Mai Ninh

 

Mưa Mùa Xa

Mùa ấy tôi về phố phường lao đao giữa những cơn mưa đập nứt mái nhà và trận nắng rươm túa nước nôi dưới manh áo. Nhiều năm qua, nhiều lần đi lại, từng mùa trôi nhưng h́nh ảnh một mùa ấy h́nh như là điều ǵ thuần nhất, keo kết thành biểu tượng bất biến trong tôi khi nói đến một chuyến về. Hóa ra bỗng dưng mùa ở đây bao gồm vừa thời gian, không gian, h́nh ảnh, âm thanh và kỷ niệm t́nh cảm nhận được cho đi, từ bao thứ ấy.

Không kể ra cứ ngỡ ḿnh quên, chẳng nhắc lại cứ tưởng trí nhớ đă vỡ bung như bong bóng nước rơi xuống sân sau ngôi nhà đỏ ngói tuổi lên năm lên sáu mỗi lần mưa giạt từ tàn cây g̣n ngất ngưởng. Mưa Saig̣n độ nhỏ rất rơ mùa, từ tháng tư dương lịch trở đi bầu trời đang chói nắng chợt đùn lên mây xám. Sấm đùng đùng vài tiếng, gió chẳng biết từ đâu nổi lướt qua đọt cây rồi là xuống hất tung mấy tấm áo quần phơi ngang sợi dây kẽm. Chỉ kịp chạy ra giựt vội vào nhà, thế là độp độp trên mái ngói những hạt nước đầu oi bức. Mưa đe dọa mưa cầm chừng mưa nặng nề như thế một đôi tuần cho tới cuối tháng, bấy giờ mới được ào ào tuôn xuống hả hê. Nhớ về thời thơ nhỏ, tôi luôn thấy khuôn sân gạch tàu đỏ sậm nảy tung tăng những bong bóng nước, chúng nhảy nhót trong mắt đứa bé ngồi chồm hổm trên bệ gạch, tay sẵn sàng chiếc thuyền giấy và cây đũa tre làm chèo. Rồi mưa mạnh hơn, làn nước xối xả tuôn đổ chan hoà. Con thuyền ra khơi, cây đũa đẩy đưa khều chống, nhưng trong tích tắc ḍng nước đẩy tuột ra xa, con thuyền vụt vào ḷng rănh cuối sân theo cùng những chiếc lá ngâu chưa tới kỳ đă rụng. Mưa giữ chân tuổi thơ bằng tṛ chơi như thế cho đến ngày, theo đà xây cất của khu phố sầm uất, căn nhà trệt thấp sau ṿm cổng bị đập đi và thay thế bằng lừng lững mấy tầng lầu cao với ban công, sân thượng. Không rơ tôi có vui sướng hơn với ngôi nhà to lớn hẳn ra, nhưng vuông sân gạch với lu sành mẹ hứng nước mưa pha trà cùng các ḥn gạch đen đủi dùng luộc bánh chưng vào mỗi chiều hai mươi chín Tết thui thủi một góc, cả mái hiên xoè những viên ngói cũ cho con sẻ non trốn mưa, rúc rúc rỉa lông rỉa cánh xong ngơ ngác nh́n trời là h́nh ảnh chắt chiu của thời tôi thơ ấu.

Rồi tôi, cô bé mười ba bấy giờ biết những chấn động đầu tiên trong đời qua màn mưa phả suốt đêm giới nghiêm, ngập ngụa những tờ truyền đơn ướt nát, những manh biểu ngữ rách bươm và gậy gộc lẫn nhang đèn vung văi trên vỉa hè sau cuộc biểu t́nh tuyệt thực rầm rộ trước nhà, loa phóng thanh rền rĩ niệm kinh suốt buổi chiều. Lẫn trong tiếng nước đập rộn ră vào cửa liếp và những chậu kiểng mẹ trồng thay hàng dâm bụt với gốc tầm ruột xanh từng chùm đă đốn đi, thỉnh thoảng rú lên hụ c̣i xe quân cảnh tuần tiểu chạy rút giữa ḷng đường. Tṛ tôi chơi thuở ấy là những ván cờ tướng với một anh chàng sinh viên trong phong trào Phật Giáo chống chính quyền. Mẹ cho anh trốn trong nhà một thời gian. Ngoài những khi lén đi đâu rồi về, anh đọc, anh dịch và viết những tờ truyền đơn mà tôi chỉ đọc qua lời lẽ đă vô cùng ngưỡng mộ. Giữa các lúc đó anh dạy tôi đánh cờ. Bàn cờ nhiều lần bất thần bị lùa hất vào gầm giường cùng lúc với thân thể gầy g̣ của anh, khi chợt vọng lên từ dưới lầu hay trên sân thượng một tiếng động khác thường. Nhưng một buổi chiều giữa cơn mưa rạt xém con đường, tôi đi học về đến cửa th́ anh cũng ở đó bước ra, người khoác chiếc áo mưa rộng, mũ chụp giấu gần hết khuôn mặt. Thấy tôi, anh sững lại, giơ vội một bàn tay nhưng rồi hạ xuống nói rất nhanh : ‘‘Bàn cờ vẫn dưới gầm giường, em giữ lấy’’. Sau này tôi mới biết bà cô tôi dọa mẹ: ‘‘Cho nó trốn mà lính xét nhà bắt được, hốt cả con bé đi th́ cứ gọi là hết đời’’. Tối đó tôi ghi một dấu hỏi thật to chồng lên những nét vẽ xước sổ dọc và ngắt quăng, tượng trưng một mảnh mưa vào cuốn sổ bià xanh gọi là nhật kư.

Sau những năm tháng đó, chiến tranh hiện rơ hơn nhưng vẫn c̣n mênh mênh mơ hồ, vướng vất chất lăng mạn của các cô học tṛ thành thị mười sáu mười bảy bắt đầu ngấm ngầm thương vay nhỏ lệ v́ ‘‘Đêm nghe tiếng đại bác’’*, những cô bé mới bước vào t́nh yêu bằng hai bàn ‘‘tay nhỏ che trời rét’’*, dù rét Saig̣n chỉ đủ làm quăn đôi cánh lá. Cho đến bất ngờ súng đêm mùng một Tết giữa mùa khô nổ ran thay tiếng pháo. Tôi ríu người sau cửa sổ căn pḥng lầu thượng, những tấm áo quan vội vă chạy ra từ khu xóm đông đúc bùng lửa khói, xế bên kia con đường rộng, lúp thúp mấy kẻ bương bả theo sau. Bất chợt vang rân tiếng hô hoán, một chiếc quan tài ghép ván thô sơ bị chặn lại đập tung, rơi xuống trên vỉa hè những khẩu súng trường đen đúa, dăm đàn bà và mấy đứa nhỏ đang lếch thếch kêu khóc cùng ba thanh niên khiêng áo quan co chân chạy nhưng không thoát, liền bị thúc súng c̣ng tay, đẩy lên xe nhà binh đă lổn nhổn đứng ngồi một số người mặt mũi áo quần lạ lẫm hỗn độn. Đoàn người khăn gói chạy loạn tiếp tục lướt qua những căn nhà mấy tầng mặt tiền bê tông đá ốp mà các thanh cửa sắt cao đă kéo kín thành tŕ. Chiến tranh không ngờ bất thần xuất hiện như đám mây đen sũng giông và gió chụp phủ cả thành phố từ bấy lâu vốn tượng trưng sự b́nh an cuối cùng của tôi vừa qua năm mười bảy.

Hơn hai mươi năm sau, tôi đặt chân trở lại nền đất quê hương dưới những vạt mưa Ngâu tháng bảy oi nồng. Hành khách khệ nệ tay xách nách mang nặng nề, đi bộ từ chân máy bay vào dăy nhà có bảng ghi nơi đến. Nước nhỏ ṛng trên những đầu người và cả trên bím tóc vàng hoe của mấy con búp bê mặc váy voan x̣e xanh đỏ thoáng chốc đă ướt mem cụp vào thảm hại. Mấy người đàn bà đi làm hay đi học ở Đông Âu vừa than trời vừa che chắn bao nhiêu thứ hàng và đồ chơi đem về bán hoặc cho con cháu. Người đàn ông luống tuổi ngồi cạnh trên máy bay đă chẳng ngừng chép miệng khi qua cửa sổ thoáng thấy màu đỏ sông Hồng ngập ngụa. Dù nghĩ rằng ḿnh dư b́nh tĩnh, ruột tôi vẫn thắt, ngực nặng nề. Câu hát ‘‘Trời hành cơn lụt mỗi năm’’** từng nghe có phải là đây ? Lạy trời, đừng giông băo, đừng gây nạn lụt chặn con đường trở lại làng quê xưa. Tôi, con bé sinh ra ở Saig̣n, gọi hộp quẹt thay bao diêm, hột dịch thay trứng vịt, rời quê hương bố mẹ trên chuyến tàu cuối cùng vào Nam mùa di cư ấy ở bến Hải Pḥng. Ông bác giàu có, con đàn cháu đống nhưng vẫn thích đùa ghẹo đứa cháu gái Nam kỳ ‘‘Đi lấy cho bác cái hộp…hộp ghoẹt để châm thuốc lào’’, ở mỗi lần nó từ Saig̣n theo mẹ về quê. Sau 54, tôi thường hỏi mẹ bao giờ ḿnh về thăm bác, dù trí nhớ chỉ c̣n lờ mờ dáng người chắp tay sau lưng, đủng đỉnh hiền từ, ông chính là h́nh ảnh xứ Bắc của tôi cùng với hương hoa bưởi toả lan suốt khu vườn. Cũng khu vườn ấy tôi trở về bây giờ thiếu phụ, buổi chiều xanh xanh ánh lá cây ngọc lan tắm mướt sau trận mưa hôm qua. Ngừng lại ở mảnh sân đất nện đọng bùn và loáng thoáng vài viên gạch dấu tích một nền xưa, tôi lặng nh́n gian giữa ngôi nhà người con trai trưởng của bác. Tôi cố mở hết những cánh cửa của từng khoang trí nhớ mà ḿnh vẫn tự hào về khả năng ghi giữ thật lạ lùng các h́nh ảnh tuổi lên bốn lên ba. Nhưng moi móc bao nhiêu th́ tấm phản gỗ nhợt nhạt màu, kê trước cái tủ thờ phủ vải điều cùng những bức ảnh im ĺm trên đó, với đôi liễn bạc thếch sổ dọc hai cột nhà cũng không lóe lên sự quen thuộc nào. Nh́n mái ngói chênh chao khấp khểnh tôi chẳng t́m đâu ra dáng mềm mại mà đĩnh đạc của ngôi nhà chính trong khu vườn năm xưa. Căn nhà ấy trong kư ức lớn nhường bao sao bây giờ u tối, bé thấp gần như sắp ḅ trên mặt đất. Mắt trẻ nhỏ thấy ǵ cũng to tát hay cái nh́n thiếu phụ hẹp dần theo năm tháng ? Người con của bác nay đă tuổi ông ngày nào nhưng gầy rọm vẫn đứng sau lưng thinh lặng h́nh như lúc này hiểu được câu hỏi trong tôi, anh cất tiếng :

‘‘Đây là nhà anh chị cô ạ, ngôi nhà cô về ngày bé không c̣n của gia đ́nh ḿnh từ khi bố anh bị đấu tố.’’

Hai tiếng ấy cuối cùng đă bật ra trên môi anh, run run như lời mẹ mỗi lần nói tới là tức tưởi xót đau : Bác Chánh bị trói gô ở sân đ́nh, con Ngoan xắn quần xỉa xói:

‘‘ Thằng kia, mày có biết tao là ai không ?’’

‘‘ Dạ thưa chị Ngoan tôi biết, chị là đứa bé sơ sinh người ta bỏ rơi trước cổng nhà, tôi đem về nhận làm con, nuôi chị đến ngày nay ’’.

    Tôi c̣n đang xúc động, có tiếng chào nhẹ nhàng, một người đàn ông trung niên trông già dặn dắt xe đạp vào sân, mắt nh́n tôi mở lớn, môi nhếch cười. Bỡ ngỡ không nhận ra nhưng tôi đoán ngay chẳng thể là ai khác hơn thằng cháu Q của tôi mấy mươi năm trước. Trong phút giây h́nh ảnh ba người : tôi, Q thằng cháu nội cưng của ông bác cùng bốn tuổi ngày ấy và chị Ngoan hiện ra trên con đường vào làng này, dưới cơn mưa. Hai đứa bé rủ rê nhau đi đến nhà một người bác họ phải băng qua cánh đồng, nhưng Q vốn sợ ḅ. Tôi đoan chắc với Q là ḿnh không ngán và ḅ ở giữa ruộng xa đường đi, lại nữa hai đứa cùng nắm tay nhau th́ chẳng c̣n ǵ phải sợ. Đâu ngờ nửa chừng trời đổ mưa, chúng tôi co núp dưới một túp lều chưa được bao lâu bỗng có tiếng ḅ rống bư bư sau vách rạ. Thế là hai đứa ba chân bốn cẳng vùng chạy. Nhưng thằng bé Q chừng quá hăi, chỉ vài thước rồi không nhấc nổi chân, đứng ́ dưới làn nước tuôn đẫm trong khi tôi vẫn cắm đầu băng băng, mặc cho Q gào đằng sau ‘‘ Bớ cái con cô N, mày bỏ ông’’. Bất ngờ một bàn tay to chụp lấy gáy tôi nhấc lên, cùng giọng quen thuộc chị Ngoan ken két ‘‘ Này, chạy đi đâu con ranh’’. Sau đó tôi có dăy dụa thế mấy cũng không thoát khỏi, chị Ngoan kéo lết tôi đi và bế thằng Q đặt vào một bên thúng, chị ta ở chợ về. Mẹ thuật lại, khi vất đụych tôi ướt mèm như chuột trên thềm cửa trước mặt bác, chị lớn giọng kể tội, bác bật cười ‘‘ Nó con gái bắt nó che chắn thằng con trai là thế nào, Tây nó cười cho’’. Dù từ đấy tôi không ưa chị Ngoan, nhưng tôi vẫn không thể tưởng tượng được đe doạ nông nỗi nào khiến chị nhẫn tâm đứng giữa sân đ́nh giật giọng tố khổ một người như bác. Có phải v́ người trong làng không ai chịu đứng ra kết án ông là địa chủ tàn ác nên chị bị chỉ định hi sinh làm mồi cho một phong trào đấu tranh giai cấp ? Nghe nói sau đó chị Ngoan bỏ làng đi biệt, rồi mấy năm qua một hôm người ta thấy trên núm đất chôn bác cắm một bó hoa dại. Có người ở sát bên nói rằng đêm ấy vẳng nghe tiếng khóc đàn bà khấn khứa : Con cắt cỏ ngậm vành, xin thầy tha tội. Giờ, chỉ c̣n lại đây tôi và Q đă hai con, nụ cười mỉm của Q khiến tôi yên ḷng về trí nhớ của ḿnh. Hoá ra những kỷ niệm thời nhỏ xiu ấy Q không quên như tôi, những thứ chỉ nói ra rằng ḿnh nhớ đă thấy lạ lùng. Hỏi Q có c̣n sợ ḅ, Q đáp nhẹ ‘‘ Cháu chỉ sợ người’’.

    Sau bữa cơm với gia đ́nh anh chị, tôi trở về HàNội. Trời lại hội cơn vần vũ. Những làng mạc đi qua trũng hơn trong màn nước. Tôi nhận ra mưa càng làm lộ liễu sự khốn khó và mưa ngoài cửa xe cũng đang từ từ dội trôi lớp màng ảo tưởng để tôi thấy rằng cuộc hành hương không những chẳng bốc bay thêm được náo nức chờ đợi ở một chuyến về, không khơi mở được bao uẩn khúc vẫn tụ đọng trong tiềm thức mà trút sâu, thắt thêm vào tâm trí những bận ḷng, lấn cấn hơn những câu hỏi bấy lâu vẫn đặt ra cho chính ḿnh. Khi từ giă, da bàn tay sạm khô của Q rạm xước ḷng tay tôi. Đứng lại với nhau ở cái nơi gọi là đầu làng chỉ có giặng cây sắn xoè lá xanh tươi, Q bỗng nói ‘‘ Bố cháu can đảm lắm mới sống sót được những năm tháng đó và nuôi anh em cháu học hành xong xuôi. Cô học bao năm bên ấy, có nghĩ trở về làm được ǵ không ?’’ Xúc cảm nhất thời bùng dậy, tôi đă mạnh miệng trả lời, tôi sẽ không bỏ Q lại bên bờ ruộng như mấy chục năm về trước. Thế mà, không bao nhiêu cây số, về tới Hà Nội vừa lọt vào thành phố lù mù, người đi người lại loi ngoi b́ bơm, tôi đă thấy chắc khó ḷng đi đến đầu kia con đường Láng nước dâng trên đầu gối, để chỉ giản dị làm nốt một thăm viếng người thân.

Tôi lên con tàu ở trạm ga Huế khi trời vừa tạm ngưng một đám mưa chạy rạt từ mạn núi ra biển. Mưa giỡn chơi như thế hơi kỳ lạ giữa hạ đang bức nồng trên mặt nước sông Hương. Tấm vé tàu đổ đèo Hải Vân xuống Đà Nẵng chỉ nhỉnh hơn giá ba tô bún ḅ đầu con đường ở trọ. Anh chị em bạn bè thân sơ kẻ đạp xe, người x́nh xịch trên honda cũ mèm kèm hai bên chiếc xích lô đổ tôi xuống cửa nhà ga chộn rộn những người gánh gồng bị túi. Chị bạn Huế mệ vốn quen đi đứng chậm răi khoan thai thoáng hoảng hốt kéo tay áo, e rằng tôi không chịu đựng nổi năm giờ di chuyển giữa người vật ngổn ngang. Một người đi, năm bảy người đưa tôi lên toa tàu có quạt, đặc biệt dành cho người du lịch không hàng hoá. Tôi hơi ngượng khi đám bạn bè tiễn ḿnh ồn ào leo cả lên xe. Lách trước mặt một ông cụ già ngoài b́a, tôi ngồi xuống cạnh cửa sổ. Băng ghế gỗ cứng trải chiếc chiếu cói vừa vặn. Chưa yên chỗ th́ chị bạn vừa xuống tàu đă vội leo lên đưa cho chai nước lọc và chiếc ly giấy ọp ẹp. Những người c̣n lại tụ dưới cửa sổ dặn ḍ, đi đường cẩn thận, đừng ăn uống lung tung mà đau bụng, tới nơi cứ đợi ở ga đừng leo xe ôm…Tiếng c̣i hụ chuyển bánh, một anh c̣n vội vă mua cho chiếc quạt giấy, biết đâu nhỡ quạt máy hư. Tôi quẹt nhẹ hai giọt nước mấp cuối mi khi bóng họ đă nhỏ dần, mờ đi trong làn mưa lại phun toả không gian ngoài con tàu cũ kỹ.

Hai mươi cây số một giờ, xe lửa ḅ giữa làng mạc và những mảnh đất nửa đồi nửa ruộng. Trời mưa nhưng không khí hầm bức, và đúng như tiên đoán của anh bạn, chiếc quạt máy gần băng ghế tôi ngồi chao quay vài phút sau khi con tàu khởi hành rồi dừng lại. Tôi mỏi mệt nhắm mắt thiếp đi. Khi chợt thức dậy, một thoáng gió nhẹ qua tai, ông cụ ngồi bên cầm chiếc quạt giấy phẩy cho tôi cử chỉ nhẹ nhàng. Tôi nói cám ơn và ông hỏi ‘‘ Cháu từ ngoài vô ?’’ Chẳng rơ tại sao tôi lúng túng, không muốn nói với ông cụ tôi là Việt kiều, cái âm kiều tôi không thích cả từ ngày bé, chẳng hạn Hoa kiều. Giản dị là thế chăng? Hay cũng v́ trực nhớ lời dặn ḍ của chị bạn Huế ‘‘ Thời buổi ni cẩn thận, đi đường một ḿnh đừng để người ta chú ư, biết ḿnh ngoại quốc về’’. May thay tôi chưa biết phải nói dối hay không th́ ông cụ đă tiếp ‘‘ Lần đầu đi chơi, bạn bè lo lắng nhiều hỉ’’. Tôi vui mừng đáp một tiếng Vâng gọn bâng, cũng hơi ngượng ngùng thấy ư chừng ông cụ tưởng tôi là con cháu nhà giàu từ Hà Nội vào Nam du lịch. Nh́n qua cửa định hỏi tàu đă đi đến đâu th́ chẳng ngờ khung cảnh ấy hiện ra trước mắt, ngoài tưởng tượng. Hai bên đường rầy ngổn ngang những ngôi mộ chen chúc nằm trong, ở ngoài, chính giữa, bên trái bên phải những nóc nhà sơ sài tường vách. Trời bốn năm giờ chiều u uẩn đă đành nhưng chưa bao giờ tôi thấy mưa phũ phàng tàn nhẫn dội trên trần thế như vầy, dù cơn mưa này nào xối xả bằng bao nhiêu trận đă từng đổ xuống.

Những tia nước làm tan hoang mái lá, làm xiêu lệch mái tôn, làm mảnh vách lở nghiêng muốn sụp nhào lên ụ đất có cây thánh giá cắm leo heo. Mắt tôi chạy theo ḍng tóc cô gái đang tắm gội, cô mặc nguyên quần áo ướt sát rạt, ngửa mặt hứng nước toé tươm từ một đ̣n tre vắt ngang hai nấm mồ cùng châu vào cái cô đang ngồi tựa. Xa hơn, hai ba người đàn ông trần lưng đập đá dưới một miếng tôn. Mấy chị đàn bà h́ hục đào mương, các ḍng nước chạy ḷng ṿng quẩn quanh mả kia sang mộ nọ. Xe lửa trườn đi, dứt tôi từ tụm nhà với mồ này đổ sang tụm khác. Nhấp nhô ngôi mộ xây xi măng mang tấm bia sát cạnh cửa căn nhà, đâm thẳng góc vào một mả khác chỉ là nấm đất vun vun nằm dọc theo hàng hiên. Sự hỗn độn cho tôi cảm tưởng xác người đă đổ xuống nằm đâu người ta an táng ngay vị trí ấy, không dời đi, không sắp xếp lại. Và bao nhiêu căn nhà như túp lều này, mọc trên chính băi chôn người cũng thể hiện những cuộc đời tả tơi, không thể tơ hào một xếp đặt nào cho đời sống. Bao câu hỏi tại sao, nào bực bội băn khoăn nào bất măn từ lúc đặt chân về trên xứ sở này c̣n nên chăng, c̣n là quyền của tôi đâu khi tôi không phải là người đang sống lẫn lộn giữa tha ma và trần thế.

Tôi mở mắt thao láo, ngóng về phiá trước, ngoái lại đằng sau. Ông cụ bên cạnh lặng thinh từ bấy lâu bất chợt cất tiếng ‘‘ Đoạn ni coi như tiếp nối ‘‘Đại lộ kinh hoàng’’ trước kia đó cháu’’. Tôi điếng lặng. Tất cả xác người nằm trong mồ mả vụt phá toang đất phủ nhất loạt vùng đứng dậy, những thân thể thương tích máu me nghiêng ngả, ồn ào tán loạn hoà nhập vào đám người đang đập đá đào mương, vào những đứa trẻ bụng ơng vào các cô gái tóc dài rũ rượi. Họ d́u nhau bước đi, chạy với theo con tàu. Họ họp thành đoàn đi đ̣i quyền sống. Trùng trùng một dăy Trường Sơn xương sống nước Việt, vẫn thiên thu lừng lững đằng sau để ngó xuống dưới chân bao nhiêu máu thịt rơi đổ trên cát bỏng ruộng cằn. Những linh hồn chết vướng vất bơ vơ, những linh hồn sống dật dờ xoay sở.

Saig̣n ngày đầu tiên, cảm giác trống hoang dù phố phường ồ ạt người và xe gắn máy túa ra sau trận mưa mau của buổi chiều tháng tám. Tôi đi ngang con đường cũ chơ mắt t́m ngôi nhà thơ thiếu mẹ đă bán đi, những cánh cửa đă đổi màu xanh nhưng chiếc lan can ngày xưa tôi đứng trên nh́n xuống đợi gánh chè khuya xuất hiện đầu con ngơ vẫn đấy, song song dọc dọc mấy thanh sắt đan nhau. Những sợi mưa từng óng ánh xuyên qua đèn đường rồi rớt trên chiếc áo tơi bà cụ già mà giọng rao chè quen thuộc ngân nga ngọt lịm, chẳng biết đă bao năm. Cả con phố xưa nghe nói không c̣n mấy người ở lại. Năm tôi mười tám, họ đến tiễn con bé sắp đi học bên Tây, ngay cả cô gái bán ba đường Tự Do thuê một pḥng trong căn nhà năm tầng gần cận, tuy chẳng quen biết ǵ nhưng nghe ai nói nên thoáng gặp tôi ở lề đường cũng nắm cánh tay lắc lắc, chúc mừng ‘‘Đi Tây rồi ở lại bên í cho nó sướng em ạ, chứ như chị thế này…cả đời cóc dám nh́n ai’’. Nhưng nghe đâu, cuối tháng tư 75 cô được ông bồ Mỹ cắp lên máy bay trước cả mọi người và vài năm sau cô đeo vàng trở lại khu phố, cô ghé thăm mỗi nhà xem ai mất ai c̣n ai đi ai ở và rộng lượng giúp đỡ người này kẻ nọ. Con cháu tôi khoe cô đẹp như tiên cô nói cười rổn rảng, không quên hỏi thăm con bé du học ngày nào có về VN và làm được ǵ không ?

Tôi, con bé đă về mà chẳng biết nên làm ǵ để được, đứng trú mưa trước công viên Lê văn Tám. Giọt nước chảy ṛng mài miệt đan thành tấm màn lung linh biến ảo, những cái thấy thực tại nhập nhoà quá khứ. Các thân sao già thẳng tắp hai bên con đường dẫn hút vào sâu nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi ẩn kín, đang vút bay lên trời nhường chỗ cho những thân non c̣n thấp, cây mới được trồng nên khu đất khơi khơi trống trải lạ lùng. Băng đá rải rác cùng cầu tuột tṛ chơi trẻ em màu sắc vuông tṛn chồng chéo lên bia mộ trước kia nhiều chiều tôi vào đấy ôn bài thi, lá đă thả bóng lấp loáng trên các phiến đá hoa cương hay vân thạch. Những ngôi mồ giàu sang thời ấy nghỉ ngơi ngay trung tâm thành phố, lắng yên ngăn nắp trong cây cỏ dù mưa hay nắng, không ngửa nghiêng lận đận như mả và người trên chặng đường tàu tôi mới đi qua. Gương mặt trên các tấm bia trong nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi dẫu già trẻ, Việt hay Tây, với tôi đều an tĩnh. Tôi ngồi giữa họ không sợ hăi, cùng mảnh giấy nguệch ngoạc các công thức, các hàm số phương tŕnh, tôi ngoáy cong cong mái tóc và vành môi chúm chím một cô gái nằm dưới chỗ tôi ngồi đă mười bảy năm. Trên tấm ảnh, cô không cười nhưng cặp mắt lá dăm này quá giống chị Bé ở trong nhà mấy năm về trước.

Chị Bé mười sáu, má chị thường đem gạo từ Sóc Trăng lên Saig̣n đong cho mẹ tôi. Một hôm bà ta bảo tên phường trưởng hiếu sắc chặn đường chị Bé doạ nạt sẽ tố cáo ba chị theo Mặt Trận, nên bà lo ngại xin cho chị lên Saig̣n lánh nạn. Tên là thế nhưng chị không bé, không thấp lùn mà người vừa cao vừa nẩy nở, hai bàn tay con nhà nông thô cứng. Mỗi khi giúp tôi cọ lưng chị xát thật mạnh tưởng tróc da. Ít nhất chị Bé dội nước ba lần một ngày, chị nói ở quê lội sông suốt buổi. Về thành phố chẳng c̣n sông chị đâm thèm tắm mưa. Bẻ quặt đầu máng xối ra khỏi vại nước, cũng mặc nguyên quần áo như cô gái bên đường xe hỏa xuyên băi tha ma, chị Bé ưỡn người dưới ḍng nước ồ ạt. Đôi lúc áng chừng thấy vướng víu, chị lột tấm áo bà ba, rồi đảo mắt một ṿng quanh khoảng sân, yên bụng chẳng có ai chị tụt luôn chiếc quần, cả tấm thân uốn căng như con cá cong tươi lóng lánh. H́nh ảnh ấy làm cho tôi thèm thuồng, chắc chắn chị Bé đang tràn đầy khoái cảm. Với chị, lần đầu tiên tôi được mở mắt chiêm ngưỡng trọn vẹn một thân thể đàn bà, được thấy cái đẹp đầy đặn, sống thật, căng phồng hồn nhiên chứ không phải là những thứ để nh́n lén, tưởng tượng qua lời nói, h́nh ảnh mập mờ ẩn dụ. Khi nhác thấy tôi chị cười tít cặp mắt lá dăm, vẫy ra tắm cùng. Mới đầu tôi ngần ngại, mẹ bảo rằng tắm mưa rất độc. Thật lạ, bà có thể đi phát truyền đơn, giấu “phần tử phản động” trong nhà, và sau này bà cũng không cực lực phản đối khi tôi, đứa con gái độc nhất, lăm le đ̣i học nghề phóng viên chiến trường, nhưng lại kiêng kỵ bao nhiêu thứ tỉ mủn liên quan đến phụ nữ, nào là quần áo con gái đàn bà không phơi qua đêm, nào ngày kinh nguyệt không được bước qua tủ thờ hay chơ rượu nếp vừa ủ. Sau này chẳng c̣n sân gạch tàu, tôi trèo lên sân thượng buổi tối trời mưa. Không có ai ngoài tôi và cây cối mẹ trồng xum xuê như vuông vườn nhỏ. Mọi thứ đều ướt đẫm, đều rũ lả liêu trai. Mặt đất cao hơn và mây thấp xuống, nhưng tôi ở giữa đất trời sung sướng đón những hạt nước tưới tuôn, cảm giác chỉ con người ḿnh sáng long lanh chùm bong bóng nước, thênh thang toàn diện.

 Suốt thời gian ngoài xứ sở không c̣n thấy cảnh tắm mưa, thế mà về đến nơi th́ nó đă bầy ra đấy. Vùng ngoại ô An Phú Đông mất điện lập loè lửa nến, những thân cây ǵ không biết tên ngả nghiêng hai bên con đường đá trộn với bùn. Dăy nhà viền lộ lợp tôn thấp chũm, chẳng xoè nổi một khúc hiên cho tôi đứng trú, phải co ro dưới tấm bạt của ông già sửa xe đạp. Gió phần phật cơ hồ có thể giật đứt rời những mảnh vải rách của chiếc áo ông ta. Con đường mới đó xe đạp xe ba bánh xích lô người đi người lại chợt trống hẳn, chỉ c̣n mưa xiên bay tới tấp và mấy đứa bé ở trần vừa tắm vừa chạy đuổi nhau trên mặt lộ. Tấm bạt của ông già vụt thốc lên với gió, kéo sập hai đ̣n gỗ chống. Thế là trong giây phút nước quật xối người tôi, cùng khắp. Nước tuôn dọc theo những sợi tóc, áo quần đẫm dính vào người. Ông sửa xe lủi đi đâu chẳng biết, hộp keo vá bánh và cái bơm đặït trên mấy ḥn gạch, những thứ c̣n lại lăn lóc trên mặt bùn. Mấy căn nhà và quán lá chung quanh cũng đang vật vă, đám người lao động cùng xe đạp quang gánh đứng lại bên lề ṛng ṛng nhễ nhăi. Mưa đổ chưa đầy nửa giờ, cả vùng đất trước mắt cơ hồ thụt lún xuống với con người. Thêm một lần, mưa phơi bày ră rượi nhếch nhác. Bao năm thèm tắm lại một trận mưa chẳng được, bây giờ bất ngờ tôi đứng đây giữa trời, trên mảnh đất ngoại ô sũng lầy, bên cạnh những con người nặng nề u uẩn âu lo. Trong không gian nhem nhẻm tối này chắc ǵ ai nh́n ra ai, và dù áo quần c̣n dính trên da tôi lại thấy ḿnh thông thống. Nhưng tôi lấy ǵ đây che đậy? Bao nhiêu con người đang quay lại, mưa lột trần người đàn bà Việt kiều trước mắt họ. Nhưng họ có thấy tôi, con bé năm nào tắm mưa phơi phới, thoả thuê tự do, giờ đây là một thiếu phụ lạc lơng co cụm ngột ngạt. Thông thống mà ngột ngạt. Giữa đám cành lá ôm ấp đồng loă trên sân thượng bất thần mọc những con mắt xoáy. Chúng xoáy vào trống lốc, sục bới vào đặc nghẽn. Cũng vẫn thân thể đẫm ướt ấy đă trở về, nhưng cái phần trần truồng bày ra không phải là h́nh hài thân xác, nó là những căn nhà, những bức tường trong tâm linh từng được loay hoay đắp bồi xây cất bằng tri thức và ước mơ. Nước cứ thế phũ phàng đập, nhà và tường như cát lở, tuôn tuột từ đầu xuống chân, ḥa nhập vào muôn thứ lá cây đất đá rác rưởi đang ùa theo ḍng ngập lụt lênh láng, như con thuyền giấy thời bé con cuộn vào cống rănh.

Tật hay liên tưởng thường lôi tôi đi rất xa, đang ở một nơi tôi bay vụt bao ngàn cây số sang chốn khác. V́ thế tôi từng cảm câu nhạc ‘‘Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa’’ của anh Sơn đến thẫm ḷng. Một chiều leo xe qua vùng núi Pyrénées trời chập choạng tôi đă sợ, tôi vốn sợ khoảnh khắc hoàng hôn nhất của một ngày, nó có thể choáng lên cái đẹp hào quang của mặt trời đỏ rực nhưng vẫn nhuốm phủ một nỗi ǵ bấp bênh, chia ĺa, âm khí. Vậy mà lúc ấy thêm mưa, mưa chẳng dồn dập như người ta thường nói mưa miền núi, một màn khin khít bụi nước li ti. Tôi lại bất chợt bay đi, rớt xuống, ngồi chênh vênh trên chiếc ghế con dưới mái hiên một quán cà-phê Hà-Nội. Chiều mùa Giáng Sinh đă lách tách rỉ rả cơn mưa phùn. Cậu sinh viên tên T đến t́m tôi ở khách sạn với cô bạn cùng lớp, tôi vừa có một buổi nói chuyện khoa học với các sinh viên ngành Vật Lư tại đại học hôm qua. Trước lúc bước vào giảng đường, tôi đă đứng lại ở b́a hành lang quất gió, ngó xuống khuôn viên đại học, mắt bỗng ngợp những tà áo dài trắng sáng rưng sân trường Gia Long tôi cũ. Xao xuyến hơn bao giờ, hơn tất cả các lần thuyết tŕnh trong hội thảo đông người, trước mặt sẽ không phải là đồng nghiệp mà những em sinh viên cũng trẻ như tôi ngày nào. Trên đất nước ḿnh, tôi sẽ trực diện với chính tôi của bao nhiêu năm trước. Khi rời bục gỗ tôi bứt rứt bâng khuâng, cảm giác vừa qua một tương phùng ngậm ngùi lẫn ngỡ ngàng xa lạ. Không, không thể quay ngược thời gian. Và càng đặt câu hỏi tôi càng thấy ḿnh trĩu nặng trong bầu trời ẩm ướt.

Cũng may, chiều nay T và cô bạn đă đến đây, mời ‘‘cô’’ đi uống cà-phê, chúng tôi tṛ chuyện thân t́nh về đời sống. Khi chia tay, đứng trên vỉa hè nh́n họ chùm áo tơi đạp xe song song rẽ sang con đường cuối phố, tôi chợt hỏi những điều ḿnh đă giảng hôm qua, nào định luật siêu dẫn, nào phản vật chất, nào lỗ đen và vượt thời gian…đem lại được ǵ cho họ? Tất cả đều xa vời, không thực tếá, chẳng dính dáng ǵ tới việc chất than củi vào ḷ nung gạch cậu ta phải vội về giúp bố, tới việc g̣ lưng đánh máy tài liệu mỗi đêm để kiếm tiền của cô sinh viên bờ vai vốn mỏng. Nhưng chẳng ngờ, gần một năm sau, tôi nhận được email của T. ‘‘Em đă tốt nghiệp, đáng lẽ với hoàn cảnh gia đ́nh em phải đi t́m việc nhưng em muốn tiếp tục làm luận án, những đề tài nghiên cứu cô nói hồi nào thật thích. Cô nghĩ sao ?’’ Trong phút giây tôi ngẩn người, lấn cấn, với thực tế đời sống bên nhà tôi biết khuyên T thế nào cho hợp t́nh hợp cảnh. Nhưng ḷng lại vui vui ngẫm nghĩ : hoá ra, chẳng phải việc làm nào cũng vô nghĩa. Nhớ đến khuôn mặt lanh lảu, giọng nói rơ không e dè, các câu hỏi t́m hiểu chính xác của T, tự dưng loé lên niềm hi vọng : biết đâu đang khởi đầu một cái ǵ sẽ khác. Tôi viết cho T những suy nghĩ của ḿnh. Nhiều ngày qua, im hơi lặng tiếng, ngỡ T đă theo hướng đi phù hợp với hoàn cảnh nhất, tôi chỉ mong dù là con đường nào em cũng đi được tới đích. Thế nhưng, một email khác : ‘‘Em đă quyết định theo ngành nghiên cứu nhưng chưa biết nên chọn Vật lư ứng dụng hay Vật lư cơ bản. Cô cho em ư kiến’’. T lại làm tôi thêm ngạc nhiên, sao trong đời sống ấy em c̣n có thể phân vân như thế được ? Tôi tức thời bảo T, con đường ứng dụng mới đưa đến cơm áo, T nên thực tế hơn, tuy tôi nhớ ai đó từng nói người khoa học mơ mộng lăng mạn nhất, và dẫu rằng vũ trụ được xây trên những điều cơ bản. Xă hội, văn hóa và con người cũng thế, tôi từng đi t́m điều đó ở mỗi chuyến về.

 Viết đến đây nh́n ra ngoài trời, con trăng vừa tṛn hai bữa trước đă lên sớm, chênh chếch trên mái nhà hàng xóm cách một vườn bên. Gió đang ngắt đi những cánh lá cuối mùa, chao chao măi mới rơi chạm vào mặt đất rồi lại bị gió bốc bay. Lá rụng về cội, ngày tôi đi du học mẹ nhắc nhở thế. Hôm tôi trở lại ngồi bên mẹ dăm ngày trước khi bà mất, đă lẫn lắm rồi nhưng vừa nói ‘‘Con mới về’’ th́ bà hỏi ‘‘Bao giờ con đi?’’. Giọng mẹ quá yếu nhưng b́nh thản, không vương vấn muốn giữ chân tôi tựa bao lần trước, thể như vốn sẽ là vậy. Trời lúc này không mưa nhưng chạnh thấy những manh lá rơi, lại nhớ. Xứ này bốn mùa thay hoa đổi lá, thiên nhiên chuyển biến ngoạn mục với muôn sắc thái, mà sao ḷng ḿnh không cất nổi những mưa xa.

Mai Ninh

-------------------------------

* Truyện và thơ Nhă Ca.

** Lời nhạc Phạm Đ́nh Chương.