960), và căn chất măi măi cũng chỉ là thơ, rất “dốt“ và sợ cái ǵ liên quan đến khoa học. C̣n thần học th́ lại càng thất thần… học. Về trí tuệ siêu phàm, tắt là siêu trí, hiểu biết vượt trên mức độ và giới hạn trí tuệ b́nh thường? Nếu chỉ là cách suy nghĩ của người viết th́ không trên cương vị nào ngoại trừ một Cơi Không vô cùng tận. Nơi đó có Trời, Đại Huyền Lực vũ trụ.

Bằng cách nào mà như thế? Điều này thuộc về tác giả và không liên quan đến tác phẩm.

7.

MN:Trong Thánh Kinh, Marie-Madeleine trước là một gái làng chơi bị người ném đá. May có Chúa đi qua và nói với đám đông : Ai thấy ḿnh không là kẻ có tội th́ được tha hồ ném. Thế là mọi người bỏ đi. Đây là một câu chuyện hay và thuyết phục. Không thấy chị Hoàng đem vào tiểu thuyết?

NTH:  Có nghe nói về “ Madeleine bị ném đá”. V́ không đọc thánh kinh (lại dốt!), nên không lấy chuyện này và có thể c̣n nhiều chuyện hay khác nữa đem vào tiểu thuyết. Điều chính yếu trong NYCĐT là tâm mạch mà không là sự kiện, đúng hơn là giả thuyết về tâm mạch. Mỗi tâm mạch lại phản chiếu tâm mạch khác trong tương quan, theo hướng đích của hành tŕnh chuyển hóa.

8.

MN:  MN xin có câu hỏi cuối về tác phẩm, có thể nói là một công tŕnh này của chị. Trong lời ngỏ, chị viết: ‘‘Cái trống rỗng hao hụt hiện lên thay thế vị trí đường nét tuyệt vời của một tác phẩm thành h́nh.… Để được là tặng phẩm đầu tiên và cuối cùng cho một niềm yêu, cho một nỗi đau, một sự sống khởi đầu từ cái chết.’’

Đó là ư nghĩ trước ánh chớp loé, trước khi viết. Vậy khi tác phẩm đă thành h́nh, đă viết xong, chị cảm giác ra sao? Đă được hồi sinh? Và có được ở trong tay Chúa?

NTH:  Công tŕnh nào cũng đ̣i hỏi nỗ lực và thời gian thực hiện. Dẫu hiệu lực thế nào, tác phẩm này v́ thế, không phải là một công tŕnh, mà chỉ như một đoản khúc viết nhanh từ ánh chớp tâm linh. Chỉ khi nghe lắng được Ḿnh, một Ḿnh vắng lặng, riêng tư mà chan chứa, NTH mới viết, đúng hơn là chép ra những lắng nghe ấy. Nếu hiểu chết trong nghĩa lớn, th́ mỗi đời trong Cơi Khổ này đă phải chết đi và sống lại biết bao lần, mỗi thể loại v́ một nguyên nhân hay động lực khác nhau. Trận hồi sinh ở NTH không phải từ viết hoặc viết xong, mà từ bắt gặp nguồn cơn phát sinh xúc động sáng tạo (tạm gọi là như thế), đôi khi là thực thể, đôi khi trừu tượng, hoặc những phóng hóa trừu tượng đến chỉ là ảo giác phủ trùm long lanh trên thực thể vốn chẳng là ǵ. Đó là bi kịch lớn của một loài măi hoài đơn độc, như sơn dương đầu ngàn uống bóng ḿnh dưới suối trăng tan!

Trong tay Chúa ư? Không trong tay mà đối diện, với khoảng cách giữa mặt đất và ṿm trời. Không trong tay Chúa. Không trong tay người. Không trong tay một ai, trừ một thứ h́nh như là Định Mệnh.

9.

MN:  Xem như đă hỏi xong về tác phẩm, bây giờ MN xin được phép dấn sang chuyện đời thường. Bằng hữu trong nước hẳn luôn tới chơi với chị, riêng bạn bè từ nước ngoài về, MN biết nhiều người thích đến uống một ly rượu, tṛ chuyện với Nguyễn Thị Hoàng. MN vẫn c̣n nhớ vài buổi sáng Saig̣n d́u dịu trong không khí những ngày cận Giáng Sinh, ngồi trước cốc cà-phê, thảnh thơi nghe chị nói về những hạt bụi lung linh trong nắng và trong cả con người. Rồi từ con người chung chung đó, chị nói đến con người riêng trong MN, qua cái nh́n của chị. Thú thật, ngoài những phân tích nhằm xem phản ứng người đối diện ra sao ấy của chị, th́ cử chỉ, lời nói và cả nét mặt của một nhà văn đă làm cho MN, của một thời mới lớn mê mẩn với’‘Ṿng Tay Học Tṛ’’, vừa bị lôi cuốn vừa ngỡ ngàng, trước một Nguyễn Thị Hoàng ngày nay toát ra một thứ ǵ tạm gọi là ma lực. Chị Hoàng có thể cho biết cái lực đó đến tự nhiên hay là do luyện tập mới có, được chăng?

NTH: MN đă “nhận ra” được NTH nhưng lại hiểu oan một tính cách (toát ra một thứ ǵ tạm gọi là ma lực). Tuy nhiên, không biết rơ chữ ma lực dùng trong ư tứ nào của MN. Thông thường th́ Ma lực đối nghịch với Phật lực. Nhưng ma lực theo nghĩa một sức cuốn hút kỳ bí th́ lại khác. Hoặc hiểu theo kiểu phù thủy yêu tinh th́ t́nh thế trở nên rùng rợn hẳn. Nghĩa nào th́ tùy theo ngắm nh́n và cảm nhận mỗi phía, NTH tự hiểu. Ḿnh không nh́n thấy ḿnh được để biết ra sao trong tương quan. Nhưng chỉ trong những tấm gương soi là một đối diện tương đương và tương thông, cái LÀ sâu thẳm và chân thật mới hiện ra hồn nhiên không… diễn xuất.

Cái được gọi là ma lực ấy, tự hiểu chỉ là chút hắt bóng lung linh từ ngọn lửa nén của nội thể âm u một con người tưởng là tung hoành mà kỳ thực đă trọn đời nín sống, nói cách khác, đă chưa và không bao giờ t́m thấy vóc dáng cuộc đời đúng như tính cách và tầm cỡ ḿnh.

10.

MN:  Để kết thúc, MN muốn biết, ‘‘Ṿng Tay Học Tṛ’’ bây giờ là ǵ, với Ngưyễn Thị Hoàng?

Chị có thể kể lại cuốn tiểu thuyết này đă ra đời ra sao, do đâu, đă được đón nhận và chống đối thế nào trên các diễn đàn văn chương Saig̣n thời đó?

MN nhớ, sau buổi ấy, khoảng năm 1970, bên Pháp ra cuốn phim ‘‘Mourir d’Aimer’’ (Chết v́ Yêu) với Annie Girardot, cùng một đề tài: Một nữ giáo sư yêu cậu học tṛ trẻ tuổi và bị sự phản kháng mănh liệt của bố mẹ cậu ta nên đi đến tự vận, cuốn phim rút từ một câu chuyện thật đă gây ra lắm xôn xao, báo động, trong các gia đ́nh và học đường. Ở Việt Nam, có những phản ứng tương tự của phụ huynh học sinh hay không, với cuốn truyện của chị? 

Tấm ảnh chị cho đăng trên Hợp Lưu số này có phải là h́nh cô giáo Hoàng thuở ấy?

NTH: Đành phải nhắc nhở vài hàng về sự tích VTHT ngày xưa. Chán chương tŕnh, không khí ở Văn khoa, Luật, bỏ học, đi làm không lâu lại bỏ việc này (thư kư riêng của một tỉ phú) 1960, t́m việc khác 1961. Được bổ nhiệm về Nha-Trang dạy học, trường nơi đây từ chối; chuyển lên Đà-Lạt. Trường nữ dư giáo sư, trường nam thiếu nên xảy chuyện “hoa lạc giữa rừng gươm”, 1962. Năm sau bỏ Đà-Lạt. Mùa hè 1964, một xấp pelure5 ố vàng, một cây bút ǵ đó, viết một hơi một tháng, VTHT. Bách khoa in mấy kỳ, thiên hạ xôn xao. Nhưng sau đó chuyển cảnh qua chồng con, bản thảo VTHT xếp lại. Đến 66, một nhóm t́m kiếm VTHT, xuất bản. Tái bản 4 lần trong ṿng mấy tháng. Sóng gió nổi lên từ mọi phía, v́ những lư do và động lực khác nhau. 5 tờ báo, cùng nhất loạt lên tiếng phê phán, chỉ trích, tóm lại là chửi bới. Rất tiếc cuộc biển dâu cuốn trôi không c̣n một mảnh tài liệu nào, c̣n trí nhớ NTH th́ chỉ gạn lọc lưu trữ những ǵ tốt đẹp. H́nh như nhân danh hay đại diện phụ huynh học sinh, nhà trường ǵ đó có lên tiếng trong một bài báo. Không có những phản ứng trực tiếp tương tự như trong phim đối với cuốn truyện, c̣n gián tiếp th́ không biết.

Khi viết, với không phải viết cái ǵ đă sống, mà trên khung cảnh, sự kiện, nhân vật của khoảnh khắc thoáng qua “trong vai” cô giáo ấy, tăng giảm biến đổi để đúng vóc dáng một câu chuyện. Đă không tính đến chuyện viết tiểu thuyết hay h́nh thành một tác phẩm với dụng ư, mục đích nào mà chỉ góp nhặt lại những mảnh vụn của một khúc đời đă vỡ.

Thế mà nó trở thành tác phẩm, tác giả với hàng loạt những hệ quả sinh khắc liên hồi từ ấy.

Được lồng bóng trong một giai đoạn thời sự bất an, những ngộ nhận phê phán không thuần túy qua lăng kính văn học nghệ thuật mà nhiều vấn đề ngoài nó. Cái nhăn hiệu độc dược hiển nhiên dễ dán là vô luân lư đạo đức, hay một chữ ǵ đó tương đương hoặc nặng nề hơn.

Nhưng nó là như thế nào so với hàng loạt những tác phẩm đă dịch và in ra, những câu chuyện có thật trong đời thật. Trong VTHT hay bất cứ đâu, nếu cô giáo yêu một học tṛ ngoài lớp ḿnh dạy bị kết án th́ những mối t́nh hay hôn nhân giữa thầy giáo với học tṛ(chuyện thường thấy), lớp ḿnh hay lớp khác trong trường, th́ được phép, tại sao?

 Nên h́nh như chủ đề chỉ là cái khiên, những mũi tên nhắm phần sau là một trường hợp, của một giai đoạn.

Nó là cái ch́a khóa mở cửa vào một thế giới, nhưng hơn mười năm sau, cũng là thứ ch́a khóa đóng kín thế giới ấy lại để có mặt bỗng nhiên vắng mặt.

Nó là cái khởi đầu muốn chấm dứt tất cả những ǵ trước và sau nó, nhưng thật phản tác dụng, nó lại là cái tín hiệu, là mối nối của những tương giao, hiệu ứng hai mặt của một tính cách định mệnh. Bởi, nó gián đoạn, chôn vùi gần kín thời gian một đời người hay một đời viết, nhưng bù đắp, cái gián đoạn chôn vùi này lại lắng đọng và tích lũy một tố chất cuồn cuộn khác trong hồn nhiên tự tính.

Trên tất cả, nó đem đến những kiếm t́m gặp gỡ và bù đắp cái không là ǵ cả mà là tất cả của hôm nay, như giọt lửa sau cùng dưới đám tro vùi, thắp lại được một phần c̣n mong manh mà kỳ thực là cái khởi đầu chờ mong của SỐNG và VIẾT.

Khoảng 71, 72 ǵ đó, Kiều Chinh và Đặng Trần Thức có t́m gặp NTH định làm phim VTHT. Về sau lại thôi, h́nh như v́ sợ đọ sức với Mourir d’aimer của Pháp. Sau đó (sách hay phim) ai làm ǵ liên quan đến VTHT, NTH hoàn toàn không hay biết, cho đến nay. NTH vẫn vấp phải những thứ tương tự oan khiên như vậy. Sự thật, những thứ kia là thuần túy phim ảnh, tiểu thuyết, phía ḿnh th́ trích dẫn và phóng tác bằng chính những mảnh vỡ đời ḿnh. Ví dụ, một thời gian sau cuốn Ngày Qua Bóng Tối, NTH xem Un Certain Sourire của F. Sagan. Những nhân vật trong NQBT của NTH lại giống như Luc (với Rossano Brazzi Ư), Bertrand, Dominique và Francoise, chỉ khác ở F.S th́ phá phách, ở NTH th́ ră rời (trong truyện này).

Tấm ảnh nào trên HL? Có người về khi đi mang theo mấy tấm h́nh NTH trong thời gian viết VTHT, sau khi ra khỏi vai tṛ cô giáo thoáng qua. Có phải trên trận biến hóa liên hồi của những vai tṛ và tính cách, con người (hoặc NTH) không thể khoác áo sai lúc và nhầm vai? Chỉ mỗi một điều ngàn muôn năm không thay đổi, cái tự tính bất biến, hoặc “luyện tập” (không phải luyện tập để có ma lực!), để trở thành bất biến hoại, để có ai c̣n t́m kiếm kiếp nào sau, c̣n nhận ra và gặp lại.

NTH xin lỗi về những lời đáp lại không vừa ư những câu hỏi; trong phạm vi bài này và từ mọi phía thắc mắc chưa gặp được nhau. Bởi v́ NTH đă không thu nhỏ hoặc phóng lớn ḿnh theo thói thường của một phỏng vấn xưa kia. Chỉ v́ những câu hỏi trên đă “chạm mối thương tâm”, nhức nhối mấy mươi năm trời nên đành phóng tỏa không đắn đo suy nghĩ ǵ hậu quả những lời ḿnh. Cám ơn, MN và “ai đó” (biết có chữ nào qua giới hạn chữ nghĩa?) đă giúp người câm- câm thời khí, không phải bẩm sinh- bỗng được nói “sau ngần ấy năm trời”. C̣n ǵ nữa không? C̣n. Vẫn c̣n. Vẫn c̣n những ǵ không bao giờ có thể hết.

Mai Ninh chân thành cám ơn chị Nguyễn Thị Hoàng đă chấp nhận trả lời phỏng vấn này, với những “phóng toả không đắn đo” dù tác phẩm NYCDT chưa được in ra (điều chưa từng có, như lời tác giả); nhất là chị đă cho phép MN được ‘‘chạm đến mối thương tâm’’ không những của một nhà văn mà của một con người, trong nghĩa tṛn vẹn nhất.

Caen – Saig̣n

(mùa xuân, 2003)

……………….

1: cái đẹp thẩm mỹ

2: luận đề

3: đóng thay vai tṛ

4: nhân vật

5: giấy mỏng