Courbet

 

GUSTAVE COURBET

và bức tranh gây sóng gío.

 

Bất kỳ du khách nào đến Paris biết chút đỉnh về hội hoạ, cũng đều cố đến Viện Bảo Tàng Orsay xem cho được bức tranh độc đáo của Gustave Courbet (1819-1877) vẽ vào năm 1866, để rồi từ đó cả cuộc đời và sự nghiệp ông gắn liền vào các tai ương cho đến chết. Hoạ phẩm mang tên "Cội nguồn trần thế" (L’origine du monde).

Là con trai duy nhất của điền chủ nửa nhà quê nửa tư sản được cha mẹ cùng 3 chị nuông chiều, Gustave Courbet có tính ngang tàng phóng khoáng của dân du mục, không nghi ngờ bất kỳ cái ǵ và không điều ǵ làm nản chí.

Sinh ngày 10 tháng 6 năm 1819 ở làng Ornans (tỉnh Doubs, vùng Franche-Comté, biên giới Thụy Sĩ) miền Đông nước Pháp, sau khi học sơ sài ở tỉnh Besançon, ông lên Paris năm 1840, 20 tuổi đẹp trai, cao ráo thanh tao với đôi mắt nhung và bán diện có nét đông phương, tánh t́nh vui vẻ, khôi hài sống động, là một đứa con hiếu kính, một người bạn trung thành và một người t́nh ưu tú. Ông tự học vẽ thay v́ học luật như đă dự định.

Vào thời đó, Viện Mỹ thuật hàn lâm quyết định mọi việc : chọn giáo sư, tổ chức các cuộc triển lăm mỗi hai năm định giá trị tranh không th́ khó ḷng bán được, và quyết định sẽ mua bức nào cho các viện bảo tàng... Có hai trường phái rất chia rẽ : trường phái lư tưởng - khách quan, và truờng phái lăng mạn. Hoạ sĩ trẻ muốn sống c̣n bắt buộc phải như bột nhuyễn nằm gọn vào một trong hai khuôn này.

V́ không theo trường phái nào nên Courbet bị Viện Hàn lâm làm nản chí. Courbet tự học một ḿnh, vẽ cóp theo các bức tranh nổi tiếng, nhất là theo trường phái Tây Ban Nha và Flamand (người Bỉ nói tiếng Hà Lan) và tạo ngạc nhiên cảm phục ngay cả những người chống đối ông. Ông đă t́m ra mạch vẽ của ḿnh. Mặc kệ lăng mạn, ông vẽ sự thật như nh́n thấy bằng chính mắt ḿnh, không tưởng tượng màu mè, tự cho ḿnh có khuynh hướng xă hội và tuyên bố là "vẽ như thần".

Ông làm việc cật lực và năm 1849 giật được mề đai hạng nh́. Nhưng chưa phải là thành công. Năm 32 tuổi, Courbet về làng sinh trưởng và đưa dân làng vào tranh để năm 1850 hiên ngang trở lại pḥng triển lăm  Hàn lâm với bức tranh vĩ đại 7m x 3.50 mang tên "Đám tang ở Ormans" (Enterrement à Ornans), đă để lại dấu ấn trong lịch sử hội hoạ. Cho tới bấy giờ, khổ lớn chỉ dùng cho những đề tài "sang trọng, cao quư",  Courbet chỉ giới thiệu buổi tang lễ nhà quê, màu tối tăm đen là chính, từ ông Thị trưởng đến người đào huyệt mộ, từ nông dân đến tiểu tư sản... đều có mặt, những khuôn mặt  tỉnh lẻ xấu xí như cảnh vật chung quanh. Tất cả đều không đẹp đẽ hài hoà trong bức tranh. Nhưng đó là mục đích.

Sự công phẫn vô cùng to lớn. Các nhà phê b́nh hết lời. Chính trị chen vào. Và huyền thoại nảy sinh. Được mệnh danh "Hoạ sĩ của sự xấu xí", nhưng ông hài ḷng : vị trí ông đă định h́nh rồi. Càng hài ḷng hơn khi bức tranh không bán cho chính phủ, mà bán cho các nhà sưu tập. Ông tiếp tục sáng tác và bán chạy. Và ông tự cho phép ḿnh từ chối những đề nghị của Giám đốc Viện Hàn lâm. Cuộc triễn lăm năm 1855 ông vẽ bức "Pḥng tranh hoạ sĩ" (L'Atelier du peintre), nghệ nhân làm trung tâm xă hội, bị từ chối v́ không có chỗ, ông sáng chế  kiểu thương mại đầu tiên là thuê một biệt thự cạnh pḥng triển lăm chính thức, dành riêng cho tranh hiện thực. Không những tranh bán chạy, mà kể cả h́nh chụp tranh và ca-ta-lô nữa. Các nhà phê b́nh không c̣n lời nào đủ mạnh để nói, giá tranh Courbet cứ tăng lên. Các nhà quư tộc kín đáo mua tranh đồng quê, cảnh sinh hoạt và tranh loă thể càng lúc càng táo bạo của ông.

Về "Cội nguồn trần thế" :

Năm 1866, Khalil Bey, nhà ngoại giao sưu tập tranh người Thổ Nhĩ Kỳ đă đặt ông bức tranh khiêu khích nhất, bức "Cội nguồn trần thế", vẽ bộ phận sinh dục đàn  bà, trông thật và sống động tới nỗi nó được dấu măi, ngay cả đến những năm 1950. Vừa vẽ xong là bức tranh biến mất. Ban đầu nhà sưu tập treo trong pḥng tắm, sau đó treo tấm màn che. Rồi hoạ phẩm này được bán đi bán lại, và người mua cuối cùng là nhà phân tâm Jacques Lacan vào những năm 1950, phải làm khung đôi, bên trên vẽ bức tranh khác.

"Cội  nguồn trần thế" bị xem là khiêu khích v́  nó quá thực, v́ nó gợi lên ư nghĩ "những ǵ bạn trông thấy và nắm bắt được", đây là trường hợp áp dụng thực tế : "hăy gọi con mèo là con mèo".

"Cội nguồn trần thế" bị xem là xấc xược v́ cho thấy một đỉnh vú cương cứng, tức là người mẫu vừa qua cơn thoả măn hoặc sắp sửa đạt được. Hoạ sĩ đă dám phô bày cái ham muốn của người mẫu, điều này chưa ai làm.  Cũng bị cho là xấc xược v́ nó là bức tranh. Nếu là quyển sách hay truyền h́nh th́ nguời ta  có thể khép sách hay tắt truyền h́nh - trừ phi phải che bằng tấm màn như nhà sưu tập. Và rằng những ǵ phô bày hết trong ṿng kín đáo th́ không thể phơi bày ra trước công chúng.

"Cội nguồn trần thế" cũng bị xem là điếm nhục (ngay cả đến ngày nay đối với một số người) v́ hội hoạ là loại nghệ thuật cao, có vai tṛ phải đưa tâm hồn con người hướng thượng, không được hạ xuống các chuyện xung năng. Trái lại nghệ thuật khiêu dâm có thể chấp nhận được trong chừng mực đạo đức vào thời đó.

"Cội nguồn trần thế" cũng bị một số người quan niệm là hạ giá đàn bà v́ nó đă giảm đàn bà xuống thành đàn-bà-đồ-vật ; cũng là hạ giá hội hoạ v́ dù là vẽ, bức tranh này không c̣n là một biểu tượng nghệ thuật nữa.

Về cuộc đời Courbet :

Thời đó, trừ số người hâm mộ tài năng, phần đông thiên hạ mọi giới đều xem ông như kẻ thù. Đến nỗi tại quảng trường Vedôme ở Paris (gần quảng trường Concorde và Champs Élysée), nơi cây trụ sừng sững đại diện cho nền quân chủ mà Courbet có "khuynh hướng đỏ" thường mong muốn triệt hạ đi, v́ cho đó là "một khối đồng hỗn độn kéo dài truyền thống chinh phục, cướp bóc và sát nhân" - bị đập phá ngày 16 tháng năm 1871, và dù không tham dự, có nhân chứng và luật sư biện hộ, ông cũng không thoát được cảnh tù đày.

Ngày 14 tháng 8 năm 1871,  cả Paris, nghệ sĩ, chính trị gia và dân tư sản chen lấn vào toà án Versailles trong cái nóng nung người. Người ta hả hê nh́n ông quằn quại đau đớn bị trĩ hành, ngồi nhấp nhổm trên chiếc gối mang theo đặt trên ghế. Trên đường phố Versailles, một bà đập cán dù vào đầu ông, quán cà phê ném vỡ cái cốc ông vừa uống, báo chí vẽ h́nh ông tóc tai xum xuê, u tối, nham hiểm... Tại quê nhà Ornans, người ta chặt bức tượng đồng người câu cá mà ông đă tặng trang hoàng quảng trường. Người ta khinh bỉ ông. Toà kết án ông 6 tháng tù giam. Lúc này ông 52 tuổi.

Ra tù, các tai hoạ khác bắt đầu. Các nghị viên muốn xây lại cây trụ và trịch thu tài sản ông làm chi phí. Ở Paris người ta tránh né hoặc canh chừng ông. Ở Ornans pḥng tranh ông bị tàn phá. Mẹ chết, bạn bè thời thơ ấu cũng chết, thiên hạ lợi dụng thời cơ vơ vét hết : bà chủ nhà cũ ăn cắp của ông hai thùng tranh, chủ nợ, thương gia, nhà sưu tập cố tạo nhiều khó khăn, bắt trả tiền ngay tức khắc, ngay chị ruột của ông cũng báo tŕnh với cảnh sát. Ông hoàn toàn kiệt quệ v́ kiện tụng.

Tháng 5-1873, Hạ Nghị viện quyết định ông phải trả 330.091,68 quan vàng (tương đương 800.000 Euros hiện tại) cho cột trụ bị phá. Họ xiết hết tài sản ông, nếu không trả đủ sẽ phải đi tù. Ông miệt mài vẽ nhưng c̣n ḷng dạ đâu, khi biết là bức nào xong cũng sẽ bị trịch thu ?

Chỉ c̣n giải pháp lưu vong. Ngày 22 tháng 7 năm 1873, ông sang Thụy Sĩ, ở La Tour-de-Peilz, một cảng nhỏ quận Vaud. Tại đây ông sản xuất hàng loạt, nhưng con tim không đi cùng nữa. Ông sa đà vào rượu. Thần kinh suy nhược. Ông xin trở về Pháp nhưng bị từ chối. Tài sản ông đă hoàn toàn bị trịch thu hết. Mọi người đều quay lưng. Chỉ có bố ông là người duy nhất tiếp tục tranh đấu cho ông.

Ông mất năm 1877 tại La Tour-de-Peilz, bịnh xơ gan và thủy thũng, thọ 56 tuổi. Courbet để lại cho đời hơn 600 bức tranh. Bức cuối cùng bán với giá 2, 45 triệu Euros.

Năm 1994, cảnh sát Besançon buộc tiệm sách lấy khỏi tủ kính quyển sách mà tác giả đă dùng bức "Cội nguồn trần thế" làm h́nh bià. Và đến năm 1995 bức tranh này mới được công khai trưng bày ở Viện bảo tàng Orsay. Trước tường treo hoạ phẩm độc đáo này là hàng ghế luôn luôn có quư ông an toạ. Và đàn bà con gái đi ngang qua đấy t́nh cờ nh́n phải bức tranh đều vội vă quay chỗ khác, âm thầm đỏ mặt hoặc hốt hoảng kêu « My God ! » quưnh hơn gặp ma. Bởi v́ bức tranh sống động đến nỗi nếu đặt nằm ngang tầm chiếc giường, hai bên che màn, người nh́n sẽ bắt gặp một người đàn bà đang nằm trần truồng trước mặt.

                                                                                                                                                                                              Paris, Septembre 2003.