0GioLua

 

Nam Dao

 

Gió Lửa

 

 

 

Edition Thi Văn xuất bản

Québec, Canada

 

P.O box 42045, suc St Louis

St-Foy, Qc, Canada G1W 4Y3

E-mail : thivan@videotron.ca

Website: http://pages.infinit.net/thivan/home.htm

Xin đặt sách qua E-mail

Chi phiếu mua sách trả cho NxbThiVan

Gió Lửa

ISBN 2-9806466-0-1

Copyright par Edition Thi Van

Dépôt légal , quatrième trimestre 1999

Bibliothèque nationale du Québec


 

Gửi Việt và Nam,

tặng L Y Nga.


 

Chân thành cảm tạ :

Liên Yến Nga

Nguyễn Quốc B́nh, Hoàng Hưng Nam, Hoàng Khởi Phong,Nguyễn Tài, Trần Bích Thủy, Lm Trần Tam Tỉnh, Nguyễn Đăng Thanh Tùng và Trần Vũ, dưới những h́nh thức khác nhau, đă giúp tác giả thực hiện tiểu thuyết này.


 

Gió Lửa

Lời ngỏ    ii

Vài nét chính sử   iv

 

Chương nhập

1 Tiếng đá  3   

Lửa Đàng Ngoài

2 Chim trong lồng  41  

3 Nhát gươm ân sủng  79   

4 Cơi nổi ba đào  105

5 Kiêu Binh 146

6 Bụi Kinh kỳ 170

Gió Đàng Trong

7 Nẻo dương gian 197 

8 Nước đục   232

9 Bờ xa   279

10 Thoát kiếp  323

11 Gió chướng  367

12 Đ̣n thù   415

Chương Kết

13 Bọt nước sông Mê  453 

 


 

Lời ngỏ

 

Quốc gia nào cũng có Lịch Sử. Ghi lại biến cố, ngày tháng, là loại biên niên thuộc ḍng chính sử. Chính sử chẳng phải lúc nào cũng được ghi nhận khách quan. Những biến cố thường được tô vẽ theo những quan điểm thế quyền đương đại một khi có lợi, và ngược lại, bị lờ đi một khi bất lợi.

Ngoài ḍng chính sử, c̣n có phần lịch sử h́nh thành qua trí tưởng tượng, óc phán đoán, và cao hơn là sự cảm nhận từ quá khứ những vấn đề của con người và xă hội hiện vẫn tồn tại. Ở đây, biến cố lịch sử trở thành đối tượng đem soi dưới lăng kính chủ quan, nhào nặn lại để rồi, qua ng̣i bút người viết, thành tiểu thuyết dă sử. Hiểu như vậy, không ai phủ nhận được phần trách nhiệm của những tiểu thuyết dă sử. Soi rọi vào những vấn đề nhân quần xă hội và thân phận con người trong quá khứ là một cách đi t́m sự sống tàng ẩn trong lịch sử. Lịch sử đó là lịch sử sống. Nó tạo được khả năng nh́n vào tương lai dưới một góc độ nào đó. Chỉ kể ra những biến động và sự cố, loại chính sử biên niên đơn thuần ghi lại lịch sử chết. Nó thường bịt ít nhất là một trong hai con mắt ta lại. Thậm chí, như Tocqueville có nói, nó là một pḥng triển lăm tranh phần lớn sao chép v́ rất hiếm tranh nguyên bản.

Trong Gió Lửa, không gian là nước Việt Nam, thời điểm là buổi Trịnh tàn-Lê mạt vào cuối thế kỷ 18. Mọi nhân vật, kể cả những nhân vật mang tên có thật trong chính sử, vẫn là những nhân vật hoàn toàn tiểu thuyết. Tiểu thuyết là cách tác giả đối thoại với lịch sử.

Tất nhiên đối thoại đó chỉ một chiều và chủ quan. Thậm chí tác giả không câu nệ bất cứ điều ǵ, kể cả đôi khi cưỡng bức lịch sử để thai nghén ra tiểu thuyết. Liên tưởng đến một không gian khác, một thời điểm khác, hoặc những nhân vật có thật trong thời đại này hay thời đại kia, là thẩm quyền của độc giả.

Đọc tiểu thuyết, trước tiên là để mua vui. Sau, dẫu chỉ đôi khi,tiểu thuyết dă sử lại tạo dịp đào sâu một số suy tư về quá khứ, hoặc đă tiềm ẩn, hoặc đang xung động. Những trang sử Việt Nam trên dưới năm trăm năm qua phơi trải chiều dài một cuộc nội chiến vẫn ám ảnh đâu đó như một thứ ác nghiệp đang c̣n ŕnh rập ẩn náu chỉ đợi cơ hội là lại làm cho lệ rơi máu đổ. Tại sao ? Dĩ nhiên, yếu tố t́nh cờ có, yếu tố khách quan có. Nhưng lịch sử vẫn là, nói cho cùng, sản phẩm của những con người suy tư và hành động trong một mẫu h́nh văn hoá nhất định. Vậy th́ yếu tố nào trong mẫu h́nh kia là nguồn căn của những cuộc nội chiến mà ta là nạn nhân của chính ta ? Năïn đất sét làm tượng Thành Hoàng, phải chăng chúng ta đă qú lậy th́ thụp đến độ mê mụ để trở thành nạn nhân của những quyền lực do chính chúng ta cùng dựng lên, một khi, theo qui luật tồn tại, những quyền lực đó xung đột với nhau ? Tránh cho cảnh lệ lại rơi máu lại đổ, không thể không đặt cả cái mẫu h́nh văn hoá đó lên bàn giải phẫu để suy ngẫm, hội chẩn và rồi cắt bỏ những phần nhiễm độc trong tâm thức. Chỉ có như vậy, tương lai mới phần nào rơ nét ngơ hầu hiện tại cưu mang được hy vọng để tiếp tục sống c̣n.

Về phần những vấn đề đặt ra để suy ngẫm, tác giả xin hoàn toàn trách nhiệm, và hy vọng độc giả ở mọi nơi có sự đồng cảm.

 

Nam Dao

Iles de la Madeleine 17-7-1997

Québec 21-10-1998


 

Vài nét chính sử

Lửa Đàng Ngoài

Năm Quí Sửu (1673), Trịnh-Nguyễn chấm dứt chiến tranh, lấy sông Gianh làm giới hạn chia cắt đất nước. Từ sông Gianh ra Bắc, gọi là Đàng Ngoài, do vua Lê chúa Trịnh nắm quyền. Từ sông Gianh vào Nam, gọi là Đàng Trong, do chúa Nguyễn cai quản.

Năm Canh Thân (1740), Trịnh Doanh lên ngôi chúa thay Trịnh Giang. Loạn lạc khắp nơi : Lê Duy Mật lấy nghĩa phù Lê, thất bại, chạy về Thanh Hóa (1738). Năm Nhâm Tuất (1742), Nguyễn Hữu Cầu khởi binh đóng Đồ Sơn, chiếm Kinh Bắc. Năm 1747, Cầu đánh Sơn Nam, bất ngờ tập kích Thăng Long, rồi rút về Sơn Nam, phối hợp với Hoàng Công Chất ở Thái B́nh. Nguyễn Hữu Cầu bị bắt (1751) và bị chém sau mười năm khởi nghĩa, lôi kéo được hàng vạn dân nghèo.

Năm 1767, Doanh mất, con là Trịnh Sâm lên thay, dân Kinh Bắc nổi dậy. Lê Duy Mật đánh bại tướng Trịnh ở Nghệ Tĩnh. Hoàng Công Chất chết già (1769), nghĩa quân sau đó bị tan ră. Năm sau, Trịnh Sâm tiêu diệt phong trào phục Lê của Lê Duy Mật đă tồn tại được ba mươi hai năm. Năm 1771, Sâm giết thái tử Lê Duy Vĩ, ép vua Lê hiển Tông lập Lê duy Cẩn lên ngôi Đông cung.

Năm 1773, Nguyễn Nhạc ở Tây Sơn chiếm Qui Nhơn. Trịnh Sâm cấm đạo Thiên chúa ở Đàng Ngoài. Tháng chạp năm 1774, Sâm chiếm thành Phú Xuân. Năm 1777, hạn hán ở Đàng Ngoài, đói liền mấy năm ở Nghệ An.

Tháng chín năm Canh Tư (1780), sủng phi Đặng Thị Huệ cùng Hoàng Tế Lư mưu giành ngôi Chúa cho con thứ là Trịnh Cán. Con trưởng của Tĩnh đô vương Trịnh Sâm là Tông, cùng Đàm Xuân Thụ, Nguyễn Khản, Nguyễn Khắc Tuân định việc khởi binh. Việc vỡ lở, Sâm bắt giam Tông và Khản, kết tội tử h́nh bọn dư đảng. Hai năm sau, Sâm mất.Trịnh Cán lên ngôi chúa. Cán lúc ấy mới sáu tuổi, Hoàng Tế Lư và Đặng Thị Huệ nắm giữ công việc triều chính.

Tháng mười năm Nhâm Dần (1782), kiêu binh nổi loạn, phế Trịnh Cán lập Trịnh Tông lên. Nguyễn Khản và Dương Khuông phụ chính. Tháng giêng năm Giáp Th́n (1784), kiêu binh làm náo loạn kinh đô Thăng Long, đốt dinh Nguyễn Khản và Dương Khuông, giết Chiêm Vơ hầu, cướp bóc nhà cửa đám quan lại và công hầu.

 

Gió Đàng Trong

Năm Bính Ngọ (1306), Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân, vua Chiêm Thành. Năm sau, Mân dâng hai châu Ô, Rí dẫn cưới. Tháng năm, Mân chết. Tháng mười, Trần Khắc Chung cướp Huyền Chân mang về Bắc hà. Chiêm Thành đ̣i Ô Rí, nay đổi tên là hai châu Thuận, Hóa nhưng không được, mang quân đánh châu Hóa (1353). Đến năm Mậu Ngọ (1378), quân Chiêm thắng, vào đến Thăng Long rồi lại rút ra giữ Thanh-Nghệ. Tháng năm năm Canh Thân (1380), Hồ Quí Ly đánh lùi được Chế Bồng Nga. Chiến tranh Chiêm Việt kéo dài cho đến đời chúa Nguyễn. Nguyễn Hoàng lấy Phú Yên năm 1622, chấm dứt trên thực tế vương quốc Chiêm Thành.

Ở Đàng Trong, chúa Nguyễn lấn đánh Chân Lạp sau cuộc nội chiến với Đàng Ngoài. Năm Ất Dậu (1705), Chúa Nguyễn chiếm Phiên trấn. Năm Mậu Tư, Chúa Nguyễn liên minh với Mạc

Cửu là người Minh Hương, phong làm Thống binh trấn Hà Tiên. Năm Tân Hợi (1731), quân Nguyễn chiếm Gia Định và lập Vĩnh trấn. Vơ vương lên ngôi chúa (1738), bắt đầu đổi phong tục và bắt dân trang phục theo kiểu Trung Quốc. Vơ vương mất, quyền thần Trương Phúc Loan phế Phúc Thuần, lập Phúc Dương c̣n nhỏ lên thay năm 1771.

Nguyễn Nhạc cùng hai em là Huệ và Lữ dấy quân ở Tây Sơn, chiếm Qui Nhơn (1773) rồi đánh vào Nam-Ngăi. Nhân dịp, Trịnh Sâm và Hoàng ngũ Phúc tiến chiếm Phú Xuân (1774), rồi xuống Quảng Nam. Tây Sơn ḥa với Trịnh, đánh lấy Phú Yên. Chúa Nguyễn chạy vào Gia Định. Nguyễn Lữ (1776) mang thủy quân đánh Gia Định, chiếm Sài G̣n và ba trấn lân cận, rồi lại về Qui Nhơn. Nhạc tự xưng là Tây Sơn vương, đặt niên hiệu là Thái Đức.

Năm 1777, Huệ lại đem quân đánh Gia Định, bắt giết cả Phúc Dương và Phúc Thuần rồi về Qui Nhơn. Quân Nguyễn, tôn Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi chúa, chiếm lại Sài G̣n. Năm 1778, Nhạc xưng đế, phong Lữ làm Tiết Chế và Huệ là Long Nhượng tướng quân. Ánh đánh chiếm lại B́nh Thuận. Năm Nhâm Dần (1782), Nhạc và Huệ mang quân đánh Gia Định, Ánh phải chạy ra đảo Phú Quốc. Nghe tin Hộ giá Phạm Ngạn tử trận, Nhạc trả thù, giết rất nhiều thương nhân Hoa kiều. Nhạc và Huệ về Qui Nhơn, Ánh lại chiếm Gia Định ba tháng sau. Năm sau (1783), Huệ và Lữ phản công, Ánh đại bại chạy sang Xiêm, giao con cả là Cảnh mới năm tuổi cho Bá đa Lộc, là giám mục đạo Gia-Tô, mang làm con tin đi Pháp để cầu viện. Năm Giáp Th́n (1784), ba vạn quân Xiêm kéo sang. Huệ mang quân ra đánh tan, rồi để Đặng văn Chấn ở lại giữ Gia Định.

Tháng năm, năm Bính Ngọ (1786), Huệ cùng Lữ, Nguyễn Hữu Chỉnh và Vũ văn Nhậm tiến chiếm Phú Xuân. Cuối tháng sáu, Tây Sơn tiến ra Đàng Ngoài dưới lá cờ « Phù Lê-diệt Trịnh » đánh tan quân Trịnh, vào Thăng Long. Tháng bảy, Huệ lấy công chúa Ngọc Hân. Lê Hiển Tông mất, cháu là Duy Kỳ lên ngôi, sau lấy hiệu là Lê Chiêu Thống. Tháng tám, Nhạc ra Bắc, cùng Huệ rút quân về nhưng bỏ lại Nguyễn Hữu Chỉnh không cho theo. Chỉnh phải chạy trốn về Nghệ An.

Nội bộ Tây Sơn bất ḥa, dẫn đến xung đột. Tháng chín, Trịnh Bồng về lại Thăng Long nhận ngôi chúa, được hai tướng Hoàng Phùng Cơ và Đinh Tích Nhưỡng ủng hộ. Nguyễn Hữu Chỉnh dấy quân phù Lê, kéo ra Thăng Long đuổi Bồng, được phong làm Bằng Quốc công, thâu tóm lại quyền bính vào đầu năm Đinh Mùi ( 1787). Xung đột Tây Sơn kéo đến tháng hai th́ chấm dứt, lấy Bản Tân làm mốc, trở ra Bắc thuộc Huệ được phong là Bắc b́nh Vương, về Nam thuộc Nhạc. Nhạc cắt Gia Định cho Lữ, phong làm Đông định Vương, c̣n tự ḿnh xưng là Trung Ương Hoàng Đế đóng tại Qui Nhơn. Ánh lại mang quân đánh Gia Định. Nguyễn Lữ về Qui Nhơn tháng sáu âm lịch (1787), ốm rồi chết, để Phạm Văn Tham trấn giữ.

Tháng mười một âm lịch, Bá đa Lộc thay mặt Nguyễn Ánh kư Điều Ước Liên Minh Versailles. Khoảng thời gian đó, Huệ sai Vũ văn Nhậm ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh, bắt và giết. Tháng bốn năm sau (1788), Ngô Văn Sở báo Huệ là Nhậm lạm quyền và có ư phản, Huệ ra Bắc giết Nhậm. Tháng bảy, Lê Chiêu Thống cho người sang cầu cứu nhà Thanh. Tháng mười, trên hai mươi vạn quân Thanh ồ ạt vào biên giới. Ngô Văn Sở theo lời Ngô Th́ Nhậm kéo quân lui về núi Tam Điệp. Ngày 17-12-1788, quân Thanh dưới quyền Tôn sĩ Nghị vào chiếm Thăng Long.

Năm ngày sau, Huệ làm lễ tế cáo trời đất, lên ngôi Hoàng Đế lấy hiệu là Quang Trung rồi xuất quân. Ngày 26-12, Huệ đến Nghệ An rồi ngày 15 -1-1789, tức là ngày hai mươi tháng chạp năm Mậu Thân, Huệ đến Tam Điệp. Hạ lệnh ăn tết trước, và hẹn ngày mồng bảy Tết sẽ vào đến Thăng Long, Huệ chia quân làm năm đạo tiến ra Bắc. Ngày mồng ba tháng giêng, đồn Hạ Hồi vỡ. Ngày mồng năm, đồn Ngọc Hồi bị đánh tan. Ngày mồng bảy, Quang Trung vào Thăng Long, yết bảng an dân và cho quân Thanh ra hàng.

Tháng năm năm Kỷ Dậu, Quang Trung ra chiếu khuyến nông và lập học. Tháng tám, khoa thi hương dùng chữ Nôm đầu tiên, có Nguyễn Thiếp làm đề điệu, được mở ở Nghệ An. Năm Tân Hợi (1791), tiền « Quang Trung thông bảùo » được ban hành,

và Viện Sùng Chính được thành lập, phụ trách giáo dục và phiên dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm. Năm 1792, viện đă dịch được bộ Tiểu Học và Tứ Thư, do Nguyễn Thiếp trách nhiệm. Tháng sáu, Nguyễn Ánh mang thủy quân vào đốt phá Thị Nại thuộc Qui Nhơn. Quang Trung gửi hịch kêu gọi quân dân chuẩn bị tấn công Ánh ở Gia Định nhưng ngày 29 tháng bảy năm Nhâm Tí, Quang Trung băng hà, con là Quang Toản mới mười tuổi lên kế vị, lấy hiệu là Cảnh Thịnh.

Sau đó, thái sư Bùi Đắc Tuyên chuyên quyền. Nhạc mất (1793), Tuyên sát nhập đất Nam-Ngăi, nội bộ Tây Sơn lủng củng. Ánh xây thành Diên Khánh, quấy phá B́nh Thuận. Cuối năm 1794, Đại tướng Trần Quang Diệu vây Diên Khánh. Tháng năm âm lịch Ất Măo (1795), Tư khấu Vũ Văn Dũng bắt giết Bùi Đắc Tuyên. Diệu bỏ Diên Khánh, về Phú Xuân, dẫn quân đánh Dũng, may có Phan Huy Ích giảng ḥa.

Ngày tàn của triều đại Tây Sơn bắt đầu. Bảo là con Nhạc chiếm Qui Nhơn và định hàng Nguyễn Ánh, nhưng Quang Toản biết, vây thành và giết vào cuối năm 1798. Ánh đánh Qui Nhơn, cuối cùng chiếm được. Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng phản công, giữ cửa biển Thị Nại, vây Qui Nhơn liền một năm. Bất ngờ, tháng ba năm Tân Dậu (1801), quân Ánh chiếm Quảng Nam. Ngày ba tháng năm, thành Phú Xuân bị hạ, Quang Toản rút quân ra Bắc. Tháng mười một, Toản và em là Quang Thùy mang ba vạn quân tiếp ứng cho Dũng, Diệu và vợ là Bùi thị Xuân tiến đánh lũy Trấn Ninh ( Hà Trung). Đó là trận đánh lớn cuối cùng của quân đội Tây Sơn.

 

Tháng năm năm Nhâm Tuất (1802), Ánh lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Gia Long. Tháng tám, quân Nguyễn hạ thành Thăng Long, Quang Toản chạy lên Kinh Bắc th́ bị bắt. Tháng mười một, Ánh xử tội Vua tướng Tây Sơn. Về phần Ngô th́ Nhậm, Nhậm bị đánh ở Văn Miếu đến chết vào tháng hai năm Quí Hợi (1803).

 

1 Tiếng đá

 

Gió hầm hập từ phía Tây thổi về Nghệ An. Gió lùa cơn nóng đến độ chó ngậm hơi không sủa, trâu ḅ uể oải nằm dài, rớt dăi chẩy trắng mép, lim dim tựa như vừa no đầy sau cơn xác thịt. Đợi đến nửa đêm, gió mới hà được một chút hơi lạnh của núi trong tiếng xào xạc từ rừng lá rạc vây bủa trại Bùi Phong.

Căn nhà ba trái nằm yên ả dưới rặng chèm. Tiếng vơng thỉnh thoảng kẽo kẹt nhịp cho tiếng quạt phành phạch phẩy gió. Không biết loài chim ǵ bay ngang, quàng quạc kêu làm vỡ bấy cái êm đềm một đêm nồm ngột ngạt. Lửa đóm lóe lên trong nhà, hắt qua khe liếp những vệt sáng đỏ đục. Tiếng rít thuốc lào sằng sặc, rồi tiếng người sột soạt ra mở then cửa. Nguyễn Thiếp ra đứng, ngửa mặt nh́n trời. Ánh trăng chếch tỏa xuống mầu xanh huyển hoặc trên những lùm cây chập chờn nhẩy múa.

Trước khi gia đ́nh họ Nguyễn ở Nguyệt Ao lên lập trại cuối năm ngoái, khoảng đất bằng phẳng rộng độ hai mẫu ta đất này chỉ toàn là rạc, lá nhọn, sắc, tua tủa chĩa ra như lông nhím. Cũng bởi v́ Thiếp nổi tiếng là người sành thuật phong thủy nên tiếng đồn đăi rằng chỏm Bùi Phong ở phía đông ngọn Lạp Đính trong rặng Thiên Nhận là nơi có mạch rồng, ai để mả ở đó th́ đời sau sẽ hạnh phát đế vương. Thế là nghe đâu có vài kẻ cùng một lúc lên quan kiện, ai cũng đưa từ chứng rằng đó là đất của tổ tiên ḿnh. Nhưng chuyện kiện cáo không đến nỗi nh́ nhằng. Ở vào những năm cuối cùng đời chúa Trịnh Doanh, ai cũng biết là từ chứng có thể mua bằng tiền, giá thường chỉ bằng giá một đôi gà. Vả lại, miệt Hải Dương có giặc Nguyễn Hữu Cầu, và ngay tại hai trấn Thanh-Nghệ này, Nguyễn Diên mời được Hoàng tôn Lê duy Mật kéo cờ tôn phù vua Lê dấy binh chống chúa Trịnh. Nổi loạn chiếm Đồ Sơn năm 1742, Cầu thường lấy của nhà giầu ra phân phát cho người nghèo, chống với chúa Trịnh được gần mười năm. Mật là tôn thất nhà Lê, nổi loạn đánh Trịnh Doanh ở Thăng Long, thất bại phải chạy ra Thanh Hóa năm 1738. Trong cảnh loạn lạc, quan huyện La Sơn t́m cách khu sử cho thật gọn. Coi chỏm Bùi Phong là công thổ, quan để cho người đồng liêu họ Nguyễn vừa mới nhậm chức huấn đạo ở Anh Đô mua lại.

Thuở Hiến sát sứ Nguyễn Hành thụ bệnh qua đời ở Thái Nguyên cách đây mười lăm năm, nỗi đau xót người chú đă nuôi ḿnh ăn học khiến Thiếp mắc chứng cuồng dĩ . Nhẩy xuống ruộng bùn huyện Kim Hoa nằm mê man ba ngày, Thiếp may được người xă Do Nhân mang về nuôi cả tháng, sau mới t́m đường về nhà. Ba ngày trước, tức là đúng vào ngày mùng tám tuần trăng thứ sáu, Thiếp lại lên cơn động kinh. Đang phạt cỏ tranh bới đất trồng thêm chục gốc chè, Thiếp bỗng ngă vật ra, chân tay co quắp, miệng méo xệch, người giật lên như đỉa phải vôi. Thiếp muốn kêu nhưng cổ tắc lại, nước dăi đặc sệt pḥi ra từng vũng sùi bọt trắng. Thiếp ngửng mặt nh́n lên trời: mây đùn lên, bay vùn vụt, bỗng nhiên đổi mầu thành mây bẩy sắc, ráng tía ngày càng chói lọi đến lóa mắt. Trên cao, vô số khuôn mặt từ phương Nam bay lại, sà xuống, mặt người có, mặt ma mặt quỉ có, mặt Thánh mặt Phật cũng có, lúc th́ nhe nanh nhe vuốt như chực cắn xé, lúc lại bi thương đại lượng nhỏ nước mắt từ bi.

Đột nhiên, một vùng đất nổi lên cao, chung quanh là rừng núi, một đàn voi xông ra, dẫn đầu là một con voi trắng đầu như đầu rồng. Mấy chục con voi lồng lên trong cát bụi mịt mù rượt đuổi một đàn ngựa, con chạy về phương Nam, con dạt về phương Bắc. Tiếng cồng nổi lên nghe đinh tai nhức óc, lẫn vào đó là tiếng tù và, tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng kim khí chát chúa choạng vào nhau, rồi tiếng rên la, tiếng van vỉ, tiếng kêu khóc, tiếng chửi rủa. Thiếp cố xoay người về phía trái, t́ tay vào một mô cỏ vừa cào. Mặt trời rát bỏng xối xuống từng chậu lửa sánh sệt, làm cho đống cỏ tranh mới cắt cháy bùng lên. Cháy ! cháy ! cháy rừng ! Thiếp hả miệng hớp lấy chút không khí mỗi lúc một ngột ngạt, cố đến độ cổ họng bung ra thành tiếng « chạy ! chạy đi ! » , rồi lịm dần trong lớp sóng lửa vỗ sôi lên giữa một cái vạc dầu đang từ từ nhận ch́m cả nhân loại.

Khi Thiếp mở mắt ra, trời đă tối mịt. Ánh đèn dầu hắt bóng Đặng-thị lên vách mới trát c̣n ngan ngát mùi đất ẩm. Thiếp thều thào gọi vợ. Đặng thị cúi xuống xốc cho Thiếp ngồi lên, giọng nửa mừng nửa tủi :

- Mấy năm nay tưởng yên rồi, nay đột nhiên thầy nó lại ngă bệnh .

Thiếp gượng cười.

- Thầy nói, thầy kêu, rồi lại khóc nữa.

- Nói ǵ ?

- Thầy bảo bây giờ là thời mạt pháp !

- C̣n kêu ǵ ?

Đặng-thị im lặng một chặp, ngập ngừng :

- Thầy kêu nhiều lắm, khó nhớ hết được. Có lúc thầy vừa khóc vừa bảo đến thánh thần cũng hư huống chi là người...

- Thế kêu với ai ?

Đặng-thị lắc đầu, kéo tấm chăn đơn đắp cho Thiếp, nhỏ nhẹ :

- Tôi không biết ! Thầy nó uống cho tôi bát thuốc này đă. Uống cho hạ cơn xuống đêm nay.

Thiếp từ tốn nâng bát thuốc do một người bạn nổi tiếng danh y bốc cho. Từng ngụm thuốc đắng chát trôi qua như đốt cổ họng, song vào đến bụng th́ lại thành mát rượi. Thiếp đặt bát thuốc lên cái ghế đẩu kê cạnh giường, nhớ lại ngày nào họ Lê bắt mạch cho ḿnh trên chùa Hương Tích, nửa đùa nửa thật cười bảo «...chẳng biết Cuồng ẩn đó hay Lăn ông này sẽ tạo nghiệp để phải giây vào đám bụi bậm dưới kia ». Thiếp với tay lấy b́nh nước chè, nhưng mất thăng bằng, ngă chúi xuống chân giường, miệng thở hổn hển. Bóng đèn hắt bóng Đặng-thị lên vách, hấp tấp đang xốc Thiếp lên. Lúc sau, bấc đèn vặn nhỏ lại khiến cái bóng khổng lồ ngả dài ra rồi biến mất.

Từ hôm Thiếp lên cơn động kinh, cứ chập choạng tối là Đặng-thị bắt cả ba đứa con đi ngủ sớm. Hai đứa lớn biết nghe, nhưng Thúc Khải mới chập chững biết đi lâu lâu lại khóc đêm đ̣i mẹ. Bấy giờ đă canh hai, trăng lưỡi liềm đang ngả về phía tây rặng Thiên Nhận. Trại Bùi Phong mơ hồ lẫn vào giấc ngủ chập chờn trong đêm mùa hạ. Tiếng ếch nhái ven con suối cạnh nhà oang oác, phụ họa vào những âm thanh rỉ rả của đủ loại côn trùng than van cơn nóng bức hừng hực chưng bằng lửa địa ngục. Đặng-thị thỉnh thoảng lại phe phẩy quạt cho Thúc Khải. Giường bên kia, tiếng trẻ ú ớ nói mê. Bước vào nhà, Thiếp đặt ḿnh xuống giường nằm im ngắm ánh trăng qua khe liếp, mông lung nghĩ ngợi.

Đột nhiên con Vện buộc ởœ gốc cây đầu nhà tru lên sủa oăng oẳng. Tiếng chân người chạy như ma đuổi mỗi lúc một gần. Khi Đặng-thị vừa khêu đèn lên th́ tiếng gơ cửa đă dồn dập đánh thức cơn ngái ngủ đang chờ ập đến. Cửa vừa mở, tiếng nức nở vang lên :

- Nguyễn công, xin người ...

Đặng-thị cúi vội xuống xốc nách người con gái đang qú, thảng thốt hỏi. Dưới ánh đèn, mặt người con gái nhợt nhạt, mái tóc dài màu đen huyền xổ tung ra trên hai vai bung toạc những vết rách như dao cứa. Khắp mảng áo trái, máu bầm hoen ố những đường kim tuyến thêu dọc trên những chiếc áo chẽn của phụ nữ miền núi. Người con gái hai tay run rẩy đưa cho Thiếp một quyển sách gáy da, rồi nhũn người khuỵu xuống, hai mắt nhắm nghiền lại. Đặng-thị vừa lay vừa gọi, nhưng vô ích.

*

Người con gái đó tên là Hà Khinh Vân, nhưng mọi người trên bản Mê Thượng đều gọi nàng là nàng Mây. Mây là con gái đầu ḷng của Hà công, người trưởng tộc họ Hà đă đến sinh cơ lập nghiệp cách đây hơn hai trăm năm trên rặng Giăng Màn. Rặng này cũng có tên là Khai Trướng, chạy theo hướng Bắc-Nam, nằm về phía Tây rặng Thiên Nhận, chia ranh giới giữa châu Hoan và vương quốc Ai Lao. Hà tộc đông nhất bản, có lẽ là họ đầu đi khai phá Giăng Màn, và đă suốt tám đời làm Chao cai quản bản. Trong gần ba trăm nóc gia, với số trên dưới năm trăm tráng đinh, ngoài họ Hà c̣n thấy họ Đinh, họ Lê, họ Nguyễn. Chính vợ Hà công là người họ Nguyễn, mới di cư đến Mê Thượng khoảng hai mươi năm nay. Nghe đâu có dính dáng họ hàng ǵ với Nguyễn Hữu Cầu đă dấy quân làm loạn, gia đ́nh Nguyễn-thị phải bỏ miệt Đồ Sơn chạy vào Nghệ An để tránh tróc nă.

Tộc trưởng họ Hà không nhất thiết là ḍng con trưởng mà phải là một người có công đầu. Để định công, cứ năm năm, họ Hà họp Tộc hội đông đủ mọi chi mọi ngành. Hạch thí gồm hai phần, thi vơ và thi văn. Phần thi văn lại trọng về mặt binh thư, và đôi khi có hỏi cả thuật Pháp trị theo sách của Thương Ưởng và Hàn Phi. Không phải kỳ tộc hội nào cũng có người qua được hai phần hạch thí, cho nên đôi khi phải chờ đến mươi mười lăm năm mới được một người. Người này, được gọi là Tộc thứ, làm phụ tá cho Tộc trưởng cho đến kỳ hạch thí sau. Nếu có thêm được người trúng hạch th́ Tộc trưởng xuống nhường cho Tộc thứ lên thay ḿnh, c̣n người mới trúng hạch sẽ được đề làm Tộc thứ.

Trường hợp Hà công, húy là Trường , lên làm Tộc trưởng là một sự kiện khá hăn hữu. Vào tiết lập đông năm Giáp Tư đời Cảnh Hưng thứ ba, bản Mê Thượng bị một con cọp cái khôn đến hóa tinh khuấy phá dữ dội. Nó đến ŕnh vồ người làm mương làm rẫy, và có lần xông hẳn vào bản vật chết một con trâu rồi tha đi. Trai bản sợ, đi đâu phải đi thành toán năm ba người mà vẫn bị nó tấn công, có kẻ thương tích, có kẻ tử vong. Sau một năm nào là đặt bẫy, nào là đánh thuốc, nào là ŕnh bắn tên có tẩm nọc độc, con cọp vẫn vô sự, lại trở nên ranh mănh và táo tợn đến độ vào tận ven bản ŕnh ṃ giữa ban ngày ban mặt. Người ở bản chịu thua, đành lập một cái miếu thờ thần Bạch Hổ, rồi cứ mỗi tháng đến nộp một con lợn nái.

Hà công năm ấy mới hai mươi hai tuổi, tính t́nh xưa nay vốn lầm ĺ, đọât nhiên hỏi « thần Bạch Hổ là hổ đực hay hổ cái ? ». Không ai trả lời, Hà công liền vác một túi tên, một cây cung dài hai thước, một thanh mă tấu và hai cuộn dây chăo to bằng ba đầu ngón chân cái, lẳng lặng đi theo đám người khiêng lợn đến miếu thờ. Khi ai nấy đă ra về, Hà tự buộc ḿnh vào cái chạc ba khá cao trên một cây cổ thụ mọc ngay cạnh miếu, làm một cái đầu tḥng lọng to bằng cái nia, rồi cột vào gốc cây. Xong đâu đấy, Hà trèo lên cây, dở cơm nắm ra ăn, b́nh tĩnh như chẳng có ǵ. Hà chờ một đêm, sáng hôm sau con cọp đến lấy mồi như lệ thường, không có vẻ nghi ngại, cũng chẳng buồn gầm gừ khi nghe tiếng con lợn tế thần rú lên những tiếng eng éc năo nùng vô vọng.

Đợi đến lúc cọp vục đầu vào cổ con lợn đă bị xé tanh banh, Hà nấp trên cây ném sợi tḥng lọng vào đầu con cọp. Ngạc nhiên, con cọp nhẩy lồng lên gầm. Nút tḥng lọng thắt lại khiến cọp nghẹt thở. Nó khôn ngoan nằm phục xuống, mắt lừ lừ, tai nghe ngóng, mũi khụt khịt t́m hơi kẻ thù. Hà dương cung bắn sáu phát tên, phát nào cũng trúng nhưng không vào chỗ nhược. Con cọp lại gầm lên, lết nhanh vào bụi cây, quay cổ lại cắn sợi dây chăo.

Hà lắp thêm tên, đợi cách bắn ngay vào chỗ giữa hai mắt cọp rồi b́nh tĩnh chờ. Nhưng đến quá một khắc vẫn không thấy động tĩnh ǵ, Hà nới dây, tụt xuống chạc cây dưới th́ con cọp bỗng đâu nhẩy ào vào, làm Hà tối tăm mặt mũi rơi xuống đất. Con cọp không buông tha xông lại lấy chân tát Hà. Hà chĩa mũi mă tấu lùi ra sau. Con cọp nhẩy qua bên trái, rồi nhẩy qua bên phải, tránh lưỡi mă tấu. Vờn nhau đến lần thứ tư, bất chợt con cọp nhẩy thẳng vào Hà. Mũi mă tấu đâm xốc lên, nhưng con cọp vẫn c̣n sức đạp Hà ngă xuống, mồm há ra ngoạm vào chân trái Hà. Hà rút dao găm, tay phải kẹp đầu cọp, tay trái kéo một nhát vào cổ. Con cọp nhất định không chịu nhả mồi. Hà lại kéo ngược lại một nhát dao, rồi đau quá, ngất đi.

Khi tỉnh dậy th́ trời đă xẩm tối, Hà cố đẩy đầu con cọp ra, nhưng không c̣n đủ sức. Hà định gọi, nhưng biết không có ai nghe được, lại thôi. Cơn khát làm rát cả cổ, nhưng ống nước mang theo văng đâu mất. Ống chân trái nát nhè trong mồm cọp làm Hà đau đến độ răng đánh vào nhau nghe lách cách như đánh mơ bản. Mờ sáng hôm sau, Hà lấy dao cắt rơi đầu con cọp, vộc miệng vào uống máu cho đỡ khát. Uống xong, Hà nôn thốc nôn tháo rồi lại ngất đi. Trưa ngày hôm đó, Hà tỉnh dậy, thấy ruồi nhặng đă bu đầy vào chỗ chân trái Hà c̣n dính trong mồm con cọp. Hà thét lên : « Trời ơi! trời có mắt không? » rồi lại mê đi một lần nữa.

Hà nh́n thấy ḿnh bay bổng về phương Đông, đậu trên đỉnh Thiên Nhận, chung quanh chập chùng những chỏm núi tṛn mầu hồng tía nổi bật giữa cái nền xanh ngắt của giăy Giăng Màn. Hà rút ống đinh-bia, loại sáo ngang của người Thái trắng, kề môi thổi lên một khúc, rồi ồ ồ cất tiếng hát :

Trăm thứ hoa không bằng hoa con gái

Trăm thứ trái không bằng trái bông com

Trăm thứ hương không bằng hương con mái

Lúc ấy, Nguyễn-thị tay dâng lên Hà chiếc cần uống rượu, mắt nh́n vào mắt Hà, bảo: «...hoa đây, hương đây ».

Hà uống, thấy cổ mát lịm, từ từ mở mắt ra. Chung quanh Hà lố nhố những người. Ông lang mừng rỡ kêu: « Tỉnh rồi! phúc thật lớn ! ». Hà nhớ lại, hỏi cái chân trái ḿnh nay ra sao. Ông lang lắc đầu. Hà đ̣i ăn một nồi cơm, và xin một ṿ rượu. Uống sạch ṿ rượu, Hà hỏi t́m thanh mă tấu của ḿnh. Hà bật cười khành khạch, châm điếu rít thuốc, rồi th́nh ĺnh xoay người hét lên một tiếng chặt vào khoảng thịt nhầy nhụa trên chân trái. Hà lại ngất đi một lần nữa. Ba hôm sau, Hà mời Nguyễn-thị rồi kể lại giấc mơ của ḿnh. Nguyễn- thị không nói « ...hoa đây, hương đây » nhưng bảo « ...xin cứ cho người đến hỏi ». Cuối năm đó, họ thành thân. Chú rể chống nạng và đă trở thành tộc trưởng họ Hà cách đấy đúng hai tháng.

*

Đặng-thị đánh thức Thiếp vào lúc nắng đă chớm vàng rừng cây trên núi Lạp Đính. Mây vẫn c̣n thiêm thiếp ngủ, tóc x̣a những sợi tơ huyền óng ả chảy xuôi xuống triền thân mỏng mảnh uốn lượn những thác ghềnh mới được thiên nhiên mô phỏng. Thiếp lẳng lặïng đổ nước vào b́nh trà Lạc Thủy, rồi gắp những mảnh than hồng chèn quanh b́nh nước sôi bằng đồng mun do chính Hà công mang tặng ba năm về trước. Khi ấy, Hà và Nguyễn-thị ghé về làng Nguyệt Ao, nằng nặc đ̣i gặp. Quà ra mắt là ba sấp vải, ba sâu tiền, mười cân trà và chiếc b́nh đồng mun. Thiếp hỏi :

- Tôi làm được ǵ mà Hà công lại đăi thế này ?

Hà công khẩn khoản :

- Tôi đến đây xin tiên sinh dạy cho một câu mà thôi. Ngài dạy thế nào tùy ngài. Tôi học được ǵ, cũng tùy tôi. C̣n dăm ba món quà này chỉ là ngoại vật, đáng ǵ mà ngài phải quan tâm.

Ngừng một lúc, Hà công tiếp :

- Thời buổi loạn lạc này, vua không ra vua, tôi chẳng ra tôi, thánh nhân phải sinh ra để cứu đời, nhưng sinh ở đâu ?

Thiếp nh́n lên trời, thủng thẳng :

- Thánh nhân sinh từ trong ḷng. Mong thánh nhân là rồi có thánh nhân.

Hà công gặng :

- Trên có trời, dưới có đất. Giữa đất và trời có người. Nhưng đâu phải ai ai cũng có cái thiên mệnh làm kẻ cứu đời. Liệu thánh nhân có sinh ra trong châu Hoan này không?

Thiếp ngẫm nghĩ một lúc rồi trả lời :

- Có, đủ lửa th́ rồng sẽ cất cánh bay lên.

- Vùng nào đất nào đủ lửa ?

Thiếp cười :

- Nơi nào đủ người hiền th́ nơi đó sẽ đủ lửa.

Nh́n ra dăy Giăng Màn nền xanh lam sừng sững phía sau, những chỏm núi thấp hơn của rặng Thiên Nhận nổi lên như những chiếc quạt bằng lụa mầu hồng tía giống hệt như trong tranh thủy mạc, Thiếp chậm răi :

- Thế này làm sao lại chẳng có người hiền.

Thiếp đứng lên, ư muốn tiễn khách, xin hoàn tất cả tặng vật. Nằn ń măi, Thiếp đành nhận chiếc b́nh đồng mun với hai cân chè búp. Đưa khách ra cửa, Thiếp c̣n nhớ cặp mắt tṛn to của một con bé lay láy nh́n ḿnh, miệng cười chúm chím.

Lần ấy, Mây mới đâu chín mười tuổi. Con bé vẻ hiền lành thuở xưa sao nay lại leo lên Bùi Phong, người bê bết máu? Đợi hết một tuần trà, nắng vừa lên đầu ngọn cây th́ Mây tỉnh dậy. Mây cầm tay Đặng-thị để lên ngực ḿnh, rồi cúi đầu, nước mắt chảy ra, không nói năng ǵ. Một lúc sau, Mây xin lên gặp Thiếp. Nàng qú phục xuống đất, đôi bờ vai nhỏ nhắn run bắn lên như con giun đất bị xéo quằn, kêu thảm thiết:

- Nguyễn công ơi ! Thế th́ trời không cao, đất không sâu, chỉ c̣n có người, người có cứu lấy Mây này bé bỏng không ?

Đặng-thị đỡ Mây dậy, lấy khăn lau nước mắt cho Mây, tay nhẹ nhàng vuốt những sợi tóc rối bời. Cắn môi gh́m cơn nức nở, Mây kể...

*

Dưới triền tây núi Giăng Màn là bản Mê Hạ, thuộc mường Luang. Trước khi họ Hà đến Mê Thượng hai trăm năm trước, chỉ có một bản Mê gồm hơn trăm nóc nhà, chuyên sống bằng chăn nuôi và trồng trọt. Nước nguồn đổ về xuôi, xoáy vào đất, đục vào đá từ đời nào làm thành con sông Mê rộng độ ba mươi sải ngang, chẩy từ chân Giăng Màn qua mường Luang cho đến tận mường Rây. Có sông Mê, nước ê hề cho trâu ḅ, gà, lợn. Nước ê hề cho rẫy Luang quanh năm vàng ngô, xanh lúa. Nhưng chỉ ba năm sau khi đă đuổi được người Táy ở Bản Thượng khỏi chỏm Vềnh, Hà tộc đă sai tráng đinh xếp đá xây đập Cheo Reo chặn nước. V́ thế con sông Mê nay ráo kiệt. Nó cạn trơ ḷng, chỉ c̣n phơi những tảng đá trắng tựa nhau đổ dài ra trên hai mươi dặm, giống hệt như xác một con trăn chết khô để xót lại trên mặt đất khúc xương sống ngoằn ngoèo trắng hếu.

Người Táy bảo với nhau : « Cái giống người ǵ mà ác thế, đi cắt , chặn nguồn làm trâu chết, lợn chết, khoai chết, lúa chết. Thế này th́ người Táy cũng sẽ chết dần thôi ... ». Họ t́m cách phá đập. Hơn mười đời ông Trùm ông Chao, hơn mười lần trai Táy xách mai, xách thuổng, xách dao chằm đến Cheo Reo. Họ bảo nhau : « Phải t́m mó kíu nước, nếu không th́ không có giống ǵ sống được ». Người trên bản Mê Thượng có súng bộc hỏa, lại canh giữ rất ngặt nghèo. V́ thế, cũng lại hơn mười phen họ phải khênh xác trai Táy về Mê Hạ. Duy có được một lần họ đánh bật đám tráng đinh Mê Thượng ra khỏi Cheo Reo. Họ thấy đập nước chia làm hai lớp, làm bằng những ḥn đá tảng chồng lên nhau, ḥn nọ dựa vào ḥn kia, sức người không sao lay chuyển được. Vài bô lăo c̣n sống kể rằng khi đó họ cho người Táy về mường lấy bộc lôi đến phá. Con trai Táy đào đường mương, dựa thế nấp vào, rồi dùng cung tên đẩy lùi những lần tiến công của con trai Kinh, cố giữ Cheo Reo được gần ba ngày ba đêm. Cuối cùng họ buộc được bộc lôi vào những gềnh đá đầu chĩa lên nhọn hoắt. Trai Kinh lúc đó đă tiến sát đến tuyến mương pḥng thủ. Ông Ph́a , người chỉ huy, hy sinh trai Táy, ra lệnh cho nổ bộc lôi. Bộc lôi nổ to đến rách toang màng nhĩ . Đám voi rừng hoảng hốt vừa đâm dầu chạy vừa hống lên những tiếng tru chéo. Da thịt tóc tai trai Táy lẫn với sạn đá bay bốc lên trời, rồi rơi xuống làm rừng núi đỏ lè lè như lưỡi một trăm con ma tḥ ra liếm cây liếm cỏ.

Nhưng đập Cheo Reo vẫn cứ vô sự, nước chỉ rỉ rả chảy xuống, vô t́nh để mặc con sông Mê vẫn cứ măi trơ ḷng cạn kiệt như trước. Từ đó, người Táy tản ra xa, xuôi về đồng bằng, bỏ ư phá đập, và chỉ lúc ông trời ra cơn hạn hán mới lên đập xin nước vào những tháng giữa hạ, khi nước c̣n quí hơn cả vàng dát trên ṿng cổ con gái Táy. Đời này sang đời nọ, không biết nghe từ đâu mà họ kháo nhau rằng khi nào t́m được mật kíp của bản Mê Thượng th́ người Táy mới biết cách phá đập.

Mật kíp như thế nào, chỉ có ông Chao của bản Mê Thượng, nghĩa là những người tộc trưởng họ Hà từ hai trăm năm nay, mới biết tận mắt. Theo lệ, mật kíp được trao tận tay ông Chao. Ông Chao cất giấu mật kíp ở Hang Sau, một nơi không ai được được phép vào. Chỉ khi nào bản gặp những khó khăn đến độ cả bản đ̣i th́ ông Chao mới được mở mật kíp t́m lời giải. Theo lời truyền tụng, mật kíp do chính Hoàng Mười, một vị trong Bát Tiên , đă trao tận tay cho ông Chao sáng lập ra bản từ lúc tạo thiên lập địa. Chuyện thế gian đâu đó yên bài cho nên tất cả mọi việc từ cổ chí kim đă được tiên liệu trong quyển sách thánh này.

Lần gần nhất phải mở sách là lần cách đây hơn năm mươi năm, hai họ Hà và Lê xích mích v́ một câu chuyện không đáng gọi là lớn. Trâu một người họ Hà tên là Hà Chiến dẫm nát mương họ Lê, họ Lê sang bắt đền. Họ Hà cậy thế mạnh không lư đến chuyện trâu dẫm, lại xách mé «... mương nhà nào, nhà nấy cứ giữ ! ». Lê Ân, tộc trưởng họ Lê, là một người nóng tính, lại giỏi nghề vơ, đánh câu liêm rất tài t́nh. Ân giận căm gan, song chỉ cười nhạt, sập cửa bỏ về nhà. Dăm bữa nửa tháng sau, đàn trâu của Hà Chiến lại mon men đến mương họ Lê. Ân ngồi trong nhà quẳng câu liêm ra một lần đánh hai con trâu vỡ toạc đầu, hồng hộc kêu rồi chết. Chiến liền rủ một đám tráng đinh họ Hà đến vây nhà Ân liền hai ngày, bắn tên và định phóng hỏa đốt. Sáu đứa con trai của Ân, hai đứa bị thương nặng. Ân gào lên : « bớ ông Chao, ai phân xử đây ? » rồi phanh ngực, mắt đỏ ngầu, sừng sững xông ra, quát : « Có chết, ta sẽ kiện với diêm vương ! ». Tên bắn như mưa găm vào người Ân trông như nhím xù lông, song Ân vẫn không ngă, mắt trợn ngược lên, miệng ứa máu ra, chết đứng. Khi ông Chao bản là Hà Tuyên đến nơi th́ cơ sự đă xảy ra mất rồi. Đám con họ Lê qú xuống xin mở mật kíp. Cả bản thấy truyện thương tâm, bất b́nh với Hà Chiến, nên đồng ư.

Đ́nh bản Mê Thượng xây trên hai sào đất vuông vắn trước cửa Hang Sau, nơi cất giấu mật kíp. Lối vào Hang Sau là một ngách nhỏ, có cắm bảng gỗ đỏ đục hai chữ « Cấm Nhập ». Hà Tuyên vái trời, vái đất, rồi vái tượng Thần Bản, miệng lầm rầm đọc . Lách vào trong hang, sau khoảng một tuần trà, Tuyên ra sân đ́nh cung kính nâng cái hộp bằng ngà trong có một quyển sách gáy da đă sờn. Hơn năm trăm người ngồi im lặng đợi. Tuyên quát : « Đánh cồng lên » rồi qú xuống. Tiếng cồng dội vào giăy núi Giăng Màn, vọng lại từng hồi, nghe như sấm động. Tuyên mở sách trên án thư, mắt chăm chú. Khi tiếng cồng vọng cuối cùng tắt đi như t́m về âm u xa hút, Tuyên đọc : « Ai là kẻ gây sự bạo hành giết người trong bản th́ cả nhà phải bỏ bản mà đi về phía Tây, trái lời phải tội chết ba đời, ai muốn giết cũng được ».

*

Năm ngoái, ngày Mây tṛn mười bẩy, Mây rủ mấy đứa con gái đi tắm suối. Suối nằm ngay dưới đập Cheo Reo, nước xuôi xuống chỉ độ ba trăm thước là kiệt cạn. Buổi trưa nồng, gió ùa về từng cơn nóng rát. Mây lơa thể nằm ngửa ra cho nước ào vào tóc, vào mặt, vào yếm. Con Hường giạng chân, váy sắn đến bẹn, đùi thon chắc nhô lên thụt xuống, vừa cười vừa té nước tung tóe bắn thành những hạt óng ánh kim cương nhẩy múa dưới nắng trưa trong suốt. Con Hằng cởi yếm, tay giả như che phần trên cơ thể nhưng vẫn để cặp vú căng nứt nhô ra như sừng trâu, vắt vẻo ngồi trên một ḥn đá trắng nhô lên trên nền toàn sỏi hồng, miệng hát

Chiều chiều em dẫn mẹ qua đèo

Em đi bên nớ

T́nh t́nh ơi, anh theo bên nào ?

Chiều chiều dẫn mẹ đi theo

T́nh, t́nh ơi

Nhớ ai em kiếm cuối đèo dấu chân

T́nh, t́nh ơi

Nhớ ai em những khóc thầm

Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa

Nhớ ai ngơ ngẩn ngẩn ngơ

Nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai ...

Một tiếng sáo đinh-bia bỗng nhiên vẳng lên từ đâu đó, xa vắng, mênh mang. Mây nhỏm dậy rỏng tai, ngước cặp mắt nâu thăm thẳm tṛn trĩnh trên khuôn mặt trái soan rám hồng, môi hơi trề xuống, miệng mở hé như cười, chiếc răng nanh khênh khểnh lộ ra làm tăng cái vẻ nghịch ngợm của một cô gái vừa tuổi dậy th́.

Tiếng sáo véo von lên cao hun hút như chạm vào giải mây trắng, xô nhẹ bầu trời trong vắt rồi vẳng lại như lời tỉ tê kể lể một chuyến đi không đến đích. Tiếng sáo có lúc lại ríu rít như đàn chim bất chợt gập lại một mùa Xuân đă tưởng đánh mất, hót lên sự sống hồn nhiên mạnh mẽ tựa măng tre đục đá trồi lên. Tiếng sáo chợt thổn thức tựa như tiếng khóc tủi thân của đứa trẻ tứ cố vô thân bỗng dưng bắt gặp cảnh một mái nhà yên ấm. Tiếng sáo bỗng năo nùng tiếng than của kẻ bất đắc chí ngại ngần soi gương nh́n mái tóc ḿnh đang trắng xóa những đám lau già mỗi lúc một thưa đi. Tiếng sáo lúc sau đứt quăng, tức tưởi một nỗi buồn không an ủi được, rồi nghẹn ngào uất ức tựa như lời trăn trối của đám tử tù trước khi lên đoạn đầu đài. Tiếng sáo trầm sâu xuống kể lể nguồn cơn với ngọn gió vô t́nh đă từ hàng tỉ năm nay chuyên trở vào hư vô vô số những niềm bất hạnh. Tiếng sáo cuối cùng cuống quít, loanh quanh như con chồn gập bẫy, rồi hốt hoảng như đám nai tơ chạy tên đâm đầu vào bụi gai rạc.

Mây nằm xuống suối lắng nghe, cơ thể doăi ra như sắp tan biến trong không khí, để mặc nước mắt cứ ứa đầy mặt ḥa tan vào ḍng suối róc rách chảy. Mây ngạc nhiên không hiểu cớ sao ḿnh khóc. Nhưng Mây cứ để mặc nước mắt đầm đ́a chảy, mơ hồ cảm nhận như bắt gập lại một cái ǵ thật thân thương đă chót đánh mất từ lâu lắm, có thể là trước cả khi Mây ra đời, không nhớ được nhưng vẫn cứ lờ mờ lúc ẩn lúc hiện. Những giọt nước mắt ấy, tuy vẫn mặn sót như muối, nhưng làm sao lại khiến ḷng Mây cứ lơ lửng giốâng như giải mây trắng đang lênh đênh giữa trời xanh văn vắt.

Sau hôm ấy, trưa nào Mây cũng ra suối thẫn thờ đợi tiếng sáo đă vô t́nh im bặt. Ba tháng ṛng, Mây lẩm nhẩm cầu xin : « Ông Xanh trên cao kia ơi, cho Mây tiếng sáo kia nhé.. . ».

Lần nào Mây ra suối, Trần Trung cũng kín đáo đi theo. Từ dạo Trung bắt gập Mây trần truồng ưỡn ngực hứng con nước đổ từ ghềnh cuối Cheo Reo xuống vũng Cắt đầu nguồn sông Mê, Trung ngày đêm thẫn thờ, không thấy Mây là ăn ngủ không được. Mây bây giờ như người mất hồn, chẳng nói chẳng rằng, chiều chiều ra ngồi trên tảng đá, mắt lạc vào hun hút một khoảng không đầy bấp bênh. Trung hái một bó hoa rừng, lẳng lặng mang đến để cạnh chân Mây. Trung nhẹ nhàng : « Có chuyện ǵ thế hả Mây ? ». Mây cười buồn buồn, chỉ lắc đầu. Sáng hôm sau, Trung quay về chỗ tảng đá, thấy bó hoa vẫn ở đấy, chỉ héo đi trông tàn tạ thảm hại. Trung biết đă mất một cái ǵ thiêng liêng như chính cuộc sống của chính ḿnh. Nước mắt dàn dụa chảy như suối tràn mùa nước lên, Trung bưng mặt ngồi cho đến hết đêm, mong gặp hổ báo cho rồi đời.

Cho đến một buổi tiếng sáo lại réo rắt đưa về Cheo Reo. Mây mừng đến run bắn người, mắt lại ướt lại những giọt nước mắt xưa. Mây lần theo gió đi t́m, nín lặng nép vào bụi rạc, mê mẩn đến độ gai đâm nát tay chảy máu mà không biết. Nh́n xuống chân chỏm Vềnh, Mây thấy thanh niên ấy nâng cây đinh-bia ngang miệng, mắt nửa nhắm nửa mở, hồn như lạc vào chốn không núi rừng, không cây cỏ, không cả đất, cả trời. Quấn chiếc rông màu xanh thẫm, thân trần cuồn cuộn những bắp thịt đồng mun, tóc dài hoe đỏ phần phật bay trong gió nồm, chàng có thật hay chỉ là ảo ảnh một cuộc đi về từ cái cơi lờ mờ giữa trần thế ? Chàng ngưng thổi, tay vỗ nhẹ vào chiếc sáo bầu tṛn, hát :

Gió thổi bụi na

Khăn đào của ai phơi sàn gió thổi

Gió thổi khăn rơi

Khăn rơi khăn rơi xuống mặt đường

Bạn t́nh ơi

Người đẹp của ai

Hoa trắng nơi vườn dưa

Hoa đỏ nơi vườn mía

Áo em tô dấu son

Thân em hồng màu rượu

Miệng em chúm chím hoa sen

Tóc em hoa đào chải gió

Tay em níu chĩu cành mai ...

*

Mây ngày nào cũng ra đợi ở chỏm Vềnh cho đến khi Đèo Kha linh tính thấy ḿnh là một con thú đang bị ŕnh săn. Một hôm, Mây nấp sau thân cây sim già, mắt ngóng, ḷng thấm dần nỗi thất vọng và niềm đau xót lửng lơ, không thấy bóng dáng Kha đâu cả. Về chiều, chim bắt đầu nháo nhác bay, ánh tà dương lịm vào cây cỏ tô đậm cánh rừng ṿng theo niềm nhớ đă chớm vô vọng. Chợt vai Mây có bàn tay nào nắm lấy, bóp mạnh như gọng ḱm sắt, gh́ xuống. Mây thất thần quay lại, mái tóc búi xổ tung ra thành thác đổ trào xuống, mắt hoảng hốt căng tṛn như nai mắc bẫy. Bàn tay nới lỏng dần ra, Mây nhắm mắt, miệng hé ra, nhếch cười trong cơn mê, cảm thấy đôi môi ướt át áp vào má ḿnh, mặt ḿnh, rồi tai, rồi cổ, lần lần xuống vú, xuống bụng cho đến lúc nàng bật dậy, kéo vội chiếc rông quấn phần dưới cùng của thân thể không biết đă tụt ra từ lúc nào.

Sau này, Mây nũng nịu bảo với Đèo Kha rằng cuộc gập chiều ấy là giải dây ông Trời buộc, đố ai cởi cho ra. Những lần hẹn ḥ nhau , Mây và Kha t́m nơi hoang dă, tránh cho xa dân bản, nhưng điều tiếng đă có chút xôn xao. Mây thỏ thẻ : « ... biết đâu ta về ở với nhau rồi th́ Mê Hạ và Mê Thượng sẽ lại là một bản Mê như những ngày xửa ngày xưa ». Đèo Kha, mồ côi từ bé, về xin phép ông chú đă nuôi ḿnh thành người. Đèo công ở bản Mê Hạ chần chừ. Cái mối oan nghiệt giữa Mê Thượng và Mê Hạ vẫn sừng sững ở Cheo Reo, chặn nước không cho ḷng người thông được với nhau. Ông đoan chắc họ Hà ở Mê Thượng sẽ không bao giờ nhận kết nghĩa thông gia với Mê Hạ. Đèo Kha giục Mây hỏi ư bố mẹ. Mây cũng sợ, nói liều : « ...hay là Kha bắt em mang đi ». Kha lắc đầu bảo : « nếu làm thế th́ chắc chắn đinh Mê Thượng sẽ t́m đánh Mê Hạ » , máu sẽ chảy ra thay cho nước sông Mê đă cạn sạch trong cái ḷng sông ráo kiệt. Mây càng sợ, bóp bụng định tâm nói trước với mẹ. Nghe Mây nói xong, Nguyễn-thị chỉ thở dài lắc đầu. Đợi thêm một tháng, Mây cắn răng, mặt nhợt nhạt, ấp úng thưa với cha. Vừa nói được hai câu, Hà công đập ngay chiếc tách trà đang uống xuống đất, bảo :

- Nó người Táy, đâu phải người ḿnh ...

Thuận tay, ông tát Mây một cái trời giáng, tiếp :

- Mày là con tao th́ tao chọn rể¨.

Hà phủi tay chống nạng đứng dậy. Từ đó, ông cấm Mây xuống suối, ra lệnh cho Trần Trung dẫn tráng đinh đi kiểm soát nghiêm mật đập Cheo Reo. Trần Trung ḷng vẫn yêu Mây say đắm, sai người mai phục định giết Đèo Kha một lần, nhưng Kha thoát được. Về phía Mây, miệng ngậm tăm chẳng nói chẳng rằng, nàng không ăn không ngủ gần một tháng, thoi thóp nằm chờ chết. Nguyễn-thị qú xuống chân Hà công, xin :

- Nghiệp con nó thế, cấm th́ nó chết mất, sau lại báo oán vào ḿnh, xin ông nghĩ lại.

Hà công vào nh́n con gái, ḷng hận như chính ḿnh bị t́nh phụ, ứa nước mắt đi ra, bảo :

- Làm thế nào th́ làm, nhưng ta thách cưới một thớt voi, sáu trâu, sáu ḅ, vàng hai mươi lạng và hai trăm thước lụa Hà.

Được tin, Đèo Kha thừ người ra, bảo với Mây « ...chẳng phải chỉ bản Mê Hạ, cho cả hết Mường Rây dưới kia gọp lại cũng chưa chắc đă có đủ bằng ấy đâu ». Mây ôm lấy Đèo Kha, miệng cắn vào vai đến bật máu. Đèo Kha ứa nước mắt, lẳng lặng gỡ tay Mây rồi lủi thủi xuốâng dốc về Mê Hạ nói chuyện với chú. Ngay tối hôm ấy, Đèo công cho mời ông Chao, rồi bàn tính thế nào, cả hai người dẫn Đèo Kha lên gập ông Ph́a chủ quản khắp Mường. Sáu ngày sau, Đèo công xin đưa trước ba trâu, ba ḅ, và mười lạng vàng, cho Đèo Kha lên làm ¨ côn hươu ¨ để thử rể, và hẹn sang năm sau sẽ nộp đủ lễ cưới Mây về Mê Hạ.

Ngày Đèo Kha lên Mê Thượng là ngày Mây hoàn toàn b́nh phục. Mây ôm chân bố, hôn tay. Hà công lạnh lùng bảo :

- Đủ lễ, cưới ngay, rồi mày cút đi đâu th́ đi.

*

Đèo Kha làm đủ việc phục dịch trong nhà, đêm ngủ ở quản, dưới chân nhà sàn, gần chuồng gia súc. Những đêm mưa rỉ rả, mùi phân trâu, phân lợn lẫn vào mùi rơm rạ ẩm ướt bốc lên thối đến phát ọe. Khi đó, Đèo Kha đành ṃ ra chân sàn, quấn ḿnh trong chiếc chăn đơn, thu lu ngồi trong mắt chờ sáng. Đỉnh Giăng Màn, lúc ẩn lúc hiện, trở thành một người lỡ độ đường đến đánh bạn. Kha hỏi :« ... núi ơi ! Thế nào là t́nh yêu ? ». Một cánh chim đêm xào xạc đến trả lời : « ... là sự không bao giờ chọn vẹn ! ». Kha quát khẽ : « Ta đâu hỏi mi, ta hỏi núi... ». Nhưng đỉnh núi sừng sững cứ lặng im. « Có phải đó là sự cô đơn đôi lứa ? », Kha gặng hỏi. Đỉnh núi sừng sững vẫn lặng im.

« Hay đó chính là vết cào của định mệnh ? ».

Đỉnh núi vẫn lặng im. Run lên cầm cập, Kha biết vết cào đang ứa máu, kéo chăn trùm lên đầu, nước mắt trào ra, miệng lẩm bẩm : « ... Mây ơi, sao móng tay Mây dài thế ...».

Đến lúc hương nồng thoáng chút mùi hăng hăng ùa vào mũi, Kha mới kéo chăn, ngoái nh́n ra sau. Nhẹ như bước chân hoẵng, Mây đă ra đó tự bao giờ, hai bàn tay lùa vào mớ tóc Kha c̣n vương chút sương muối giá buốt. Mây đưa ngón tay để lên môi ra dấu. Kha nắm lấy tay Mây, ḷng bồi hồi, vết cào bỗng chốc lành lặn bằng phép lạ. Mở rộng chiếc chăn để Mây ngồi vào ḷng ḿnh, Kha không nói năng, hồn trầm lắng vào hơi ấm người yêu đang sưởi cả núi rừng Mê Thượng. Mềm nhũn trong ṿng tay Kha, Mây chợt thấy ḿnh bé bỏng, nhưng nỗi sợ hăi không biết thế nào cứ tan đi chứ không như lúc Mây luồn khỏi chăn rồi rón rén leo thang xuống, chỉ sợ đánh thức cha mẹ ḿnh nằm ở trong góc sàn. Mây cởi khuy áo Kha, luồn bàn tay vào mơn man lồng ngực căng nức phập phồng trái tim đang bốc lửa. Không gian thu hẹp đến độ chỉ c̣n có hai người, mơ hồ khói sương bốc lên từ mặt đất ẩm ướt trở thành lớp tường thành vây bủa bảo vệ cho chuyện tư riêng. Mắt Kha lóa sáng, mũi chàng chỉ thấy hương nồng thơm mùi con gái dẫu rằng chuồng gia súc vẫn bốc mùi phân, và không biết tự bao giờ tay chàng xoay Mây ngồi áp mặt vào mặt, vào ngực ḿnh. Mây ngây ngất bíu vào vai Kha, mặc để cái phần nhớt nhát của cơ thể mở ra đón nhận Kha, run rẩy, rồi hung bạo, như con lươn gặp cạn vùng vẫy trườn lách lên t́m sự sống.

Tiếng động dưới chân sàn kéo một người ra khỏi giấc ngủ chưa đủ say. Nhổm ḿnh dậy, Nguyễn-thị ngó quanh, tai lắng nghe tiếng rên rỉ vọng lên. Mắt nh́n về phía Mây vẫn ngủ, Nguyễn-thị biết là con gái không c̣n đó. Ngẫm nghĩ một lát, thị lại nhẹ nhàng đặt ḿnh xuống, nhưng Hà công vừa quay lưng lại, miệng lầu bầu, chắc lại sắp ngồi lên t́m chiếc điếu cầy. Nguyễn-thị chột dạ. Th́nh ĺnh, thị ôm bụng Hà công, kéo vật về phía ḿnh, động tác vừa nhanh, vừa quả quyết. Hà công ngạc nhiên nhưng chưa kịp hỏi th́ Nguyễn-thị đă đè xấp lên, tay giật giải rút, tay kia nắm ống quần kéo xuống. Nhếch mép trong bóng tối, Hà công hai tay nắm lấy xương chậu của vợ, thầm nhủ « ...chắc mụ nó hồi xuân », rồi lẳng lặng nhấc hạ bộ Nguyễn-thị đặt lên trên người, cười ư ử trong họïng. Mặt sàn quậy lên gặp một cơn địa chấn, gỗ nở kêu răng rắc, và tiếng cười ư ử lát sau thành tiếng gầm gừ, rồi tiếng Nguyễn-thị kêu « giời ơi là giời ...».

Mây ghé răng cắn chặt vào vai áo Đèo Kha, tai văng vẳng tiếng sáo đinh bia theo gió đưa về từ một miền xa lắc nào đó có tiếng gọi giời. Giặng Giăng Màn nhập nḥa trước mắt cứ nhô lên hụp xuống như lưng một con ngựa đứt cương đang lồng lên chở hết xương thịt Đèo Kha mang nhập vào cái thân thể bần bật nhựa sống của nàng. Đèo Kha bỗng ưỡn lên, miệng hự, rồi chân tay doăi ra, mắt dại đi. Mây cảm thấy ḿnh vứa hứng trọn ngọn nước sông Mê tràn đến đập vào Cheo Reo, bọt trắng vỡ tung tóe, và tiếng gọi giời làm bầu trời vẫn đục nước bỗng xà xuống ôm ấp che chở nhân gian. Nàng mở mắt. Lay Đèo Kha, Mây khẽ bảo : « Nh́n ḱa ». Lẫn trong những hạt mưa là bụi kim cương lóng lánh đang hàng hàng lớp lớp rơi xuống bám lên đầu cây ngọn cỏ. Từ đỉnh xuống đến chân núi, Giăng Màn sáng lung linh bảy màu, bỗng chuyển động ṿng quanh bản Mê Thượng như mọc cánh. Mở mắt, Đèo Kha ngơ ngác. Mây hỏi : « ... có thấy ǵ không ? ». Chẳng hiểu nh́n thế nào mà Đèo Kha se sẽ gật đầu, rồi lại nhắm mắt lại.

*

Cho đến hết mùa đông, Đèo Kha mới bắt được nhịp sống « côn hươu », từng bước hội nhập vào một xă hội c̣n lạ lẫm. Có chuyện ǵ Kha cũng chỉ hềnh hệch cười giả lả, nuốt mọi nhục nhă đớn đau vào bụng, lúc nào cũng sẵn sàng làm vừa ḷng mọi người trong khắp bản Mê Thượng. Trẻ con dậy Kha chọ chọe tiếng Kinh, cười ầm lên trêu chọc, mặc Kha cứ ngẩn người ra nh́n về phía Mây như cầu cứu. Chiều chiều, sau bữa cơm, Kha lại mang đinh-bia ra thổi. Tiếng sáo hay đến độ ít lâu sau cả bản đâm nghiện, vắng nó thế nào là cũng có người băn khoăn xáo xác đi t́m Kha. Một thời gian sau, hầu hết mọi người đều nhận Kha như người trong bản, trừ Hà công và dĩ nhiên là trừ Trần Trung, người đă phải ḷng Mây từ lúc nàng mới mười lăm. Trung nghe không chịu nổi tiếng sáo, lên xin Hà công cho phép ḿnh rời bản về xuôi. Hà công nh́n Trung đăm đăm rồi nói :

- Muốn có th́ phải cướp. Có cướp được, ta cho cướp đấy. Việc ǵ phải vội đi. Ḿnh mất người mất của chớ có phải kẻ cắp đâu.

Trung nghe hiểu, cám ơn Hà công.

Hai ngày sau, khi Đèo Kha đang thổi sáo, Trung lại gần, mắt nh́n tṛng trọc vào mặt, môi mím chặt, gân xanh nổi trên thái dương giật lên bần bật. Bất ngờ, Trung giằng cây đinh bia, quẳng xuống đất, miệng gầm gừ :

- Tao cấm mày thổi sáo !

Đèo Kha nh́n lên, lẳng lặng nhặt sáo, bỏ đi không nói lại một lời. Từ đó, tiếng sáo bằn bặt đến một tuần trăng. Bọn con Hằng, con Hường đến chơi với Mây, t́m Đèo Kha hỏi duyên cớ. Kha nh́n Mây, đáp :

- Sáo câm mất rồi !

- ???

Mây không nhịn được, bật miệng :

- Cứ thổi đi. Tiếng sáo sẽ động ḷng trời.

Con Hằng chêm thêm :

- ... và cảm hóa ḷng người.

Bọn trẻ con trong bản hùa vào :

- Anh Kha, thổi đi, tội t́nh ǵ chúng em chịu.

Thở dài, Kha nh́n quanh rồi nâng niu cây đinh bia, đặt lên môi, mắt hướng về phía núi rừng xa xăm. Tiếng sáo lại cất lên, nhưng có ǵ nghe như ngào nghẹn.

Tiếng quát giật giọng khiến mọi người thảng thốt nh́n lại, nhận ra Trần Trung vừa ở đâu xô ra. Không nh́n Mây, Trung rít lên :

- Ai cho mày thổi ?

Xông vào, Trung với tay giật nhưng Đèo Kha đă nhanh tay giấu cây đinh bia ra sau lưng, lùi một bước. Khi Trung rút con dao quắm đi rừng ra th́ mọi người đều chạy lại chen vào giữa. Trung hậm hực, cảm thấy cả bản đang bỏ rơi ḿnh, quát nghẹn ngào :

- Rồi tôi sẽ giết nó ! Để xem ...

Mây lẳng lặng đứng nh́n Trung, nh́n Kha, nước mắt chan ḥa nhỏ xuống mũi, xuống má. Nàng linh cảm rồi đây bất trắc c̣n nhiều, và bỗng nhiên nàng chạy đến qú dưới chân Trung, miệng van :

- Cho Mây xin, cho Mây xin ...

Không nh́n Mây, Trung quày quả bỏ đi. Tối hôm đó, Nguyễn-thị kể lại câu chuyện cho Hà công nghe, hỏi: «...nay phải làm sao ? ». Hà công lơ đăng :

- Chuyện trẻ con, không dính đến ḿnh. Mặc chúng ...

Một hôm, Đèo Kha một ḿnh đi lấy củi trong rừng ven chỏm Vềnh. Đang chặt, Kha thấy rờn rợn, vội cúi xuống th́ một mũi tên bay đến cắm ngay vào thân cây. Kha luồn ra sau cây, lặng lẽ trườn ḿnh như trăn, tay nắm đốc dao. Trần Trung bắn hụt, chồm lên cầm kích thận trọng bước tới. Vừa đúng tầm, Đèo Kha xông ra đâm một nhát. Dao đi lệch đường, toạc rách áo Trung. Trung ṿng người đâm ngược ngọn kích lại, gầm gừ, rồi quét ngang kích vào chân Kha. Kha ngă xuống nhưng lại lủi ra sau thân cây, thuận tay chặt một cành ngang dùng làm gậy. Hai người quần nhau không biết bao lâu, nhưng măi đến giờ cơm chiều vẫn không thấy ai về cả. Hà công cho tráng đinh đi t́m th́ thấy Kha bị đâm một kích vào đùi không đứng dậy được. Gần đó, Trung nằm sóng xoài, đầu dập nát, máu tươi c̣n loang đỏ trên đám cỏ xanh bị đạp nhầu.

Khi chôn Trung xong, Mây đặt một ṿng hoa lên mồ, nước mắt ứa ra, khấn : «... sống khôn, chết thiêng, hăy về nơi cực lạc, xin đừng v́ t́nh kia mà đeo đuổi ».

Tuy vết thương chưa lành hẳn, Đèo Kha lấy cớ giỗ ông xin về dưới Mê Hạ. Đèo công nghe Kha kể chuyệân xung đột với Trần Trung, thở dài rồi ôm cổ cháu miệng thầm th́. Kha chăm chú nghe, cứ lắc đầu quầy quậy. Ông nghiêm sắc mặt, tu một hơi rượu cần, thở ra rồi gằn giọng :

- Thế th́ mày đừng đi nữa ...

Đến lần thứ ba, Kha ôm lấy chân Đèo công, rơi nước mắt th́ thào thế nào mà mặt mũi Đèo công rạng rỡ hẳn lên. Ông vội vă t́m gập ngay ông Chao bản Mê Hạ, rồi cho người chạy lên báo cho ông Ph́a của Mường Rây. Hai ngày sau, ông gọi Đèo Kha ra, nhỏ nhẹ bảo :

- Thớt voi có rồi, bây giờ chỉ đợi người đi dưới Kinh mua lụa về là đủ.

Hôm sau, Đèo Kha lên đường về Mê Thượng.

*

Đêm tân hôn được sắp đặt vào đúng đêm trăng tṛn lần thứ bảy. Ngày trước đó, chính Đèo công đích thân mang đủ lễ vật lên Mê Thượng. Thớt voi thách cưới là một con voi trắng đă dậy thuần thục. Đèo công vỗ đầu nó cười bảo :

- Chủ mới đây, qú xuống.

Hà công chống nạng đu lên ḿnh voi, rồi vỗ hai cái vào lưng, con voi đứng dậy rống lên, ṿi vươn ra dài đến năm trượng. Hà nghếch mặt cười, oang oang nói :

- Đa tạ, voi này th́ thật là xứng !

Lễ tơ hồng được làm ngay ngày hôm đó. Nguyễn- thị ứa nước mắt bảo con gái :

- Thế là mẹ con ḿnh c̣n được ở với nhau thêm một ngày nữa.

Sáng hôm sau, người bản Mê Hạ ra về. Theo lệ Táy-khao, tối hôm tân hôn, mọi người phải uống thật say, rồi chú rể phải ¨ đánh cắp ¨ cô dâu mang về nhà chồng. Mây nghe vậy chỉ cười. Bọn con Hường, con Hằng, rúc rích, chỉ mạêt Mây bảo : « ... sướng nhé, chôn kim nay đà có chỉ, mà lại chỉ hồng, gớm ới là gớm, nhưng sướng ơi là sướng ! ». Trong bản, người ta vật trâu, vật lợn ra xẻ cho bữa tiệc ban tối. Những lu rượu cần bày lũ lượt trong sân nhà Hà công, bốc mùi ngây ngất nồng như khích động tiếng reo tiếng ḥ của bọn trẻ con nách cắp những bánh pháo hồng chỉ đợi dịp để đốt. Đèo Kha ngượng nghịu khều Mây đi về phía sau quản.

Ngồi riêng với Mây, Kha ghé vào tai nói nhỏ. Mây bỗng đơ người ra, mắt ngước lên hoảng hốt nh́n Kha. Tṛng mắt ngấn nước, Mây miệng mím chặt, lắc đầu. Kha lại nói. Mây vẫn mím miệng. Đèo Kha rút dao cắt vào đầu ngón tay. Mây hốt hoảng. Nhanh như chớp, Kha nắm tay Mây liếc nhẹ đầu dao, ngón tay Mây chảy máu. Đèo Kha áp tay ḿnh vào tay Mây rồi đưa cả hai ngón tay máu me vào miệng ḿnh. Mây khóc. Kha đưa hai ngón tay vào miệng Mây. Máu dây ra khóe miệng Mây, chẩy xuống hai vệt dài. Kha lại nói, mặt chan ḥa nước mắt.

Trăng lên ngang đầu đă tṛn vành vạch. Từ đỉnh Giăng Màn nh́n xuống, dăy Thiên Nhận xa xa được bao phủ trong màn khói sương, trắng tựa pha lê, lơ lửng nửa như muốn ch́m xuống nửa như muốn bay lên. Chim muông xào xạc bay vù qua rục rịch bữa ăn đêm. Côn trùng bắt đầu nỉ non, và tráng đinh bản Mê đă có kẻ say khướt. Trong gian nhà họ,ï Hà công xếp bằng tṛn ngồi giữa, bên phải là cây nạng gỗ mun, bên trái là Nguyễn-thị đương ẵm đứa con út tên là Lữ. Ngoài Lữ và Mây là gái đầu ḷng, Hà gia đă sinh hạ hai đứa trai giữa. Thằng lớn độ mười tuổi, nhâng nháo tay với cần uống rượu. Hà công lừ mắt, nó nhanh như cắt ngồi lùi ra đằng sau. Thằng bé hơn, chắc độ năm, sáu tuổi, ngồi cạnh mẹ, mắt đảo lên nh́n mọi người, mặt lạnh như tiền trong cái huyên náo của những chiếu rượu có đôi người say đă ngă gập đầu xuống mâm. Trước mặt gia đ́nh họ Hà, phía bên kia chiếu, là Đèo Kha và Mây. Mây lại vào xách ra hai lu, một lu Mây đặt trước mặt Hà công, một lu trước mặt Kha. Hà công nghĩ thầm : « Thách cưới đến thế tưởng chúng nó sức nào lo được ! Mà thôi, số nó vậy » rồi xua tay, cắm cần vào lu rượu. Kha vái tạ, và nâng cả lu lên, nói : « Kha này bây giờ là con rể của Mê Thượng, nếu bố vợ tôi cho phép và cả làng ưng ḷng th́ xin ba tháng sau chúng tôi lại về đây sống với bản ... ». Nói xong, Kha tu rượu ừng ực, và ngă lăn ra chiếu. Trong số tráng đinh, một người cười ầm lên và bảo : « Say thế này th́ đánh cắp thế nào được cô dâu » và giúp Mây d́u Kha ra chái sau nhà họ. Người ta lại ḥ nhau bưng thêm rượu và thịt trâu thui.

Có dăm ba người đứng dậy lảo đảo múa rồi hát theo điệu chầu văn bài «Giá ông Hoàng Mười về Hồng Lĩnh ».

*

Khi người tráng đinh vừa ra, Đèo Kha nhỏm ngay dậy. Những lu rượu Kha uống chỉ toàn là nước lă. Kha nắm tay Mây, hôn lấy hôn để vào mặt, rồi kéo Mây mở cửa trái và lẩn vào bóng những cây rạc cạnh gian nhà họ, chạy về phía đ́nh bản. Khi Mây thấy tấm bảng ¨ Cấm Nhập ¨, nàng khựng người lại, nhưng Đèo Kha kéo nàng vào ngách Hang Sau. Hang tối mù mịt. Đèo Kha đốt cây đuốc đă sắp sẵn mang theo. Dơi trong hang vừa bay ra toán loạn vừa kêu eng éc như lợn con. Kha cắm đuốc vào vách đá rồi hỏi Mây :

- Mây ơi, sách ở chỗ nào?

Bấy giờ Mây ngồi phệt xuống, thừ mặt ra, nước mắt chan ḥa :

- Thế này th́ em mất bố, mất mẹ, mất cả ba đứa em rồi !

Đèo Kha hốt hoảng :

- Vợ anh ơi, có sách th́ ¨ kíu ¨ được nước, khơi ¨ ¨ đỡ được cho dân mường dân bản, làm phúc làm đức cho con cháu ḿnh sau này. Xong việc, vợ chồng ḿnh sẽ mang mười thớt voi, một trăm lạng vàng, một ngh́n lạng bạc đến xin với bố mẹ Mây để tha tội ... Rồi Mây xem, tội sẽ được tha, Mây sẽ đẻ cho anh mười đứa con trai, mười đứa con gái... Anh lạy ḿnh, ḿnh ơi .. gấp đi, kẻo trễ, không đợi được nữa đâu!

Mây nhớ lại thuở trước khi ba đứa em ra đời, Mây được chiều v́ là con một, Hà công đi đâu cũng cho Mây theo. Một hôm Hà công dặn Mây chơi ở ngoài rồi vào ngách Hang Sau. Mây không nghe, ṃ theo bố. Khi Hà công thấy Mây, ông đang mở mật kíp ra đọc. Phát giận, ông tóm lấy Mây, dang tay đánh vào đít, vừa gầm gừ vừa cẩn thận nhét quyển sách vào lại một hốc đá nằm khoảng ngang ngực phía bên phải bệ thờ thần Hang.

Mây ngước mắt về phía cái hốc đá, ngần ngừ quay sang nh́n Kha. Mặt Kha căng cứng ra trong niềm hoang mang, mồm tiếâp tục giục, mắt nh́n Mây cầu khẩn van lơn. Nàng đứng dậy, đi ba bước, đưa tay thờ thẫn chỉ. Đèo Kha chồm lên, bới cục đá chặn hốc, tḥ tay vào, rồi rú lên, lôi ra cái hộp ngà. Mây nh́n Đèo Kha mặt mũi méo xệch đi v́ đau đớn và sợ hăi. Mặc bàn tay chảy máu như bị dao đâm, Kha tay kia mở hộp, nâng quyển sách lên ngang trán, nói : « Đây, đây...» rồi hộc lên kêu trời « Ới Then ơi...Then !». Lưỡi Kha bỗng cứng lại, người ngây đờ ra, chỉ c̣n cặp mắt vẫn căng lên nh́n Mây, dăi pḥi ra miệng, thều thào : «... Mây...Mây...». Mây hoảng hốt nh́n bàn tay chảy máu của Kha đang sưng vù lên và đổi sang màu đen sậm. Vực đầu Kha dậy, Mây cố t́m sự sống trong cặp mắt bắt đầu đang lạc đi, rồi trơ ra như mảnh thủy tinh vô hồn đục sệt của một cái chai vừa vỡ. Sự sống mỏng mảnh đó cứ lạnh dần trong ṿng tay Mây cố tŕ kéo vô vọng. Tiếng vó ngựa dồn dập từ xa mỗi lúc một gần. Bản năng đẩy Mây bật dậy. Nàng vội buông xác Kha xuống, cầm lấy quyển sách kẹp chặt vào lưng váy chẽn, rồi dụi đuốc. Tiếng nạng gỗ chống lên nền đá đ́nh bản nghe th́nh thịch. Mây lẻn thoắt ra ngách Hang Sau, chúi người vào một bụi cây, vừa lúc Hà công đến.

Nghe tiếng dơi kêu, Hà công đang ngà ngà rượu nhưng c̣n đủ tỉnh táo, đứng bật dậy, lẳng lặng ra trái sau. Không thấy Mây và Đèo Kha, ông lật đật về sàn, sách theo cây mác rồi chống người vào nạng đu lên lưng con ngựa vẫn buộc ở lối vào. Linh tính báo điều chẳng lành, Hà công phóng thẳng đến đ́nh bản, chống nạng đi ra Hang Sau. Ông thở hổn hển, bật hồng đánh đuốc lên, rồi kẹp vào tay nạng. Tay kia, Hà công lăm lăm giơ cây mác, bước từng bước vào ngách hang. Ông quát : « Chúng bay đâu ? con Mây đâu ...». Tiếng quát vọng ngược trở lại, ầm ầm đánh vách núi rồi văng ra xa tít tận góc rừng. Hà công vào đến trong hang th́ chỉ thấy xác Đèo Kha. Ông nh́n bàn tay Đèo Kha nhiễm độc đen thùi, cười khẩy, lấy vải cuốn tay ḿnh rồi cẩn thận tḥ vào hộc đá. Tiếng người lao xao nghe đâu đă gần, Hà công mím miệng, dắt mác vào người rồi lôi xác Đèo Kha ra ngoài. Đến cửa ngách, Hà công gầm lên, tay nạng dơ cao quật xuống đầu Đèo Kha, rồi ngă bệt xuống đất. Tiếng xương vỡ rào rạo. Máu bắn lên miệng Hà công nhuộm đỏ những sợi râu chớm bạc. Khi bọn tráng đinh vây quanh, Hà công vừa thở vừa nói : « Nó định phạm luật Cấm Nhập vào hang, ta đánh chết nó rồi ».

Nguyễn-thị tất tả đến, hỏi dồn :

- Con Mây nó đâu ?

Hà thét lên :

- Bay đi bắt cho ta đứa con bất hiếu, bắt sống cũng được mà chết cũng được !

*

Đợi cho mọi người đi hết, Mây chui ra khỏi bụi. Không dám nh́n xác Đèo Kha đầu bị đánh vỡ toác ra, óc trắng lều bều như nổi lân tinh dưới ánh trăng, Mây vái ba vái rồi đi nhanh xuống núi. Nàng tính là bọn tráng đinh đuổi theo đường về Mê Hạ nên quyết định đi ngược về núi Bạch Tượng. Đầu nàng lúc đó tỉnh táo đến độ nỗi căm hờn lịm hẳn xuống. Sống, phải sống đă. Sống để trả hận cho Đèo Kha đă chịu chết hai lần, lần chết sau thân thể không vẹn toàn, đầu óc nát nhè dưới cây nạng mun đầu bịt sắt. Bây giờ về đâu? Về nơi nào an toàn? Làm sao trả được mối hận của Đèo Kha? Mây nhớ lại đă gặp Đặng-thị bẩy năm trước, khi cùng bố mẹ đến Nguyệt Ao để khẩn cầu một lời của Nguyễn công, kẻ người đời gọi là Cuồng ẩn. Bà lúc nào cũng dịu dàng từ tốn, hẳn có một sức mạnh tiềm tàng vững chăi tựa băi bờ để thả neo thuyền. Sức mạnh ấy lại bất ngờ rơ nét hiện ra hệt như lúc Mây linh cảm khi nh́n trời rồi đoán ra mưa ra gió. Dịp cưới Mây, tráng đinh có mang thiệp mời đến Nguyễn Thiếp và về báo là gia đ́nh Nguyễn đă lên trại Bùi Phong. Văng vẳng bên tai, Mây nghe như có tiếng Đèo Kha giục, cứ đi đi, ở phía trước mặt kia ḱa. Mây vật vờ nhắm đỉnh Thiên Nhận hướng tới. Sau hai ngày trèo núi, Mây kiệt sức ngất đi lúc nửa đêm. Sáng nay, trước mặt vợ chồng Thiếp, Mây gom hết nghị lực để kể cho hết mọi sự t́nh.

Thiếp thở dài nh́n Đặng thị, rồi quay sang Mây, mắt dọ hỏi. Mây đập đầu xuống đất :

- Nếu đập Cheo Reo phá được, nước lại đầy sông Mê, th́ chắc linh hồn Đèo Kha cũng được mát mẻ.

Thiếp trầm ngâm :

- Tại sao Mê Thượng làm đập chặn nước ?

Mây không biết, chỉ vào quyển mật kíp :

- Tất cả mọi chuyện trước sau đều nằm trong này...

Thiếp đưa sách cho Mây, nhỏ nhẹ :

- Cháu mở ra mà xem.

Mây mím môi, mở sách, mắt ánh lên một niềm ngạo mạn khó định tên. Mây lật một trang, rồi hai trang, ba trang ... Mây luống cuống lật nhanh, lật nhanh nữa, mặt cứ tái dần đi, trở thành xanh mướt. Quyển sách chỉ toàn là những tờ giấy trắng có vân ngà, từ tờ đầu đến tờ cuối trốâng trơn không một chữ. Mây ngật người ra khóc, kêu lên :

- Trời cao đất dầy ơi ! Tôi mất chồng tôi v́ một thếp giấy trắng ... Đèo Kha ơi, làm sao kíu nước bây giờ ?

Mây lại ngất đi. Khi tỉnh dậy, Mây chạy ra ngoài thềm đập đầu vào tảng đá núi, mong thoát kiếp nhân sinh. Đặng-thị kéo Mây lại được, nhưng những lời khuyên bảo cứ như nước trôi sông. Động ḷng thương đứa con gái vừa toan vất bỏ cái quí nhất là sự sống, Thiếp chau mày bực bội mường tượng ra những cuộc chém giết v́ kíu nước. Thiếp băn khoăn không hiểu v́ lẽ ǵ quan trọng đến độ đă khiến những kẻ xây đập Cheo Reo chặn nước từ hai trăm năm nay. Có thực chăng cái mạch rồng thiên hạ đồn đăi ở đất Hoan Châu ? Và nếu thực, liệu nó có liên hệ ǵ chăng với cuốn mật kíp mang h́nh dạng một thếp giấy trắng tinh không có đến một vết chữ ? Bao nhiêu câu hỏi ùa đến làm đầu Thiếp nóng bừng lên. Không cưỡng lại được một sự thèm muốn réo sôi trong ḷng thôi thúc, Thiếp bật miệng:

- Thêm mọât ngày nữa, may ra ta có thể hiểu được những tờ giấy trắng trong mật kíp.

Suốt hai ngày sau, Thiếp lẳng lặng cầm quyển sách chăm chú nh́n từng trang, ngửi từng trang. Sáng ngày thứ ba, nắm tay Mây, Thiếp thở ra rồi nói :

- Cháu tạo nghiệp cho ta đây. Thôi, tờ cuối cùng của mật kíp có mùi dầu là. Cứ ngâm vào nước, ắt biết.

Mây xé tờ giấy rồi y lời, thấy hiện ra đồ h́nh nh́n đúng là những cục đá tảng xếp lại, dựa lên nhau, và một dăy chữ li ti « Thượng nhị hữu tam hạ tả tứ lục ». Thiếp chăm chú nh́n, lẩm nhẩm đếm rồi chỉ vào một nơi, nói chậm răi :

- Chỗ này là chỗ phá được.

Mây qú xuống chân Thiếp lậy tạ. Khi ngửng lên nh́n, ánh lửa trong mắt Mây nóng đến độ có thể thiêu cháy được cánh rừng trước mặt chỏm Bùi Phong.

*

Ra bờ ao ngồi cạnh vợ, Thiếp vuốt tóc Thúc Khải đang chập chờn ngủ trong ḷng Đặng-thị, mắt hướng về phía đông nơi chập chùng rặng Thiên Nhận. Xa tít tắp, biển nh́n chỉ c̣n là một giải xanh lục chạy ṿng theo chân trời. Ao đào năm ngoái, nay hoa súng đă nở, và những con chắm thả tháng trước thỉnh thoảng nhô lên đớp muỗi, làm vẩn lên những ṿng tṛn lan quanh ra từ những chỗ nước sủi tăm.

Mới chừng năm nay, cuộc sống của gia đ́nh Thiếp đă thay đổi khá nhiều. Từ ngày thầy ḿnh là Nguyễn Nghiễm được phong Tuyên phủ sứ Nghệ An, Thiếp cố tránh mặt, chỉ lên Tiên Điền hầu vào dịp Tết. Tết vừa rồi, Nghiễm lại nhắc chuyện bổng lộc : « Đỉnh đương c̣n dành đó. Cứ một ḿnh một ư không chịu nghe ai sao ? ». Khi Thiếp thưa : «Ấy v́ đối với hành thạch, tôi vốn không có bụng mà thôi » th́ thầy nổi giận lôi đ́nh, lời lẽ đến độ tính cắt t́nh nghĩa sư môn : «...anh sinh ra, được học chữ thánh hiền, có công thầy công cha, sao cứ khăng khăng một hai là không có bụng với hai chữ công danh. Nhưng không công không danh cho khỏi lấm tay th́ lấy ǵ mà giúp đời trong cái buổi nước đục này. Anh chắc c̣n nhớ câu Khuất Nguyên mượn ông chèo đ̣ trên con sông Thương nói :

Thương lang chi thủy thanh hề. Khả dĩ trạc ngă anh.

Thương lang chi thủy trọc hề. Khả dĩ trạc ngă túc.

Nước đục ư , cứ dùng nó để rửa chân, rón rén sợ bẩn mà trốn tránh th́ có khác ǵ như kẻ khiếp đảm cầu an. Anh không nghe thầy lần này là anh phụ thầy...Vậy th́ từ nay chẳng có c̣n ǵ để mà cứ thầy tṛ như trước nữa ». Thiếp cắn răng: «...xin thầy thu xếp cho tôi được đem đạo nghĩa Tŕnh Chu ra dậy cho đám trẻ vậây ».

Lúc ấy, đất Nghệ An có Nguyễn Diên và Lê Duy Mật làm loạn, phất cờ tôn phù vua Lê đă bị nhà chúa lấn áp hơn hai trăm năm. Nghiễm được cử đến xứ Nghệ chủ yếu để tróc nă loạn quân. Trước khi Nguyễn nhậm chức huấn đạo, Hoàng tôn Lê Duy Mật từ nơi đồn binh là Ngọc Lâu đến gặp, ư mong Thiếp hợp tác v́ lẽ Trung Quân. Thiếp cúi đầu thở dài. Mật không nỡ ép, biết như vậy là dồn Thiếp vào cái thế phải phản thầy, quay qua hỏi chuyện thành bại. Thiếp cũng chỉ lắc đầu, không nói. Mật giọng luyến tiếc : «Trai thời loạn, sao lại xử mà không xuất ? ». Thiếp lại lắc đầu, chỉ tay vào đống sách Tính lư, Ngũ kinh, Tứ truyện, Chu lễ, Nghi lễ cận tư lục. Mật biết chí Thiếp đă quyết, cười nói đùa : « Sách nào cho kẻ chẳng được an nhàn này là sách phải đọc ? ». Thiếp nghiêm trang trả lời : « Sách Chu tử toàn tập ».

Ném một ḥn đất xuống ao, Thiếp lặng lẽ nh́n những gợn nước lan rộng ra từng ṿng để rồi tan biến vào cái bằng phẳng của mặt ao lặng lờ dưới nắng. Thiếp lẩm nhẩm như nói cho ḿnh nghe « nếu lẽ là vô thường th́ sự thường tại cũng phải có. Biến là biến bởi có sự bất biến. Đạo khả đạo, phi thường đạo. Gốc ở bất biến mà biến, nhưng biến lại đồng thời bất biến vậy...».

Câu nói chưa xong, một tiếng nổ long trời lở đất vang lên từ phía rặng Giăng Màn. Thúc Khải khóc thét lên. Từ nhà trong, hai đứa bé chạy ùa ra, miệng mếu máo, mặt mũi tái mét ngơ ngác nh́n hết cha đến mẹ . Tiếng nổ từng đợt ầm ầm vọng qua vách núi Thiên Nhận chạy dọc suốt nam chí bắc. Chim kêu nháo nhác hàng đàn từ nóc rừng rạc bay lên đen nghịt cả trời. Tiếng hổ gầm, tiếng voi thét, tiếng khỉ vượn chí chóe, ḥa vào tiếng lạo xạo như đá vụn rào rào rơi xuống làm không gian nứt ra những vực sâu tưởng chừng vô đáy.

Trời bỗng tối sầm lại, và từ phía biển những tia chớp xanh lè lóe lên xé dọc không gian thành muôn mảnh. Rồi mưa, bắt đầu nhẹ hột, sau cứ dần dần nặng hột cho đêán lúc tưởng cứ như là trời đổ ch́ xuốâng thế gian. Qua vài khắc, những hạt nước mưa hóa đá. Trời biến thành mầu sữa pha lê. Những cục đá to bằng đầu ngón tay cái rơi xuống nh́n hệt như những sợi dây thừng trắng căng giữa trời với đất, đẩy nhau ra rồi lại kéo nhau vào như một sự trói buộc không cưỡng lại được. Hôm ấy là ngày hai mươi ba cuối tuần trăng thứ tám.

Phải mất đến ba ngày, Thiếp và Đặng-thị mới lợp lại được mái gianh đă bị trận mưa đá làm hư hại. Sau bữa cơm trưa, Thiếp bị máy mắt liên hồi. Bứt cuống lá cây thị trồng ở góc vườn phía trái gần bờ ao, Thiếp nh́n một chập rồi bảo vợ :

- ... Quẻ Hỏa Sơn Lữ. Cấn hạ ly thượng. Trên ly là hỏa, dưới cấn là sơn. Núi th́ định nhưng lửa chưa biết đến chốn nào, nên gọi là Lữ.

Đặng-thị bồn chồn :

- Thế th́ lành hay dữ ?

Thiếp ngẫm nghĩ :

- Chưa thể biết được ! Nhưng nội nhật nay mai là có khách đến viếng. Ḿnh làm sao có được rượu, được thịt th́ hay !

Nói rồi, Nguyễn vào nhà đốt hương mở sách Chu dịch cẩn trọng đặt lên thư án.

*

Khoảng đầu giờ Thân, lúc mặt trời xế về Tây, tiếng xe thồ rầm rập dưới núi. Một lúc sau, Hà công tay chống nạng, tay cầm cương con ngựa ngang lưng có vắt một bọc vải điều, lên trại Bùi Phong. Theo sau là Nguyễn-thị ôm đứa con nhỏ, hai đứa con trai lớn và một tráng đinh cắp đao. Thiếp mở rộng cửa, vái một vái, rồi nói :

- Đa tạ Hà công quá bộ. Tôi đoán trước, đă sắp sẵn rượu thịt đây...

Hà ngạc nhiên, trợn mắt nh́n hai mâm đồng đầy những đĩa thịt gà, thịt lợn đă dọn ra để giữa chiếc chiếu điều trải trên phản gỗ. Không vái lại, Hà sẵng giọng :

- Chắc thầy cũng biết tôi v́ sao đến đây rồi !

Trước lối xưng hô thay đổi của Hà, Thiếp chỉ cười :

- Bảo rằng biết, cũng đúng. Bảo rằng không, cũng chẳng sai. Hôm nay, tôi chỉ nói thêm một điều cho trọn vẹn câu trả lời ngài đă hỏi dăm bẩy năm về trước.

Hà công vội vă :

- Điều ǵ ?

Thiếp không trả lời, nghiêng ḿnh chào Nguyễn-thị rồi đưa tay mời vào nhà, giữ thần thái ung dung tự tại. Hà ngồi lên chiếu, chưa kịp nói ǵ, Thiếp đă vừa dâng ly rượu vừa điềm đạm nói :

- Chủ mời, khách chớ từ. Xin ngài cạn chén.

Câu nói cố ư nhắc Hà tư thế của Thiếp, làm Hà chau mày nhưng vẫn đưa tay ra đỡ lấy chén rượu rồi uống ừng ực. Thiếp rót thêm chén nữa, rồi lại thêm một chén, và ngầm hiểu rằng dẫu chẳng thuần phục được người đă giết con hổ cái hóa tinh ở núi Giăng Màn năm nọ, cái họa manh động của một tay vơ dơng chắc có lẽ đă giảm được ít phần đe dọa.

Uống đến chén rượu thứ năm, nước mắt Hà công đục ngầu ứa ra, chảy dài xuống hai má như nước vỡ đê. Ngay sau ngày cưới Mây, đinh làng Mê Hạ xô lên cướp được xác Đèo Kha, rồi bị đinh Mê Thượng đánh bật lùi ra khỏi đập Cheo Reo. Để giữ bản, việc tầm nă Mây phải hoăn lại. Lần này, Mê Hạ đă liên kết được với Mường Rây bên cạnh nên số đinh trực chiến đông gấp ba, khí giới sẵn, gạo lương đầy đủ. Ít lâu sau, chúng kháo rằng đă bắt được mật kíp của Mê Thượng. Tin đưa ra, tráng đinh trên Mê Thượng hoảng lên, cả bản đ̣i Hà công tra mật kíp t́m cách chống giặc. Hà lúng túng chưa biết làm thế nào th́ đêm hôm ấy mơ thấy Trần Trung mặt mũi máu me đến vái lạy :

- Hà công đập vỡ đầu nó, trả cái oán nó đập vỡ đầu tôi. Nay đến lượt tôi báo đền. Ngày mai ra quân cứ đánh bằng hỏa hổ, dầu th́ đổ thêm lưu hoàng vào!

Sáng ra, nửa tin nửa ngờ, Hà công nói với bản đinh là mật kíp truyền cho đổ lưu hoàng vào dầu hỏa hổ, và chiều ra quân đánh xong rồi rút trong đúng hai canh. Quả nhiên, hỏa hổ trở thành vô cùng dũng mănh, bất ngờ làm đinh làng Mê Hạ và quân Mường Rây hoảng sợ, tháo chạy lung tung. Nhưng v́ hẹn chỉ đánh hai canh, đinh Mê Thượng lại phải rút về Cheo Reo, không đủ th́ giờ thọc sâu vào bản dinh của địch. Hà công tức tối trong bụng nhưng ngậm tăm âm thầm trách ḿnh và nguyền rủa thếp giấy trắng truyền đời. Địch lại hợp quân tiếp tục tấn công, xua voi tiến tới và dùng những chiếc mộc quấn lá dầm nước bùn để chống hỏa hổ. Hà công lùi, quyết định táo bạo là tản binh ra để trống Cheo Reo, rồi ṿng mặt sau theo hai đường phản công vào lưng địch. Không thấy phản ứng, đinh Mê Hạ vào Cheo Reo, đặt bộc lôi, rồi cho nổ.

Đập vỡ đúng lúc trời tối sầm lại. Nghe tiếng nổ, Hà công hiểu ra, ngửa mặt lên trời gào to rồi khạc ra một búng máu bầm. Vừa khi đó, cơn mưa đá đổ xuống. Hà ngẫm nghĩ một lúc rồi vẫn ra lệnh tập kích vào phía sau địch, đồng thời đích thân dẫn năm mươi tráng đinh gốc gác họ Hà theo ḍng nước vừa t́m lại được ḷng sông Mê đang ứa lên ào ào chảy xuôi về Mê Hạ. Hệt như những kẻ tử tù vừa phá ngục, nước quay cuồng nhẩy múa, thênh thang vỗ vào bờ đá làm bắn tung bọt trắng xóa hai bên bờ. Đến một ngọn đồi trọc, Hà lấy thước đo ra, vừa đo vừa tính toán, rồi cau mày chỉ vào một vuông đất nằm cạnh cây đề cổ thụ, nói gọn :

- Đào lên, đây là mả tổ chúng mày !

Đêm hôm đó, mang đống hài cốt mới đào trở về đến bản, Hà họp Bản hội, tự tát vào mặt ḿnh đến sưng húp lên như tai voi, rồi xuống chiếu mời bản lập Tộc thứ lên. Ngay sáng hôm sau, Hà mang gia đ́nh và con cháu chính ngành ḿnh xuống núi Giăng Màn, đi về phía Lạp Đính. Được hơn mười dặm đường, cả đoàn đang đi bỗng nhiên khựng lại v́ tiếng sáo đinh-bia ở đâu văng vẳng bay tới. Hà nghiến răng :

- Hỡi Đèo Kha, Cheo Reo đă vỡ là mày toại chí rồi ... Ra đây đi ! Ta cho mày chết thêm lần nữa !

Tiếng sáo ngưng lại. Rừng sâu lại chỉ c̣n tiếng gió thổi qua những tàu lá rạc đâm nghiêng như mũi dáo, tiếng ve sầu hờn giận gió nồm bỏng lửa. Một tiếng cười lanh lảnh làm kẻ gan dạ nhất cũng chột dạ. Nh́n lên, ngang chạc ba một cành cây, Mây ngồi vắt vẻo, cười ngặt nghẽo rồi hát :

Gió giận cành đào

gió bẻ cành mai

Gió ơi gió

gió chẳng v́ ai

Chỉ v́ tiếng đinh-bia mà cứ một hai đọa đầy

*

Hà công tợp thêm một ngụm rượu rồi tiếp :

- Thế là hai trăm năm đi toi ! Hai trăm năm giữ đập Cheo Reo, chặn nước để đất bờ sông Mê khô cằn đi, khô đến độ lửa cuối cùng phải bốc lên. Đủ lửa th́ Rồng mọc cánh bay cao, họ Hồ phục nghiệp để rửa cái nhục phải đổi họ, đổi tên ...

Hà quay phắt lại nh́n hai đứa trai bảo :

- Chúng mày họ Hồ, cách đây ba trăm năm mươi năm ông tổ chúng mày đă từng dựng nghiệp đế, nhưng than ôi ! than ôi ...

Rồi Hà nức nở gào lên :

- ... chỉ được đúng bảy năm.

Hà im bặt một lúc, bỗng cười khềnh khệch, quát :

- Bảy năm, ừ thế mà đă đánh đến Đồ Bàn, mở rộng giang sơn này ra tận hai vùng Nam-Ngăi. Ông tổ chúng mày gầy dựng lại cái thời mạt vận của họ Trần, nào là làm tiền giấy, nào lại sửa lại phép đo đạc, nào là phát ruộng cho người cầy. Đấy thế mà đám hủ nho nó gập đầu xuống đất, chỉ thấy kỷ cương ở dăm câu nói suông kiểu quân, sư, phụ. Bọn giun dế chúng nó đứa th́ tránh, đứa th́ trốn, đứa th́ xúi bẩy dân ngu đến chỗ thấy quân Minh vào xâm lăng mà chỉ trơ mắt ra nh́n.

Hà quay sang Thiếp gằn giọng hỏi :

- Nếu thầy sống cách đây ba trăm năm mươi năm, thầy sẽ xử sự thế nào ?

Với chiếc xe điếu, Thiếp châm thuốc rít, nước trong điếu reo lên như cười. Nhắp ngụm nước chè, Thiếp suy nghĩ một chặp rồi thủng thẳng :

- Danh phải chính, ngôn tất thuận. Trị dân không dùng thuật. Lập quốc phải lập từ ḷng người. Xưa, Hồ tiên đế vừa thoán ngôi là xuống ngay, lập Hồ Hán Thương lên. Đấy là v́ biết danh ḿnh chưa chính. V́ danh chưa chính nên mới xua quân vào đánh Chiêm, lập công mở mang giang sơn, rắp tâm v́ cái công đó mà định danh cho họ Hồ ở đời sau. Nhưng có chiến tranh th́ có kẻ cửa nhà tan nát, có người trận mạc thương vong. Như vậy, làm sao mà lấy được ḷng người buổi đó ? Ḷng người tan tác, ngắm sau chỉ thấy đánh Chiêm là gây ra xương rơi máu đổ , nh́n trước th́ quân Minh ùa vào, cũng sẽ lại máu đổ xương rơi. Đổ vỡ, trước sau toàn là đổ vỡ ! Đổ vỡ đó cứu bằng ǵ ? Bằng ḷng người. Muốn có ḷng người, lại chưa đặng chính danh th́ làm sao mà có được.

Hà trề môi ra, khạc đờm xuống đất, trương mắt nh́n Thiếp trừng trừng, rồi gầm lên:

- Kẻ thất phu này bây giờ mang hài cốt tiên di mà không biết đi về đâu đây ? Tội này với tổ tiên chỉ có cái chết mới đền bù được !

Vừa dứt lời, Hà vớ lấy cây nạng gỗ mun rồi cứ thẳng tay giáng xuống đất cho đến độ bàn tay cầm nạng toạc máu ra. Một lúc, Hà nguôi đi, ngồi thất thần hổn hển thở. Nguyễn-thị lúc đó qú xuống chân Thiếp thưa :

- Ân công, dẫu tôi là đàn bà, lời ngài dạy tôi cũng hiểu được năm bẩy phần. Tôi người họ Nguyễn-Hữu ở Hải Dương, Cầu là đường huynh, phiêu dạt đến đây rồi kết nghĩa phu thê với Hà công. Nay lại thêm một phen phiêu dạt, xin ân công v́ ba đứa trẻ long đong mà chỉ cho đường đi lối bước.

Đặng-thị bỗng chao người đi chực ngă, tay nắm vào vai Nguyễn-thị, mắt hoa lên, sự vật bỗng nhiên như hư như thật. Một sức mạnh vô h́nh nâng Đặng-thị dậy, khiến cho quay về phía Thiếp. Đặng-thị bất ngờ bật miệng :

- Xin thầy nó nghĩ cho, họ Nguyễn-Hữu là ḍng hào kiệt, dẫu ǵ cũng chỉ v́ nghĩa cả, đứng lên tôn phù nhà vua, lại lấy của phi nghĩa chia cho dân nghèo hai vùng Ninh, Hải. Vả lại, chuyện sông Mê không phải là ḿnh không can dự.

Nói xong câu cuối, Đặng thị chột dạ khôngï hiểu tại sao ḿnh hớ hênh đến vậy. Vô lư hơn nữa, trước cái nh́n dọ hỏi của Hà công, chẳng hiểu ma đưa lối quỉ dẫn đường thế nào, Đặng-thị thất thần đi như đi trong một cơn mộng du vào lấy quyển sách gáy da hai tay đưa lại cho Nguyễn-thị. Hà công chồm lên giằng lấy mật kíp, miệng gào :

- À, th́ ra thế ... Nó có đến Bùi Phong này.

Hà xúc động, mặt tái mét, miệng kḥ khè thở tựa bị bóp tắc họng, mắt nhắm nghiền, đầu ngật ra sau như chỉ chực ngất đi. Quyển sách gáy da văng bắn xuống đất, nằm trơ trẽn như một bản án. Thằng bé lớn gọi :

- Cha, cha ơi ...

Thằng nhỏ hơn quắc mắt trừng lên nh́n Thiếp. C̣n thằng Lữ, vừa thức giấc, cất tiếng khóc oe óe.

Cúi mặt, thở dài rồi đứng dậy bước ra ngoài, Thiếp nh́n về phương Nam. Khi quay vào, Thiếp đi thẳng đến ngồi trước thư án, mở sách, chậm răi :

- Ngày hôm trước, tôi ngắt lá, lấy được quẻ Hỏa Sơn Lữ. Sau quẻ Phong, là Lữ. Phong là thịnh lớn, mà lớn đă cùng cực ắt đến nỗi mất chốn ở mà phải đi. Lữ, nghĩa là đă đến lúc đi làm khách. Cảnh đời có thường có biến. Việc người có cùng có thông. Đến thánh hiền, như đức Khổng tuyệt lương ở Trần Thái, cũng có lúc đă kỵ Lữ. Nhưng đại nghĩa ở giữa tâm, không biến mà chỉ thường. Soán viết, Lữ, tiểu hanh, nhu đắc trung hồ ngoại, nhi thuận, hồ cương, chi nhi lệ hồ minh, thị dĩ tiểu hanh, Lữ trinh, cát dă. Ở đất khách, thế lực không ở ḿnh, quá ty thời mắc lấy nhục, làm cao thời mắc lấy họa, cần nhất là giữ một chữ Minh. Tượng viết, Sơn thượng hữu hỏa, Lữ quân tử, dĩ minh thân, dụng h́nh, nhi bất lưu ngục. Núi có lửa soi sáng, quân tử xem tượng ấy bắt chước làm việc h́nh luật, soi xét bằng minh đoán, phán quyết cẩn thận. Tượng viết, đắc đồng bộc trinh, chung vô ưu dă. Tấn văn công ở tả huyện, mất ngôi bỏ nước chạy ra ngoài lưu lạc, chỉ có năm người theo hầu, vừa trung kiên, vừa tài giỏi, sau lại trở về Tấn làm bá chủ chư hầu. Ở vào quẻ Lữ, níu chặt hai chữ Trung, Nhu làm bùa hộ thân. Cùng thông đắp đổi, họa phúc cập kè, không ai cứ Lữ măi, đừng quên hai chữ Trinh, Cát. Muốn cát phải trinh. Muốn vượng th́ phải lấy ḷng trung thực làm gốc.

Thiếp ngừng một lát, tay chỉ :

- Vả lại, cháu này đây tên là Lữ, ứng vào quẻ này từ ngày cháu mới đẻ.

Thiếp quay sang nh́n đứa bé năm, sáu tuổi. Nó vẫn trừng trừng nh́n lại, lửa trong mắt rừng rực tóe ra làm Thiếp quay mặt đi rồi hỏi :

- Cháu này khí tượng khác người, tên là ǵ ...

Nói chưa dứt lời, Thiếp xây xẩm mặt mày, ngă chúi người xuống đất. Câu Hà công vừa than « ...kẻ thất phu này bây giờ mang hài cốt tiên di mà không biết đi về đâu đây ? » bỗng vang lên trong đầu như đến từ một cơn mê sảng. Nhắm mắt, Thiếp lại thấy cái cảnh trên mây trong cơn động kinh ngày nào : một khoảng đất trống xung quanh là đồi núi, một con voi trắng đầu rồng đuổi đàn ngựa, đám dạt về Nam, đám dạt về Bắc. Đầu như mụ đi, Thiếp nh́n Hà công chăm chăm, máy miệng nói:

- Về phương Nam, đến nơi nào đất cao mà bằng, xung quanh là rừng núi. Chỗ ấy phải là chỗ khi về không ai dám tới quấy phá. Khi đi th́ nhanh chóng xuống được thành, và ra được biển.

*

Sáng sớm hôm sau, khi mặt trời vừa qua khỏi đầu ngọn Lạp Đính, gia đ́nh họ Hà sửa soạn xuống núi Bùi Phong. Hà công chỉ vào bọc vải điều vắt ngang lưng ngựa, khạc đờm nhổ xuống đất :

- Thi thể con tiện nữ đây.

Nguyễn-thị nước mắt chan ḥa, mở bọc vải. Tóc Mây xổ tung ra như một ḍng thác đen tuyền cắm đầu đổ xuống ḷng đất t́m về nguồn cội. Miệng Mây vẫn hé mở, để lộ cái răng nanh khênh khểnh, cứ như là đang cười trêu chọc. Trên ngực Mây, về phía trái, một mũi tên c̣n găm vào như đóng cọc. Mũi tên ấy bắn ra từ cây cung dài hai thước Hà công mang trên ḿnh, xé gió rít lên tiếng nghiến răng oan nghiệp của định mệnh rồi vụt đi bay thẳng vào một trái tim đầy oán hờn. Nguyễn-thị xin cho chôn cất Mây trên chỏm Bùi Phong, nhưng Hà công làu nhàu gạt đi :

- Ta đem vứt xác nó cho quạ rỉa !

Bỗng th́nh ĺnh, Hà tiện tay bồng thốc Thúc Khải lên. Đặng-thị đi từ ngạc nhiên đến hoảng sợ, hỏi thất thanh :

- Ngươi định làm ǵ thế này ?

Hà công bất chợt ṿng chiếc nạng đánh ngang vào một thân cây chè. Cây chè dập găy làm đôi. Hà công cắn răng :

- Chúng ta c̣n dây dưa nợ nần. Lạp Sơn xử sĩ đă chỉ đường phá Cheo Reo, hài cốt tổ tiên nhà họ Hồ bây giờ lại phải t́m chỗ đủ lửa cho rồng bay lên. Chỗ ngài chỉ, chúng tôi không biết thực hư thế nào.

Hà im lặng một lúc, rồi nói như nói một ḿnh :

- Họ Hồ bắt đầu từ nay đổi ra họ Nguyễn.

Chỉ đứa trai nhỏ , Hà tiếp :

- ... và tên mi nay là Nguyễn Quang B́nh, chữ Quang đây là chữ đệm của Lạp Sơn Nguyễn Quang Thiếp, lấy đó mà đừng quên lời xử sĩ dạy. C̣n thằng nhỏ này, ta đem theo làm con tin cho lời xử sĩ, nếu nghiệp đế mà thành th́ nó sẽ được phong vương, c̣n không xác nó ta băm ra thành trăm mảnh.

Đặng-thị xông lại định giằng Thúc Khải, nhưng Nguyễn-thị vội ôm chầm lấy, vừa khóc vừa nói :

- Em lạy bà chị, em sẽ trông nom cho cháu như con em đẻ, bà chị đừng cưỡng vô ích, chỉ lại gây ra thêm tội nghiệt mà thôi !

Thiếp nắm chặt hai tay, đứng trơ ra như tượng, nh́n con trong tay Hà đang khóc dăy lên, thấy ḿnh bất lực đến độ chẳng bằng cái sâu con kiến. Mớ kinh sách trong đầu lúc này thật không bằng một cái dậm chân của kẻ vũ phu trước mặt khiến Thiếp thấy thèm chui hẳn vào ḷng đất để chết, chết hẳn đi.

Hà công trừng mắt nh́n Đặng-thị rồi ngó vào mặt Thiếp gằn giọng :

- Nhưng nghiệp đế đó, đến khi nào th́ tái tạo được ?

Thiếp thả lỏng dần hai nắm tay, gượng cười, mồm mếu máo, nghẹn lời :

- ... khi thấy rồng bay lên .

Quay lại, Thiếp để tay lên vai vợ, đứt giọng nói với Nguyễn-thị :

- ... bà lấy mang theo ít sách để dạy các cháu và Thúc Khải. Bà nhớ cho là Trung, Nhu,Trinh, Cát. Sách đây có Tứ Thư , Tiểu Học, Đại Học, Trung Dung...

Nguyễn-thị phục xuống lạy tạ. Phất nhẹ tay áo, không nh́n Hà công, Thiếp cúi đầu vào nhà.

Gia đ́nh Hà công xuống núi. Dưới chân Bùi Phong, đám tráng đinh đă sẵn sàng quang gánh trên vai, rồi đoàn xe thồ bắt đầu rục rịch. Đặng-thị bồng Thúc Khải xin đi theo một thôi đường. Đến trưa, khi nắng vừa đậu ngọn cây th́ bỗng chốc mây đen từ phương đông mù mịt kéo về. Trời nồm đến độ rờ lên lưng lên cổ tay nhớp nháp mồ hôi như nhúng tay vào dầu vào mỡ. Dừng lại ven con suối dưới chân núi Bạch Tượng, cả bọn mang cơm nắm ra ăn. Đặng-thị ôm Thúc Khải trong tay, biết rằng giờ chia tay sắp đến. Nh́n con đang bắt đầu thiêm thiếp đi v́ nóng và ẩm, Đặng-thị ứa nước mắt linh cảm thấy rơ ràng lần ấp ủ Thúc Khải này là lần cuối cùng. Hà công ra lệnh :

- Cái ǵ nặng, vất hết đi.

Nói xong, Hà giằng mấy quyển sách trong bọc vải của vợ cười khinh bỉ thẳng tay ném vào góc rừng. Những trang sách rách rời ra tung bay thành một đàn bướm trắng sạc xào trong gió rồi rụng xuống nằm phục trên đám cỏ gai khô héo.

Cúi bồng xác Mây ra đứng trên một mỏm đá cheo veo, Hà công hai tay quăng xác Mây xuống suối, miệng cười ằng ặc như có người bóp vào cổ họng. Một tiếng đá ở ḷng suối ngân lên rền rỉ tưởng như không bao giờ dứt được. Tiếng đá từ một cơi âm u không thủy không chung cứ văng vẳng lời hờn oán cho đến khi mưa đổ ào xuống.

Lát sau, đám con cháu tộc Hà, xưa là họ Hồ và bây giờ mang họ Nguyễn, lên đường. Thúc Khải, nằm gọn lỏn trong một cái thồ vắt vẻo phía sau một cỗ xe, kêu gào ngặt nghẽo. Đặng-thị qú bên suối, rũ người ra khóc. Dưới suối, nơi xác Mây quăng xuống, chỉ thấy mảnh vải điều bọc thây đang bị hút xuống một cái xoáy nước sủi lên bọt trắng hệt như kẻ sùi bọt mép v́ căm giận. Mưa vẫn xối xả trút nước lên núi rừng đă chuyển ḿnh trở thành âm u dọa nạt những bóng người đang g̣ ḿnh bước lên dốc cao rồi khuất nẻo. Đặng-thị đứng dậy, vuốt nước trên mặt rồi lủi thủi một ḿnh đi ngược về phía Bùi Phong.

Cho đến tận bây giờ, tức là quá hai mươi năm sau, mỗi khi cầm quyển sách gáy da trong c̣n trắng chữ mà Hà công vứt lại, Thiếp vẫn tủi thân khi hồi tưởng lại cái cảnh Hà công giằng phắt bắt lấy Thúc Khải, ngậm ngùi nghĩ về con sông Mê, cái đập Cheo Reo. Thiếp chua xót cho máu xương của đám tráng đinh, cả kẻ chặn lẫn kẻ kíu nước, từ hai trăm năm nay đổ ra chỉ v́ nấm mộ họ Hồ cần đất cằn để đủ lửa cho thỏa giấc mộng rồng bay. Và nhất là Thiếp vẫn không thể nào quên được đôi mắt đỏ mọng lên như trái dâu rừng sắp rụng của Đặng-thị khi bước qua ngưỡng cửa, cặp mắt nửa như chịu đựng, nửa như trách cứ cái nghiệp dĩ chẳng biết đă vướng vít tự kiếp nào.

C̣n tiếng đá ven suối dưới chân núi Bạch Tượng, cứ mỗi tuần trăng lại một lần rền rĩ vẳng lên. Dân xă Nam Hoa cách con suối nửa ngày đường kể lại rằng chỉ đến năm Cảnh Hưng thứ bốn mươi tư, tức là khoảng hai mươi năm sau, tiếng đá ấy mới dứt hẳn.

 

 

2 Chim trong lồng

 

Chiếc sào cắm xuống ḷng sông dướn cong lên, đẩy về phía sau những dợn sóng loang loáng dưới ánh trăng lóng lánh. Tiếng mái chèo đều đặn khỏa vào nước, tiếng nước bập bềnh đánh nhịp vào mạn thuyền. Dọc bờ, mái tranh lổn nhổn thấp cao, ẩn hiện trong những ṿm cây u uẩn. Thuyền cứ thế, trôi đi. Ngọn đèn chai đầu mũi chao đảo trong gió đêm, lắm lúc tưởng như là sắp tắt. Thỉnh thoảng, những đàn đom đóm không biết từ đâu bay ra, văng tung lên trời những chớp sáng lân tinh nhẩy múa trong bóng đêm. Đâu đây, tiếng vạc vẳng lại, vô hồn, lạc lơng. Thuyền cứ thế, vẫn trôi đi.

Sông dần dần hẹp lại. Lái thuyền quen việc, chẳng bảo nhau, phối hợp những động tác đă thành máy móc. Cập vào bờ, người đứng đầu thuyền xếp dọc con sào, nhẩy xuống nước, tay nắm lấy sợi chăo to bằng cổ tay kéo vào, miệâng ḥ lên « Đến rồi...». Tiếng người léo xéo nổi lên. Tiếng rục rịch khuân vác xuống thuyền. Độ nửa khắc sau, một đoàn khoảng gần hai chục người từ chân đê xoài người đi lên. Họ lặng lẽ theo sau một chiếc vơng lắc lư trên đ̣n khiêng chĩu nặng trên vai hai người phu lực lưỡng. Khi đến cửa ô Quan Chưởng, trống điểm canh ba vừa điểm. Tiếng chó tru lên sủa, rồi tiếng quát hỏi giật giọng của lính tuần canh c̣n khàn đặc cơn ngái ngủ. Dăm ba ngọn đuốc từ chân thành thắp cháy hắt bóng người lên tường thành cao nghễu nghện, nghiêng đổ, thấp thoáng như ma chơi. Đoàn người dừng lại. Dưới ánh đuốc chập chờn, một người trong bọn râu quai nón, mắt sắc, dáng chắc nịch, bước ra th́ thào với đám lính vừa bổ tới vây quanh. Cổng ô mở ra, tiếng bản lề kèn kẹt rít lên.

Mồm lầu bầu chửi tục, một người lính leo lên lưng ngựa, tay vung ra sau quất roi. Phu khênh vơng lẳng lặng hạ đ̣n xuống. Ông cụ nằm vơng chống tay từ từ ngồi dậy, búi tóc đă bạc sổ ra lưa thưa. Quơ tay lên búi lại tóc, ông vặn ḿnh, mắt hé nh́n ra màn đêm dầy đặc. Tiếng điếu cầy rít ṣng sọc, rồi tiếng ho khan hục hặc cắt quăng. Mùi thuốc lào hăng hắc ḥa vào mùi dầu đốt đuốc khét lèn lẹt xông ùa vào mũi. Nh́n lên, trời cuối tháng ba li ti những giải sao pha lê lấp lánh. Gió vẫn c̣n lạnh ngắt, từng cơn bốc hương đất ngai ngái mùi rơm rạ.

Đợi độ một tuần nhang th́ tiếng chân ngựa vẳng lại lúc một gần. Ông cụ nằm vơng vẫy tay gọi người nhà dặn ḍ. Vơ Toàn Nhật, người có râu quai nón, tiến ra đón thanh niên cưỡi con ngựa chiến đang nhanh nhẹn nhẩy xuống yên. Xưng tên là Hoàng Đăng Khoa, con của Huy Quận công Hoàng Tế Lư hiện giữ chức Chánh dường coi toàn bộ chính sự trong phủ Chúa, người đó khẽ nghiêng ḿnh. Vái chào lại, Nhật nói :

- Thầy tôi cao tuổi, lại đi suốt mười ngày đường nên quá mệt không c̣n sức tiếp lễ cho phải phép, xin được thứ lỗi cho đêm nay .

Hai người tách ra đi về phía chiếc vơng. Dưới ánh đuốc, một người tầm vóc, lông mày xếch, quai hàm bạnh ra và môi trông như hơi mím lại, bước ra chào. Nhật giới thiệu Nguyễn trọng Thức, người đồng môn. Nghiêng ḿnh chào lại người đó xong, Đăng Khoa lẳng lặng đến vái trước vơng rồi phất tay ra lệnh lên đường.

Đoàn người rời cửa ô, lầm lũi đi theo ánh đuốc lập ḷe chao đảo trong gió đêm. Men qua giẫy nhà hàng phố vẫn c̣n im phăng phắc, người nọ nối chân người kia rẽ về phía trái. Đi thêm quăng nửa khắc, cả đoàn ngừng lại. Tiếng gọi cổng vang lên, rồi tiếng rút then, tiếng bản lề kẽo kẹt, tiếng người suỵt đàn chó đang oăng oẳng sủa. Qua một chiếc sân gạch dài, Đăng Khoa tạt về mé phải, tay chỉ dẫy nhà ước chừng đến hơn chục gian, nh́n Thức và Nhật, khẽ nói:

- Đêm đă khuya nên xin về tệ xá . Đây là nơi Phu tử và các vị tạm trú, mai này cha tôi sẽ cho lệnh xếp đặt lại sau. Đợi qua ngày, tôi sẽ lên chào Phu tử.

*

Sắp đặt xong chỗ ăn chỗ nằm cho Phu tử, Trọng Thức bước ra sân ngước mắt nh́n trời. Vào cuối tháng ba, đến canh tư mà trời c̣n đen kịt. Tiếâng vạc ăn đêm thỉnh thoảng lại vọng về năo nùng, trống vắng. Lững thững bước quanh ven chiếc ao thả sen, Thức lắng tai nghe những âm thanh mơ hồ đến huyền hoặc. Dăm con cá ngóc lên đớp muỗi làm đám bọt nước lúc nổi lúc ch́m lục bục vỡ. Những tàn sen se ḿnh níu giữ một chút b́nh yên qua đêm sót lại. Vài ráng mây rám hồng một lúc sau loáng thoáng hiện dần nơi chân trời, rồi lao xao tiếng gà gáy sáng vẳng lên, bắt đầu c̣n thưa, sau cứ liên tu như giục giă đuổi bắt lẫn nhau.

Đứng dậy vươn vai hít không khí cho đầy ngực, Thức bước vào nhà. Toàn Nhật đang lúi húi đun nước cho tuần trà buổi sáng. Phu tử lưng dựa vào vách, tay vê điếu thuốc lào, mắt trũng xuống sau nhiều đêm ít ngủ.

Sáu năm sau khi nhậm chức Huấn Đạo, Nguyễn Thiếp được thăng lên làm Tri Huyện Thanh Chương. Tiếng thế, nhưng Thiếp lui về ở trại Bùi Phong, việc quan trao hết cho bọn nha lại. Khi thầy ḿnh là Nghiễm, Tả Thừa Tướng dưới đời chúa Trịnh Doanh, mất vào buổi lập đông năm 1768, Thiếp từ quan, bỏ hết thời giờ vào chuyện học thuật. Quan Hiệp Trấn xứ Nghệ là Bùi Huy Bích gửi thơ lên thăm, lời lẽ tán tụng :

« Ngẩng trông am núi cách vời.

Núi cao rừng thẳm tột trời mây xanh.

Muốn lên thăm hỏi sự t́nh.

Lại e một nỗi ông khinh người phàm »

Trong thơ trả lời, Thiếp nhân đó xin khoan giản thuế tư điền cho dân Thanh-Nghệ. Từ đó, người đời gọi Thiếp là Phu tử, tiếng đạo hạnh nổi lên khắp nước. Giữa tháng ba năm Cảnh Hưng thứ 41, Phu tử nhận được tờ truyền của chúa Trịnh Sâm mời lên Kinh. Phu tử ngần ngừ, nhưng thế chẳng đặng, phải cùng con trưởng và hai người học tṛ thân thiết nhất lên đường.

Ánh nắng sớm ửng vàng trên cḥm râu Phu tử bạc trắng lung linh qua làn khói thuốc. Phu tử ngả người ra sau, chiêu một ngụm nước, mắt nửa nhắm nửa mở. Một lát sau, nh́n học tṛ, Phu tử chậm răi nói :

- Chốn kinh kỳ miệng người như miệng rắn, tai người như tai dơi. Thầy chưa muốn tiếp ai trước khi gập Hy Doăn Ngô th́ Nhậm.

Phu tử sai Trọng Thức đi t́m Nhậm. Khăn áo chỉnh tề xong, Trọng Thức chào thầy rồi đi ra cổng. Chỉ lát sau, Thức lại quay vào. Ngạc nhiên, Toàn Nhật hỏi. Thức cười khẩy, tay khoanh một ṿng tṛn, rồi lẳng lặng bước vào pḥng Phu tử. Ở ngoài, Toàn Nhật chỉ nghe thấy một tiếng hừ bực bội rồi một tiếng đập bàn.

*

Thuở Trọng Thức mới mười ba tuổi th́ Nguyễn Danh Dương qua đời khi vừa sấp sỉ bốn mươi. Dương chẳng những là đường đệ mà c̣n là bạn thân của La Sơn Nguyễn Thiếp, sớm biết mệnh ḿnh nên đă gửi gắm con với phu tử. Thức về ở trại Bùi Phong hai năm trước khi Phu tử mang Toàn Nhật về nuôi. Cùng cảnh côi cút nên Thức thương Nhật như em ruột ḿnh.

Hai anh em khác hẳn nhau. Nhật to cao dềnh dàng, vai ngang, ngực nở, chân đi thoăn thoắt. Trái lại, Thức vừa tầm, dáng thư sinh, lúc nào cũng chậm răi như dè sẻn sức lực. Mặt gân guốc, mũi hếch, hàm râu quai nón của Nhật dẫu che được đôi môi trề ra như chế diễu nhưng không làm giảm chút nào nét nghịch ngợm trong khóe mắt. Phần Thức, Thức lúc nào cũng trang nghiêm và chừng mực. Gương mặt xương xương khiến đôi mắt Thức lơm sâu dưới cặp lông mày xếch lúc nào cũng xa xôi, và có ǵ như lo lắng, như dọ hỏi. V́ thế, ai mới gặp cũng cảm thấy có một khoảng cách không vượt qua được. Nhưng thật ra, khi gần gũi, nét cương nghị qua cặp môi môi mím trên chiếc cằm bạnh chẳng qua là cái vỏ che đậy một tâm hồn chồng chất bức xúc.

Hồn nhiên, nên Toàn Nhật dễ nông nổi, phản ứng rất nhanh và mạnh. So với Nhật, Thức có vẻ trầm tĩnh. Nhưng sự trầm tĩnh ấy không khác gi cơn sôi riu riu của loại nham thạch đang đợi lúc bùng lên lửa đam mê của một hỏa sơn ẩn ngầm trong đất đá. Cơn sôi ấy càng lâu, sự bướng bỉnh bốc thành thứ ánh sáng đùng đục đậu vào khóe mắt khiến nét mặt Thức mang cái vẻ ngang ngạch thách thức.

Học được với Phu tử mười năm, Thức xin phép được xuống Yên Vĩnh cách Bùi Phong hai mươi dặm, về sửa sang lại ngôi nhà của tổ phụ, ngày ngày đi cầy theo gương Hứa Hành đời Chiến Quốc. Dịch sách Tiểu học, rồi Tứ Thư, Ngũ Kinh sang tiếng Nôm, Thức dậy học mỗi tối cho đám trẻ, nhất định không nhận quà cáp thù lao, lấy cớ rằng cái học với Thức không dùng để đi thi ra làm quan được. Thức thường bảo học cốt là hiểu lư hiểu nghĩa, viết là để giao dịch, để ghi lại lời hay ư đẹp, nên Nôm hay Hán đều được. Chữ Nôm dựa trên thanh âm gần gũi cách nói, tất dễ hơn nên ai cũng có thể học. Thức lạc quan, cho rằng như thế sẽ đông người biết chữ, rồi thêm lời thêm ư, biết đâu chữ Nôm một ngày kia sẽ chẳng thay hẳn chữ Hán. Ít lâu sau, rất nhiều người đến học với Thức, già có trẻ có, tiếng nổi lên như cồn khiến những ông đồ cả trấn Nghệ x́ xào dè bỉu « nôm na là cha mách qué ».

Thức bảo học tṛ tập viết bằng cách chép lại những câu ca dao dưới dạng lục bát. Thức lại đưa cho Nguyễn Du xem năm ngoái, dịp Du về Nghệ, lên ở ĺ trên trại Bùi Phong cả tháng. Du vốn là con Nguyễn Nghiễm và hiện đang ở Thăng Long với anh là Nguyễn Khản. Thuở ấy, Du mới mười bốn mà đă nổi tiếng hay thơ, cứ trầm trồ khen thơ lục bát có phần uyển chuyển phóng túng hơn loại Đường luật Cổ thi thường được ngâm vịnh trong giới người có học.

Lúc đó, Khản như cánh tay của Chúa Trịnh Sâm, giữ chức Tả thị lang kiêm Bồi tụng. Trước lời ra tiếng vào của đám nho sĩ xứ Nghệ, Du sui Thức bầy tỏ chí ḿnh. Thức làm ba bài thơ tựa là Tam đoạn tự khải. Tháng sau, có giấy bắt Thức lên hầu quan. Hoàng Tế Lư ẩn mặt, sai Nguyễn Hữu Chỉnh phân xử lời tố cáo Thức có ư định làm loạn. Chỉnh vời Thức vào, cố ư bắt Thức đợi nửa ngày, giọng khinh bạc, thủng thỉnh:

- Việc quan như là trông con mọn, cái nọ xọ cái kia, phiền ông chờ lâu !

Thức trầm tĩnh :

- Quan như phụ mẫu, chúng tôi nào dám kêu ca, miễn cứ công minh mà sử th́ dân hèn chúng tôi đội ơn.

Chỉnh vờ nổi nóng, tay vỗ bàn, miệng gằn giọng:

- Mới mở mồm mà đă chê rằng quan trên không công minh à !

-......

- Bài thứ ba trong Tam đoạn tự khải, anh viết : « Ngoảnh trông phương Bắc thôi khiếp sợ. Ngước mắt về Nam gió đến tay » là ư ǵ ? Phương Bắc có Vua, có Chúa. Phía Nam th́ giặc Tây Sơn vừa ngược ngạo tự ḿnh xưng đế xưng vương, thế có phải là...

Thức ngắt lời Chỉnh, chĩnh chạc :

- Tŕnh Quan lớn, ngài tiếng tăm văn vơ, thừa hiểu là b́nh thơ luận nghĩa mà chỉ trích ra hai câu trong một bài th́ muốn gán thế nào cũng được, kẻ tiện dân này chỉ mong ngài không nghe tiếng dèm pha. Ba bài tự khải nhằm nói tại sao kẻ hèn này lại thiên về chữ Nôm chứ không lệch sang chữ Hán. Vậy th́ Bắc ư chỉ Trung Quốc, c̣n Nam th́ cứ kể là từ mũi Nam Quan trở ra.

- Người quân tử không thiên lệch...

Thức biết ḿnh đă chiếm thượng phong, cố dấu ngạo ngễ, cười rồi nhẹ nhàng:

- Không quân tử, thưa Quan lớn, là phạm tội ư ? Thế c̣n bài Quách lệnh công phú để ca ngợi Quách tử Nghi đời Đường bên Trung Quốc đă nổi tiếng khắp Bắc hà, rồi đến bài thơ khẩu khí vịnh Cái Trống đều do chính Quan lớn làm cũng là bằng chữ Nôm, liệu có thiên lệch ǵ không ?

Thức ngưng nói, nh́n Chỉnh rồi nhẩn nha :

- Hơn nữa, chẳng có cái tội trạng nào là cái tội không quân tử. Có tội ấy chắc bàn dân thiên hạ thấp cổ bé miệng không có chỗ mà sống được nữa !

Chỉnh sượng sùng, nhẹ giọng :

- Sao không đi thi rồi làm quan mà giúp đời ?

- Quân tử cốt lập chí, sau mới đến công danh. Thời này nhiễu nhương mà chỉ tính đến công danh tư riêng th́ chắc cho chính ḿnh cũng chẳng bền, nói ǵ đến cứu giúp được ai ! Kẻ tiện dân này chỉ mong yên thân đi cầy ruộng, rồi bơ bẽ chỉ dẫn cho dăm người cầu học vài chữ thôi.

Chỉnh lạnh lùng cắt ngang, cấm Thức không cho dậy quá mười học tṛ trong mỗi buổi dậy học, và bắt chỉ được quanh quẩn trong vùng hai huyện Thanh Oai, Thanh Chương. Sau chuyện đối đáp với Chỉnh trong chuyến hầu quan trên trấn, Thức càng được tiếng, bỏ một nửa ngày cầy để dậy thêm hai buổi mỗi bữa, học tṛ đông đến độ Thức phải từ chối dậy một số người đă lớn tuổi.

Du nói với anh, rồi Khản nhân danh là đồng môn với Nguyễn Thiếp hỏi quan Hiệp Trấn về việc Thức. Lúc ấy Tế Lư nể mặt mới ra lệnh cho cống Chỉnh băi cái lệnh cấm cản, lại c̣n sai mang lên tết Thiếp mười quan tiền, sáu đoạn nhiễu, hai cân chè Thái Nguyên và nửa tạ gạo. Nguyễn Thiếp tránh không tiếp, và dặn Đặng-thị từ chối không nhận bất cứ một thứ ǵ.

*

Khoảng cuối giờ Th́n, một chiếc xe ḅ lọc cọc ngừng lại trước dăy nhà phía phải giành để tiếp khách trong tư dinh Hoàng Đăng Khoa, con trai cả của Huy quận công Hoàng Tế Lư và công chúa Ngọc Tĩnh. Hoàng công tử có tiếng là khéo léo, không chính thức nhận một chức vụ ǵ trong phủ Chúa, nhưng thường giúp cha trong công việc giao dịnh nên biết khá nhiều chuyện chính sự cũng như mọi đường ngang lối tắt lắt léo nơi cửa quyền ở chốn kinh kỳ. Khác với đám thượng lưu trẻ tuổi chốn đô hội thường đắm ḿnh trong những chuyện phù phiếm, những oái oăm chốn hậu trường của quyền thế, và nhất là những dịpï ăn chơi thâu đêm suốt sáng hầu như mỗi ngày mỗi có, Đăng Khoa ít giao thiệp với người cùng lứa, không huênh hoang, không hợm hĩnh, và thường tự nhún ḿnh, lúc nào cũng giả tảng như không để ư đến ngoại vật.

Chiếc xe ḅ chất đầy đủ loại thực phẩm, từ gạo muối cho đến tương, cà, ca,ù thịt. Sau khi chất rỡ xong, người gia bộc cỡ ngoài sáu mươi kính cẩn:

- Cậu chúng con xin mời đức Phu tử và các cậu hạ cố dùng bữa cơm trưa hôm nay th́ thật là bảo giá.

Trọng Thức bật cười trước lối nói chữ nào là hạ cố nào là bảo giá, trả lời :

- Cứ cho người đến dẫn lối, chúng tôi sẽ xin qua hầu công tử.

Sau khi vào tŕnh Phu tử để khu xếp, Thức rủ Nhật đi dạo quanh tư dinh Hoàng công tử. Ṿng từ mé phải họ bước vào một khu vườn nh́n ra hồ Trúc Bạch. Bên cạnh con đường trải sỏi trắng là một cái ao đào rộng độ hai sào vuông. Trên bờ ao, một cái cầu vồng bắc vắt vẻo dẫn đến căn gác vuông vắn mỗi bề độ hai mươi thước ta, tường bằng gỗ sơn xanh nhạt, mái ngói đỏ mầu gạnh cua, cửa vào có đề hai chữ Khiêm Các, ư chỉ sự khiêm nhường. Chung quanh ao trông đủ loại cây cỏ rất lạ, có loại cây toàn lá mầu đỏ cam rực rỡ, lại có loại không có lá mà chỉ toàn hoa đài trắng muốt đến độ nh́n cứ tưởng như trong suốt. Bước vào các, mùi gỗ quí thơm bay thoang thoảng. Vạch những bức màn lụa mầu ngà có viền kim tuyến và thêu những bông cẩm chướng sặc sỡ nh́n ra, một đàn hàng chục con công ven bờ ao bên kia đang giang cánh múa, mầu lông óng ánh dưới nắng vàng. Trên mặt ao, dăm ba tảng đá mầu hồng nhô lên trên những tàn sen c̣n đọng những hạt sương lóng lánh như kim cương.

Thức ngồi xuống tràng kỷ, nh́n quanh, miệâng bâng quơ :

- Cứ xem cảnh sắc thế này th́ mồm nói khiêm nhưng bụng lại chẳng nhường ai một chút nào.

Nhật ṿng qua cái sập gụ đen tuyền dầy đến ba tấc và rộng đủ để sáu người ngồi xếp bàn tṛn, bước về phía giá gươm rồi táy máy rút một thanh ra khỏi vỏ. Lưỡi gươm lạnh tanh lóe sáng. Toàn Nhật vung lên một đường, nâng thanh gươm lên ướm nặng nhẹ, suỵt soạt trầm trồ.

Một lát sau th́ gia nhân đến mời. Thể theo ư Phu tử, ba người qua dăy nhà phía trái nơi Khoa ở. Thức cung tay chào, rồi chỉ qua trung niên dáng gầy g̣ :

- Thưa Hoàng tướng công, ông đây là Nguyễn mạnh Thuyên, trưởng nam của thầy chúng tôi. Thầy tôi vẫn c̣n mệt không qua bồi tiếp tướng công được, để anh chúng tôi sang hầu tướng công...

Ngưng lại, Thức nh́n thẳng vào mắt Hoàng Đăng Khoa, giọng có chút châm biếm:

- ... và nghe lời dậy bảo phải ở đâu, làm ǵ, gập ai, và được đi những đâu...

Khoa hơi bối rối, nhưng trấn tĩnh ngay, tươi cười trả lời :

- Những việc ông anh vừa nói là đều sẽ do cha tôi sắp xếp, tôi phận con cháu nào có cái quyền ǵ mà dám xen vào. Nay, ta phải đợi để Phu tử thật khỏe đă, gập cha tôi là mọi việc đâu vào đó, chẳng có ǵ phải bất tất.

Tuy mồm chối trách nhiệm, Khoa vẫn khéo nhắc đến quyền uy của cha ḿnh. Thức c̣n bực trong bụng, định tâm tiếp tục vặn hỏi lại cái chuyện bị lính canh cấm ra khỏi cổng sáng nay, nhưng Thuyên khẽ gạt tay, lên tiếng:

- Ngài dậy như vậy, chúng tôi rất đội ơn. Cha tôi nay già cả, sức khỏe có sút, chỉ cầu xong việc là xin về ngay, chẳng ḷng nào dây dưa ở lại kinh kỳ này lâu la làm ǵ. Chẳng hay khi nào th́ Chúa vời cha tôi vào cho gập ?

- Việc này tôi cũng lại không biết. Nhưng tôi sẽ bẩm với cha tôi chiều nay để Phu tử khỏi sốt ruột.

Bữa ăn vẫn có phần gượng gạo tẻ nhạt mặc dầu Đăng Khoa cố vui vẻ chào mời. Thuyên ít nói, lời đúng mực, không thừa không thiếu. Thức lạnh lùng. Khoảng đầu giờ Mùi, lăo gia bộc thích nói chữ chạy vào th́ thào. Khoa đứng dậy, miệng nói:

- Cha tôi đến !

Một người đàn ông giữa khoảng ngũ tuần vén bức chướng mé phải gian nhà khánh nhanh nhẹn bước vào. Người đó cao hơn b́nh thường dễ đến nửa cái đầu, miệng rộng, môi mỏng, vai chữ điền, tóc điểm bạc búi ngược, lưỡng quyền gồ cao làm trồi lên cặp lông mày rậm trắng, xếch đến cuối chân mày rồi đứt đoạn bất ngờ xụp xuống. Đợi cho mọi người ṿng tay thi lễ xong, người đó mới sẽ nghiêng ḿnh, nói:

- Chắc Phu tử c̣n mệt, tôi chưa được diện kiến nên xin gửi lời chào, và mong Phu tử chóng khỏe để tiện thu xếp ít công việc nhà Chúa.

Quay sang Khoa như dọ hỏi, người đó đảo một ṿng mắt nh́n mọi người, tiếp:

- Phu tử là khách của Chúa, c̣n các vị đây là khách của cha, con phải chu đáo mọi sự.

Khoa hiểu ư, khẽ nhích lên rồi giới thiệu tên từng người. Thuyên ṿng tay vái miệng nói « Kính chào quan Chánh dường ». Đến lượt ḿnh, Toàn Nhật cũng bắt chước làm như vậy. Hoàng Tế Lư khẽ nhếch mép rồi bước một bước đến nh́n tận mặt và hỏi gốc gác. Nghe Nhật kể tên ông ngoại họ Vơ ở Thạch Hà, Lư vỗ vào vai, cười bảo « th́ ra cũng con ḍng cháu giống ! ». Khi Khoa giới thiệu Trọng Thức, Lư thân mật :

- A, hiền điệt là hậu duệ của Nguyễn Danh Dương, bạn đồng khoa với ta.

Đến trước mặt Thức, Lư nắm lấy tay, vừa lắc vừa nói, giọng kẻ cả:

- Khí tượng thế kia, tuổi trẻ thế này sao lại nổi tiếng là ẩn sĩ được nhỉ? Gần ta ít lâu, biết đâu cháu lại chẳng đổi ư. Làm tài trai, phải như chim Bàng chim Phượng, cớ ǵ lại sè sè chịu bay như đám chim sẻ đi t́m vài hạt thóc thừa chốn quê mùa ?

Trong đầu Trọng Thức chợt lóe lên h́nh ảnh những con sẻ t́m bắt cào cào châu chấu phá hại mùa màng đang nháo nhác bay lên khi một đàn quạ sà xuống. Bấm bụng, Thức nghiêng ḿnh vái, giữ một khoảng cách với sự thân mật của Tế Lư, khiêm tốn :

- Xin đa tạ quan Chánh dường, văn sinh tài hèn đức mọn, lúc nào cũng áy náy chỉ sợ làm hổ tiếng phụ thân, không dám nhận hai chữ ẩn sĩ từ những lời đồn đăi không đáng làm bẩn tai quân tử.

Sau khi Trọng Thức nhắc lại câu ḿnh đă hỏi Đăng Khoa buổi sáng, Hoàng Tế Lư nghiêm trang nói :

-Khách của nhà Chúa là thượng khách, muốn đi đâu th́ đi. Các vị là khách của ta cũng vậy. Trong kinh, từ đầu giờ Tuất đến cuối giờ Dần giới nghiêm. Tuy thế, nếu cần đi, phủ Chúa sẽ cấp cho Phu tử giấy phép, cứ đưa ra tất lính tráng chấp lệnh ...

Hắng giọng, Tế Lư chẳng những tảng lờ chuyện cấm ra khỏi cửa mà c̣n kèm chặt thêm đám khách, tiếp :

- ... cũng gửi lời ta xin Phu tử tha lỗi cho bọn lính tráng không biết khu sử buổi sáng nay. Kinh đô hiện chưa hẳn yên nên ta sẽ phái lính phủ Chúa đến bảo đảm an ninh cho Phu tử và gia nhân. Đăng Khoa tạm nhận trách nhiệm tiếp đăi Phu tử cho đến khi ta xếp đặt để Phu tử đến ngụ tại dinh Khương Tả hầu.

*

Suốt một tuần lễ từ ngày đến Thăng Long, Phu tử đợi Chúa vời, nhưng không tin tức ǵ. Sốt ruột, Phu tử nhờ Khoa chuyển lời ḿnh đến Hoàng Tế Lư là người ra vào Chính-phủ hàng ngày.

Mặc dầu Khoa hết sức chu đáo, Phu tử và gia nhân vẫn mong sớm được dời tư dinh của Khoa, nơi tạm cư từ ngày bước chân đến Thăng Long. Khoa luôn luôn tỏ ra thân mật để khách thoải mái, song trừ Toàn Nhật ra, ai ai cũng cảm thấy mất tự do chốn cửa quyền, lúc nào cũng có lính tráng ḍm ngó và người ăn kẻ ở thưa gửi. Chỉ riêng có một ḿnh Nhật gần gũi Đăng Khoa hơn mọi người, phần v́ hồn nhiên, phần v́ thích bàn chuyện vơ nghệ. Buổi tối hôm đó, Khoa vào vái thăm Phu tử rồi thưa :

- ... Cha văn bối nhắn mời Phu tử giờ Mùi sáng ngày kia vào Nội phủ.

Sáng ngày Phu tử vào Nội phủ, một đội sáu người lính thuộc đội Hậu Dũng, quần áo sắc vàng nhạt, cổ nẹp đỏ, đến với hai người phu khiêng kiệu. Khi Phu tử vẫy tay gọi Thức và Nhật đi theo, một người xưng là thư lại cúi đầu cung kính nói là có lệnh chỉ đưa một ḿnh Phu tử vào Thập Tự cung ở Chính -phủ.

Sau khi Phu tử lên đường, Nhật rủ Thức ra phố. Đến cửa dinh, hai người nghe tiếng gọi giật :

- Có nhớ tôi không ? Tôi đến chào thầy và các vị đây!

Nh́n lại th́ ra Bằng Vũ, một người bé nhỏ, dáng thư sinh, cũng người huyện La Sơn, xưa có học với phu tử ở Anh Đô. Vũ xưa thi hỏng kỳ đệ tam trường, nay lo việc giấy má sổ sách, làm từ hàn cho đội Trung - Kính, đội lính bảo vệ an ninh cho Tam cung Ngũ phủ. Vũ vui vẻ xin làm người đưa đường cho Thức và Nhật.

Từ dinh Đăng Khoa đi xuống phía Tây Nam chừng hai dậm là hồ Thủy Quân, giữa hồ có xây một cái tháp năm tầng, và tiếng truyền rằng mỗi khi có quốc biến th́ con rùa đă sống bốn trăm năm trong hồ nghiến răng kèn kẹt báo cho người hàng phố. Lần sau rốt, vào tháng sáu năm Mậu Tuất cách đây hai năm, lúc Đàng ngoài hạn hán, giá gạo cao vụt lên và người chết nằm đầy đường th́ tiếng rùa nghiến răng nghe đến tận miệt Ô Trường Bản. Dân quê hai tỉnh Thái B́nh, Thanh Hóa trốn đói ṃ lên Thăng Long có đến hàng vạn. Họ tự tiện cắm dùi trên công thổ phía Đông Nam, suốt bờ sông từ Vị Hoàng cho đến Hà Đông. Triều đ́nh t́m đủ cách đuổi dân lưu cư nhưng cho đến nay vẫn không được.

Ở kinh kỳ, người đi như mắc cửi. Trên dăm trục chính nối những cửa ô, mặt đường rộng đủ cho năm chiếc xe ngựa qua lại. Từ hồ Thủy Quân đi xuống độ trăm thước là nơi người Kẻ Chợ buôn bán. Ba mươi sáu phố ăm ắp người chen vai thích cánh, mỗi phố là một mặt hàng : nào là tơ lụa, đường phèn, gương, lược, trống, kèn, gỗ.. đủ loại. Người ở kinh diêm dúa hơn người thôn quê, đàn ông mặc áo the, chân đi dép, đàn bà th́ trên áo tứ thân, dưới là váy lĩnh, có kẻ đầu vấn tóc, có người che khăn mỏ quạ. Các bà ở mặt tiền những cửa hàng rộng không quá năm, sáu thước vuông, miệng ríu rít chào khách qua đường. Tiếng mặc cả, tiếng dè bỉu, và thỉnh thoảng lại có cả tiếng căi cọ chửi bới oang oác bên tai. Ba người đi hết phố này sang phố khác, ḥa ḿnh vào cái ḍng sinh lực cuồn cuộn cứ chực như tràn ứ ra trên lề đường. Quá giờ ngọ, họ kéo nhau vào một quán ăn khá rộng răi sang trọng ở phố hàng Mành. Vũ phất tay gọi rồi bảo :

- Nhất đất này đấy, và phải nói để hai vị biết, bún chả th́ tuyệt khéo.

Cuối pḥng ăn, một đám gần hai mươi người ngồi choán đến năm bàn, bàn nào cũng đầy những cút rượu. Vũ đứng dậy đến cung kính chào một nam nhân ngót ngét ba mươi tuổi, mày rậm, mũi hếch, mắt như mắt cú đỏ sè, ngồi nghênh ngang giữa đám thủ hạ. Sau đó,Vũ lại rón rén về chỗ, th́ thào vào tai Thức : « Ăn nhanh rồi chuồn, bác ạ ! ». Trước thái độ của Vũ, Thức và Nhật hơi ngạc nhiên, song chưa tiện hỏi. Cả ba lẳng lặng ăn, nhưng chưa hết bữa th́ đám người trong góc ồn ào đứng dậy, gươm đao nghe loảng xoảng. Một người mảnh khảnh, mặt xanh mướt, nói với chủ quán :

- Ghi sổ lại. Lần sau trả. Bây giờ có việc công phải đi gấp.

Ông chủ quán vâng dạ, mặt méo xệch, đầu cứ gật gù cúi xuống. Nam nhân mắt cú đứng dậy, miệng ngậm cây tăm xỉa răng, tay cầm chiếc roi cá đuối, phất vút một cái vào không khí, rồi ra lệnh :

- Đi thôi !

Qua chiếc bàn có bọn Bằng Vũ, người ấy ngừng lại, hất hàm :

- Những ai đấy ?

Vũ đứng dậy, cười cười, vái rồi giới thiệu. Nam nhân lại hất hàm, nh́n lên, khinh khỉnh :

- À, khách của Huy quận công à !

Tay vút roi vào khoảng không, người ấy chẳng thèm nh́n ai, khinh khỉnh :

- Có muốn xem đốt đuốc người không ?

Nói xong, người ấy bước ra. Thấy lạ, Toàn Nhật ṭ ṃ đ̣i đi xem. Ba người liền ăn vội, trả tiền, rồi ra theo. Bọn người ồn ào bước đến đâu th́ đám đông dân chúng dạt ra đến đó. Họ đi ṿng về phía Ô Cầu Giấy, đến một khoảng đất trống áp vào ŕa sông chung quanh có quây cót. Lính canh chia làm hai lớp vây ṿng, ai nấy quấn khăn che mặt lại, gươm giáo sáng ḷe. Từ dốc đê, không ai nh́n thấy ǵ sau cót, nhưng nghe văng vẳng đâu đây có tiếng nỉ non khóc lóc. Nam nhân mắt cú vọ vẫy tay, đám thủ hạ khuâân những thùng dầu đă xếp sẵn xung quanh cót đổ tưới lên và ném những cành cây khô vào. Tiếng khóc tiếng kêu lúc càng inh ỏi. Những tiếng thét tuyệt vọng rít lên, rồi một người đục cót chui ra. Tên lính đứng gần lao một ngọn thương. Người ấy tru lên, tay dơ cao, bàn tay trụi không có ngón nào, với như cào vào khoảng không. Nam nhân mắt cú khinh khỉnh châm đuốc rồi thẳng tay ném vào. Lửa bùng lên khắp ngả. Tiếng rú, tiếng kêu, tiếng khóc nhất lượt ̣a lên nghe đinh tai nhức óc. Toàn Nhật hiểu ra, người nóng rừng rực như chính ḿnh bốc lửa, lồng lên, xô lại gào :

- ... Không giết họ thế được ! Ngừng lại!

Vũ hốt hoảng nắm Toàn Nhật lại nhưng không kịp. Nam nhân mắt cú miệng mím lại, mũi hếch lên, vung roi quất vào đầu Nhật. Chiếc đầu roi chưa kịp giựt về th́ Nhật đưa tay bắt lấy thân roi, rồi ṿng tay như cuộn lại, lấy tấn bất th́nh ĺnh dận xuống. Nam nhân ngă chúi mặt xuống đất, bỏ roi, tay kia rút kiếm, gầm lên :

- A, giỏi thật ! ... bay bắt lấy nó cho ta ...

Đám thủ hạ tay đao tay kích ùa ra vây Nhật vào giữa, hầm hè như muốn nuốt tươi ăn sống. Đúng lúc đó, tiếng Đăng Khoa cất lên :

- Không ai được chạm vào khách của quan Chánh dường !

Đội lính Hậu Dũng áo vàng lúc ấy gươm đă tuốt trần, xông vào làm một ṿng tṛn quây quanh Toàn Nhật. Khoa tiếp :

- ... Chạm vào khách là chạm vào chủ. Kẻ nào xúc phạm, theo luật, sẽ bị tội lăng tŕ !

Quay sang nam nhân mắt cú, Khoa ṿng tay vái :

- Xin Đặng tướng công thứ cho ! Khoa này chịu mọi trách nhiệm.

Mùi thịt người lúc ấy xông vào mũi khét lẹt. Tiếng kêu tiếng khóc vẫn rú lên từng chập nhưng dần dần thưa đi. Khói những cây đuốc người bốc lên đen cả bờ sông Nhị. Nước vẫn cứ xiết trong ḷng sông lúc nào cũng quằn quại những ḍng lũ màu đỏ như máu. Nam nhân mắt cú, tên là Đặng Mậu Lân, em ruột của Đặng thị Huệ, hầm hè :

- Rồi sẽ biết tay ta ! Để xem, để xem ...

Hôm sau, dân Thăng Long hớn hở : tiếng đồn là nhờ có Chúa chu cấp lương tiền, trại hủi ngoài Ô Cầu Giấy đă dọn đi về phía Ninh B́nh. Mùi thịt phảng phất chẳng qua là mùi thịt mấy con lợn nái ngả ra cho bữa bún chả họ ăn mừng với nhau trước khi di cư. Tuy tiếng đồn thế, những người bị bệnh hủi đang luẩn quẩn ăn mày ở kinh kỳ ngày hôm sau vẫn trốn tiệt.

*

Không biết công việc nhà Chúa thế nào mà sau ngày gặp quan Chánh dường ở Thập Tự cung, Phu tử ngày ngày tư lự ra vào một ḿnh. Ngô th́ Nhậm hiện dang trên Sơn Tây, hẹn về gập Phu tử nhưng chưa cho biết ngày tháng. Ngay cả khi mọi người đă chuyển ra ở tư dinh Khương Tả hầu, Phu tử im lặng cả ngày, vẫn tránh không gặp bất cứ ai, thường trằn trọc, đêm dậy ngồi hí hoáy viết lách, nhưng chỉ độ mươi hôm sau lại đem ra xé hết. Nét lo âu khiến Phu tử già đi, và sự cô đơn trĩu nặng đèo vào tuổi tác khiến lưng Phu tử như gù thêm xuống.

Đám lính canh cho Phu tử thay đổi luôn luôn, nay th́ là đội Hậu Hùng, mai lại Tiền Dũng, rồi lần lượt nào là Trung Kính, Tả thị nội, Tiền Ninh. Trong đám lính canh luôn luôn có một người thư lại đi kèm. V́ thế, Bằng Vũ lại có dịp lân la gần Phu tử.

Một tuần sau hôm dọn đến dinh Khương Tả Hầu, Đặng Thị Mai là cháu gọi Đặng-thị bằng d́ hớt hải đến chào. Thức ngạc nhiên nh́n nét lo âu trong mắt Mai, khẽ đẩy cửa để Mai vào nói chuyện với Phu tử. Tối hôm ấy, Phu tử bảo Toàn Nhật rời khỏi kinh kỳ, tạm lên phố Hiến một thời gian. Nhật gặng hỏi, Phu tử chỉ bảo chính Mai sợ anh ruột ḿnh là Lân sẽ t́m cách hăm hại Nhật. Đăng Khoa biết chuyện nhưng không nói ǵ, hẹn sẽ lên thăm Nhật và viết thơ gửi gấm cho một người bạn quen trên phố Hiến, rồi đưa một tờ đặc chỉ cho Toàn Nhật xuất nhập Thăng Long bất cứ lúc nào.

Đặng Mậu Lân xưa nay hung hăn, cậy vào chị là Đặng thị Huệ hiện đang được Chúa sủng ái, chẳng chịu thua kém một điều ǵ với ai. Lân hống hách, cách ăn kiểu mặc bắt chiếc như Vua như Chúa, không chỉ bàn dân mà ngay cả đám quan trong triều hễ gập là tránh. Thấy đàn bà con gái có nhan sắc là bất kể bố mẹ chồng con, Lân cướp về tư dinh. Thỏa măn xong tính dục, Lân c̣n quái ác khi th́ rạch mặt, khi th́ cắt đầu vú, khi lại tọng cán gươm hay đầu côn làm rách toạc tử cung, hềnh hệch cười : « Cho người đẹp giữ chút dấu vết kỷ niệm để nhớ ta nhé ! ». Điều tiếng gần xa khắp kinh kỳ, bàn dân gọi Lân là hung thần mắt cú, kêu van đủ chốn nhưng chẳng ai làm ǵ được.

Mất mặt với đám lính tráng và thủ hạ về chuyện Toàn Nhật giật roi, Lân căm giận, giữa đường về châm đuốc ném vào nhà bàn dân thiên hạ. Nhà cháy nhưng chẳng một ai dám dập lửa, phải đợi Lân đi khỏi. Lần này chuyện gây ra lại giây vào khách của Hoàng Tế Lư. Khổ một cái là Lư và Huệ nay liên kết với nhau, nên Lân không thể qua tay chị để trả thù Toàn Nhật. Nghe Lân kể, Huệ chặn ngay :

- Mày vung tay đánh, người ta chỉ đỡ, th́ có ǵ mà hậm hực ! Người ta không kiện cho là may.

Đặng Thị Huệ rất khéo miệng, và nhất là cực kỳ nhậy bén đoán được ư của người đối thoại. Nàng ít khi phải nói không với ai, v́ lúc nào không muốn th́ nàng đă khôn ngoan chặn miệng trước, cho nên ít ai nói được chuyện ǵ không hợp ư nàng. Dù ngày đêm ở bên cạnh Trịnh Sâm, nàng rất ít ra mặt với chúa nơi đám đông, luôn luôn tỏ ra ḿnh thờ ơ với quyền bính. Nàng thường nhẹ nhàng trả lời với những kẻ đến mua chuộc rằng : «... Những việc quốc sự, xin cứ tâu thẳng với Chúa, hoặc với Quốc cửu là Hoàn quận công. Phận đàn bà, tôi chỉ biết chăm lo công việc Hậu cung cho Chúa mà thôi ». Trịnh Sâm nghe thấy vậy nên rất quí mến, có việc ǵ tế nhị đều tâm sự cho nàng nghe.

Cũng chính thế cho nên việc Hồng lĩnh hầu Nguyễn Khản và Huân quận công Nguyễn Phương Đĩnh cách đây sáu năm t́m cách hăm hại Hoàng Tế Lư đă đến tai nàng. Lúc ấy Lư đă cho vợ ḿnh là công chúa Ngọc Tĩnh cùng hai con về Thăng Long ở làm con tin để tránh sự ngờ vực của Trịnh Sâm về ư định thoán ngôi Chúa người ta vu lên. Biết Huệ được sủng ái, Ngọc Tĩnh kết thân với nàng, hai bên tâm đầu ư hợp, ngay đêm thủ thỉ chuyện ra chuyện vào. Sáu năm ṛng, mỗi lần Lư về thăm vợ con đều có mang quà cáp vào phủ Chúa chào Huệ. Khi Huệ sinh thế tử Cán, Lư dâng mừng ba mươi cái ngà voi cùng sáu bộ xương hổ, không kể gấm vóc lụa là xếp từng thếp cao đến đầu người. Chính Huệ đă khuyên công chúa Ngọc Tĩnh bàn với Lư để xin Chúa cho về kinh, rồi cũng chính Huệ thay lời Ngọc Tĩnh kêu với Chúa cho Chúa chấp thuận. Trịnh Sâm đa nghi, nhưng biết Lư về kinh th́ thân cô thế cô, không c̣n việc ǵ phải sợ, nên đồng ư. Về Thăng Long được hai tháng, Lư xin dâng tư dinh của ḿnh làm nhà riêng cho thế tử Trịnh Cán. Chúa rất ưng ḷng, lại có Thị Huệ vun vào, nên ngày càng quí Lư, cho Lư ra vào Nộïi phủ như đám hoạn quan, có việc ǵ cũng hỏi. Đầu năm sau, Lư đẩy được Khản ra làm Hiệp Trấn Sơn Tây, rồi được phong làm Chánh dường quan, lo lắng toàn bộ chính sự trong phủ Chúa.

Từ ngày Phu tử đến kinh, Trịnh Sâm lại mắc chứng cũ khiến mọi sắp đặt triều chính phải hoăn hết. Nhận được chỉ vời, Lư vội vă vào cung Vọng Hà, nơi Chúa ngự. Qua những hành lang lúc nào cũng rủ chướng để tránh gió, Lư theo bước Thản-Trung hầu. Đến Trữ Nguyệt viện, Thản Trung lên tiếng báo. Một lát sau, cánh cửa gỗ lim trạm trổ long ly qui phượng mở ra, và một thị nữ cúi ḿnh chào. Lư hơi ngạc nhiên khi thấy Huệ ngồi trên tràng kỷ, miệng nói , tay chỉ : « Xin miễn lễ ... Mời quan Chánh dường ngồi đây ».

Đặng thị Huệ chạc trên ba mươi, dáng thanh thanh, da ngăm ngăm sắc hồng quân, mũi dọc dừa, miệng hơi mỏng nhưng đài các, đầu đội ngọc miện. Mạêc một bộ xiêm màu xanh biếc, lưng đeo giải vàng có điểm những hạt ngọc hồng to bằng ngón tay cái, nàng ngước cặp mắt đen lay láy h́nh lá dong nh́n Lư, hỏi :

- Bệnh t́nh của Chúa ra sao ?

- Khải Vương phi, Chúa lại đau bụng từ ba hôm nay, ăn uống không được ! Chắc là bệnh cũ nên Sùng công cùng với chư quan thị dược đă đồng ư dùng lại toa thuốc hiệu nghiệm năm trước. Nay bệnh lúc tăng lúc giảm, nhưng mạch Xích đă phục, c̣n hai mạch Quan, Thốn th́ khi yếu khi mạnh, chưa biết thế nào ?

- Công việc với La Sơn phu tử đến đâu ?

- Chúa chưa tiếp Phu tử nên công việâc c̣n đó, chưa nhất quyết ǵ cả ?

- ư Phu tử thế nào quan Chánh dường có rơ không ?

- Phu tử c̣n xem xét, và sẽ tự ḿnh khải thẳng với Chúa.

Vương phi ban cho quan Chánh dường một chén nước trà Tĩnh Ngọa. Khi Tế Lư cúi xuống uống th́ tai nghe thấy hai lần tiếng chén trà của Vương phi để lên chiếc khay Bạch Ngọc ngân lên nghe như tiếng đánh chuông.

*

Sau khi Lư và Thản Trung lui ra, Huệ vào phía sau cung Vọng Hà. Ngồi lên vương sàng, rồi đuổi thị tỳ ra, nàng nh́n Trịnh Sâm đang thiêm thiếp ngủ, với tay xem bát thuốc đă uống cạn. Lấy khăn giấp nước, nàng nhẹ nhàng lau trán Chúa đang nhớp nháp mồ hôi. Sâm tỉnh dậy, hé mắt nh́n Huệ, miệng gượng gạo cười :

- Canh mấy rồi ?

- Xin Vương nằm yên, bây giờ là đầu giờ Tuất, Vương c̣n đau không ?

Sâm chậm răi :

- Bụng vẫn cứ ngâm ngẩm .

Huệ tḥ hai ngón tay chậm chạp kéo giải rút, rồi lẳng lặng nằm xuống, bỏ cả bàn tay vào quần Chúa, đưa lên bụng xoa bóp nhè nhẹ, miệng suỵt soạt :

- Chẳng có sao đâu, cứ thuốc bổ dương có nhân sâm rồi thêm vào một lạng Bắc nhung Miên Huyết Ngưng Sứ với quế tán là cứng cáp ngay thôi.

Nàng khúc khích cười, tay lần sâu xuống dưới, nói :

- Xem nào ! Đă khỏe cho em chưa ?

Vừa cười, nàng vừa hổn hển thở vào mơn trớn tai Chúa. Sâm nhắm mắt, mặt nóng bừng, người như lên đồng, đong đưa theo bàn tay Huệ lúc nhanh lúc chậm. Đột nhiên, Huệ rút tay ra, ngồi dậy. Sâm mở mắt nh́n dọ hỏi. Huệ bật khóc rấm rứt :

- Vương mà mệnh hệ nào th́ em ra sao? Cứ nghĩ đến thôi là em chẳng c̣n thiết một thứ ǵ nữa.

- Ta có bệnh, nhưng đă chữa được một lần th́ sẽ chữa được hai lần, chẳng có ǵ phải lo ...

- Sao lại không phải lo. Thế tử Cán mới lên năm, Vương mà bỏ mẹ con em th́ thân cô thế cô, mẹ con em chỉ có chết mà thôi.

- Đừng nói dại, ta đă nói với nàng là ta đăù định ư. Nhưng việc công không thể hấp tấp, làm ǵ th́ thế nào trăm mắt thiên hạ cũng ḍm vào !

Huệ tỉ tê :

- En biết dạ Vương, nhưng một tay Vương đă khuấy đất trọc trời, việc phế lập tưởng chỉ là chuyện cỏn con. Vương lắm mưu lắm kế, thiếu ǵ cách ! Với lại, em bảo thật, thế tử Tông cũng đă lập bè lập cánh, biết đâu chẳng đợi thời mà lấn tới. Việc ấy,Vương cứ hỏi Tế Lư khắc rơ ... Thôi, chuyện nhà Chúa, Chúa lo, Huệ lại nấc lên, c̣n thân mẹ con em, em phải lo ...

Sâm nghe Huệ nói, hơi chột dạ, nhưng lên giọng, cứng cáp :

- Ta nằm đây nhưng mắt ta thấy hết, tai ta nghe hết.

Nói xong, Sâm kéo Thị Huệ nằm xuống rồi xoay ḿnh lại. Huệ ngồi bật dậy, má đỏ hây hây, lột phăng áo, bật cười khúc khích, lơi lả :

- Em biết Vương khỏe lại ngay mà. Vương thích ǵ nào? Gấu nhé, hay báo nhé ?

- Không, làm báo rồi. Hôm nay ta làm con trăn rừng !

Áp miệng cắn nhẹ vào tai Sâm, Huệ thỏ thẻ: « Hôm ấy tối trời, trăng đi đâu mất chỉ c̣n dăm ông sao mờ, em vào rừng Cúc Phương một ḿnh. Bỗng như có ai bắt lấy bế bổng em lên chạc ba một cái cây. Th́ ra là Vương hóa làm ông trăn, ḿnh to bằng củ chuối mắn, cứ trờn lên trờn xuống, dạng hai chân em rồi kéo chổng kên trời. Em đạp chân lật ḿnh lại, miệng kêu « thôi, cho em xin ...» nhưng ông trăn quấn tṛn lấy em vật ngă xuống. Ông ấy tḥ lưỡi ra,ôi cái lưỡi nóng hổi vừa mềm vừa nhơn nhớt cứ theo những đường cong thân thể em lượn uốn nhấm nháp như người nhắm rượu. Cái lưỡi đong đưa đú đởn khiến em ưỡn người cong lên, tay nắm quàng lấy đuôi ông trăn. Vùng ḿnh xiết lấy em cơ hồ đến nghẹt thở, rồi trời ơi, ông trăn chuyển ḿnh vào ngọ ngoạy ... Em rướn chân, gh́ vào chạc cây, mồm van vỉ, tay cào tay cấu ...».

Quằn quại theo nhịp bàn tay, Huệ hào hển rồi rít lên cho đến lúc Sâm kêu hộc lên một tiếng, để cho vài giọt sinh lực ứa ra như dăm hạt nước mưa vừa lọt qua kẽ dột. Lúc ấy, nàng thở hắt ra, rồi lẳng lặng nằm yên nhếch mép cười trong bóng tối.

*

Ngoài Bằng Vũ, sau này đám khách thường tới dinh Khương Tả Hầu thăm Phu tử phần lớn là những bậc thâm nho chuyên dùng việc ngâm vịnh làm cách tiến thân cầu vinh cầu lộc. Duy có một kẻ may mắn đă sẵn có đủ cả là Côn quận công Trịnh Bồng. Bồng ưa thanh tịch, chán chốn quân quyền, quyết chí t́m đường đạo hạnh, hợp với ư nguyện của Phu tử, nên đôi khi lê la ở chơi cả ngày.

Về phía Vũ, sau khi Toàn Nhật lên phố Hiến th́ chỉ đánh bạn được với Trọng Thức. Tuy hơn tuổi, Vũ vẫn gọi Thức bằng anh, kính trọng về học vấn, nhưng thâm tâm coi Thức chưa đủ kinh lịch rút ra từ cuộc sống. Vũ là ḍng dơi trung thần từ đời Lê Thái Tổ, nhưng gia thế sau cứ lụn dần đi, và nay th́ hầu như bần hàn giống như mọi người sống ở thôn quê, gia đ́nh lấy chuyện cấy cày làm gốc. V́ thế, tiếng Thức noi gương Hứa Hành về làm ruộng, bỏ cả danh vọng, không thi cử hầu mong quan cách khiến Vũ ngấm ngầm tâm phục. Không nói ra miệng, Vũ làm cho Thức hiểu rằng chí ḿnh không phải là đi cầu chút bổng lộc mà c̣n mang nhiều hoài băo khác hẳn giấc mơ của những tên thư lại trong đám lính tam phủ. Vũ vun vào với Thức, cao giọng bảo cái ăn cái mạêc của cả nước là nhờ ở nông dân, những cái nghèo cái đói lại cũng oái oăm đổ vào đầu họ. Chính sự bất công ấy là gốc của những cuộc nổi loạn như loạn Nguyễn Hữu Cầu hay Hoàng công Chất ngày xưa. Gần nhất là năm kia, năm Mậu Tuất, Trần Xuân Trạch cũng dấy quân lên hàng vạn ở khắp trấn Sơn Nam, khiến máu rơi thịt đổ ṛng ră cả năm. Vũ chép miệng: « Rồi cũng lại máu xương của đám đi cầy. Con thầy chùa th́ cứ quét lá đa thôi ».

Một hôm, Vũ dẫn một người tên Đàm Xuân Thụ đến giới thiệu với Thức như là bạn tri âm của ḿnh. Thụ vốn là người được sự tin cậy của thế tử Trịnh Tông, gốc gác cũng từ Nghệ An. Thụ nhắn lời thế tử mong gặp Thức đăi một bữa ăn tối. Cực chẳng đă, Thức nhận lời. Trong bữa ăn có cả Nguyễn Du, v́ Du là em Khản, và Khản lại là thầy dậy học cho Tông. Câu chuyện xoay quanh chính sự. Tông hỏi:

- Theo sấm kư, nhà Chúa chỉ vượng được hai trăm năm mươi năm. Nay đă đến kỳ hạn. Vậy muốn hưng nhà Chúa th́ làm sao ?

Thức ngẫm nghĩ, rồi đáp :

- Muốn có Chúa, tất phải có Vua. Nhà Vua nhà Chúa hưng thịnh có nhau. Vua hưng là do quần dân an cư lập nghiệp mà hưng. Gốc thịnh của nhà Chúa cũng từ ở đó mà ra.

Tông lại nói :

- Cha tôi nay ốm mai đau, nhưng chuyện lập Đông Cung vẫn c̣n bỏ đó. Muốn cáng đáng nghiệp Chúa bây giờ là phải đối đầu với một đám quyền thần đang luồn lách đưa Chúa vào việc phế trưởng lập thứ. Bàn dân thiên hạ sẽ nghĩ thế nào ?

- Thứ mà c̣n thơ ấu th́ lập thứ là tạo cơ hội cho đám quyền thần thao túng. Cứ xem gương những việc trước th́ đó là mầm dẫn đến tai họa. Trong Kinh, đám thần tử cường ngạnh sẽ đâm chém lẫn nhau. Ở ngoài, giặc giă nhân đó lại nổi lên. Theo thiển ư, thế tử cứ yên tâm, ăn ở cho chu toàn chữ hiếu, chữ trung để bàn dân trông cậy vào là sớm muộn ǵ rồi chẳng bao lâu ngôi chúa lại về trưởng thôi. Đạo trị nước gốc từ chữ Tâm. Tâm thuận th́ tắc trị. Ḷng thuận, ắt là theo. Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.

Khi tạ từ, Trịnh Tông vẫn cứ băn khoăn, bồn chồn ra mặt. Ra khỏi cổng dinh, Du thoát được những câu chuyện chàng vốn không ưa, vui vẻ vừa đi vừa lẩm bẩm : «Thiện căn ở tại ḷng ta; chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài », rồi cứ cười tủm một ḿnh.

Trong thời gian đó, bệnh Trịnh Sâm vẫn không thuyên giảm, mỗi ngày lại có phần thêm nguy kịch. Tông xin vào thăm cha, nhưng không được phép. Ngay chính Thánh Mẫu là mẹ Sâm mà cũng chỉ có thể hỏi thăm bệnh t́nh qua quan thị, duy chỉ có Huệ và Lư là gần gũi Sâm lúc ốm đau. V́ thế, tiếng đồn là Sâm đă dâng biểu xin vua Lê lập Cán làm Đông cung thế tử x́ xào khắp chốn. Tông càng ngày càng bối rối, bực bội đi ra đi vào, không biết phải làm ǵ.

Một hôm, Tông vào Hậu Mă cung hỏi Lư về bệnh t́nh cha ḿnh. Lư lạnh nhạt, trả lời cho có rồi khinh khỉnh quay đi. Tông vừa tức, vừa sợ. Rồi không hiểu v́ lư do ǵ, Đăng Khoa lại đánh người nhà của Tông giữa chợ, c̣n rủa chúng là bọn làm mất gia phong. Tông tâu xin trị Khoa tội phạm thượng, triều đ́nh không xét mà cũng chẳng bắt Khoa xin lỗi. Tông càng căm, giận mất khôn, ra miệng chửi thẳng hai cha con Lư. Bọn người nhà thân cận của Tông là Dự Vũ, GiaThọ đều lo lắng, bàn là hễ chúa thăng hà th́ cứ việc vây bắt ngay Lư và Huệ, rồi gọi quân hai trấn Tây, Bắc về tiếp ứng là đủ diệt cái mầm họa cho Tông ở kinh đô. Nghe xúi giục, Tông nhờ Khuê trung hầu đưa cho Đàm Xuân Thụ một ngh́n lạng bạc nhờ sắm sửa khí giới, đồng thời nhắn lên hai trấn Sơn Tây và Kinh Bắc nhờ mua ngựa và chiêu mộ dũng sĩ. Nguyễn Khản, Hiệp trấn Sơn Tây là thầy dậy Tông, c̣n Nguyễn Khắc Tuân, hiện là Hiệp Trấn Kinh Bắc, vốn giữ chức A Bảo của Tông nên Tông hết ḷng tin cậy.

Không hiểu có ai tố cáo, chuyện vỡ lở ra. Quan Chánh dường Hoàng Tế Lư vào báo với Sâm. Sâm giận đ̣i trị tội Tông ngay, nhưng Lư can :

- Khải Chúa, thế tử tuổi c̣n non dại, nếu không có hai quan Hiệp trấn ở Tây, Bắc đằng sau th́ chắc chẳng dám chiêu binh mộ sĩơ. Xin cứ lẳng lặng điều hai người đó về Kinh trước, rồi sau hăy xử tội, nếu không có thể xảy ra những biến họa khác không chừng.

Sâm nghe lời, gọi Tông vào giả trách mắng về chuyện học hành, đồng thời xuống mật chỉ vời Nguyễn Khắc Tuân và Nguyễn Khản về Kinh. Lúc ấy, Ngô Th́ Nhậm, tự Hy Doăn, đương là Đốc đồng Kinh Bắc cũng theo về. Tuân và Khản bị bắt ngay khi vào đến Thăng Long. Nhậm t́m đến dinh Khương Tả Hầu vào chuyện tṛ với Phu tử. Phu tử ghé vào tai Nhậm nói ǵ không ai biết, nhưng nghe xong, Nhậm tái mặt lại, than: « Không được, không được rồi ! ». Sau đó, Nhậm vái Phu tử rồi về quê ngay, lưu lại một tờ khải Chúa xin vắng mặt để lo việc tang ma cho cha ḿnh là Ngô th́ Sĩ. Nhậm vừa ra khỏi, một viên hành tẩu cấp tốc mang lệnh cho đội Hậu Dũng đang đóng ở dinh Khương Tả Hầu. Người thư lại của đội vào th́ thào với Phu tử, trong khi đó lính đội Hậu Dũng đă trói gô Trọng Thức lại. Một lát sau, sáu người trong Nội Mật viện đến áp tải Trọng Thức về Thị Kỵ cung trong Nội phủ.

*

Tay bị bẻ quặt ra phía sau, đầu chúi xuống như đeo đá dưới bàn tay hộ pháp của tên cai ngục, Thức gập ḿnh lách qua cánh cửa hẹp vừa đủ một người lọt. Pḥng giam lờ mờ một thứ ánh sáng đục sệt, mùi mồ hôi ngai ngái như mỡ chiên cá ngột ngạt bốc lên, vừa tanh vừa lợ. Tên cai ngục tay nắm cổ Thức đẩy về phía trước, cứ bước một bước lại văng tục một câu. Qua hai dăy người ngồi kẻ nằm, chân bị cùm vào những chiếc gông dài khoảng tám thước chạy dọc pḥng giam, tên cai ngục ấn Thức xuống, xẵng giọng :

- Duỗi hai chân ra, ngồi co lên.

Tiếng xích kêu loảng xoảng, tiếng gỗ đập chát chúa vào nhau, rồi một giọng khàn khàn ngay bên cạnh quát nhỏ :

- Nhẹ tay chứ, thằng chó... Đau chân ông mày đây...

Tên cai ngục lầm ĺ không đáp lại, quay đầu đi thẳng.

Thức nhắm mắt định thần một lúc, rồi hé nh́n ra. Pḥng giam rộng độ hai mươi thước vuông, nền bằng đất nện, vách bằng gạch cao gấp đôi đầu người, sát nóc là kẽ hở có đóng then gỗ để cho không khí và một chút lợt lạt ánh sáng hắt vào. Trong pḥng dễ có ba bốn chục người bị cùm theo hàng dọc, cứ mỗi cái gông là cùm đúng ba người. Ở góc pḥng giam, một tiếng ồ ồ cất lên :

- Bác ǵ mới vào đây đấy? Vào cùng hội này cho vui ! Ở đây giờ Ngọ được ra ngoài ăn cơm, đúng ba khắc lại vào. Đến cuối giờ Dần là cơm chiều. Bác phải nhịn tiểu, đến giờ ăn ra sân tha hồ. Nói chuyện được nhưng nhỏ tiếng thôi. Đầu giờ Th́n là cấm nói, cả làng đi ngủ ...

Tiếng ho húng hắng cắt ngang, rồi tiếng ồ ồ lại tiếp :

- Hàng quán đây cũng có, tiền có trao, cháo mới múc, trừ loại khách quen. Nước chè một chinh, thuốc lào th́ sáu, rượu chén hạt mít tính mười... Cứ mỗi sáng, một bọn được thả cùm để lo việc phục dịch, ai đến phiên người ấy làm, tiền nộp lại cho bọn cai ngục. Chớ dại ăn quịt nó đáùnh cho què tay, què chân... Bác có ǵ muốn hỏi không ?

Trọng Thức chưa kịp trả lời, người cùm bên cạnh, kẻ vừa chửi tên cai ngục, giật giọng gọi to :

- ... Cho tớ cút rượu đăi ông bạn hàng xóm mới vào chiếu.

Trọng Thức quay sang cám ơn rồi từ chối. Người đàn ông chắc trên dưới sáu mươi, người xương xẩu, cao lớn quá khổ, râu tóc lởm chởm bạc thếch, ngồi thẳng dậy, mắt cḥng chọc nh́n Thức :

- ...Thế th́ bác chẳng ra cái giống nam nhi chúng tôi rồi.

Với tay lấy cút rượu vừa mang lại, ông hả mồm tu ừng ực một hơi, tay kia nắm lấy người xách rượu. Uống xong, ông ta ch́a cái cút rượu ra trả, lần túi giả như t́m tiền, há mồm cười hềnh hệch, nói lớn :

- Chú lại ghi cho ta, bổng vua ta chưa kịp lấy, hà hà...

Ngồi dựa người vào vách, ông ta nhịp tay hát toáng lên :

Này con chim cánh đen,

mỏ vàng mày nhọn,

cựa vàng mày sắc.

Cái lồng nhốt mày bằng nan mục nát,

cứ phá cho tan, rồi bay ra, bay xa...

Tiếng hát nhỏ dần, im bặt và tiếng ngáy ph́ pḥ nổi lên như người kéo bễ. Người bị cùm phía phải Thức khẽ vỗ vào tay chàng, ra hiệu lặng im, rồi cũng nhắm mắt lại không nói năng ǵ cả. Thức thiếp dần trong cái oi bức tưởng ngọâp thở. Mồ hôi cứ ri rỉ nhớp nháp khiến chập sau Thức tỉnh dậy, lột áo ra gấp làm gối tựa đầu. Người bên phải th́ thào :

- Cởi nốt cả quần dài ra, tí c̣n oi hơn nữa. Bác chuyển từ dưới lên ?

Chưa kịp trả lời th́ người đó tiếp :

- ...Ở dưới th́ chưa cùm chân...

Người đàn ông năy vừa uống cút rượu bị cùm phía trái bỗng lại ồm ồm lên tiếng :

- ...C̣n trên th́ cùm cả tay, đến chỗ này chỉ cùm chân là dưới cái ở trên, nhưng trên cái ở dưới, hà hà... !

Thức gật đầu. Người đó lại xoay sang Thức :

- Bác tội ǵ ?

Thức cười mũi :

- Tôi chưa biết !

- Không biết tội ḿnh là một cái tội. Nhiều khi là tội lớn hơn mọi tội đấy!

- Thế c̣n cụ ?

Người đàn ông vỗ đùi cười ha hả, rồi trỏ vào người bị cùm phía tay phải :

- ...Tội hả ? Th́ bác cứ hỏi quan đây là Lănh cơ trấn Sơn Nam ắt biết ! Tội của ông ấy là tội của tôi đấy! C̣n ông ấy, cũng ngây ngô như bác, giả không biết tội, nên tội lại càng tầy đ́nh.

Lănh cơ Sơn Nam ngắt lời :

- Tôi là Nguyễn Quốc Chấn, vừa theo Tuân sinh hầu về đến cửa Tây th́ bị Cấm binh bắt ngay, thật chẳng biết ǵ, tin tức với bên ngoài không có, lại chưa ai hỏi đến. Ông bên kia là Dương Quang, cùng làng với tôi ở Hải Hậu, nay sinh sống trên Sơn Nam... C̣n bác ?

Thức tự giới thiệu, kể chuyện ḿnh theo thầy về kinh được trên ba tháng nay, và đă có gặp Trịnh Tông trong một bữa cơm tối. Dương Quang ngồi im, nghe xong chép miệng :

- Thế ra bác là ông đồ cứng cổ làm ruộng ở La Sơn đấy! Nhưng chắc chẳng phải v́ việc ấy mà bị bắt đâu. Gặp thế tử Tông, bác bàn chuyện ǵ ?

- Thật mà thưa, chẳng có chi đáng kể ! Thế tử hỏi ǵ, tôi biết th́ cứ thẳng mà nói, thế thôi !

- Nói thế nào ?

Thức thuật hết đầu đuôi, rồi nhắc lại :

- ...vậy Thế tử cứ yên tâm, ăn ở cho chu toàn chữ trung chữ hiếu để bàn dân trông cậy vào...Đạo trị nước gốc từ chữ Tâm. Tâm thuận tắc trị.

Nghe đến đấy, Dương Quang nhanh tay quơ sang chẹn lấy mồm Thức, tru lên :

- Vẫn cái giọng ấy, nghe nói thối như cứt ... Thôi, cái này nói th́ chẳng ai nghe. Bác nói thế, cũng chẳng ai thèm bắt bác, bác thầy đồ dở hơi kia ơi ! Đúng, đúng là thối... C̣n nói chuyện với nhau, bác đừng giở giọng nhân nghiă sách vở kiểu đó ra với tôi nữa, tôi nghe tôi nổi cơn lên th́ ... th́ tôi bóp cổ cho chết sặc.

*

Dương Quang năm mười lăm tuổi bỏ nhà đi theo Nguyễn Hữu Cầu, người dân miệt biển từ Hải Dương đến Yên Quảng gọi là quận He. Cầu tự xưng là Tổng Quốc Bảo Dân Tướng, kéo theo cả vạn người dấy binh chống lại đời Chúa trước là Trịnh Doanh. Ba mươi năm trước, Cầu bị nội phản, chạy về Nghệ An th́ bị tướng Trịnh là Phạm Đ́nh Trọng đuổi bắt được. Dương Quang thoát vây, chạy về với Hoàng Công Chất, lúc ấy chỉ huy nghĩa binh vùng Hưng Hóa. Chất cầm cự với quân Trịnh trên dưới gần được ba giáp, chết già, để con là Toản lên thay. Toản tính nhỏ mọn, vừa nắm quyền là t́m cách loại Quang khỏi hàng ngũ. Quang phải chạy sang Quảng Đông, từ đó lưu lạc qua Hương Cảng, Tân gia Ba, Phù Tang, đến Xiêm La, rồi Vạn Tượng. Đến tuổi tri thiên mệnh, Quang ṃ về làng. Đâu chỉ tháng sau là quan nha đă ŕnh ṃ, sau đó Nguyễn Quốc Chấn, lúc ấy đă là Lănh cơ ở Sơn Nam gọi Quang bằng dượng, phải về can thiệp mang Quang lên chỗ ḿnh trấn nhiệm. Mấy năm về đây, Quang suốt ngày đánh bễ, luyện thép làm ṇng súng. Ai hỏi để làm ǵ th́ Quang chỉ vào ḷ lửa đỏ rừng rực, hề hề cười bảo : « Đấy, tương lai đấy » . Người ta lại đồn là khi đi làm loạn, Quang đào dấu được đâu một kho tàng to bằng kho của nhà Chúa. Khi có kẻ ṭ ṃ thóc mách, hỏi gần hỏi xa, Quang lại chỉ vào bễ, giọng nửa bí mật, nửa khôi hài : «Th́ đấy, nó là vàng là tiền đấy ! ».

Hai hôm sau khi nói chuyện với Trọng Thức, Quang ngày nào cũng ngủ vùi, khi tỉnh th́ chỉ ư ử hát, chẳng buồn để ư đến ngoại cảnh. Sáng ngày thứ ba, Quang chợt khều tay Thức hỏi :

- Chú em có giận ǵ anh không ? Hôm nọ anh nói nặng, chắc chú em không quen nhỉ ?

Thức ngạc nhiên nghe cách xưng hô thay đổi, lẳng lặng lắc đầu. Quang ghé vào tai Thức th́ thào :

- Nói rằng « Tâm thuận tắc trị » là rỗng tuếch rỗng toác. Làm chó ǵ có chuyện ấy. Tâm là tâm ai, tâm bao nhiêu mạng chúng sinh để mà thuận rồi trị. Mà trị là trị thế nào ? Trị dính ǵ vào tâm con người ? Người bị trị mà không thấy trị, tức là tâm không v́ trị mà động. Không động mới thật là thuận. Như thế ắt « tắc trị » à ? Vậy có khác ǵ phóng nhiệm, để mặc tự nhiên, «vô vi nhi trị ». Nhưng muốn nhi trị th́ phải trị từ lúc vô thủy vô chung. Bây giờ, đầu chúng sinh chập chùng chồng chất những xấu xa từ bao thế hệ nay. Liệu c̣n cách ǵ đưa con người về cái hồn nhiên con trẻ tự gốc nó là thiện nữa? Thôi đi chú em ơi, đó là chuyện tầm phào, tâm thuận vô phương mà có được. C̣n tắc trị ư ? cứ cho roi cho vọt, sui thằng bần đánh thằng hàn một chặp, rồi chặp sau lại bảy thằng hàn đánh thằng bần, là xong, ha ha ha...

Thức chăm chú nghe Dương Quang, rồi từ tốn :

- Tâm thuận rút lại là người người đều thấy vua ra vua, quan ra quan, cha ra cha, con ra con. Quân, Thần, Phụ, Tử đâu ở đó, cư xử cứ đúng tam cương ngũ thường, lấy đó làm ḥn đá tảng dựng nền để xây lại đời Nghiêu, đời Thuấn.

- Được. Cứ cho là vậy. Nếu vua không ra vua, quan không ra quan th́ sao ? Ai đặt ra vua ra quan ?

- Vua mang thiên mệnh, đến từ ḷng trời. Vua đặt ra quan. Vua không ra vua th́ dùng lời ngay mà khuyên, quan không ra quan th́ lấy lẽ phải mà thuyết.

- Ḷng trời ? A ha ! Thế khi Thái sư Trần Thủ Độ bẫy xập chết hết ba trăm đứa tôn thất nhà Lư rồi ép Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh là ḷng trời ư ? Ai đo được ḷng trời ? Chứng cớ ǵ mà gọi là ḷng trời ? Ăn cắp con gà con vịt, bị bắt trói gô lại, đánh năm mươi trượng là trị tội ăn cắp vặt. Ăn cướp con trâu con ḅ, đánh hai trăm trượng, tịch biên nhà cửa là trị tội cướp cạn. Làm giạêc chiếm dinh, chiếm quận, lấy sưu lấy thuế th́ xử tử, là trị tội phản tặc. C̣n lấy đứt đi cả một triều đ́nh, lại giết cả ba họ nhà vua để tiện miệng xưng vương xưng đế, th́ các vị khoa bảng chữ tốt văn hay lại hoa mỹ gọi là thiên mệnh, cứ thuận ḷng trời mà làm, ha ha ... Rồi xua quân đi dùng sức mạnh mà cướp cả nước Chàm, đuổi dân người ta chạy vào rừng xanh núi đỏ, th́ ḿnh vỗ tay reo là mở mang bờ cơi, cái thế anh hùng. Chỉ có Vua mới làm được việc ăn cướp như thế, lại thế thiên hành đạo, nên chính cái việc cướp bóc đó cũng là bởi ḷng Trời... Dương Quang nhổ nước bọt, giọng khinh bạc, tiếp...Cứ qui tất cả vào thiên mệnh cho gọn, ha ha... mà thiên mệnh th́ tránh thế quái nào được, phải không chú em ?

C̣n cái lũ quan quyền. Chúng lập thân từ khoa bảng từ chương, tập tành miệng lưỡi ngay hồi tấm bé, chuyên đánh đĩ, tán tỉnh, nói theo, nói hớt. Ít đứa dám tự ḿnh suy xét, luận ra lẽ trái lẽ phải bằng cái đầu của chính chúng nó. Cứ vứt cái ǵ ra cho chúng nó ăn, tất chúng nó vỗ tay tán tụng rồi x́ xào là ân với đức. Thời loạn lạc, vừa vứt cho ăn vừa hứa hẹn là sẽ c̣n thêm, có đứa cũng liều mạng vào nơi hiểm nguy để ra cái điều công lao hăn mă. Ăn bằng mồm thôi chưa đủ, lắm đứa c̣n nhấp nhổm lưu danh để tiếng cho đời. A ! bọn này tinh tế hơn, không bạ ǵ nuốt nấy, hậm hực cao rao đạo lư, chơi kiểu mồm miệng đỡ chân tay...

Dương Quang ngưng nói, tay vân vê vài sợi râu bạc thếch, thở dài :

- ... Về phần đám dân đen thấp cổ bé miệng, nào là sưu là thuế, nào là sai là dịch, bắt đinh bắt lính. Với dân, đám có quyền có bính cứ mềm nắn rắn buông, bởi lẽ không buông th́ cùng quá hóa giặc. Lúc ấy được làm vua. C̣n thua ư ? Là măi măi giặc. Từ năm mươi năm nay, lúc nào cũng giặc, giặc lớn có, giặc nhỏ đầy rẫy kể không xuểå. Năm Mậu Th́n, ta mang tiền quân cụ Quạân He đổ vào bến Bồ Đề ven Thăng Long.Thủ lĩnh Lân cầm chân được binh nhà Trịnh trên Sơn Tây và Kinh Bắc, chặn đường cứu viện của bọn Phạm Đ́nh Trọng và Hoàng Phùng Cơ. Quân ta vây chặt phủ Chúa, đợi quân bộ cụ Quận từ miệt Sơn Nam kéo vào là đánh. Cụ Quận hai ngày sau mới tới được, mặt mũi rám thuốâc đạn, mừng mừng tủi tủi hỏi ta về binh t́nh. Ta ước chỉ một ngày là dẹp xong đám quân phủ Vua phủ Chúa mà thôi. Ta hỏi lại : «... Đánh xong, chủ tướng làm ǵ ? ». Cụ Quận ngẩn người ra ngẫm nghĩ rồi nói : « Ta không định làm Vua... Ta không biết làm Vua bây giờ để làm ǵ .. ». Ta nói với cụ : « Chiếm được nhưng giữ th́ không dễ, mà giữ lại không muốn làm Vua th́ vô lư lắm ». Cụ Quận suy đi tính lại rồi bảo : « Ta cũng không định làm Chúa, làm Chúa người ta chửi cho » rồi cụ quyết định rút quân. Về đến căn cứ, ta hỏi : «... Chẳng lẽ cứ làm giặc măi à ?¨ » th́ cụ gắt nhặng lên : « Thời này mày không làm giặc th́ làm ǵ ? ». Ta bạo miệng nói : « Chủ tướng làm Vua th́ Dương Quang này chỉ xin đi điều người đắp đê sông Nhị cứu lụt. Mỗi năm mỗi lụt dân đói dân khổ lắm ...» Mắt cụ Quận sáng lên, rồi bỗng tối xầm lại : « Tiên sư nhà mày, sao không nói lúc ở Thăng Long ? Giờ muộn mất rồi c̣n ǵ ! ».

Dương Quang lại im tiếng, tay đánh nhịp vào ṿng xiềng buộc đầu gông, nhắm mắt đắm người vào cái quá khứ vừa được đánh thức dậy. Chập sau, ông lại se sẽ hát, rồi thiếp ngủ đi lúc nào chẳng ai biết.

*

Sau những buổi tṛ chuyện với Dương Quang, Trọng Thức ngày càng rơ ra là kiến thức của ḿnh chỉ rặt những thể loại trừu tượng, những mẫu mực lư tưởng đă định sẵn. Trước những câu Quang luôn miệng hỏi là tại sao ? làm thế nào ? và để cho ai ? th́ Thức lúng túng nói quanh, rút cục đành nhận cái thiếu xót hiển nhiên đó. Với những kẻ ra làm quan vỗ ngực đóng vai cha mẹ của bàn dân, thứ thiếu xót này tựa như vực thẳm, mênh mang đến chóng mặt. Quái lạ, sao lại không một ai đề cập đến nó từ bao nhiêu thế hệ nhà Nho ở cái xứ sở này nhỉ ?

Ban đầu, Thức chỉ cho rằng Quang lịch lăm, từng trải, nên Quang hẳn có loại kiến thức thực dụng. Về sau, Thức biết ḿnh lầm. Từ ngạc nhiên nay đến ngạc nhiên khác, Thức lờ mờ đón nhận từ Quang một cách suy nghĩ dựa trên những phê phán rất độc lập. Khác hẳn với cái biết của Nho gia lâu nay khô sượng rập khuôn, nó sống động, táo tợn, đôi khi mới mẻ đến bất ngờ. Suy nghĩ đó đang thai nghén để định h́nh nên lại càng vô cùng hấp dẫn, quyến rũ tri thức vào những vùng đất cấm của thời đương đại.

- Quân, Sư, Phụ - Quang cao giọng - chẳng qua là một cách áp bức tinh vi đến độ những kẻ bị áp bức sẵn sàng chết để bảo vệ chính sự áp bức đó. Đừng hỏi vua là ai vội. Trước tiên, Vua là ǵ ? Là cái chính chúng ta - lũ bàn dân - đặt lên ngai, trao quyền, tung hô là Vua. Đó chỉ thuần là định danh. C̣n thực thế nào ? Định danh Vua xong, ta co lại định phận cho ḿnh : ta là phận dân ngu, cúi mặt xuống đất đen, đợi ơn mưa móc từ cái ta vừa định danh. Rồi ta cong lưng quị gối xin rằêng Vua là minh quân ! Làm sao có được minh quân ? Bàn dân bấy giờ chắp tay cầu Trời khấn Phật : có ư, có là bởi may, nếu không, ấy lại do thiên mệnh đă định cả. Khổ một nỗi, minh quân đời nào cũng hiếm. Sao vậy? Bởi ta chưa biết cách, bàn dân chưa biết cách tạo ra minh quân ! Này chú em, chú phải t́m ra cái cách ǵ mà khi bàn dân đă nhận là Quân th́ Quân ắt phải Minh...Phải chăng quân thần chẳng qua là một định ước của toàn bàn dân thiên hạ về quyền hành giới hạn cho một người, hay thậm chí một số người, để làm cái công việc mà mỗi cá nhân người dân không thể, hay không muốn, trực tiếp làm. Tóm lại, đó chỉ là một công ước về sự ủy nhiệm. Tối thiểu, cái công ước đó phải đảm bảo người được ủy quyền không biến dạng ra kẻ thống trị, và người trao quyền - là bàn dân - không phân hóa thành kẻ bị trị. Cứ thế, quân ắt phải minh chính là do qui chế của cái công ước bàn dân cùng định. Không đủ minh th́ chính cái qui chế vừa nói sẽ định cách thế quân...

Ngưng nói, Quang trầm ngâm một lát, rồi tiếp tục th́ thào như tâm sự :

- Chú em ạ ! Quân mà muốn cho Minh th́ phải tuyệt đối tránh tập trung quyền sinh quyền sát vào tay một số người, nhất là khi họ có khả năng bám giữ quyền lực một cách vô hạn định. Thời gian và quyền lực trộn lại là độc tố tiêu ṃn mọi đạo đức. Thậm chí, nó có thể giết sạch tính người, và từ đó xóa sổ luôn cả xă hội : những con người bị áp bức cứ dần dần đánh rơi mất nhân tính ḥng tồn tại, một thứ tồn tại thuần theo bản năng của mọi loài động vật...

*

Một buổi sáng, cai ngục vào gọi Thức ra cho gặp người nhà vào thăm. Thức đoán là Phu tử, hỏi nhưng tên cai ngục chỉ giục :

- Nhanh lên, ra ắt gặp...

Đưa Thức đến một gian ở chái sau trong ngục, hai tên đầu trâu mặt ngựa lực lưỡng đă đợi sẵn hất hàm ra lệnh bắt Thức cởi hết quần áo. Trần truồng như nhộng, Thức bất ngờ bị một cú đấm vào giữa mặt. Thức cắn răng, nỗi nhục nhă đau không kém ǵ những cái đá, cái đạp, cùng những tiếng chửi tục. Một tên răng vổ chửi « ... Cha tiên sư mày ! » rồi quay ṿng thúc cán gậy vào trán Thức. Xây xẩm, Thức thấy một ngh́n con đom đóm trong mắt bay ra, ngă phục xuống thềm đất ẩm ướt. Máu trên trán Thức tóe ra, phun có ṿi, lai láng chảy xuống mũi, xuống mồm. Đầu lơ mơ, Thức nghe văng vẳng « ... nhẹ tay chứ. Nó chết là mày phải tội đấy ».

Gần trưa, chúng nó d́u Thức ra phía sân trước. Người đến thăm Thức là Đặng thị Mai. Mặt mũi sưng vù, thâm tím, trán toác ra, máu c̣n nhỏ giọt qua nắm thuốc lào rịt vào chỗ đánh, Thức vẫn gượng cười gật đầu chào Mai. Xanh như tàu lá, Mai nén cơn sợ hăi nh́n Thức. Xin một thau nước, Mai nhúng khăn ướt, lẳng lặng lau máu trên mặt Thức, ḷng vừa thương xót, vừa căm giận, nước mắt ứa ra.

Thức gh́m cơn đau hỏi thăm tin Phu tử. Mai gửi lời Phu tử nhắn Thức rằng không phạm tội th́ tuyệt đối không bao giờ nhận tội ǵ cả, sống chết có số, chẳng có chi mà sợ. Lần này, nghe đến hai chữ số mệnh, Thức miệng rách toạc mà vẫn ngoác ra không nhịn được cười, mồm cười như mếu, khiến Mai không hiểu ǵ, đă sợ lại càng sợ. Chia tay, Mai nắm lấy tay Thức dúi vào một bọc vải, mắt nh́n như thể gửi gắm một điều ǵ chẳng thể nói ra miệng.

Thức bị lôi về pḥng giam, lại ngồi cùm, gượng cười với Quốc Chấn và Dương Quang. Quang chửi tục, xé một mảnh áo, gọi lớn « ... mang cho ít thuốc lào đây ». Rịt thuốc lại, rồi băng bó cho Thức, Quang vừa làm vừa hỏi đầu đuôi. Thức nhịn đau, kể lại lời nhắn của Phu tử. Quang trầm ngâm một lúc rồi bảo :

- Chúng nó đánh chú em là để làm áp lực trên Nguyễn Thiếp ! Áp lực ǵ chú em có đoán ra không ?

Thức trả lời :

- Chắc việc phế Tông lập Cán !

Dương Quang lắc đầu:

- Không cần thế ! Bắt Tông rồi, lại bắt luôn cả Nguyễn Khắc Tuân và Nguyễn Khản, th́ việc phế Tông coi như đă xong.

Thức x̣e tay mở bọc vải Mai đưa. Trong bọc vải là một chục quan tiền, và một tờ giấy, soi ra sáng có ghi hai chữ Trung Nhu. Thức hỉ hả vỗ vai Quang :

- Em có tiền cho hai bác uống rượu đây !

Dương Quang vẫn lầm ĺ bất động. Một lát sau, Quang bỗng phá lên cười sằng sặc :

- Ta hiểu rồi ! Quang hạ giọng - không sao đâu, chú em ạ ! Nguyễn Thiếp thừa sức suy ra được. Chúng nó mang chú em ra xử là thế dương đông kích tây, nhắm vào Nguyễn Thiếp buộc làm một điều ǵ đó. Chú nhớ cứ một mực cứ kêu ḿnh vô tội nhé, hà hà...

Ôm lấy vai Thức rồi chồm người về phía Quốc Chấn, Quang nói to :

- Có tiền chỉ để có rượu, có thuốc. Chú uống với anh chai này đánh đố với ông xanh xem sao nhé. Bớ rượu đâu, mang cả chai đến đây... Nợ ta trả hết một thể... Chú em cũng làm một chén với anh. Ha ha, nợ nào ta cũng sẽ trả... ha ha ha...

Một chập sau, những người tù bị giam chung lại nghe tiếng Dương Quang ồm ồm hát : Này con chim cánh đen.... mỏ vàng mày nhọn... cái lồng nhốt mày bằng nan mục nát ... cứ phá cho tan , rồi bay ra, bay xa...

*

Khoảng một tháng sau ngày tốâng giam, Chúa giao cho Nghĩa Phái hầu Lê Quí Đôn hiện là Đồng tham tụng tra xét Tông, Khải, Khắc Tuân và bè đảng của Tông, trong đó có một số thư lại thuộc lính tam phủ như bọn Trần Nguyên Nhưng, Mai Doăn Khê, Nhưng Thọ ... Đến lượt luận tội Thức, quan Đồng tham tụng nghe tiếng nên tiếc tài, giả vờ quở :

- Ngươi mới đặt chân tới Kinh Kỳ, ở chốn thôn dă nên dễ bị người lung lạc, cứ biết sao nói vậy, thật thà kể ra hết th́ giảm tội.

Thức thuật lại mọi chi tiết trong bữa tiệc Tông mời buổi tối cách đây hai tháng. Quan định tâm tha nhưng viện Nội Mật đ̣i Thức đối chất với Đàm Xuân Thụ. Thụ kể :

- ... Trọng Thức c̣n xướng lên : « Chữ Binh kia mới bằng ba chữ Quyền » và bảo riêng với tôi rằng cái xương sống của quyền lực nằm dọc theo lưng lưỡi kiếm.

Thức lắc đầu cười nhạt không nhận. Người của Nội Mật lại khai rằng năm xưa có tin Thức định làm loạn. Chính Nguyễn Khản đă can thiệp với Hiệp Trấn Nghệ An là Hoàng Tế Lư để bỏ cái lệnh cấm Thức không được ra khỏi hai huyện Thanh Chương và Thanh Oai. Ngày nay, bám được vào Tông với Khản, Thức chẳng qua lại ngựa quen đường cũ nên nài quan Đồng tham tụng định tội mưu phản. Nh́n thẳng vào mặt Đàm Xuân Thụ, Thức hỏi :

- Ông xưng là gia nhân thế tử Tông đến mời tôi, lúc ấy ông đă làm trong Nội Mật viện chưa ?

Không đợi Thụ trả lời, quay sang Lê Quí Đôn, Thức tiếp :

-Tŕnh quan, viện Nội Mật buộc ai th́ người đó không cũng thành có tội, tha th́ có tội lại thành không. Kẻ tiện dân là cá nằm trên thớt, quan xử thế nào cũng chỉ là chuyện để phiếm mà thôi.

Quan Đồng tham tụng ngại ngùng rồi tạm hoăn việc định tội lại.

Ngay buổi chiều sau ngày luận tội Trọng Thức, Phu tử đ̣i gặp quan Chánh dường Hoàng Tế Lư. Khác mọi lần trước, Lư bắt Phu tử đợi đến lúc mặt trời xế bóng mới mời vào điện Hậu Mă, nơi Lư đến nghỉ ngơi sau khi chầu Chúa. Lạnh lùng, Lư đưa tay mời ngồi, không nói năng ǵ. Phu tử nh́n vào mắt Lư một chặp, rồi chậm răi đi thẳng vào câu chuyện giằng co với công việc nhà Chúa từ ngày đến đất Thăng Long :

- Trăm họ, kể cả họ Nguyễn ở La Sơn đă hơn hai trăm năm nay ăn lộc của Vua của Chúa. Xưa, đức Trạng Tŕnh đă dặn « muốn ăn oản th́ phải thờ Phật ». Cách đây hai năm, Chúa đă sai Vũ Trần Thiệu sang cống hiến nhà Thanh, mật biểu rằng con cháu nhà Lê không c̣n có ai xứng đáng để nối dơi nghiệp Đế. Quan Chánh dường thừa biết là Thiệu đến Động Đ́nh hồ th́ nuốt biểu vào bụng rồi uống thuốc độc mà chết, tránh cho nhà Chúa cái chuyện đại nghịch. Nguyễn Thiếp tôi dẫu ngu muội cũng không thể nào không lấy đó làm tấm gương cho ḿnh, nên dù cả họ phải chết để giữ toàn tiếng cho Chúa cũng đành chịu chứ có xá chi một mạng Trọng Thức ! Như vậy, bắt tôi đồng ḷng soán ngôi nhà Lê th́ nhất quyết là tôi không...

Phu tử ngừng nói, nâng tách trà uống từ tốn, rồi tiếp :

- ...Phần Trọng Thức, tôi vừa là thầy, lại vừa là bác nên nó bị Nội Mật viện khải tội th́ tôi chỉ c̣n biết dậm chân kêu trời, xấu hổ không dám nh́n Chúa, xin ông tâu Chúa cho Thiếp này về lại nơi thôn dă.

Phu tử đứng dậy, ṿng tay chào, cười nhạt :

- Nếu chính là ngài bắt tội họ Nguyễn ở La Sơn th́ chừa ra Toàn Nhật. Không biết đích thực bố nó có phải họ Hoàng không, nhưng mẹ nó là người họ Vơ. Vơ thị đă trầm ḿnh trong ḍng Lam Giang khi thằng bé mới đẻ, tôi đem nó về nuôi khi lên mười là nuôi hộ cho bố nó đấy !

Lư mặt sầm lại, gượng gạo mời Phu tử ngồi, song gằn giọng :

- Việc soán th́ thôi. C̣n việc phế Tông lập Cán ?

Phu tử ngẫm nghĩ , rồi lắc đầu chán nản thở dài :

- Việc đó cứ coi là việc riêng nhà Chúa,Thiếp này là kẻ tiện dân nên muốn hay không cũng chỉ cắn răng cúi đầu ngậm miệng.

Mươi ngày sau, Trịnh Sâm vời đủ mặt đông đảo quan thị trong triều, khóc như thói quen của những người có cái quyền định đoạt sinh mạng kẻ khác lúc sắp sửa giết ai. Lấy khăn chấm nước mắt, Sâm phán: « Tông và bè đảng đều phạm tội đại nghịch, theo sách Xuân Thu th́ lẽ ra là phải xử chém. Song nghĩ t́nh máu mủ, nay không bắt chết nhưng đánh xuống làm conn «út » giam vào Nội phủ. Hồng-lĩnh hầu, Tuân-sinh hầu và Khê-trung hầu đều là công thần đă theo ta từ thuở mới chấp chính nên cho phép được tự xử chứ không mang chém. Kỳ dư, bè đảng của Tông cứ theo định tội mà làm, không được giảm xá ».

Lê Chính giữ một chức quan nhỏ trong Lượng phủ ra qú tâu: « ...có những kẻ đă dồn Thế Tử vào đường cùng cho mới nên nông nỗi ». Trịnh Sâm gạt tay không cho Chính nói tiếp. Khi tan chầu, Lư đợi Chính ở cửa phủ, nh́n vào mắt, khen « Cậu rơ là người khôn ngoan », tiếng cậu là tiếng chỉ quan thị dưới đời Lê-Trịnh. Ngay hôm sau, Chính mang cả gia đ́nh trốn nhưng bị người trong Nội Mật viện bắt lại. Lê Chính tự tử nhưng được cứu không chết, năm sau mới ra khỏi ngục trong buổi loạn Kiêu Binh.

Khản làm một bài văn Nôm lén chuyền được vào cho Chúa, kể lể t́nh xưa nghĩa cũ với Chúa. Trịnh Sâm đọc xong, nhớ lại cái thuở Khản hết ḷng pḥ ḿnh, ngần ngừ rồi cuối cùng giảm án cho Khản, không bắt chết mà chỉ giam vào dinh Quận Châu. Hoàng Tế Lư rất bực bội, nhớ lại chuyện Khản và Đĩnh định hại ḿnh cách đây dăm năm. Lư biết lỡ dịp này th́ khó diệt được Khản nên vào nói nhờ Thị Huệ can thiệp. Sâm khăng khăng ư ḿnh. Thị Huệ giựt viên ngọc quí Sâm lấy được khi vào chinh chiến Đàng Trong vẫn đính trên áo ngự quăng xuống đất, miệng gào khóc kể lể. Sâm cuốâng quít, làm hề chọc cười Huệ, nhưng Huệ lại càng khóc to hơn nữa. Cuối buổi tối hôm đó, để cho Huệ vui lên, Sâm đành hứa gả con gái là công chúa Ngọc Lan cho Đặng Mậu Lân, tên hung thần mắt cú.

Ít lâu sau, Tuân sinh hầu và Khê trung hầu đều uống thuốc độc tự tử. Về phần Trọng Thức, có mọât người lạ mạêt nhận là kẻ phục dịch cho Tông ra phản cung Đàm Xuân Thụ. Viện Nội Mật cũng thôi không o ép nên Thức xem như trắng tội.

*

Ngày Thức được thả ra là ngày mười sáu tháng chín. Hôm ấy cũng là ngày đao phủ đem chém dư đảng của Tông, đếm ra đúng chín mươi bẩy nhân mạng. Pháp trường được đặt trên mặt đê Yên Phụ, cách chùa Trấn Quốc chừng non một dặm. Buổi sáng, quạ không biết từ đâu về đậu đen đặc bờ tả ngạn sông Nhị, quang quác lên đến rách toang màng nhĩ. Trời xuống gần đất và mây xám xà vào đậu trên những ṿm cây rũ rượi dưới trận mưa phùn đă kéo lê ṛng ră ba ngày. Chính Ngọ, bàn dân ai nấy giật ḿnh nghe thấy một tiếâng nổ như sấm động, sau người hàng phố th́ thào với nhau rằng núi Hùng tự nhiên sụp xuống gần hai mươi thước.

Thức lẩn vào đám đông, mắt ngóng lên đài chém, , vết thương trên trán nay đă thành một vết sẹo chạy đâm xuống chân mày, cứ giật lên mỗi lần chàng lo hay phải tập trung suy nghĩ. Lạy trời, Thức thầm nhủ, lạy trời là thoát. Ḷng chập chờ hy vọng, Thức nhướng người nh́n, mong không có bóng dáng Dương Quang trong đám tử tù.

Hai ngày sau trận đ̣n hôm Mai vào thăm, Thức bị chuyển pḥng. Khi chia tay, Dương Quang chỉ kịp nh́n Thức bùi ngùi : « ...chú em thoát được th́ vào Đàng Trong, rồi đi xa để học cái tốt người ta mang về mà giúp đời. Nhớ nhé, một là tránh cho bằng được cái học rỗng tuếch, thứ là chớ có sa vào bất cứ khuôn mẫu ép buộc nào, kể cả Quân-Thần, Sư-Môn, Phụ-Tử, Phu-Thê nếu nó là ép buộc. Đời ta, ta chỉ trọng độc có một cái là t́nh bạn mà thôi ! ». Từ đó, Thức bặt tin Dương Quang, nhưng mỗi khi nhớ đếùn, Thức lại bồn chồn lẫn đau xót.

Đám tội phạm bị trói giật cánh khuỷu, xếp hàng bước theo chân nhau, lặng lẽ đi như đám ma chơi sau khi ăn cháo thí lễ cúng cô hồn. Trong đám đông đă có dăm ba tiếng chửi tục và tiếng nức nở kêu oan. Chợt tiếng hát ở đâu đây oang oang lên như lệnh vỡ :

Này con chim cánh đen,

mỏ vàng mày nhọn,

cựa vàng mày sắc.

Cái lồng nhốt mày bằng nan mục nát,

cứ phá cho tan,

rồi bay ra, bay xa...

Nhạc bát âm từ đâu chợt vẳng lên, gần lại, và chỉ trong giây lát ai cũng nghe rơ tiếng sênh tiền. Bụi cát bay mù mù, rồi cờ quạt phần phật rợp kín cả trời, lính tráng rầm rập nện chân trên đê như đi dận đất chống lụt. Một người đàn bà cùng ba đứa con c̣n nhỏ chạy ào vào ôm lấy chồng lấy cha. Tiếng quát tháo, tiếng đấm đá th́nh thịch, tiếng chửi, tiếng khóc. Đàn quạ bay lên lượn qua lượn lại kêu phụ họa với hồi trống cái đă th́ thùng dọa nạt. Chập sau, tiếng những người đao phủ rống lên với nhau bài hát trước khi chém đầu như đi hát đúm:

Tiếng loa vừa dậy.

Hồi chiêng đă mau.

Sống chẳng thù nhau.

Chết không oán nhau

Tiếng hát được nhịp theo bằng tiếng rơi b́nh bịch như tiếng những quả mít cuối mùa ĺa cành rụng xuống trong cơn gió dữ.

Khi điệu Nguyễn Quốc Chấn, thủ hạ của Tuân sinh hầu Nguyễn Khắc Tuân, ra chém th́ trời tối sầm xuống. Chấn gào lên « Trời không có mắt, triều không có quan, để ta chết oan. Hăy để bút giấy vào tay áo ta cho ta xuống kiện với Diêm Vương » rồi nhất định không chịu qú. Đao phủ hươi đao, đầu Chấn rơi xuống đất nhưng người vẫn trơ trơ không ngă, phải khiêng ra như người ta khiêng một thân cây cứng nhắc.

Đó là vụ án Canh Tư được ghi lại trong Biên Niên Lịch Sử Cổ Trung Đại như sau:

1780-(Canh Tư)

Tháng 9 âm lịch. Cung phi Đặng Thị Huệ được Trịnh Sâm sủng ái muốn giữ ngôi Chúa cho con là Trịnh Cán. Con trưởng của Sâm là Trịnh Khải mưu cùng Đàm Xuân Thụ, Nguyễn Lệ trấn thủ Sơn Tây, Nguyễn Khắc Tuân trấn thủ Kinh Bắc, khởi binh giành ngôi Chúa. Việc vỡ lở, Sâm bắt giam Khải và một số người đồng mưu.

Dĩ nhiên ai cũng hiểu Khải c̣n có tên là Tông, và Lệ là Khản. Không ai nhắc đến vai tṛ của Huy quận công Hoàng Tế Lư. Không ai lưu ư rằng Thụ được phong Hầu sau vụ án. Và nhất là chẳng có một người nào, cả thời xưa lẫn thời nay, quan tâm đến đám chín mươi bẩy người tội phạm.

Ngày hành h́nh trong vụ án năm Canh Tư, nước sông Nhị lại thêm một dịp đỏ hơn trước và đàn quạ hôm sau không biết bay về đâu. Cho đến hết đời Tây Sơn, cư dân sống ven sông Nhị thỉnh thoảng lại nghe văng vẳng tiếng hát về những cánh chim. Không biết Dương Quang, họ đồn rằng đó là oan hồn Nguyễn Hữu Cầu hiện về hát khúc « Chim trong lồng » do chính ông trứ tác khi đợi ra pháp trường hơn hai mươi năm về trước.

Tối hôm chém đầu chín mươi bẩy người tội phạm, mặt trăng sợ không dám ló hết ra. Trăng mười sáu mang h́nh lưỡi liềm cứ lơ lửng giữa trời đe dọa.

Hơn hai trăm năm sau, mặt trăng ấy vẫn chưa tṛn.

 

3 Nhát gươm ân sủng

 

Từ lưng đồi nh́n xuống, hai nhánh đê trông hệt như người ngă xoạc cẳng, lưng dựa vào sông Nhị đỏ ngầu mùa nước lớn, đầu gục vào nhánh phụ cuồn cuộn bọt trắng trôi về miệt Thái B́nh. Ngay chân đê, quán nước lặng lẽ nép vào triền đất mầu đỏ nâu, nhỏ bé, nhẫn nhục. Lăo Thuyết ngồi gật gù, tay mân mê dăm sợi râu bạc thếch, lờ đờ nh́n ra bến thủng thẳng : « Chắc không c̣n chuyến nào ». Nắng trên sông nhạt dần. Toàn Nhật nâng ly nước chè xanh uống một hơi, mặt có chút đăm chiêu, hàm râu đen nháy quanh hàm phập phồng theo nhịp thở. Nhướng mắt lên nh́n về phía bờ đê Phi Liệt, Nhật thở ra : « Đợi thêm một lúc xem sao ».

Lăo Thuyết lại gạât gù :

- Ừ th́ đợi ! Tôi sống trên bến này ngày nào là đợi ngày ấy đấy. Càng đợi lâu, càng sống dai. Các cậu trẻ hay sốt ruột chứ tôi à, tôi sống là đợi ... hà hà. Hai chục năm trước, thuyền bè đến luôn, bến lúc nào cũng tấp nập. Nay th́ khác, khác nhiều ...

- …

-Thuyền khách ít văng lai là v́ có lệch Chúa cấm. Với lại, thuyền Hà Lan thuế bến tăng gấp hai mươi lần nên họ cập Hội An. Đến Phố Hiến chỉ c̣n thuyền Phù Tang, thuyền Phú Lăng Sa thôi. Nhưng cứ ngày ít dần đi, thậm chí một năm chỉ c̣n trên dưới hai chục chuyến ...

- Sao vậy cụ ?

- Ấy, khó lắm. Được ḷng Đằng Trong th́ mất ḷng Đằng Ngoài. Chẳng ai vừa bụng được, cả Nam lẫn Bắc. Rồi trăm thứ tốn kém. Hàng ta về muộn, bốc rỡ chậm, không chất lên thuyền khách ngay. Cứ rề rà, thế là thuế bến tăng, chỉ khách thương là phải x́ tiền ra chứ quan nha có lỗ lă ǵ đâu. Như cậu, h́nh như chuyến này cậu ra đợi thuyền về là lần thứ năm hay lần thứ sáu th́ phải ...

Toàn Nhật uể oải gật đầu. Bốn tháng trước, chàng rời Kinh đến đây với bức thư gửi gấm từ dinh quan Chánh dường Hoàng Tế Lư. T́m gặp ông Śn, một người Hoa đến cư ngụ Phố Hiến trên ba mươi năm, chàng ngần ngừ đưa bức thư. Ông Śn khịt khịt mũi, vỗ vỗ tay chàng, kêu : « Hảo ! hảo ! ». Hai hôm sau, ông ta đưa chàng đến Nhật Bản Thương Hội gặp Koji Mishima.

Koji Mishima khoảng tứ tuần, cao lớn, nghiêm nghị. Với mớ tóc búi ngược ra sau như kéo xếch mắt lên, mặt ông căng thẳng, ngược hẳn lại cung cách khoan thai chậm răi . Giọng ông nói ê a, kéo dài ra khàn đặc, nửa như hát, nửa như than. Ông bằng ḷng. Từ hôm đó, Toàn Nhật dọn về ở một căn pḥng phía sau Thương Quán, sát hàng dậu nơi Mishima cư ngụ.

Việc chàng được giao phó là chép lại tất cả sổ sách thương vụ sáu năm nay, kể từ khi Mishima sang phụ trách điều hành Thương Hội. Toàn Nhật làm công việc được giao phó trong ba tuần rồi đưa lên tŕnh Mishima. Ông ta lật ra, lơ đễnh nh́n tập giấy, lẳng lặng gật đầu. Cả tuần lễ sau, ông ta không hỏi han ǵ, mỗi lần gặp chỉ khẽ nghiêng ḿnh chào Toàn Nhật. Đợi thêm một tuần, Toàn Nhật lên chào Mishima xin nghỉ, phần v́ cuồng chân cuồng tay, phần v́ nóng ruột nghe tin Trọng Thức bị bắt bỏ ngục trên Kinh. Mishima khẽ gơ ngón tay xuống mặt bàn hỏi:

- Ông không thích công việc ?

- Việc ông giao đă làm xong, tôi ăn không ngồi rồi hai tuần nay rồi.

- Th́ đă sao ? Tôi trả lương cho ông được mà.

- Cám ơn ông. Tôi không dám nhận.

Mishima ề à như thách thức :

- Có việc khác đấy, nhưng khó hơn, đ̣i hỏi hơn, ông có khả năng không ?

Toàn Nhật ngước mắt lên nh́n dọ hỏi. Mishima lẳng lặng lôi ra một tập giấy đưa Toàn Nhật :

- Làm việc này th́ ông phải kư giấy nhận điều kiện với tôi.

Toàn Nhật cúi xuống đọc. Máu rần rật đưa lên làm mặt chàng đỏ dần. Nh́n thẳng vào mặt Mishima, Toàn Nhật gặng nói chậm răi :

- Hao hụt hai lạng vàng, chém một tay. Sáu lạng, chém hai tay. C̣n trên mười lạng, chém đầu.

Mishima gật đầu.

- Đă nhận làm, không bao giờ có quyền tự được nghỉ. Nghĩa là suốt cả một đời ?

Mishima lại gật đầu.

Toàn Nhật ngẫm nghĩ, cười nhạt, hỏi :

- Ông cho người chúng tôi là đám ăn cắp, lại sẵn sàng làm nô lệ ?

Mishima chỉ khẽ lắc đầu, vẫn không nói năng ǵ cả. Nhật gặng :

- Ông đă chém ai chưa ?

- Tôi đă chém bốn lần, hai lần là chém tay, c̣n hai lần kia phải chém đầu.

Toàn Nhật gằn giọng :

- Hừ ! Một mạng người giá là mười lạng vàng. Ông tính toán thế nào mà ra cái số ấy ?

Mishima chậm răi :

- Thật ra chỉ ăn cắp một chỉ vàng cũng đă đáng chém đầu. Tôi không hề nghĩ đến cách đánh giá một mạng người như người ta đánh giá một mặt hàng bày ở chợ. Tại sao mười lạng ? Có lẽ v́ tôi già rồi, bớt đi cứng rắn chăng ? Hay có lẽ v́ tôi không thểà không ứng xử cho phù hợp với cái xă hội tôi đang sống trong đó ? Phần đối với tôi, nếu tôi lấy của ai đó một chỉ vàng mà không được sự ưng thuận hay không có ǵ để đền đáp, chính tôi sẽ tự chém tôi, chẳng cần ai khác !

Toàn Nhật lấy bút, chấm mực, thảo nhanh : « ... hao hụt một chỉ vàng là chấp nhận chém đầu, nhưng có thể nghỉ việc bất cứ lúc nào ». Đưa tờ giấy do tay ḿnh thủ bút, Toàn Nhật đứng lên , hỏi : « Có người ăn cắp v́ nghèo đói, có chém không ? ».

Mishima gật gù, ề à :

- Những ai nhận làm với điều kiện tôi đặt đều có thù lao hệt như tôi. Với lợi tức đó, họ không phải là những người nghèo đói ! C̣n như điều kiện ông vừa đề nghị, để tôi nghĩ lại xem. Xin ông cứ ở lại thêm vài ngày, đi chơi đây đó, tôi sẽ trả lời ...

*

Như lệ thường, Toàn Nhật dậy sớm, mỗi sáng bỏ ra ba khắc múa gươm. Sau đó, chàng thả bộ đi vào Phố Hiến, đôi khi ghé lại chào hỏi ông Śn, chủ một tiệm thuốc bắc. Phố Hiến không phồn hoa như trên Kinh, nhưng đă mang dáng dấp thị thành. Ngoài cư dân địa phương, số người ngoại quốc có thời đă chiếm đến một phần ba. Người Tàu quây quần vùng phố Khách. Người Nhạât xây Nihon-machi phía đông. C̣n lại, đa số người phương Tây tụ họp quanh Nhà Thờ. Hiện nay, người Hà Lan gần như không c̣n một ai. Số ở lại gồm dăm người giáo sĩ ḍng Tên, phần lớn là người Bồ đào Nha và người Pha lang Sa. Ngoài ra, có khoảng trên dưới năm chục thương nhân, thường là đi lại buôn bán cho công ty Hà Lan Đông-Ấn. Họ quanh quẩn trong miệt Hưng Yên, và phải đặc biệt lắm mới được phép trẩy Kinh. Bám rễ xung quanh đám thương dân này là một số người bản địa làm công việc thông dịch và trung gian buôn bán. Về phần người Nhật, số thuyền buôn được chính quyền Nhật Bakufu cấp cho châu ấn ngày càng ít v́ chủ trương bế quan tỏa cảng của họ. Giao dịch với Chúa đàng ngoài là đoàn thuyền thuộc Suminokori Ryoi, chủ nhân của Koji Mishima.

Lang thang đến khi mặt trời lên gần đỉnh ngọn tre, Toàn Nhật ghé vào hiệu thuốc ông Śn. «Hảo, hảo », ông ta vồ vập, miệng cười lộ ra hàm răng vàng xỉn khói thuốc. Nghe Nhật kể về điều kiện công việc, ông ta lại x́ xào «hảo, hảo » và th́ thầm « Cái chuyện chém đầu có thật, nên ông Koji không được phép rời Phố Hiến về Nhật Bản từ bốn năm nay ». Ông kết luận : « ... Cái người ǵ mà ghê ghê quá » và khuyên bảo « Cậu chớ làm nữa, nó chém thật đấy !» . Toàn Nhật chỉ cười rồi cáo lui.

Ghé vào hàng quán ăn xong một bụng cơm, Toàn Nhật lại lững thững theo chân đê đi ngược lên miệt Thái B́nh. Trời tháng tám oi, cỏ cây cũng lấm tấm rịn mồ hôi. Tiếng ve khi rỉ rả, khi chói chan, ḥa tấu một khúc trường ca tưởng như vô thủy vô chung, mơ hồ chở về những mộng mị chập chờn.

Nhật nằm xuống thảm cỏ cạnh miếu Ba Cô, mắt nửa nhắm nửa mở, thèm một cơn gió, mơ mơ màng màng. Đầu Nhật nặng trùng xuống. Bỗng đâu đó văng vẳng tiếng người đàn bà. Nhật ngước mắt nh́n. Trên thềm, trong một góc trắng đục, như có ai ngồi, lưng quay về phía sông, tay cầm quạt nhẹ nhàng phẩy gió.

- Con ngủ đi, mẹ quạt cho mát ...

- Mẹ, mẹ đấy à ? .

- Ừ, mẹ đây, mẹ về với con một lát.Đă bao nhiêu năm !

- Sao mẹ bỏ con đi ? .

- Nào mẹ có muốn thế ...

- Mẹ đừng đi nữa, mẹ ơi, mẹ ...

Nhật hét lên, trợn mắt, nh́n theo cái bóng trắng mờ dần rồi mất hút trong ánh nắng vàng cánh ong. Nhật ngẩn ngơ, lại nằm xuống, và nhớ người mẹ nuôi trên trại Bùi Phong.

Năm Nhật được mười sáu, Đặng thị nói : « ... Con về nhà này đă khôn lớn rồi, không đẻ con nhưng mợ thương con như con đẻ ». Đặng thị ngần ngừ, rồi nhỏ nhẹ « ... c̣n về gốc gác, để mợ kể ... ».

*

Làm Huấn Đạo được bốn năm ở Anh Đô, Nguyễn Thiếp tưởng đă yên phận, nào ngờ Xuân quận công Nguyễn Nghiễm lại vừa được sắc phong Tả Thừa Tướng dưới đời chúa Trịnh Doanh. Là thầy dậy Thiếp, chính Xuân quận công ép buộc học tṛ ḿnh nhậm quan, sau đó lại rắp tâm đẩy Nguyễn dấn sâu vào bước hoạn lộ. Hai tháng sau đó, Thiếp nhận được tuyên chỉ bổ nhiệm ḿnh làm Tri Huyện Thanh Chương. Tiếng thếù, nhưng Thiếp thu xếp để lui về trại Bùi Phong, ở cái thế nửa xử nửa xuất.

Sáu năm sau, tức là vào năm 1768, Nguyễn Nghiễm mất. Vào Tiên Điền chịu tang thầy, Thiếp thấy cái lẽ xử không c̣n lư do ǵ tồn tại, âm thầm quyết định từ quan để lui hẳn về cuộc sống ẩn dật. Trên đường từ Tiên Điền về Nguyệt Ao, khi đi qua Phú Thạch, Thiếp và Đặng- thị ngừng chân ghé vào một cái quán ven đường uống bát nước. Lúc ấy, gió nồm đă bắt đầu ùa vào hai miền Thanh Nghệ. Nắng gắt đến sáng trắng những thửa mạ cằn khô trơ đất muối. Trong quán chỉ có một thằng bé chạc chín mười tuổi, mắt đen lay láy, đang cặm cụi xoài người tô tô vẽ vẽ. Rót xong hai bát nước chè xanh, nó lại lẳng lặng quay về góc cái trơng nằm sau chiếc bàn có bầy một lọ kẹo lạc, một cái ấm chè, một nắm lạc rang và dăm củ khoai luộc.

Bàn thêm về chuyện xin từ quan,Thiếp nhếch mép nói như một lời than « Trống đánh canh ba, gà gáy canh năm, chó má tru mơm sủa ». Nghe thằng bé bật lên cười, Thiếp quay sang nh́n. Nhẹ nhàng, Thiếp hỏi:

- Sao cháu lại cười ? Câu đối đấy, đối được không ?

Thằng bé đỏ mặt bẽn lẽn. Thiếp khuyến khích:

- Cháu cứ đối đi, nếu hay ta sẽ thưởng !

Thằng bé cau mày ngẫm nghĩ, rồi lí nhí :

- Mơ gơ mười phương, chuông vang tám hướng, người ngợm ngoác miệng cười.

Ngạc nhiên, Thiếp thích thú nh́n kỹ thằng bé, rồi hỏi:

- Cháu học hành với ai ?

Thằng bé trả lời là nó học với ông ngoại. Bạo dạn hơn, nó nói:

- Ông ngoại bảo tṛ chơi chữ nghĩa thật chẳng có ǵ khó. Đấy, vế trên có trống th́ vế dưới đối phải là mơ, trên chó má th́ dưới phải người ngợm, rồi trên tru mơm sủa th́ dưới là ngoác miệâng cười...

- Thế th́ cái ǵ mới khó ?

- Ông cháu bảo đạo mới khó, lư mới khó, ngoài ra th́ chỉ toàn phù phiếm cả mà thôi.

Thiếp đưa tay lên vân vê cḥm râu đang ngả bạc :

- Thế cháu hiểu vế trên thế nào mà đối vế dưới như vậy ?

- Vế trên ư...

Thằng bé ngần ngừ, mắt nh́n xuống đất, rồi tiếp :

- ...cháu không rơ. C̣n vế dưới th́ là v́ mỗi tháng cứ đúng ngày rằm cháu lên chùa giúp sư cụ, cháu thấy các bà đi lễ xong ai cũng tươi lên, cười cười nói nói...Thế thưa ông vế trên nghĩa là ǵ ?

Thiếp chạnh nghĩ đến thế sự, ngậm ngùi :

- Đấy là cái cảnh Vua chẳng ra Vua, Tôi chẳng ra Tôi, trống đánh suôi kèn thổi ngược. Quân bất vi quân, thần bất vi thần nên lũ tiểu nhân được dịp thao túng mà chẳng ai làm được ǵ !

Nói đến đấy th́ một cụ già chống gậy bước vào, vẻ ngạc nhiên, chào khách :

- Xin kính chào quan huyện.

Chủ khách thăm hỏi nhau, Thiếp mới biết ông đây họ Vơ ở Thạch Hà, xưa vốn có dậy học song không hiểu lẽ ǵ bỗng dưng bỏ làng đi, bây giờ sinh sống qua ngày bằng quán nước ven đường và thỉnh thoảng viết phúng viết điếu cho dân làng lân cận.

Thiếp khen thằng bé và hỏi tên. Nó lấy họ Vơ là họ ngoại.

Khi về Đặng-thị ứa nước mắt nhớ đến Thúc Khải, đứa con lưu lạc đă xô giạt với gia đ́nh họ Hà vào Đàng Trong gần chục năm nay. Mấy tháng sau, khi nghe tin ông thằng bé bị bạo bệnh rồi qua đời, Đặng-thị bàn với Thiếp mang nó về nuôi. Đến quán cũ th́ thằng bé đă theo một bà cô về làng. Đặng-thị lại lặn lội đi t́m. Lúc nói chuyện với bà cô, Đặng-thị mới nghe rằng mẹ thằng bé xưa chửa hoang. Cô ta lậy bố xin giữ cái bào thai vô tội. Ông bố xấu hổ đóng cửa không dậy học nữa, cắên răng nghe những lời đàm tiếu mỉa mai. Sinh đẻ xong xuôi, cô ta viết lại một lời tuyệt mệnh, xin bố tha lỗi, và xin đăït tên con là Toàn Nhật thể theo lời ước hẹn với người đàn ông nay đă cao bay xa chạy. Bốn ngày sau, người ta vớt được xác cô giạt vào bờ sông Lam. Kể đến đấy, bà cô thằng bé ghé vào tai Đặng-thị th́ thầm. Th́ ra nghe đồn bố nó họ Hoàng, có thể là Hoàng đăng Bảo thi văn đỗ Hương cống năm Ất Dậu, rồi thi vơ đỗ Tạo sĩ năm Bính Tí. Mà nghe đâu lại cũng có thể là chính Quận Việp, chú của Đăng Bảo, lúc ấy là quan Hiệp Trấn xứ Nghệ.

Quận Việp thời ấy vô cùng lừng lẫy. Hai vùng Thanh-Nghệ liên tiếp được mùa mấy năm liền nên bàn dân thiên hạ không c̣n ca thán. Việp sai Bảo đi đánh dẹp giặc giă khắp nơi, lần nào cũng đắc thắng. Bảo lại khôn ngoan dùng người rất đúng chỗ, chiêu hiền tập sĩ khắp nơi, thu phục được cả Nguyễn Hữu Chỉnh, đỗ hương cống khi mới mười sáu tuổi, giao cho Chỉnh toàn bộ thủy quân, coi đội Tiền Cơ ở Nghệ An. Giặc biển từ đấy hết hẳn hoành hành, và Chỉnh nổi tiếng là con cắt nước hai trấn Thanh-Nghệ. Đăng Bảo, có nghĩa là lên ngôi, sinh năm Hợi. Trong kinh, người ta kháo nhau rằng «một con lợn đuổi đàn dê », ư ám chỉ Đăng Bảo sẽ truất Trịnh Doanh và con là thế tử Sâm v́ hai cha con Chúa đều tuổi Mùi. Để tránh tiếng x́ xào, Bảo tự đổi tên thành Tế Lư. Nghe lời tâu của chính thế tử, năm Toàn Nhật sinh ra cũng là năm Đăng Bảo được chúa Trịnh Doanh gả cho đứa con gái thứ mười một, tức là công chúa Ngọc Tĩnh, để thưởng công chú cháu quận Việp đă đánh đuổi được giặc Lê duy Mật bật khỏi Nghệ An phải lùi về măi tận Trấn Ninh. Tiếng là thưởng công, thực ra Sâm nhờ em gái ḿnh ḍ xét Bảo.

Lúc nghe Đặng thị muốn xin Toàn Nhật về nuôi, bà cô nước mắt ngắn nước mắt dài kêu « Đứa cháu này, bà huyện ơi, tội nghiệp, tôi thương nó lắm ! ». T́nh thương đó nhạt dần, và khi Đặng thị giúi thêm hai quan tiền nữa th́ h́nh như đă lắng vợi hẳn xuống.

*

Toàn Nhật rời miếu Ba Cô vào lúc trăng vừa lên. Cơn nóng hầm hập ban trưa dịu xuống, không khí nhẹ hẳn đi mặc dầu gió vẫn lặng. Về đến bên hàng dậu, Nhật giật ḿnh nghe những tiếng hét vang lên từng chập. Vườn chuối bên kia có tiếng bước chân th́nh thịch. Nh́n vào, Koji bất động dưới ánh trăng, mắt nhắm nghiền. Chợt ba lằn quang vung lên trong một chớp mắt, kèm theo là tiếng hét vừa chắc vừa gọn như từ trong bụng phát ra. Cứ như thế, những tiếng hét vang lên, xé cái tịch mịch ghê rợn dưới ánh trăng xanh nhợt. Bỗng Koji cất tiếng :

- Mời ông vào đây. Tôi cũng đă xem ông sáng sáng múa kiếm ...

Toàn Nhật lẳng lặng vào vườn, nh́n Koji tươi cười, khom người chào ḿnh. Khác hẳn với cung cách chỉ khẽ nghiêng đầu lúc trước, cách chào của Koji nay không c̣n kiểu bề trên kênh kiệu. Koji trầm giọng, ê a :

- Ông xem, tôi chỉ biết có ba đường kiếm. Phạt chéo bên trái, rồi bên phải và một đường bổ dọc ...

Toàn Nhật thích thú :

- Vâng, nhưng nhanh lắm. Lại chắc, nếu đánh trước th́ kẻ địch khó mà chống đỡ nổi.

Koji mỉm cười :

- Không có chuyện đánh trước, đánh sau ... Cũng không có cái ǵ gọi là kẻ địch.

- …

- Vâng, chỉ có ta và kiếm. Lúc rút ra khỏi vỏ th́ thành một. Và đối tượng cũng là ta, chứ không ai khác nên làm ǵ có địch !

Trước vẻ ngẩn ngơ của Toàn Nhật, Koji thân mật vỗ vai, kéo ra sau một cây chuối cao bằng đầu người, nói :

- Ông đứng đây, rồi bất ngờ làm một cử động thôi ...

Koji quay về chỗ trước cây chuối, lại đứng bất động, mắt nghiêm nghị nh́n nh́n vào khoảng không trước mặt, kiếm vẫn ở trong vỏ giắt sau lưng. Một phút, rồi hai phút ... Toàn Nhật không chịu nổi nữa, vừa nhích chân th́ mắt hoa lên ba lằn quang như ánh chớp, đầu như tê liệt trước tiếng hét chát chúa. Ngửng lên nh́n, Koji đă trở về trạng thái cũ, và kiếm tra lại vào chiếc bao dắt sau lưng. Toàn Nhật thở phào sửng sốt. Koji lại bảo :

- Ông lấy tay đẩy vào thân cây chuối mà xem.

Cây chuối mới nh́n vẫn vậy, bất động, tàu lá chỉ hơi rung rung. Đẩy vào, bốn mảnh thân cây đổ xuống đất, tiếng rơi b́nh bịch. Cây chuối đă mất đầu, rồi mất nửa ḿnh, và thân bị chẻ hai. Toàn Nhật lùi một bước, hoảng sợ, đầu gối nhũn ra, ngỡ ngàng chẳng biết là hư hay thực. Koji cất tiếng :

- Phép đánh kiếm của Phù Tang không múa như phép đánh kiếm của lục địa. Múa là để làm hoa mắt kẻ địch, dùng mẹo đánh vào chỗ sơ hở. C̣n chúng tôi, chúng tôi đánh là thể hiện sự toàn mỹ và đồng nhất giữa lư trí với hành động của người cầm kiếm. Đích chính là ở Ta, c̣n kẻ địch chỉ là đối tượng để thể hiện cái Ta nên kẻ địch là phương tiện, có hay không, không quan trọng ... Kiếm pháp các ông nhằm triệt tiêu đối tượng. Đối tượng là đích, v́ thế dùng mưu mẹo lừa cho đối tượng lầm lẫn để thủ thắng. Một đằng, kiếm và người là Một. Một đằng, người là chủ, kiếm là phương tiện và đặt kẻ địch thành đối tượng. Vâng, khác biệt là như thế đấy ...

Toàn Nhật nh́n cḥng chọc vào Koji, ngạc nhiên hỏi :

- Khác biệt thế th́ tác động thế nào ?

Koji cười hồn nhiên :

- Thắng và thua, sống và chết, không c̣n ǵ khác nhau nữa. Chỉ c̣n độc một cái là cái Ta được thể hiện măn mỹ ở đúng cái giới hạn sẵn có của nó, thế thôi !

Vỗ vai Toàn Nhật, Koji đổi giọng :

- Nếu ông muốn, ta c̣n bàn nhiều về kiếm. C̣n công việc, cái điều kiện ông đặt cho tôi, tôi đă nghĩ kỹ.

Ngưng lại rồi chặc lưỡi, Koji tiếp :

- Mà này, ông có thấy ở đâu cái chuyện người làm đặt điều kiện cho chủ không nhỉ ? Chắc là không đâu ! Tôi nhận điều kiện của ông, nói thế, nghĩa là không c̣n ai là chủ và ai là người làm công ... Kể từ nay, chúng ta là bằng hữu.

Toàn Nhật lùi lại, bàng hoàng trước thay đổi đột ngột không ngờ trước, mồm lẩm nhẩm :

- Không dám, không dám !

- Bằng hữu ạ, Koji này đă làm ǵ để không xứng đáng với t́nh bạn của anh ?

- ...

- Và một ngày nào đó, tôi sẽ cầu xin bạn một ân sủng. Đổi lại, tôi sẽ truyền hết sở học về cung kiếm của tôi cho bạn.

- Ân sủng ?

- Vâng, ân sủng. Tôi nói ngay : ân sủng này là cho tôi, và không hề đụng chạm đến một ai khác, bất cứ ở phương diện ǵ !

*

Theo lời mời của Koji, Toàn Nhật dọn sang tư dinh, cư ngụ ở trái nhà phía tay phải, căn nhà chính giữa là nơi Koji ở, bên trái có xây một trà thất vuông vắn, mái như mái tháp. Từ trà thất nh́n ra sau là một cái hồ rộng ba thước ta, thả sen và nuôi những con cá đỏ chót to bằng cá trê. Chiều chiều, Koji ra đứng dựa trên chiếc cầu nhỏ vắt ngang hồ, cho cá ăn, miệng ề à hát :

Furuike ya ( trong ao xưa )

Kawazu tobikomu ( con nhái nhẩy vào )

mizu no oto ( tiếng nước khua )

Công việc giao phó cho Toàn Nhật tương đối nhàn nhă. Nhật tiếp nhận trầm hương đến từ Thanh, Nghệ, lụa từ Hà Đông, gấm từ Kinh Bắc, sừng hươu nai và xương hổ từ Sơn Tây, Cao Bằng. Koji Mishima kiểm tra chất lượng xong, cho phép bốc lên thuyền để chở về Okinawa, một ḥn đảo cực Nam đất Phù Tang. Đổi lại là súng đạn và đao kiếm. Nhật lại kiểm kê hàng Phù Tang, lên danh sách, chuyển giá thỏa thuận ra vàng hoặc bạc, và trách nhiệm chuyển hàng về Thăng Long cho quan Chánh dường Hoàng Tế Lư.

Tối tối, hai người lại ra luyện kiếm. Nơi Koji dạy Toàn Nhật nằm sau trà thất. Họ ngồi đối mặt vào nhau, mắt nhắm hờ, ở tư thế thiền tọa.Cây đào Phù Tang rực lên cháy hồng một khoảnh không gian ven hồ nước lóng lánh sáng. Gió khuya gây gây lạnh. Trời đất tấu khúc đêm về, âm thầm những niềm hạnh phúc mỏng mảnh gió tháng chạp. Thỉnh thoảng, cá quẫy nước lục bục điểm vào tiếng ếch ương thảng thốt kêu dưới những tàn lá sen ven hồ. Mùa này, sen đă úa cả, không sao t́m đâu ra chút hương thoang thoảng lẫn mùi bùn tanh. Ở đầu gió, không khí lùa mùi thơm ngan ngát từ hàng cây dạ lan mọc cạnh tường nhà thoảng lại.

Koji cất tiếng, tay chỉ vào đầu :

- Nhanh không phải ở tay nhanh ! Nhanh là ở đây. Cái nhanh đó từ phản xạ. Một phản xạ không điều kiện. Đến độ đó, thực ra, phản xạ của cái đầu là cái lắng đọng từ sự chín chắn.

Mắt xa vời, trống không, giọng không thấp không cao, Koji ề à từng chữ :

- Sống kiếm là đường đi vào cái đích. Là đạo. Không rút kiếm ra nếu không cần. Đă rút, nhập vào cái đích, thành Một. Đầu, tay, kiếm và cái đích thành một thể bất phân nằm trên sợi tơ ranh giới căng ngang để nối liền sống - chết.

Koji đứng lên, chân vừa rùn bước là tay lóe ra một lằn quang ở trên chụp xuống, nhanh như ánh chớp dọc. Nh́n lại, Koji đă trở lại thế đứng b́nh thường, kiếm không biết lúc nào lại tra lại trong bao giắt chéo về phía trái theo chiều sống lưng. Nắm bàn tay Toàn Nhật đặt vào đốc kiếm, sửa lại thế đứng, Koji bảo :

- Tất cả là hơi thở. Rút, hơi ngưng. Chém, thở ra, khí thừa trụ xuống bụng dưới. Bây giờ anh tập đi. Rút và chém một trăm lần.

Nét mặt Nhật nghiêm lại, mắt ánh lên. Cứ như thế, Nhật rút và chém. Một lúc sau, Koji ra dấu cho Nhật ngưng kiếm, nh́n Nhật rồi nhỏ nhẹ :

- Anh vừa chết đủ một trăm lần đấy. Không đủ nhanh và chắc. Hơi thở từ rút đến chém bị đứt đoạn. Anh biết tại sao không?

Nhật lắc đầu.

- Khi anh rút kiếm, mắt anh có ánh lên thứ ánh sáng lóe đỏ màu căm hờn ! Chính sự căm hờn làm cái đầu không liền lạc với cái tay. Anh phải từ từ rũ bỏ sự căm hờn đó th́ anh mới đạt được. Ba mươi năm nay, ngày nào tôi cũng rút và chém đúng trăm lần. Cả đời, tôi độc có ba đường gươm, chỉ thuần thành sau khi dứt bỏ được mọi vọng niệm ...

Nhật đưa giải áo lên lau mồ hôi trán. Ta căm hờn ư ? Căm hờn cái ǵ ? Ai ? Không biết. Nhưng có cái ǵ đó thúc giục, ấm ức. Nó như ở lặn trong ḷng, vô lư vô lẽ, ùa ra để trừng phạt, phá phách không chủ đích.

Koji đến bên Nhật, nắm vai, đẩy Nhật về phía ven hồ :

- Sự căm hờn giảm ở đường gươm thứ ba. Đường gươm đó nhanh hơn ...Này bạn, có ǵ bạn cứ nói, sao lại để trong ḷng ?

- . . .

- Có lẽ chính bạn, bạn cũng chẳng biết nỗi căm hờn đó từ đâu đến, ở đâu ra ! Nó là Karma, nghiệp chướng. Cũng có lẽ, may ra th́ kiếm đạo sẽ giải cái nghiệp ấy. Đường gươm thứ ba của bạn nhanh hơn có nghĩa là nghiệp của bạn nhẹ đi...

Cất tiếng cười ha hả, Koji lại ê a hát, giọng khàn đặc nghe đặc quánh một đêm sáng trăng.

- Hẳn mùa xuân năm nay cũng đến sớm hơn.

Koji vui miệng kêu lên, mặc nét đăm chiêu vờn trên đôi mắt Toàn Nhật trũng sâu bóng tối.

*

« Quan Chánh dường Hoàng Tế Lư đến Phố Hiến hẳn không phải là chuyện thường » , ông Śn vừa nói vừa tiếp tục gẩy bàn tính nghe lách cách :

- Cậu biết không, trước nay chỉ có công tử Đăng Khoa xuống xét việc quan thôi, chắc lần này có chuyện quan trọng đấy.

Toàn Nhật nghe lơ đễnh, nh́n ra sông, hỏi :

- Chuyện ǵ ? Ông có đoán ra không ?

- Không, nhưng Quan Chánh muốn gặp cậu ngay. Đúng giờ Tị ngày mai, cậu đến dinh quan huyện như ước hẹn, qua đây đi cùng với tôi cho vui.

Toàn Nhật ra khỏi hiệu thuốc, ngược phố Khách rồi tách về phía tây, lững thững đi về phía khu Nhà Thờ t́m Trọng Thức.

Sau khi được thả, Thức c̣n nấn ná ở Thăng Long ít lâu. Nguyễn Thiếp giục măi, Thức mới rời đi Phố Hiến độ đă hơn tháng nay. Nhật đă nghe đủ chuyện Kinh Kỳ, từ cái âm mưu nhà Chúa phế Tông lập Cán, cho đến chuyện Tế Lư o ép phu tử đồng ḷng việc soán ngôi vua bằng thủ đoạn lừa bỏ Thức vào ngục. Nghe Nhật báo rằng Tế Lư mai sẽ xuống Phố Hiến, Thức cười nhạt :

- Thế lực hắn vậy đă đủ chắc rồi mới bỏ Kinh mà đi được ! Nhưng có chuyện ǵ hắn phải đến đây ?

- . . .

- Dẫu sao th́ Nhật cũng cứ phải gặp hắn. Và chớ quên là thấy rắn mà không đập được đầu th́ tránh cho xa.

Nhật gượng cười, lơ đễnh :

- Công việc anh làm đến đâu rồi ?

Thức đứng dậy lôi từ hộc tủ một thếp có đâu đến cả trăm tờ giấy được xếp gọn ghẽ. Nhật cầm lên chăm chú lật ra từng tờ : một phần quyển từ điển Việt - Pha Lang Sa- La-tinh đă được bổ sung và tra cứu lại bằng công sức của Thức và giáo sĩ Charles-Antoine Sieyès. Thức hân hoan nói như reo :

- Dùng mẫu tự La-tinh để phân âm tiếng ta không khó khăn ǵ ! Duy có một số chữ chưa chỉnh. Như Đức Chúa Trời, ngày trước họ viết thế nào mà đọc ra là Đức Chúa Blời ...

Thức mơ màng, nói tiếp :

- Nhưng đó là tiểu tiết. Nếu dùng mẫu tự này, chỉ cần dạy ba tháng là một đứa bé lên sáu có thể đọc thông thạo dễ dàng. Như vậy, cái đống kinh sách phải học để đi thi thành ông tú, ông cử th́ chỉ hai đến ba năm là ai cũng làu làu ... Ha ha, bút sắt sẽ thay bút lông để đuổi cho sạch giặc dốt !

Vừa lúc ấy, một người cao lớn bước vào, miệng lơ lớ nói : « Chào các ông ». Charles-Antoine Sieyès trạc trung niên, râu quai nón, lưng hơi kḥm nhưng dáng nhanh nhẹ. Nghe Toàn Nhật hỏi thăm, ông ta cười : « Giê-su-ma lậy Chúa tôi, b́nh an, b́nh an ! » và thân mật nắm tay Thức, nói ngọng nghịu :

- Ông có lư, chuyển âm La-tinh sang tiếng Nôm phải chính xác, không nên lẫn lộn x với s, d với z. Chẳng hạn như xa với sa ... nghĩa khác hẳn. Nhưng thôi, trưa mai tôi không làm việc với ông được v́ phải lên Huyện chầu quan lớn từ Kinh xuống ...

Nét lo lắng, Charles-Antoine th́ thào : « Không biết có chuyện ǵ ? Cầu xin Đức Mẹ ban phép lành cho giáo hữu ! ».

Charles-Antoine không rơi vào trường hợp một giáo sĩ b́nh thường. Ông ta vốn là anh em song sanh của Emmanuel Sieyès, một nhân vật khá lạ lùng của đám trí thức ở Paris, thường lui tới nhà ḍng Jacobin phố St-Honoré. Mặc dầu xuất thân là quí tộc, Emmanuel học trong Ḍng Tên, trở thành phó linh mục ở Chartre, nhưng lại thân cận với những người Hội Thánh cho là bất hảo, mỗi tối thứ tư là hội họp, rồi cùng nhau in những tờ báo truyền tay. Cảnh sát Pha Lang Sa được lệnh truy nă Emmanuel, nhưng lại bắt nhầm Charles-Antoine v́ h́nh dáng hai người giống hệt nhau. Lúc đó Charles-Antoine vừa được thụ phong linh mục. Vị giám mục nhà thờ Đức Bà can thiệp, với điều kiện Charles-Antoine xung vào Hội Truyền Giáo Paris đểù đi giảng đạo cho đám con chiên chưa được khai hóa ở tít tắpViễn Đông. Ngài lạnh lùng kết luận : «Có ǵ đâu mà oan, thầy chính là Emmanuel, mặc áo nhà ḍng và mang tên Charles-Antoine. Đây, cảnh sát đưa trả nhà thờ sách vở của thầy. Có đủ loại sách Giáo Hội đă ra lệnh cấm. Sách của Rousseau, sách của Voltaire, sách của Montesquieu. Và cả những tờ giấy truyền đơn của đám vô thần bất hảo ở phố St-Honoré ».

Bứt rứt nh́n Thức, Charles-Antoine tỏ vẻ lo ngại. Kinh nghiệm cho ông biết là gập quan càng to th́ tai họa càng lớn. Dạo hai năm trở lại, giáo hữu bị đẩy vào thế cùng, có lúc đă định trang bị giáo mác để tự vệ. Biết rằng như thế là rơi vào cái bẫy để cho Triều đ́nh đàn áp bằng vơ lực, ông đă phải viện một trong mười điều nghiêm cấm của Thiên Chúa, tuyệt đối không cho giáo hữu tự vũ trang, nếu trái lời có thể bị rút phép thông công.

Toàn Nhật cảm thấy ngài ngại, chắp tay cáo từ, nói với lại với Thức :

- Koji nhắn mời anh đến dùng trà ngày tṛn trăng, nhớ nhé !

*

Hôm sau, Nhật lên dinh quan Huyện . Vừa vào cửa, Nhật thoáng thấy bóng lăo Thuyết chủ chiếc quán ven sông lẩn nhanh ra sau, tự nhủ thầm là người làm cho Viện Nội Mật quả thật len lỏi khắp nơi.

Hoàng Tế Lư vẫơy vào. Nhật chắp tay thi lễ, rồi đứng dưới trướng đợi như dăm ba người mặt quen có, mặt lạ có. Lư đứng dậy, tươi cười nắm tay Nhật, kéo riêng ra cửa sổ ở cuối pḥng, miệng bảo :

- Thật là chóng, thế mà đă mấy tháng cháu rời Kinh rồi.

Tế Lư báo Nhật biết tin phu tử sẽ ăn Tết ở Thăng Long, sau mới về Nghệ An, nhưng tuyệt nhiên không đả động ǵ đến Trọng Thức. Cuối cùng, Tế Lư dặn Nhật về nhắn Mishima cứ đợi ở nhà, khi hết việc trên huyện, đích thân Lư sẽ tới thăm ngày mai.

Ôm vai Nhật đưa ra cửa, Lư bảo :

- ... ngày nào đó về Kinh, ta sẽ đích thân dạy cho vài đường kiếm họ Hoàng.

Nh́n xoáy vào mắt Nhật, Lư rành rọt :

- Kiếm gia truyền không bao giờ ai lại dạy cho người dưng. Cháu phải biết, không như kiếm cách của Phù Tang đâu !

Nhật ớn lạnh xương sống, ngay việc tập kiếm với Mishima cũng đă đến tai Lư. Mọi việc lớn nhỏ ở Phố Hiến không phải là qua được cặp mắt và tầm tay của Viện Nội Mật.

Khi chia tay, Toàn Nhật cúi đầu vái Lư dưới thềm. Đột nhiên, mặt chàng rừng rực nóng. Hít không khí vào đầy lồng ngưc, Nhật chậm răi thở ra, nhưng mắt chợt thấp thoáng bóng người đàn bà ở miếu Ba Cô, lưng quay về sông Nhị, tay phe phẩy gió.

Nhật về thẳng nhà để báo tin. Koji đặt chén nước uống xuống bàn, tay mân mê chiếc quạt. Đẩy chiếc mành cửa chạy dọc, vuông sân trải sỏi trắng hiện ra, trống trải, mông lung, lờ mờ những nếp gợn đều đặn đồng tâm như gợn nước. Ở góc sân, phía mặt trời mọc, ḥn đá tảng màu xanh ngắt trơ vơ.

Koji trầm ngâm, quay sang Toàn Nhật hỏi :

- Quan Chánh dường không dặn giờ nào ?

- Không.

- Bằng hữu, Koji nhăn mặt, chúng ta phải tiếp ngài cho dúng phép tắc và nghi lễ Nhật Bản.

Dặn ḍ Nhật ra lệnh cho gia nhân đốt đèn lồng lên, Koji lại bắt tất cả mọi người phải mặc trang phục đại lễ. Ngoài ra, Koji bắt t́m ngay bốn mươi chín con bồ câu trắng để khi quan đến, thả cho bồ câu chân buộc nhiễu bảy sắc bay lên.

Koji vỗ vai Nhật, mỉm cười, hỏi thẳng :

- Sáu năm qua, ai làm với tôi đều bí mật báo công việc về Kinh. Riêng bằng hữu là không phải làm chuyện đó, sao lại vậy ?

Thấy Nhật ngơ ngác, Koji xuề x̣a tiếp :

- Nhưng nào có quan trọng ǵ ! Quan Chánh dường đến tận đây th́ có lẽ chúng ta sắp phải chia tay. Có hợp, ắt có tan. Bạn hăy nh́n mây trời ...

Toàn Nhật sửng sốt. Sao ? Tại sao ? Gió mỗi lúc một nhanh lên. Trên trời mây vỡ thành những con chim ùa ra vỗ cánh trôi đi tan tác. Chàng quay lại, tay nắm lấy Koji, hốt hoảng :

- Tôi không hiểu ?

Koji đứng lên, cười nghiêm nghị, rồi thoắt ra cửa, mồm gọi đám gia nhân sửa soạn công việc tiếp đón khách nhà quan.

Tối hôm ấy, Koji bận xét lại sổ sách, sột soạt đến khuya. Toàn Nhật tập kiếm một ḿnh, chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng hát khàn đặc, ê a vẳng lại.

Xế chiều ngày hôm sau, khi mặt trời mới chếch về tây, tiếng chân ngựa rầm rập. Koji hét cho gia nhân mở rộng hai cánh cổng chính. Những con bồ câu trắng chân buộc giải nhiễu bảy sắc đập cánh bay lên. Tế Lư oai vệ bước vào, đi ngay sau là Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh được điều từ Duyên Hải về Phố Hiến, mang chiến thuyền đến đón Lư đưa về Kinh bằng đường thủy. Koji khom người đưa Lư lên ngồi, rồi quay về qú bên cạnh Toàn Nhật, xử sự theo phong tục Nhật Bản của kẻ bề dưới đối với người trên. Tế Lư yên vị, tay rút ra một cuộn giấy, lẳng lặng đọc tuyên chỉ do chính chúa Trịnh Sâm truyền :

« Năm Cảnh Hưng thứ bốn mươi mốt. Hạ chỉ giáng phong kiều nhân Koji Mishima, người đất Phù Tang, là Đông Ngoại Hầu, hàm nhất phẩm, và truyền cho về chầu tại chính phủ vào mồng hai tết Nguyên Đán năm Tân Sửu ».

Koji ngạc nhiên, nhưng vẫn trầm tĩnh, gập đầu xuống đất miệng cảm tạ, quai hàm cắn chặt làm nổi những sợi gân xanh trên thái dương. Tế Lư đứng dậy, xuống nâng Koji lên, miệng tươi cười :

- Ngài là quan nhất phẩm của triều đ́nh, tước hầu cũng như tôi, xin ngài cư xử như đồng liêu.

Quay sang Nhật, Lư cũng đưa một tờ sắc chỉ, tiếp :

- ... mở ra, cứ mở ra đọc đi.

Nhật chăm chú : « ... nay truyền cho Vơ Toàn Nhật nhậm chức Chưởng cơ đội Trung Kính, chớ chậm trễ trái lệnh ».

Hữu Chỉnh đứng bên hà hà cười, xen vào : « Mừng Vơ tướng quân, thế là lúc nào cũng được gần gũi quan Chánh, và tha hồ học hỏi để thăng tiến trên đường công danh nhé ».

Đưa tiễn đám quân quan đến tận bờ sông, Koji cùng Toàn Nhật thả bộ về. Nét mặt Koji lúc càng đăm chiêu, lẳng lặng đi như không có Nhật bên cạnh. Trên đê nh́n xuống sông, những cánh buồm trắng chớm ráng đỏ chiều tà trên ba chiến thuyền đă căng phừng phựt gió, lướt phăng phăng về xuôi.

Nhật ngửng mặt lên nh́n trời. Ai đó thả chiếc diều to bằng chiếc nia có gắn những ống sáo trúc. Tiếng sáo văng vẳng bay theo sức gió trầm bổng. Chợt Nhật nhớ đến Chương Tề Vật trong Nội Thiên của Trang Tử. Chàng lẩm bẩm :

« Hiện nay ta mất ta, mi biết thế chăng ? Mi nghe biết sáo người mà chưa nghe biết sáo đất ? Mi nghe biết sáo đất mà chưa nghe biết sáo trời chăng ?

Chàng ngạc nhiên nghe Koji đọc tiếp, giọng ê a :

«…Ḱa gió thổi nên muôn tiếng không giống nhau. Nhưng mà khiến cho nó tự thôi đi, hoặc nó tự gào lên, ấy là ai ?».

*

Trọng Thức khom lưng qú gối chui theo Toàn Nhật qua cánh cửa vừa lọt người vào trà thất. Ngồi dợi bên trong, Koji vái chào hai người :

- Đa tạ bằng hữu, đêm nay trăng vừa đúng độ, thú vị vô cùng.

Trà thất rộng độ hai mươi thước vuông, cao vừa đủ chiều cao một người đứng, trang trí sơ sài, vách là giấy bồi trên những khung gỗ. Theo lệ, không có ai được mang đao kiếm vào trà thất, khom người chui vào là để dập cho tắt cái kiêu, gây lại đức khiêm, và uống trà trong thể ḥa, cái thế tĩnh lặng của bản thể. Koji nhẹ nhàng kéo khung cửa sổ. Ở chỗ ngồi, tầm mắt của cả ba người là chiếc cầu vắt qua hồ, và bờ bên kia là cây đào Phù Tang sớm nở hoa. Loại đào này Koji mang sang từ vườn nhà ḿnh, hoa sống thường được xuưt xoát ba tháng, từ tiết lập đông cho đến khi qua Tết. Koji nh́n Thức :

- Bằng hữu là anh của Toàn Nhật nên là khách quí của tôi. Từ ngày cư ngụ Phố Hiến, bằng hữu là người thứ nh́ tôi có cái hân hạnh mời vào trà thất. Hai năm trước đây, tôi có tiếp một vị, tên là Tiệp Dư, tự xưng ḿnh là cuồng sĩ ở Hoan châu, không biết giờ này ông ta trôi giạt đến nơi đâu ?

Vừa nói, Koji vừa thoăn thoắt xoay tṛn một cái chổi tre trong chiếc bát gỗ to bằng bát canh. Bên cạnh, chiếc nồi đồng reo lên như hát, hơi nước phun lên từng lớp. Chiếc nồi rất đặc biệt, chính giữa là một trục rỗng chứa những ḥn than đốt đỏ, nước trong nồi xung quanh trục sôi rất đều. Trịnh trọng đổ nước vào những lá trà xanh trong bát đă đâm nát, Koji cẩn thận sang ra những chiếc chén to bằng chén tống, rồi sụp người vái khách mời uống.

Ngoài trời, trăng tṛn vằng vặc. Thỉnh thoảng, tiếng chim ăn đêm vảng lại. Koji đưa tay ra nâng chiếc đàn Koto treo trên vách, nghiêm trang :

- Tôi xin hát hầu hai bạn

Tay nhẹ nhàng gẩy lên những tiếng khoan nhặt thưa thớt, miệâng Koji ê a :

Kareeda ni ( Trên cành khô )

Karasu no tomaritaru ya ( chim qua đậu )

aki no kure ( chiều tàn mùa thu )

Tiếng hát đứt quăng nghe năo ruột. Koji ngưng hát :

- Đây là thơ thể haiku. Cứ năm âm, bảy âm rồi năm âm là dứt .

Toàn Nhật vui miệng :

- Thơ tứ tuyệt, mỗi câu bốn chữ, cộng lại là mười sáu âm. Anh Thức dịch hộ đi xem.

Thức ngẫm nghĩ rồi đọc :

Cành khô quạ đậu

chiều tàn âm u

hơi may lành lạnh

đâu đây mùa thu

Nh́n ra cây đào Phù Tang ở bên kia hồ, Thức nhẩn nha tiếp :

- Tôi thêm vào câu thứ ba, thưa nó không ở bài Haiku gốc. Buộc phải thế cho đủ mười sáu âm trong nhạc thơ tứ tuyệt, nhưng dịch như thế là chưa phải. Theo tôi, phải làm sao có đủ mười bảy âm và giữ được thể nhạc mới đúng là dịch thơ.

Koji ầm ừ, bỗng như xa vắng hẳn, im lặng một lúc rồi khàn khàn lên tiếng :

- Thầy từ hai đời của tôi là Kamono Mabuchi, người đă sáng tác ra thể Waka gồm ba mươi mốt âm ngữ. Cho rằng cái học đến từ Trung Quốc làm cho dân Nhật không c̣n chân thực và thuần phác như thể hiện qua những vần cổ thi trong thiên Manyoshu, ngài cổ vũ Quốc học phái Kokugaki. Sau, học tṛ ngài, là Motoni Norigana tiếp tục con đường đó, nghiên cứu cổ sự kư Kojiki, cho rằng phải trở về gốc là Đại ḥa tâm Yamatogo koro, đưa nước Nhật về thời Kodai (Cổ đại) inishie (thuở xưa), bỏ hết phép tắc Tống nho đă khiến dân Nhật quá ‘’khôn ngoan’’ mà thành ra những kẻ tội nghiệp đáng thương...Norigana là thầy, Sansei, của tôi.

Koji ngưng nói, xoay chén trà trong tay, rồi bỗng cười nhẹ :

- ... Lư tưởng là thuở ngày xưa đằng sau, mà tương lai th́ mênh mang trước mặt. Người Ḥa Lan đến Nhật Bản với súng ống, giúp Shogun Ieyasu Kokugawa thống nhất sau một thế kỷ nội chiến. Rồi sau là người Bồ, người Tây ban Nha. Thế giới không c̣n thu lại một mảnh quần đảo. Thuyền buôn tới, thuyền buôn đi, cứ mỗi lần lại thấy khác, người khác, hàng khác. V́ thế, nếu quay về quá khứ mà sống th́ làm sao có thuyền Nhật Bản cũng ra khơi hội nhập vào giao thương thế giới ?

Sansei Norigana mắng tôi : « Gốc ở ḿnh không biết rơ, nhằm mang cái biết ngoại vật th́ chỉ nhiễu loạn ! ». Nhưng thực ra, ngoại nhân đă đến nước Nhật rồi, và dẫu có bế quan tỏa cảng th́ cũng chẳng được lâu, cho nên tôi xin lên đường, rồi tháng tháng thư về cho Sansei, kể những chuyện tai nghe mắt thấy ... Là vũ sĩ, tôi nay lệ thuộc vào giai cấp thương gia, nhưng ôm trong ḷng mối nợ Sansei. Bỏ thầy đi, tôi chỉ mong t́m ra một cái nh́n rồi một ngày nào đó trở về qú dưới chân người dâng lên một cách nh́n mới. Tôi đă giấu giữ được một trong ba mươi hai bản mộc Kaikodu Heidan của Lục Vô, con người « không vợ, không con, không cha mẹ, không bản mộc, không tiền và cũng không muốn chết », đang bị giam chung thân. Đọc xong, Sansei quẳng trả sách, bảo tác giả nó đă mất tính giai cấp vũ sĩ v́ không phải là không muốn, mà là không dám chết.

Hai năm sau, tôi dâng lên tập Seiku Monogatori ( chuyện các nước phương Tây) do Honda Toshiaki lược thảo, chủ trương khuếch trương kinh tế và phát triển mậu dịch. Sansei tôi quát : «... thôi, đi đi. Trở thành thương nhân là cái gốc giai cấp của mi. Nước Nhật không cần hạng người này ! ». Từ đấy tôi lên đường vượt biển qua Ấn Độ, rồi Mă Lai, và mấy năm nay đến ngụ Phố Hiến. Nay muốn đi cũng chẳng đặng - Koji thở dài, ôm lấy cây Koto, bật giây, ê à - nhưng thế mới gặp được các bằng hữu.

Koji lại hát :

Những con kiến nhỏ nhoi

chạy hàng dọc trên cành đào gẫy

Ai bỗng ngừng tay thoi

Giọng hát ngân nga năo nùng, thỉnh thoảng chen vào tiếng cá quẫy trong hồ, và tiếng dế mèn kêu đêm. Thức nâng chén trà, nghĩ ngợi mông lung. Những vấn đề Koji đặt ra cho Nhật Bản cũng là những vấn đề đặt ra cho xứ sở này. Nhưng họ, họ có những kẻ như Lục Vô Shihei, như Toshiaki. C̣n ta, hừ, ta chỉ độc toàn những người nhắc lại Tam Cương, Ngũ Thường, và rủ nhau ngâm vịnh. Thức lại xót xa nhớ Dương Quang, người bạn tù, cũng đă từng lên đường lưu lạc như Koji.

Toàn Nhật phá vỡ bầu im lặng :

- Đêm nay sương xuống, lại có trăng.Các vị chắc c̣n nhớ Lư Bạch, « Cử đầu vọng minh nguyệt. Đê đầu tư cố hương ». Đó là nỗi ḷng của Koji. Xin anh Thức ngâm cho chúng tôi nghe ?

Trong đầu Thức, những câu thơ tuyệt diệu vẳng lên. Nhưng cổ họng thắt lại, Thức bùi ngùi :

- Nghe chuyện Koji kể, tôi vừa lập thệ rằng từ nay sẽ không ngâm vịnh ǵ nữa. Bây giờ bao nhiêu điều khác cần hơn. Đă gấp rồi !

Koji để ư trên khóe mắt Thức thoáng đọng chút ǵ long lanh như ngấn nước có lửa.

*

Khoảng tháng chạp, những vườn mai chạy dọc theo đê sông Nhị đă chớm vàng. Quán lăo Thuyết tấp nập hơn. Khách thương ra vào, hàng hóa bốc dỡ cứ như theo độ Xuân về, ào ạt chiếm cứ những khoảng đất có căng những mái tranh làm tạm để tránh mưa chặn nắng. Theo lệnh Tĩnh-đô Vương Trịnh Sâm, đám giáo hữu Gia Tô phải rời qua Đa Phạn, một miệt biển ở trấn Thanh trước Tết, lư do đưa ra là dân tả đạo không được làm nghề nông mà phải chuyển sang nghề khác. Thật mà nói, Sâm nhượng bộ đám cường hào muốn chiếm đất của giáo hữu, đă ba lần bẩy lượt làm áp lực lên bọn quan phiên. Dân Phố Hiến xôn xao bàn bạc, kẻ phải đi t́m mối bán ruộng bán đất, người ở lại ḱ kèo d́m giá, và cư dân vùng Thái B́nh mon men xuống t́m cách lấn đất định cư. Bọn thư lại Huyện có dịp làm tiền, mặt mũi trông rơ ra kênh kiệu trước cái nhớn nhác của đám con chiên Chúa Blời. Giáo sĩ Sieyès từ Phố Hiến vào Đa Phạn, đi đi về về mấy lượt, đầu óc căng thẳng nhưng vẫn giữ được nụ cười sau hàm râu quai nón lớm chớm bạc. Công việc bổ xung từ điển Việt -Pha Lang Sa- La tinh ngưng lại mặc dầu Trọng Thức đă bước đầu hoàn chỉnh phương cách phiên âm chữ nôm bằng mẫu tự An-pha-bê. Phần Toàn Nhật, chàng phải thanh toán tất cả sổ sách của Nhật Bản thương vụ. Koji đă quyết định ngưng công việc ở Đàng Ngoài cuối tháng này, ngày nào cũng đăm chiêu viết lách, bỏ mọi sự ngoài việc tập kiếm với Toàn Nhật mỗi tối.

Trưa hôm ông Táo về chầu trời, mưa bụi lất phất bay. Vài ngày nay, gia nhân đă lần lượt về hết, nhà chỉ c̣n một ông lăo bộc lo việc cơm nước. Suốt đêm trước, Koji lục xục viết lách. Sáng ra, Koji đốt trầm, ngồi im lặng nh́n về phía sông, mặt mũi tươi tỉnh. Tiếng đàn Koto lại vẳng lên, đứt khúc, ḥa theo giọng hát ê a theo tiết âm thơ Haiku, lúc nào cũng như nghẹn ngào oán thán. Đúng ngọ, Koji mời Toàn Nhật ngồi uống Sakê. Koji rót rượu rồi trầm giọng hai tay đưa lên, nh́n Nhật đăm đăm một lúc, nhẹ nhàng :

- Bằng hữu! Tay kiếm bạn bây giờ khá rồi. Ánh căm hờn chỉ c̣n thấp thoáng đường gươm đầu, nó đang dần dần tan đi ...

Đẩy thanh gươm về phía Nhật, Koji tiếp :

- Thanh gươm này đă sáu đời là gươm ḍng họ vũ sĩ Mishima. Đến Phố Hiến, từ nay nó thuộc về bạn.

Đưa tay chặn không cho Nhật nên lời, Koji tiếp, giọng nghiêm nghị :

- Xin chớ chối từ, gươm này thuộc đẳng cấp vũ sĩ, chỉ có thể trao lại cho vũ sĩ. Và dưới mắt Koji này, bằng hữu là vũ sĩ ḍng Mishima kể từ khi bằng hữu học đường gươm đầu, đổi lại là một ân sủng như tôi đă thưa. Nhưng thôi, khoan nói đến chuyện ân sủng vội ...

Nh́n ra vườn đá sỏi hoang vu lờ mờ gợn những ṿng không của dấu vết tạo thiên lập địa, Koji im ắng một lúc, rồi lại ê a :

- Chắc bạn không biết tại sao tôi được Tĩnh-đô Vương phong hầu ?

- ...

Tay mở chồng giấy xếp gọn ghẽ trong một cái khay sơn mài vuông vắn, Koji đưa một tờ cho Nhật, hàng chữ đầu đề « Luyện kim yếu pháp », giải thích :

- Vương phong hầu cho tôi là mong đoạt yếu pháp này. Sáu năm trước, tôi có giao hai mươi khẩu súng thần công lên Kinh. Bắn thử, đường đạn lệch lạc không chính xác như những khẩu trước. Tĩnh-đô Vương quở, và cho mang súng trả lại. Nhật Bản thương hội phái thợ rèn, mang yếu pháp qua đốt ḷ làm bễ, sửa ṇng súng. Sửa được, nhưng Vương biết, đ̣i lấy yếu pháp. Tôi bảo thợ rèn đi trốn, khai với Vương là không có, bảo rằng yếu pháp đă được đem về Phù Tang. Dĩ nhiên là Vương không tin, cấm tôi không được rời Phố Hiến, cho người theo giám sát.

A ha, nếu Đàng Ngoài này mà rèn được súng th́ Đàng Trong không chống nổi, đấy chuyện phong hầu cho tôi nó là thế ... Tôi không nhận th́ không được. Tôi nhận mà không làm ṇng súng, tất phải chết như kẻ bề tôi không hoàn thành trách nhiệm. Nhưng nếu tôi tham sống mà làm súng th́ biết bao nhiêu mạng người Đàng Trong sẽ tiêu vong ... Ôi chao, cái nghiệp này chỉ nghe qua tôi đă rùng ḿnh rồi, bằng hữu ạ !

Koji đưa tay gạt một sợi tóc x̣a trên trán :

- Đàng Trong đánh, Đàng Ngoài đỡ. Rồi Đàng Ngoài đâm, Đàng Trong chém - Koji cười nhạt - cứ thế đă cả trăm năm rồi. Đâm chém thế, làm sao thành được một quốc gia. Không ! cái nghiệp dĩ này sẽ biến dân tộc các bạn thành một dân tộc chia rẽ từ trong tâm thức. Cùng gốc gác, cùng phong tục ngôn ngữ, nhưng chém giết nhau măi th́ cứ thù hận, cứ nghi kỵ, tạo ra cái nghiệp c̣n nặng hơn là phải đối phó với ngoại nhân. Nó như căn bệnh vô h́nh vô sắc, đục ruỗng ra từ bên trong, nguy hiểm gấp trăm lần mụn nhọt mọc bên ngoài thân thể.

Koji châm ḷ, tay cầm từng tờ giấy xé ra từ cuốn « Luyện kim yếu pháp », thủng thẳng bỏ vào lửa, trầm ngâm nh́n tàn giấy sém đỏ cong queo.

Koji nói tiếp :

- Trí tri ư ! Tốt. Nhưng nếu ư không thành th́ tâm không chính. Lúc ấy cái biết nó quay lại tàn hại con người mà động cơ là dục vọng tầm thường. Bằng hữu , đôát xong «Luyện kim yếu pháp » là tôi sẽ bước chân vào một con đường. Nhưng thật ra, con đường đó tôi đă chọn nó trước rồi, từ ngày tôi đề cập với bạn về cái ân sủng bạn sẽ phát ban cho tôi ...

Con đường đó là đạo : tôi sẽ hành xử theo phép thiết phúc Seppuku để sống trọn vẹn với Sansei tôi là Norinaga. Sau đó, cúi xin bằng hữu gửi đoản kiếm vũ sĩ của tôi về cho thầy tôi, với hàng chữ tôi đă viết sẵn trên mảnh vải này dùng để bọc kiếm ... Tôi viết rất giản dị :

« Đệ tử Mishima thiển nghĩ Đại Ḥa tâm là quá khứ, c̣n tương lai của Nhật Bản ở phía trước, nên làm phép thiết phúc, xin Sansei nghĩ lại ».

Trường kiếm này bằng hữu giữ lấy. Tôi tin bạn sẽ dùng nó như một vũ sĩ chính đạo. Chiều nay, vào cuối giờ Thân, khi mặt trời lặn, kiếm này chặt đầu Mishima, ở chặng cuối cùng của phép Seppuku. Bạn Toàn Nhật, bạn sẽ ban phát cho tôi cái ân sủng tối thượng, giữ danh dự vũ sĩ cho tôi. Vâng, cái ân sủng đó tôi đă xin bạn từ lâu, và đổi lại cho công bằng là ba đường gươm của ḍng họ ...

Toàn Nhật sững sờ, mồm há to, ấp úng kêu :

- Trời ! hỡi Trời ...

Chân tay Nhật cứng ngắc như bị vọp bẻ, nước mắt ứa ra chan ḥa trên mặt. Chàng qú xuống trước mặt Koji, mặt úp xuống đất, tức tưởi :

- Koji, Koji ! Bạn tôi. Ép tôi đến thế ư ?

Đỡ Toàn Nhật lên, vỗ về, Koji nghiêm trang :

- Không ai ép được ai! Đó là một danh dự. Tôi biết là chém đầu không nằm trong cung cách xứ bạn. Nhưng nếu bạn không có can đảm cho tôi cái ân sủng đó, th́ tôi chết đi nhục nhă, thành một con quỉ không đầu, theo bạn đến ba ngh́n năm sau để đ̣i lại ba đường gươm. Ha, ha, bằng hữu ! Mà chết ư ? Nếu không biết sống th́ biết được thế nào là chết. Ta biết chết, bởi v́ ta đă biết sống. Bằng hữu, đừng cho rằng sống chết là hai thể. Một, vâng, « tử sinh đồng nhất thể », đă vậy c̣n sợ ǵ, c̣n tham ǵ ?

Toàn Nhật mím môi, nhắc lại như nói với ḿnh, sống chết chính là một, sống chết chính là một. C̣n sợ ǵ ? C̣n tham ǵ ? « Tử sinh đồng nhất thể - Hà úy hựu hà kinh ».

Nh́n ra sân sỏi, nắng quái ở đâu vừa đến. Phía bờ sông Nhị, cầu vồng sau cơn mưa cong lên làm một nửa ṿng tṛn, đầu bám vào chỗà không có.

Koji phanh áo kimono, kéo cho trễ xuống đến bụng được nịt chặt bằng những cuộn vải trắng cuốn quanh. Rút cây đoản kiếm dài ba tấc để trước mặt, nét mặt b́nh thản đến lạnh lùng, Koji nhắm mắt nhập vào khoảng hư vô bao trùm cơi tạm chốn thế gian. Tiếng sáo, lại tiếng sáo diều trên đê. Sáo người ? Sáo đất ? Hay sáo trời ? Koji nhếch mép cười, tươi tắn nh́n Toàn Nhật :

- Lấy thế đi !

Hai tay cầm lấy chuôi đoản kiếm, rồi quay ngược lại, Koji miệng cười âu yếm nh́n trời, nh́n đất, và bất ngờ đâm mạnh vào bụng dưới phía trái. Đau đớn làm gập người xuống, nhưng Koji lại từ từ ngồi thẳng dậy, miệng khàn đặc ê a : «Những con kiến nhỏ nhoi » rồi đứt quăng, thở hồng hộc, « chạy hàng dọc theo cành đào gẫy ». Koji gắng hát tiếp : « ai bỗng ngừng tay thoi ...».

Thời gian chùng xuống, giăn ra, biến thành chất lỏng trộn vào chỗ vô h́nh vô tướng. Toàn Nhật hươi kiếm ngang đầu, sẵn sàng đường gươm thứ nhất. Koji quát lên, hai tay hết sức kéo cây đoản kiếm lên trên, lưỡi chếch về bên phải. Máu phun ra có ṿi, tràn như nước vỡ bờ, nhuộm đỏ giải nịt vải trắng. Koji gục xuống, nhưng vẫn tiếp tục hát : « những con ... kiến ...nho nhỏ », rồi lại gượng người ngồi thẳng dậy, cổ cong ra phía trước, hét :

- Trảm !

Một nhát gươm lóe lên.

Đó là lần đầu tiên đường gươm thứ nhất Toàn Nhật phát ra mà mà mắt không có một chút căm hờn nào. Trái lại, nó đầy ánh cảm thương. Đó cũng là lần đầu tiên Toàn Nhật chém đầu một người. Oái ăm làm sao, người đó lại là một người Nhật đội ơn và yêu quí.

Đứng như tượng đất, vô hồn, bất động cho đến lúc trời tối hẳn, Nhật mới định thần lại, ̣a lên khóc. Tiếng khóc ban đầu ấm ức trong cổ, sau to dần rồi vỡ tung ra thành tiếng gào, tiếng rú, tiếng sấm, tiếng sét. Vườn bên, trong đêm đen thăm thẳm, bỗng có tiếng mưa lộp độp trên những tàu lá chuối.

 

 

4 Cơi nổi ba đào

 

Bơ già khệ nệ khiêng một cành đào theo Mai đi dọc chợ Đồng Xuân, rồi tạt ngang hàng Bè. Từ đấy, đến dinh Khương Tả hầu chỉ c̣n chừng trăm thước, đường quang người, đỡ phải chen lấn. Hàng phố ai cũng tất tả chiều ba mươi, ngược xuôi, nhớn nhác, nghiêm trọng như thể để dành nụ cười cho đêm giao thừa. Trẻ con không đợi được, rủ nhau đốt pháo chuột, tiếng nổ lạch bạch đây đó làm phố xá chớm thơm mùi khói. Vào cổng, Mai vừa reo vừa tíu tít gọi. Đặng-thị chạy ra, cười hở hàm răng đen tuyền có vết bă trầu, ôm chầm lấy cô cháu họ. Nghe tiếng lao xao, Toàn Nhật từ trái nhà sau bước vào nghiêng ḿnh vái chào. Mai ngước lên nh́n. Ơ, lạ chưa, chỉ độ nửa năm xa cách mà Toàn Nhật già dặn hẳn đi, miệng tuy cười nhưng vẫn lộ ra một chút ưu tư, một chút cẩn trọng.

Hơn tháng trước, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp để con trai trưởng là Mạnh Thuyên về Bùi Phong báo tin cho Đặng-thị là Trọng Thức nay trắng tội. Thức lại về nấn ná dinh Khương Tả Hầu, lần lữa đến măi tháng mười mới lên t́m Toàn Nhật trên Phố Hiến.

Sau vụ án năm Canh Tư, không khí Kinh Kỳ dịu hẳn ngột ngạt. Số người văng lai thăm Phu tử ngày một đông. Có kẻ đến ngâm vịnh, biện bàn kinh sách. Có kẻ đến xin một quẻ dịch, hỏi dăm ba câu chuyện hậu vận. Có người đem chuyện chính sự ra kháo. Họ đều là đám thượng lưu ở đất Kinh Kỳ, con vua cháu chúa, và nếu không khoa bảng th́ cũng là loại quan quyền văn vơ trong Chính phủ. Phu tử tiếp mọi người, thường th́ ừ à cho qua chuyện. Riêng với một người Phu tử có lưu t́nh, là Côn quận công Trịnh Bồng. Vào cuối tháng một, đột nhiên Bồng xuống tóc đi tu, trả lại dinh thự, nghe đâu đă đi lên thọ giới ở một ngôi chùa ở miệt Hải Dương.

Mai xin vào chào Phu tử rồi xuống bếp với Đặng-thị. Nàng cười, mắt lại thỉnh thoảng nh́n lên nhà trên, mau mắn giúp bà d́ sửa soạn đồ cúng. Đến chiều, Mai mới rảnh tay, đứng trên tam cấp, uống ngụm nước vối vừa pha. Nàng hỏi chuyện Toàn Nhật trên Phố Hiến, rồi giọng vẩn vơ : « ... Anh Thức có về Kinh cùng Nhật không nhỉ ? », mắt nh́n ra cổng. Lúc ấy, mặt trời chếch xuống dăy mái nhà phía Tây, lựng lên một ráng đỏ đang chuyển dần sang mầu xám lịm. Đường vắng hẳn người đi, thỉnh thoảng mới thấy dăm ba dáng dấp hối hả như có ai đuổi. Một lát sau, đèn thắp lên, ánh vàng hắt lên vách vôi trắng những bóng người vờn xung quanh nhau như đèn kéo quân.

Cơm tối dọn ra, mọi người ăn qua loa, xong lại ai làm việc nấy. Dưới bếp, nồi bánh chưng đặt từ đầu giờ Thân sùng sục sôi, phải dập bớt củi, mở nắp nồi. Toàn Nhật rửa lại từng viên cuội trắng, tṛn trĩnh, trông giống hệt như những viên kẹo bột. Nồi mạnh nha đă bắc khỏi bếp. Khi đă nguội hẳn, Đặng-thị bỏ từng viên cuội vào nồi, khéo léo gắp ra để trên một chiếc mâm đồng có phủ lá chuối. Mâm kẹo để tiếp khách uống trà trong ba ngày Tết được xếp lên theo kiểu ḥn núi non bộ, cheo veo tưởng như sắp đổ, nhưng thật ra mật dính chắc vào nhau, khó suy xuyển.

Mai vẫn ngóng về phía cổng, dáng băn khoăn lộ ra ngoài. Trong góc bếp, nàng lắng tai nghe từng tiếng động, thấp thỏm đợi một tiếng chân, thót người lại mỗi khi nghe tiếng chó sủa. Lấy tay dụi mắt cay xè v́ khói bếp, Mai bâng quơ, nhắm hai hàng mi lại, h́nh dung cho rơ khuôn mặt một người chắc là sắép về. Gần giao thừa rồi c̣n ǵ. Pháo lại đ́ đùng như thúc giục. Phu tử hết đứng lại ngồi, sốt ruột : «. .. chỉ chờ có nó nữa là đủ mặt Tết này ! ». Nói xong, Phu tử quàng chiếc khăn quấn cổ, bước ra vườn, đi về phía cổng.

Đêm ba mươi tối như mực. Đặng-thị đă sắp xong mâm cúng. Mai lại nhắm mắt, nhớ lại buổi đến thăm Thức trong ngục. A, cái con người kỳ lạ, mồm sưng vù mà vẫn toác ra cười khi nghe nói đến hai chữ số mệnh. Mai kéo thời gian ngược lại bằng cái trí nhớ mỏng mảnh căng ra đằng sau như tơ vương vào thuở ban đầu. A, cái thuở đến khó quên, dẫu là cho một người vô tâm nhất.

*

Nửa năm trước, khi chân ướt chân ráo đến Thăng Long, người đầu tiên đếùn thăm thầy tṛ Phu tử là Nguyễn Du. Hỏi thăm được nơi phu tử tạm trú, Du vội vă tới ngay. Đó là một thiếu niên mảnh khảnh, lưng hơi gù, miệng trễ, mũi cao, da trắng như da con gái. Tính dí dỏm, khi nói giọng Du có chút ngân nga, miệng tươi, nhưng cặp mắt sâu thăm thẳm thoáng có cái ǵ xa xăm vời vợi. Mừng ra mặt, Du nắm tay Thức và Nhật, rồi xin phép vào chào Phu tử. Khi ra, Du bảo :

- Thầy chỉ nói có một câu, đố các anh biết là ǵ, nói được th́ đệ xin đăi các anh một bữa tối ở đất kinh kỳ hoa lệ này.

Du bắt chước Nhật và Thức, quen mồm gọi Phu tử là thầy, mặc dầu ḿnh là con của Nguyễn Nghiễm, thầy Phu tử, và cùng vai vế với Khản, người bạn đồng môn nhưng kém Phu tử trên chục tuổi. Nhật và Thức chịu, Du nhanh nhẩu :

- Đệ giúp hai người anh văn hay chữ tốt nhé! Câu này là của Hàn Dũ.

- ...

- Chịu chưa ?

- ...

- Bất b́nh tắc minh. Phải chăng ḷng không đặng, ắt sẽ thành lời !

Thức vui vui :

- Thôi, thế th́ ta đăi bữa tối này vậy.

Du giẫy lên :

- Đùa à, anh thầy đồ «Nôm na là cha mách qué » kiết xác, túi có bao nhiêu mà ngông nghênh được. Đây là phần đệ ...

Nói chưa dứt lời th́ có tiếng gọi từ gian ngoài. Ba người ra, một người con gái nhỏ nhắn vội cúi chào. Du vui vẻ kêu : «A, th́ ra chị Mai ».

Đặng Thị Mai ngước lên, đôi mắt lấp lánh mầu hạt dẻ. Mai không cao lắm, ḿnh dây, mặc một chiếc áo cánh gà màu ngà có quấn dây lưng tím nhạt, tóc vấn khăn nhung màu đỏ gụ. Nàng hé miệng cười e lệ, hàm răng hạt huyền đen nhay nháy làm tăng sắc hồng tự nhiên của cặp môi căng mọng. Du giới thiệu, rồi trêu :

- Hai ông anh tôi chê gái Nghệ quê mùa, rắp tâm làm rể đất kinh kỳ này đấy.

Mai cúi mặt thẹn tḥ rồi xin vào chào Phu tử. Gia đ́nh nàng gốc từ Thanh Hóa đă phiêu dạt vào Phù Đổng từ hai đời trước. Nàng là em út của Đặng Thị Huệ, vốn họ hàng xa với Đặng thị, vợ phu tử . Huệä hiện là sủng phi của chúa. Ngược hẳn lại với người chị luôn đem cân sắc đẹp và sự khôn ngoan bằng vàng ṛng, Mai chỉ mê sách vở, thơ văn. Học chữ với phụ thân, rồi sau, nàng lại được Thụy Liên, cháu ruột của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn thị Điểm, trau dồi thêm cho nên Mai nắm bắt được cách cảm nhận văn chương khá tinh tế. Khách thơ ở Thăng Long mỗi khi gặp nàng thường ít dám ngông nghênh, một phần v́ nhan sắc nàng, một phần v́ tài nàng.

Thụy Liên đeo đuổi chí của Đoàn phu nhân, nhất định không chịu hé mắt xanh tính chuyện chồng con, đến ở với bà cô mấy năm trời. Ban ngày Liên giúp Đoàn phu nhân chấm văn điểm sách với đám học tṛ, tối đến hai cô cháu lại cùng nhau ngâm vịnh. Cũng như Đoàn phu nhân, Thụy Liên coi trọng chữ Nôm, đến nay lại hết ḷng gửi gắm Mai tiếp tục con đường ấy. V́ thế nên tuy mới gặp, Mai đă biết tiếng Trọng Thức từ dăm năm nay. Dịp hội ngộ này, nàng đă sắm sửa thức ăn mang lên, nên cái dự định đi ăn tối của Du phải tạm gác lại.

Sùau bữa chiều, mọi người rủ nhau ra Khiêm Các. Vào cuối giờ Dậu, trăng lên trong màn sương tím bạc. Lạ thay, trăng lên từ ven hồ Trúc Bạch, lừ lừ đỏ tía, vụt lên trời nhanh đến độ chỉ một khắc sau đă đậu ngay đầu ngọn trúc. Nếu chẳng biết giờ giấc, trăng lên nhưng nh́n ngỡ như lại là mặt trời đang xuống. Phu tử tay gơ nhẹ vào phiến đá, miệng ngâm nga se sẽ :

Nguyêt lạc ô đề sương măn thiên

Giang phong ngư hỏa đối sầu miên

Cô Tô thành ngoại Hàn San tự

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Mọi người lắng hồn trong khói sương, ngây người trước cảnh thần tiên, im lặng đắm ḿnh vào không khí huyền ảo tưởng như sắp loăng ra những giấc mơ vô chung vô thủy. Du trầm ngâm rồi nói :

- Chị Mai, thơ hay thế chắc chị đă dịch ra Nôm rồi nhỉ ? Mời chị đọc hầu thầy.

Mai e thẹn, li nhí chối từ. Phải Phu tử giục đến lần thứ hai th́ Mai mới nhỏ nhẹ :

- Xin thúc phụ cho con phép...

Đợi Phu tử gật đầu, Mai nhẹ nhàng cấùt tiếng ngâm :

Trăng lặn, quạ kêu, sương giăng trời

Đèn chài le lói nỗi khôn nguôi

Thành cao bóng đổ chùa hiu quạnh

Nửa đêm văng vẳng tiếng chuông rơi .

Thức lắng tai nghe tiếng ngâm thơ da diết, hồn bay lạc vào vùng sương tím bạc đang ngày càng dày đặc. Phu tử vỗ nhẹ vào tay Mai, ư khen ngợi. Nhật cất tiếng :

- Hay, hay lắm. Nhưng Nhật hỏi chị Cô Tô đâu, Hàn San đâu ?

Mai ngước mắt lên, dịu dàng :

- Không cần ! Người ḿnh đâu ai biếât Cô Tô với Hàn San

Nàng nh́n về phía Thức, cúi xuống tiếp :

-... Nếu lập lại bằng Hán tự những địa danh xa lạ bên Trung Quốc, hay là dùng điển tích nhà Chu, nhà Tấn th́ chỉ tạo thêm mối lệ thuộc.

Quay sang Phu tử, nàng cúi đầu như nói riêng :

- ...thế chẳng hơn ǵ, và nhất là không tạo được sự độc lập tinh thần của ḍng Nôm ta.

Ngửng lên, Mai bắt gặp Thức nh́n lại ḿnh. Cặp mắt ấy nóng bỏng, cháy lên rừng rực đam mê, nhưng vẫn giữ được một sự tŕu mến lẫn kính trọng. Suốt đời, Mai không bao giờ có thể quên được cặp mắt ấy...

Bỗng một tiếng pháo đùng ở đâu nổ choáng tai làm Mai choàng dậy. Đặng-thị tươi cười: «Năm mới rồi... ». Tiếp đấy, không biết cơ man nào là tiếng pháo. Xa xa, pháo thăng thiên bay lên trời, vỡ thành những chùm hoa lóng lánh ụp xuống nhân gian, đánh mốc thời gian cḥng chành trên một sợi giây không ai biết đầu, không ai biết đuôi, và có lẽ chẳng ǵ buộc lại được.

*

Khi dâng tư dinh của ḿnh cho thế tử Trịnh Cán lúc c̣n miệng sữa, Hoàng Tế Lư chỉ nói với một ḿnh Đặng Thị Huệ về con đường hầm chạy từ dinh ra cửa Bắc. Lách qua phía vườn Bích Câu, đường hầm ngược lên phía Tây, nắp hầm ngụy trang bằng một ngôi mộ trông tầm thường trong khu nghĩa trang nằm cạnh bến Tây Long. Huệ thường ở sát bên Cán để trông nom, v́ năm lên ba là Cán bắt đầu oặt oẹo liên miên, thuốc men hàng tháng, lắm khi tưởng đă nguy. Có kẻ vu là Dương Ngọc Hoan, mẹ của Trịnh Tông, đă yểm bùa nơi mộ phần nhà Chúa ḥng triệt thứ tôn trưởng, nên Cán mới bệnh hoạn đến độ vậy. Huệ vào khóc với Trịnh Sâm, đập đầu xuống thềm, xin chúa tra xét phần mộ. Việc đó là việc cấm kỵ v́ đụng đến vong linh của tổ tiên nên Sâm gạt đi. Từ ngày Tông định làm phản và bị truất xuống làm ¨con út ¨, Huệ lại xin Chúa nghĩ lại, Sâm vẫn không chịu. Để bù trừ, Sâm đành bằng ḷng định ngày làm lễ thành hôn cho đứa con gái yêu là Ngọc Lan với Đặng Mậu Lân, em Huệ, kẻ dân Kinh Kỳ th́ thầm to nhỏ gọi là ¨ hung thần mắt cú ¨.

Huệ bàn với Tế Lư, vẫn khăng khăng là Cán bị bùa yểm, bảo Lư t́m ra cách xem có ǵ lạ ở phần chân của ngôi mả Trịnh Doanh, cha của Trịnh Sâm. Lư không tin, cực chẳng đă, lấy cớ sang sửa phần mộ nhân ngày Tết, đích thân đến đào trộm mả và hứa sẽ kể rơ ngọn ngành cho Huệ.

Tối hôm đă hẹn trước, Lư vào nghĩa trang cạnh bến Tây Long, theo đường hầm bí mật lẻn vào dinh Trịnh Cán. Con đường này, Lư đă nhiều lần qua lại và bố trí sẵn cả chỗ ăn chỗ nằm, pḥng làm nơi ẩn khi có biến. Qua cái ngách cửa, bất ngờ một bàn tay chặn Lư lại. Lư cau mặt, nhưng mặc cho bàn tay đó luồn xuống đai quần giật mạnh. Mùi hương nhài sực vào mũi Lư. Tiếng Huệ nói: « Há mồm ! » rồi tay tḥ ra cậy miệng Lư. Lư nuốt một ngụm thuốc, vị ngọt, nhưng hơi cay xông lên, mặt nóng dần. Lư túm lấy bàn tay đang lần xuống đùi ḿnh kéo mạnh, rồi ôm xốc người Huệ lên. Mái tóc Huệ đen biếc xơa tung ra rồi xổ xuống tựa một đàn rắn lục. Huệ trườn ḿnh lên hai chân kẹp vào mông Lư, hai tay nắm tóc, lưỡi lè ra cắn vành tai Lư, miệng rên rỉ, thúc giục. Thuốc ngấm. Lư gào lên. Huệ lắc người như con thoi, bàn tay t́ cứng lấy hai vai Lư, móng sắc bấm vào làm máu Lư ứa ra, rỉ xuống. Lư xoay người áp Huệ vào bức vách, hai tay nắm cứng lấy bắp đùi Huệ nhấc lên, rồi thúc hạ bộ vào, táo tợn, ĺ lợm. Cứ thế. Hai sinh vật ấy hào hển quấn lấy nhau, cắn rứt nhau, kêu van nhau rồi cuối cùng buông nhau ra, đẩy nhau nằm vật xuống, mồ hôi nhễ nhại.

Lúc trống canh hai điểm, Huệ tỉnh dậy, lay Lư : « Này, việc thế nào ? ». Lư đáp :

- Đào chân mả, quan sát kỹ nhưng không thấy ǵ ! Duy có một điều ...

- ...

- Lúc lấp lại mả, tôi bỗng thấy một con rết vàng dài bằng cái đũa. Nó nhẩy lên quần, rồi leo vào áo, tôi phủi không được. Nó lên đến cổ, rồi thoắt một cái, không biết biến đi đâu mất ...

- Chắc là nó rơi xuống đất, lủi vào cỏ ...

- ...

- Nếu màu vàng th́ chắc là điềm lành, màu vàng là màu đế vương. Con ông chứ c̣n ai ! Cán làm vua th́ đúng là ứng vào tên tục ông là Hoàng Đăng Bảo. Có đổi ra Tế Lư lúc ấy cũng chẳng được ! Hừm !

Huệ tư thông với Lư từ khi Lư c̣n ở trấn Nghệ. Rồi mỗi lần Lư về Kinh, họ lén lút gặp nhau, Trịnh Sâm không mảy may ngờ vực. Gần gũi Sâm trên ba năm, Huệ vẫn chẳng thai nghén ǵ. Ngẫm lại, hơn chục năm qua Sâm đă ăn nằm với cả tá bà phi, nhưng kể từ ngày đẻ công chúa Ngọc Lan, chẳng một ai thụ thai. Huệ tính toán, giả giận Sâm cả tháng dịp Lư về, tắt kinh mới lại làm lành, rồi báo Sâm tin vui. Khi Cán đẻ ra, Sâm vẫn nghĩ là đẻ non, lại càng yêu càng quí.

Lư cười nhẹ, xoay người lại nh́n Huệ, nói :

- Phế Tông, Cán chỉ thành Chúa thôi. Vua thế nào được !

Huệ cười khanh khách :

- Quan cách nhà các ông lắm chuyện lắm, c̣n quá đàn bà ! Trịnh Sâm muốn soán, sợ dị nghị, gặp Nguyễn Thiếp bàn ra là thôi ... C̣n ông vua « hề » Hiển Tông kia th́ lẩm cẩm rồi. Duy có một điều là tôi c̣n ngại : Hắn chết, rồi Thái tử Lê Duy Cẩn mà kế v́ ngôi vua th́ không thuận lợi cho Cán... Thằng Cẩn gần gũi con Hoan mẹ thằng Tông, không thể tin nó được.

Xưa nay Vua Hiển Tông thấy ḿnh không làm ǵ nổi Sâm đành nhịn nhục, suốt ngày viết kịch diễn tuồng. Giả như không ngó ngàng đến thế sự, Vua nói ra miệng : « Việc thiên hạ nhà Chúa lo mà nhà Vua hưởng, có chi phải phàn nàn ! Tôi sướng, Chúa khổ, vậy mà tôi không biết ơn th́ đáng chê đáng cười thật ». Mỗi lần kẻ ăn người ở hậm hực, Vua gạt phăng đi không nghe. Ngay việc chọn Cẩn làm Thái tử, và việc giam nhốt tự tôn là Duy Kỳ từ thuở tấm bé đến nay đă mười lăm năm, Vua để mặc Sâm muốn làm ǵ th́ làm, chẳng dám hé lời.

Huệ xoay người lại, nh́n vào mắt Lư, nhếch miệng :

- Thằng Cẩn lên làm Vua, chắc không lâu được. Nó đù đờ, bất nhất. Cứ để nó kế vị, đợi ít lâu cho đến lúc Cán thành niên, rồi bắt nó thoái vị. Lúc ấy Chúa thành Vua là lẽ đương nhiên. Tách thằng Cẩn ra khỏi đám mẹ con thằng Tông, tôi đă có cách

- ...

- Tôi đem gả con Mai, em tôi cho nó. Vợ thằng Cẩn vừa xấu vừa độn, chẳng làm vợ cả được ...

Lư nghe Huệ tính toán giản đơn, nhưng táo tợn, luồn lách, mặc nhiên không thèm để ư đến đám quan lại trong triều. Hỏi, Huệ thản nhiên :

- Chúng nó là bọn vừa tham vừa hèn, lại vừa ngu. Thả cho chúng tí quyền, tí danh là đủ. Chúng không đáng ta cho một đồng kẽm. C̣n ông, ông ở đấy th́ chúng làm ǵ được ? Con ông làm vua, ông cũng phải lo một tí chứ ! Đấy là cái số ông, không làm Vua th́ làm bố Vua - Huệ cười, tay lại vắt sang đùi Lư, lơi lả - không muốn à ?

Lư tự nhiên thấy ngứa ở cổ, khục khặc ho. Ngồi lên, Lư thấy mắt tối lại, khạc ra. Đó có phải là một con rết vàng ? Nó nhanh như cắt, thoắt một cái là biến mất. Lư hỏi Huệ có thấy con rết không ? Huệ kéo Lư đè lên trên người ḿnh, dạng chân, mồm bảo :

- ... chỉ tin nhảm, sao đỗ đến ông cống mà c̣n dị đoan vậy hả ?

*

Không về kịp cúng tất niên như đă hẹn măi đến mồng ba Tết Thức mới về đến Kinh. Việc di giáo hữu từ Phố Hiến về Đa Phạn y theo lệnh của Chúa Tĩnh đô Vương trở nên phức tạp. Giúp giáo sĩ Charles-Antoine Sieyès giao dịch với quan lại sở tại và đám chức sắc người lương tại địa phương, Thức thấy trước mắt một điều : sự mâu thuẫn lương-giáo trầm trọng đến độ đang biến thành những nứt rạn khó hàn gắn được. Mang đất của người lương chia cho người giáo, lại không đền bù ǵ cho tương ứng, đám quan lại đă đẩy người lương vào thế bạo động. Người lương hợp thành từng đoàn, mang giáo mác gậy gộc vây chặt đám giáo hữu khiến họ tiến không được mà thoái cũng không xong. Charles-Antoine mặt mũi tái ngắt, đưa sắc chỉ của Tĩnh Vương ra, ngón tay chỉ vào khoảng đất được vạch trên địa đồ nơi giáo hữu được phép định cư cho quan Cơ xem. Viên vơ quan này mang một đội lính bàng quang nh́n diễn biến, thản nhiên nhổ bă trầu rồi bảo Thức là không biết ǵ và chẳng có lệnh trên nào đưa xuống. Cứ thế, giằng co cả tuần, đàn bà trẻ con chịu cảnh màn trời chiếu đất, nhao nhao kêu khóc. Gọâp vàng lại đút lót, quan Cơ mới mở đường, lùa giáo hữu vào một khu đất lầy nước mặn. Giáo hữu cắn răng, kêu lên quan Huyệân, rồi cũng chuẩn bị dao gậy. Thức vào hầu quan, lo lắng : «.. từ Phố Hiến lên đây, ít ra là khoảng trên một ngàn đinh. C̣n giáo hữu ở Đàng Ngoài hiện có đến trên hai mươi vạn, cứ thế này là sẽ nội chiến trên toàn lănh thổ ». Quan cười khềnh khệch : « ... thầy rỗi hơi, lo chuyện đâu đâu. Ai chết mặc ai, cái thân thày, thày lo. Chuyện thiên hạ xá ǵ ! Thôi, về Kinh đi, ở lại khéo chết chẹt đấy ! ». Viễn tượng một cuộc nội chiến giữa những kẻ khốn cùng tranh nhau chút đất đai khô cằn để có cái mà ăn khiến Thức rùng ḿnh. Chàng ở lại Đa Phạn cho đến khi tạm ổn định được đời sống của giáo hữu rồi mới lên đường.

Dăm bữa rồi, cứ sáng ra là người đó dựa ḿnh vào thân cây hoa sữa, nón mê kéo sụp xuống mũi, ngồi đọc sách. Gia nhân mở cổng dinh Khương Tả hầu ra hỏi, người đó chỉ lắc đầu. Có kẻ hầm hè đ̣i đánh, người đó ngước lên, mắt sắc như dao, cḥm râu quanh mép đă ngả mầu muối tiêu, hất hàm : « Ngoài cổng dinh đất là của thiên hạ, vào hỏi chủ ngươi xem có phải không ? », rồi lại điềm nhiên cúi xuống đọc sách. Gia nhân vào kể lại, Trọng Thức bước ra sân nh́n.

Đẩy cánh cổng, Thức thủng thỉnh bước về phía cây hoa sữa. Người ngồi gốc cây giở nón, ghé mắt nh́n, rồi lại cúi xuống nói trống không: «Tôi xin được yết kiến La Sơn Phu tử ». Thức từ tốn báo là thầy ḿnh đă về Bùi Phong từ tuần trước. Người ấy lại ồ một tiếng, thở dài, rồi lại giở nón ngước mắt hỏi : « ... dám hỏi, huynh đài tên họ là Vơ Toàn Nhật ? », giọng trọ trẹ miền Hoan Châu. Thức lắc đầu, tự giới thiệu. Người ấy xưng tên là Trần Danh Kỷ, hiệu là Tiệp Dư, vốn có giao t́nh với Koji Mishima, người trên Phố Hiến đại diện cho Nhật Bản thương cục.

Trưa hôm ấy, khi Toàn Nhật về th́ Thức đang ngồi tṛ chuyện với Kỷ. Kỷ đứng dậy, ṿng tay chào. Toàn Nhật mới nhận chức Chưởng Cơ của đội Trung Kính, có trách nhiệm lo an ninh và bảo vệ toàn bộ dinh thự trong phủ Chúa và dinh các đại thần trong Chính-phủ. Kỷ tỏ vẻ ngạc nghiên :

- Huynh đài có cơ duyên đấy, có phải ai cũng có cái trách nhiệm ấy đâu. Quan Chánh dường tin người là phải có cơ sở. Thế c̣n Phu tử, ngài thuận ḷng cho học tṛ nhận quan nhưng chính ḿnh th́ lại lánh xa hoạn lộ, cũng là điều lạ ...

Toàn Nhật mỉm cười :

- Thầy tôi không o ép ǵ ai cả, chỉ nói “thuận thiên hành đạo”.

- Việc Phu tử nhất quyết không tán thành việc soán ngôi nhà Lê đă đồn đăi đến Đàng Trong, ai cũng tâm phục.

Tay chỉ Thức, Kỷ cười :

- Chỉ thiếu một chút là cái đầu huynh đài đây suưt rơi trong vụ án năm Canh Tư !

Kỷ thân mật kể chuyện Đàng Trong cho Thức và Nhật , và nhất là t́nh bạn với Mishima suốt mấy năm qua. Cơm nước xong, Kỷ xin phép ra về. Khi Nhật tiễn ra cổng, Kỷ quay lại, bất ngờ hỏi :

- Quyển sách ấy của Mishima, huynh đă tŕnh lên quan Chánh dường chưa ?

Nhật ngẩn người, chưa nghĩ ra, hỏi lại : « Sách nào ? » th́ Kỷ đă chỉ vào những cành mai c̣n vàng hoa, nói lấp chuyện :

- Không, chẳng có ǵ quan trọng ! Toàn huynh xem, mai c̣n vàng thế này th́ chắc năm nay mùa xuân dài hơn thường lệ, và hẳn không phải lo hạn hán.

Nh́n bóng Kỷ khuất sau lối ngơ hai bên trồng trúc bạch, câu hỏi « sách nào » văng vẳng. Toàn Nhật thầm nghĩ, chẳng hiểu có phải là cuốn « Luyện kim yếu pháp » không ? Nếu thế, Kỷ là ai ? Một người gốc châu Hoan, đỗ hương cống năm Canh Dần, xử mà không xuất hơn chục năm nay, rày đó mai đây, kết bạn với cả những ngoại kiều như Mishima ? Nhưng cũng có thể là một quyển sách khác, chẳng hạn như cuốn « Chuyện các nước phương Tây » (Seiiku Monogatari ) mà Mishima vẫn để gối đầu giường. Toàn Nhật ngẫm nghĩ rồi lắc đầu, bật cười, tự nói cho ḿnh nghe « Cái bệnh ngờ vực ở đất Kinh Kỳ này lây thế mà nhanh thực ».

*

Đặng Thị Huệ vồn vă nắm tay em kéo ngồi xuống chiếc sập gụ lên màu đen tuyền bóng lên như thoa mỡ. Nàng đưa tay vuốt lại vài sợi tóc vấn vội c̣n x̣a trên thái dương Mai, miệng tươi tắn :

- Chị có một tin vui báo em. Này Mai ạ, Thái tử Cẩn nhờ người dạm hỏi em về Đông cung làm Đệ Nhất thứ phi. Việc cưới phải làm gấp, v́ nay Đức Vua chừng yếu lắm, chẳng biết lúc nào ... Chị tính là sau lễ tơ hồng cho Mậu Lân, chị mới có thể lo đến phần em ...

Mai bàng hoàng, tai ù lên, nghe Huệ nói như vẳng đến từ một cơn mơ. Cùng cha nhưng là con bà lẽ, thuở tấm bé Mai phải gọi mẹ ḿnh là «chị » cho đến khi mẹ mất. Ngày xưa, khi mẹ «cả» lấy vợ cho cha, mẹ hằn học: « tuổi tao hết vui hết thú, lấy người về hầu ông ấy, đỡ nhọc đỡ vướng ». Bà lẽ, lúc ấy mới mười sáu, là một cô bé c̣n ngây thơ. Sau lễ tơ hồng, cô bé mặt xanh lớt, nhịn ăn cả tuần lễ, cứ nghe tiếng chân ban đêm là dúm người lại. Hai năm sau, Mai ra đời. Mẹ «cả» ngắm Mai, rồi khinh khỉnh nói : «... đúng là cha già con cọc ! ».

Năm Mai lên tám, «chị » bỏ Mai đi, thở hắt ra, miệng rên : « Tội nghiệp con mẹ một ḿnh ! » rồi nấc lên, đầu ngoẹo xuống, tay vẫn nắm cứng lấy Mai, phải hai người mới gỡ ra được. Mẹ «cả» bảo Huệ, lúc ấy tuổi xấp xỉ tuổi «chị » đẻ ra Mai, giọng sa sả: «Từ nay mày lo cho con ranh này !».

Vài tháng sau, mẹ «cả» đau yếu, cả ngày nằm một chỗ, nhưng vẫn tỉnh táo. Mẹ bảo: «... Con Huệ, tao đă lo cho mày vào hầu hạ Chúa trước khi tao chầu trời, chậm th́ lại kẹt cái tang mẹ. Sau này, mày lo cất nhắc thằng Lân, nó chữ nghĩa không có, chỉ suốt ngày lêu lổng ». Mấy ngày sau, mẹ gọi Huệ và Lân vào pḥng, đuổi cha ra, rồi dằn từng tiếng: «Tao sắp đi về với ông bà. Vốn liếng nhà chẳng được là bao. Cha chúng bay là thứ vô công, chỉ lăng nhăng hết ngâm lại vịnh. Nh́n ngang, cũng chẳng bằng ai, nh́n lên th́ thấy ai cũng hơn, nên chỉ biết gục mặt nh́n xuống, miệng nói nhân, nói nghĩa, không màng công danh tự lừa dối ḿnh. Hai chúng mày chẳng nhờ vả ǵ được cha đâu...Nhớ đây, mẹ dặn : đời chúng mày, phải làm thế nào để chẳng phải qú gối trông lên một ai. Muốn thế, phải có tiền. Muốn có tiền, phải có quyền. Muốn có quyền th́ đừng lấy chuyện nhân nghĩa tầm phào làm mốc. Cái mốc khiến được thiên hạ là lợi, là tiền.Tiền à, là Tiên là Phật, là ngọc là ngà, là cái đà của danh vọng, là cái lọng của nịnh thần, là cán cân của công lư... ». Mẹ «cả» ngưng nói, rồi thều thào: « sáng mai, con Huệ vào phủ Chúa, nhớ lời mẹ ».

Mẹ «cả» đi ngay tối hôm đó, nhưng chỉ báo tang ba ngày sau, đợi Huệ vào phủ Chúa xung thị nữ trước đă. Huệ làm vẻ không hay biết ǵ. Ngày đi chôn mẹ «cả» chỉ có cha, Lân và Mai. Từ đấy, gia cảnh túng quẫn, đồng ra đồng vào là nhờ tay Huệ. Cha tuổi cao, chỉ quanh quẩn với Mai, dạy Mai ngâm vịnh, và phàn nàn Lân là loài nghịch tử, họ Đặng đến đây coi như tuyệt tự. C̣n Lân th́ kéo bè kéo đảng rủ nhau lấy tiền xâu ở chợ hàng Da, hung bạo đến độ nổi tiếng một vùng. Ít lâu sau, Huệ không những chinh phục Trịnh Sâm mà c̣n cả đám quan thị phục dịch trong phủ. Đến lúc ai muốn ǵ, cứ nói với Huệ là Sâm cho toại ư, người đời gọi Huệ là bà Chúa Chè.

Nh́n Mai, th́nh ĺnh Huệ lên tiếng:

- Em nghĩ thế nào ?

Mai ngước nh́n Huệ, cắn môi ngập ngừng :

- Chị để em nghĩ, việc một đời ...

Huệ ngắt lời :

- Bà Thái phi đau yếu, bệnh tật, lại đứng tuổi rồi. Sau, là em. Đức Vua chắc sống cũng chẳng c̣n lâu. Như vậy, chị độ là em sẽ thành hoàng hậu nhà Lê, làm vang danh cho họ Đặng, chắc cha cũng mỉm cười nơi chín suối...

Ngẫm nghĩ một lát, Huệ nói tiếp, giọng đanh lại :

- Không phải ai cũng được như chị em ḿnh. Chị cũng biết là em có t́nh ư với một anh thầy đồ xứ Nghệ. Thái tử Cẩn già nua, nên em cũng đừng phí độ xuân xanh của ḿnh. Quan Chánh dường có ư xếp việc cho thầy đồ nhà em được gần gũi em trong Đông cung phủ. Việc ấy không có ǵ khó cả...

Huệ nheo mắt nháy, cười giả lả :

- Bây giờ em về xếp đặt, rồi đầu tháng lên đây ở với chị, giúp chị trông nom thế tử Cán vẫn cứ oặt oẹo, chưa thuyên giảm được chút nào.

Huệ giữ Mai ở lại ăn cơm chiều, bảo Mai vào chơi với Cán. Đi qua những hành lang lờ mờ thấp thoáng ánh bạch lạp, Mai bước vào một căn pḥng tứ bề rủ chướng gấm, mùi thuốc xông vào mũi. Cán reo : « D́ Mai, mẹ dặn thế nào d́ cũng đến, Cán đă sắp sẵn đồ chơi đây rồi !». Cán đứng lên, chân không vững xiêu đi suưt ngă, mặt xanh xao, bụng ỏng, tay bưng một hộp gỗ đựng dế có đục lỗ. Mai ra cửa sổ định kéo mành, nhưng thị nữ giơ tay lên chặn lại, nói rằng tuyệt đối cấm v́ sợ gió máy. Mai ngồi xuống tràng kỷ, miệng đắng lại, khô tưởng như bỏng. Chập chờn tranh tối tranh sáng, văng vẳng trong đầu Mai tiếng hát quan họ « ... cá cắn câu biết đâu mà gỡ... chim vào lồng biết thuở nào ra ». Mai đưa tay lên quệt mắt, ḷng quặn lên một niềm hăi sợ đang ầm ập kéo đến hệt như một cơn giông bất ngờ.

*

Ra khỏi Cấm cung, Mai ngơ ngẩn như người mất hồn, chân bước về phía hồ Thủy Quân, ḷng trống trải để gió lộng tứ bề. Buổi tàn thu, những cây bàng cong queo rắc lá vàng xuống vệ đường ṿng quanh hồ như trải thảm dưới chân. Giữa hồ, tháp gươm nổi lên để đánh bạn với nỗi đ́u hiu của đàn sâm cầm tha về để hoang trên cỏ dại.

Ngồi xuống gốc cây đại thụ đâm chồi ra mặt hồ, Mai lẳng lặng nghe hồn ḿnh se sắt theo hơi lạnh đang lẩn qua chiếc áo bông bằng nhiễu màu gụ đỏ. « Như vậy, chị độ là em sẽ thành Hoàng hậu nhà Lê ...», tiếng Huệ lại vang lên trong đầu Mai. Không, chị Huệ, em chỉ là một thứ đồ vật mang ra gả bán. Khi thành Hoàng hậu th́ em chắc chắn em không c̣n là em. « ... Quan Chách dường có ư xếp việc cho thầy đồ nhà em được gần gũi em trong Đông cung phủ ». À, hay nhỉ. Vẹn toàn ghê, chưa ǵ đă rắp tâm trốn chúa, lộn chồng. Nhử nhau bằng vàng và tội lỗi, chị Huệ ơi, chị định nặn em theo khuôn chị, để « làm vang danh họ Đặng, ... cha cũng mỉm cười nơi chín suối ». Không, chị làm sao hiểu được cha. Cha chắc sẽ ngậm hờn th́ đúng hơn, chị ạ.

Mai chợt buồn nôn khi nhớ lại cảnh Huệ nheo mắt nháy, vục vội đầu nôn thốc nôn tháo xuống hồ. Nh́n bóng những cành đại thụ gẫy ra, rồi nḥa nhạt, như chắc không bao giờ sẽ hiện lại nguyên h́nh nguyên ảnh, nàng hoảng sợ. Đứng vội lên, Mai đi như chạy về dinh Khương tả hầu.

Khi Thức ra mở cổng, Mai ̣a khóc, nước mắt như mưa. Đưa Mai ra cạnh bờ ao, Thức chấm nước mắt cho Mai, tay ôm lấy bờ vai gầy guộc run rẩy nép vào ḷng ḿnh. Thức xót sa nhớ lại những giọt nước mắt ngày Mai khóc khi đi thăm ḿnh trong cảnh tù ngục năm ngoái. Nghe Mai kể xong, Thức thở dài, mắt nh́n lên bầu trời đang ngả sang màu mực nhạt. Mai im lặng, chờ đợi. Thời gian giăn ra tưởng dài đến vô chừng trong khi Thức vẫn mím miệng, hàm bạnh ra, cái sẹo đâm xuống chân mày co giựt từng hồi. Không nhịn được, Mai ấp úng :

- Phải làm ǵ bây giờ ?

Tránh cái nh́n trách móc của Mai, Thức hỏi lại, ngây ngô :

- Em định làm ǵ cơ ?

Vừa bực, vừa buồn cười, Mai sẵng :

- Hay anh muốn có cái việc ǵ ấy ở Đông cung phủ ...

- Không, nói bậy - Thức quay lại trừng mắt - Em phải từ chối. Rồi anh xin thầy đến hỏi em về ...

Bấy giờ, Thức bỗng nhỏ đi như một đứa trẻ trong mắt Mai. Nàng b́nh tĩnh :

- Họ nắm quyền, nắm thế, chẳng để ḿnh yên để hỏi để cưới như thế đâu. Hai ta không có cách ǵ khác là trốn đi ...

Thức như người trên mây, bật miệng :

- Nhưng trốn đi đâu ?

Bật cười để gh́m cơn giận, Mai cố nhỏ nhẹ đáp :

- Bầu trời này c̣n rộng chán cho ḿnh nương náu ...

Nh́n Thức cứ nghệt ra, Mai bỗng tủi thân, hệt như kẻ vừa ngửa tay xin mà không được cho. Hộc lên một tiếng, nàng lại cắn răng, nhưng nước mắt đă giàn giụa. Hai tay nắm lại, nàng đấm thùm thụp vào ngực Thức, miệng ấm ức kêu :

- Giời ơi là giời ...

Thức ngạc nhiên, rồi nhẹ nhàng nắm lấy hai tay Mai, áp vào mặt ḿnh cũng đă nḥe nhoẹt nước mắt. Mai nhũn người, thở hổn hển. Bấy giờ, Thức lẳng lặng xiết chặt lấy Mai, hiểu rằng từ nay sóng gió kéo vào đời cả hai người.

Mai ở lại dinh Khương tả hầu ăn cơm tối. Khi nàng định ra về, Thức nắm lấy tay, kéo lại hỏi, giọng run rẩy :

- Em c̣n về đâu nữa ?

Nh́n mớ tóc búi vội c̣n ḷa x̣a trên trán Thức, Mai thấy nàng mềm ḷng đi, yếu ớt khẽ gỡ tay ra. Nghĩ thế nào, nàng quay phắt lại nh́n Thức, quyết liệt :

- Em nay chỉ c̣n một chốn về mà thôi !

Đêm hôm đó, Mai cởi quần áo, đắp chiếc chăn đơn mỏng mảnh, lên giường nằm. Ngồi xuống cạnh Mai, Thức rón rén với tay vặn bấc chiếc đèn dầu cho bớt sáng. Chàng kéo chiếc chăn khiến Mai nhắm mắt, mặt quay vào vách, hai tay đưa lên che ngực, chân vắt chéo co lại. Thức cúi xuống áp môi vào bụng Mai, ngụp lặn vào màu sữa trắng tinh mơ và ngát mùi dạ lan của da thịt trinh nữ. Cứ thế, Thức thăm ḍ từng tấc vuông trên cái thân thể đang nhũn ra, vụng về, quanh co, hệt một kẻ dẫn đường mà không biết đường đi lối bước. Bên khung cửa, ánh trăng chênh chếch hắt lên vách bóng lá lung linh, chập chờn, nhảy múa. Thức lần xuống hôn lên từng ngón chân Mai, rồi áp mặt vào giữa hai đùi nàng đă không c̣n khép lại như trước. Mùi nồng hắc thoảng lên, kích thích Thức đến tột cùng. Hai tay nâng đầu Thức kéo lên, Mai áp miệng vào tai Thức, nói th́ thầm : ... « Em là của anh, chỉ một anh thôi... ».

Mai nghiến răng chịu đau, hai bàn tay luồn sâu vào tóc Thức gh́ chặt lấy, biết là ḿnh chẳng muốn níu kéo ǵ một thời con gái. Thời nào rồi cũng phải qua đi. Để c̣n sang một thời khác, thời đàn bà...

*

Toàn Nhật được phân hẳn cho dinh Khương Tả hầu làm nơi cư trú, ngại ngùng không muốn, nhưng quan Chánh dường ép phải nhận. Bằng Vũ nay làm dưới quyền Toàn Nhật, đi lại luôn luôn, nhưng cả Thức lẫn Nhật đều ngờ Vũ là người của Nội Mật viện, có ư giữ ǵn. Vũ kéo đám thư lại của lính Tam phủ đến dinh, chèo kéo, làm thân. Trong bọn, Trần Nguyên Nhưng là kẻ suưt bị chém trong vụ năm Canh Tư, may có Đăng Khoa, con trưởng quan Chánh dường, đứng ra đảm bảo cho nên mới được tha. Rút cục, Nhưng chỉ bị đánh xuống hai trật, phái ra xung quân cho đội Tiền Hùng có trách nhiệm an ninh ở vùng ngoài ven đô chứ không c̣n ở Cấm cung như trước nữa.

Nhật tuyển một đám lính trẻ, mỗi sáng bắt tập vơ. Thời gian Nhật ở với Koji, ngoài ba đường gươm bí truyền, Nhật học thêm được phép Nhu Thuật và cách đánh ám khí, đặc biệt là ném tiêu và ném đồng chinh. Phép ném chinh, Nhật đă tập đến độ siêu tuyệt. Một tay, Nhật có thể vẩy ra ba đồng chinh được mài cạnh sắc như dao, kẻ địch đứng trong gần mười thước khó mà tránh né được. Về cách đánh kiếm, Nhật cũng cải biến cho phù hợp với loại kiếm ta, ngắn và nhẹ hơn loại kiếm Nhật. Vẫn đeo ngang hông nhưng xoay ngược lưỡi lại, cách rút kiếm của Nhật biến thành một nhát chém từ dưới lên trên, chiếm ngay thế thượng phong. Đồng thời, Nhật cũng nghĩ ra những bài liên hoàn cho ba tay kiếm đứng h́nh tam giác, tiến lui đồng bộ, linh hoạt chế ngự được ít ra là ba lần số đối thủ. Quan Chánh dường, xưa vốn đỗ Tạo sĩ, không phải là một kẻ vơ nghệ tầm thường, gật gù lẩm nhẩm : «... có ṇi cả ! » . Một hôm Tế lư đích thân ban cho Nhật cây kiếm chuôi có khắc ba chữ «Hoàng-gia kiếm ». Đăng Khoa không giấu được nét bực bội nhưng miệng chỉ cười nhạt. Lư biết ư, ghé vào tai Khoa nói nhỏ. Mặt Đăng Khoa tái lại.

Từ hai tuần nay, Thức rầu rĩ, lắm buổi ngồi đăm chiêu, không nói một lời. Mai bàn với Thức, rồi cả hai nói lại với Toàn Nhật. Nhật bóp trán đồng t́nh, bảo :

- Tính thế cũng được, nhưng Nhật phải nhờ tay Trần Nguyên Nhưng là kẻ trong đội Tiền Hùng phụ trách ven đô phía sông Nhị.

Trước kia, mỗi lần Tiệp Dư Trần Danh Kỷ ghé thăm Thức, hai người thường thảo luận một số cách nh́n xă hội của người Tây dương. Thời gian Thức đă học với Sieyès đủ cho phép Thức dịch ra vài đoạn trong cuốn « Công ước xă hội » do Rousseau viết bằng tiếng Pha- Lăng- Sa. Kỷ không đồng t́nh với nhiều điểm, trừ khâu nói về quyền tư hữu, theo Rousseau, là nguồn gốc của mọi bất b́nh đẳng trong xă hội. Thấy Thức dạo này im ĺm, không hăng hái chuyện tṛ như trước, Kỷ hỏi gặng nhưng Thức chỉ thở dài. Mấy hôm sau, Kỷ đến từ giă, quay về Hoan châu. Bấy giờ Kỷ nói với Thức :

- Huynh đài vào Đàng Trong, đă có Kỷ này. Thế sự Đàng Ngoài như nước trên lửa, vung nồi lại đậy chặt, sớm muộn cũng bung. Với người anh hùng tái thế ở trong kia, thế nào cũng sẽ đất bằng sóng dậy...

Thức hỏi :

- Có phải là Biện Nhạc ở Qui Nhơn không ?

Kỷ lắc đầu. Thức nh́n Kỷ, chậm răi :

- Vậy là Nguyễn Phúc Thuần hay Nguyễn Phúc Dương ?

Kỷ lại lắc đầu, bảo Thức với giọng chân t́nh :

- Huynh muốn cứu đời, ắt đây không phải là chốn thuận lợi. Kỷ này vào ḍ xét, biết thực lực của đám quyền thần ở Kinh chỉ đáng mớ lửa, không ai nhóm rồi cũng cháy, chẳng cần ra tay.

Thức ngỏ ư muốn ra đi, nhưng bảo chắc c̣n phải đợi ít lâu. Kỷ hẹn Thức ngày rằm tháng sau ở bến Thanh Tŕ, và dặn chớ thổ lộ cho ai biết.

Mấy ngày sau, Kinh Kỳ nhộn nhịp hẳn lên vào dịp lễ cưới công chúa Ngọc Lan. Đám quan lại tứ phương về Kinh dự lễ, quà cáp hàng đấu, ngựa xe tấp nập, làm đám lính Tam phủ phải ra sức lo bảo vệ, lúc nào cũng căng thẳng. Quan Chưởng Cơ Trung Kính là kẻ bận hơn ai hết, mỗi đêm chỉ chợp mắt được vài giờ, tất tả đốc lính hết công này đến việc nọ. Buổi tối tuần trăng thứ ba, Nhật vừa về đến nhà th́ một đội quân thuộc viện Nội Mật ập tới. Viên đội trưởng kính cẩn :

- Tŕnh quan, có giấy của Nội Mật viện đ̣i Nguyễn Trọng Thức cư ngụ tại đây.

Nhật b́nh tĩnh ch́a tay, mở tờ giấy, chăm chú đọc. Giữ sắc diện thản nhiên, Nhật bảo :

- Quan đội, Trọng Thức đă đi từ sáng hôm qua rồi.

- Bẩm quan, người ấy đi đâu ?

- Ta không rơ ...

- Bẩm quan, theo lệnh, xin ngài cho phép khám nhà.

Nhật cất tiếng cười ha hả, rồi sờ vào đốc kiếm, miệng khinh mạn :

- Viện Nội Mật coi người như rác hay sao mà chỉ có tờ giấy này là đủ xông vào đâu th́ xông, chẳng c̣n phép tắc ǵ cả. Các người khám nhà ta v́ không tin lời ta, có phải không ?

Viên đội trưởng cúi đầu lí nhí. Toàn Nhật nóng ruột muốn biết tin Mai và Thức. Không c̣n cách khác, Nhật lạnh lùng :

- Quí vị đưa ta lên viện, tội t́nh ǵ ta chịu. C̣n muốn khám nhà ta th́ không được !

Nói xong, Toàn Nhật ra cửa nhẩy phóc lên con chiến mă màu trắng, vẫy tay gọi thủ hạ. Tiếng vó ngựa trên đường đến viện Nội Mật đập th́nh thịnh trên nền đất vào lúc trăng ló lên qua rặng cây hoa sữa. Trong Nội viện, Đăng Khoa cười nửa miệng, bỡn cợt :

- Cá một cặp mà chỉ chộp được con cái, đă trả về cung Đặng Tuyên phi. C̣n con đực, không trú ngụ dinh quan Chưởng Cơ Trung Kính th́ ở đâu ?

Toàn Nhật nghe Khoa nói, mặt nóng bừng lên nhưng dằn xuống, hỏi :

- Thế ra họ không được phép rời Kinh ?

Khoa vẫy tay. Trần Nguyên Nhưng bị điệu ra, mặt mũi bị đánh sưng vù, ủ rũ nh́n Toàn Nhật. Nhật nghiêm trang hỏi :

- Trần huynh, ngài có chiếu chỉ ǵ cấm Đặng Thị Mai và Nguyễn Trọng Thức rời Kinh đô không ?

Nguyên Nhưng rầu rĩ đáp :

- Không !

Nhật quay sang Khoa, gằn giọng :

-Đăng Khoa đại ca ! Thế là bắt người trái phép, lại c̣n dám xâm phạm đến thân thể vơ quan của Chính-phủ, tội ấy anh bào chữa thế nào ? Trần Nguyên Nhưng làm sao biết ai cấm ai, ai cản ai ? Luật Vua phép Nước ra sao mà tước vị như anh lại hành xử tùy tiện đến vậy ?

Nhật tiến về phía Nhưng, rồi nhanh như cắt xoay người gạt hai tên lính canh ngă chổng bốn vó lên trời, tay ṿng ngang lưng Nhưng kéo về phía ḿnh, từ từ lui ra cửa. Đăng Khoa mặt tái lại, hét lính. Đám thủ hạ đi hộ vệ Nhật hợp thành thế kiếm trận tam giác, ṿng quanh Nhật và Nhưng, chậm răi lùi dần ra cửa dinh Viện Nội Mật.

- Gọi cung thủ và xạ thủ ! Không để đứa nào ra khỏi cổng này!

Đăng Khoa quát như điên như dại, tay tuốt kiếm xông lên.

*

Trịnh Sâm gượng ngồi lên sàng, tay dựa vào chiếc gối thêu chỉ ngũ sắc, đằng hắng lên tiếng cám ơn đám quan khách dưới trướng. Chúa nắm bàn tay bé nhỏ của Ngọc Lan đang run rẩy, nh́n đứa con gái ḿnh nưng như trứng, hứng như hoa, nói nho nhỏ : « Đừng khóc, con. ».

Phía bên kia, Đặng tuyên phi chủ hôn. Mậu Lân ăn mặc chỉnh tề, áo gấm màu gụ có thêu hoa mẫu đơn to như cái bát, lưng thắt đai bằng vàng có giát những thỏi ngọc h́nh chữ nhật, thỉnh thoảng lại đụng vào nhau leng keng. Khuất đằng sau là Đặng Thị Mai, đứng cúi đầu. Đại diện cho Đức Vua, Đông cung thái tử Cẩn bước ra chúc mừng hai họ, nói lại những câu sáo tụng loại như trăm năm hạnh phúc, đầu bạc răng long. Quan Chánh dường Hoàng Tế Lư cung kính đứng hầu bên Chúa, thỉnh thoảng lại cúi xuống nhắc tên những viên quan biên trấn từ xa xôi về mừng lễ thành hôn cho công chúa. Nh́n con ḿnh qú cạnh Mậu Lân cúi xuống lạy bàn thờ gia tiên, Sâm mủi ḷng, ứa nước mắt, gọi Sử Trung hầu đến th́ thào. Chúa giao cho Sử Trung theo pḥ công chúa, và cắt một đám hai mươi người thị nữ theo sang dinh cơ của Mậu Lân.

Thái tử Cẩn lân la đến gần Tuyên phi, mắt đáo quanh t́m Mai, bụng muốn xem mặt. Đặng Thị Huệ lễ phép : « Em nó mệt nên đă xin về nghỉ, để hôm nào Thái tử qua chơi em nó sẽ đích thân ra dâng rượu cho ngài ».

Miệng cười, Huệ nhí nhảnh :

- Mà duyên càng đợi, th́ lửa càng nồng. Thái tử chờ cho dăm bữa nửa tháng nữa ...

Hai hôm sau, Huệ th́nh ĺnh vào mở cửa pḥng Mai, mắt sắc như dao liếc, hỏi :

- Mày đi đâu mà định qua sông ngày thằng Lân lấy vợ ? Định trốn theo trai hả ?

- ...

Huệ thẳng tay giáng một cái tát nổ đom đóm, không thèm nh́n Mai ngă chúi xuống giường, riùt lên :

- Thân lừa ưa nặng. Tao dựng vợ gả chồng cho chúng bay toàn là con vua cháu Chúa, không muốn làm Hậu làm Phi, lại một lại hai đi đánh đĩ với một thằng thày đồ kiết xác gàn gàn dở dở, người chẳng ra người, ngợm không ra ngợm ...

- ...

- Từ nay, mày ở lại Cấm cung, không đi đâu nữa. Tuần sau, ta sẽ mời Thái tử Cẩn qua đây, liệu mà vui vẻ lên, đừng vác cái mặt đưa đám ra nghênh tiếp người ta. Mày cứng cổ th́ tao cho người t́m băm thằng Thức ra, chỉ mang cái đầu nó về cho mày đỡ nhớ với thương ...

Mai bật khóc, rên rỉ :

- Tôi lạy chị, chuyện lấy ai nữa th́ không được đâu. Tôi đang có mang.

Huệ nghe Mai nói, quay ngoắt lại, trừng mắt :

- Có thai th́ phá. Mất trinh c̣n dễ hơn. Chút vỏ hột lựu máu mào gà vào là trông như mới. Nghe tao đây : mày muốn thằng Thức sống th́ phải vâng lời tao. Nếu không, mày là oan gia của nó. Tao sai giết cả nhà nó chứ chẳng phải chỉ lấy cái mạng của một nó mà thôi ...

Nói xong, Huệ đi ra, gọi thị nữ dặn ḍ. Chiều hôm đó, quan Chánh dường vào dinh. Nh́n nét mặt Huệ, Tế Lư biết nàng đang cơn thịnh nộ, lửa bốc lên khóe mắt như đốt sống người đối thoại. Huệ gằn giọng :

- Quan Chánh dường ! Ngài đứng đầu Chính-phủ, việc ǵ cũng qua tay, xưa nay chẳng sơ suất một điều ǵ. Những sự ǵ xẩy ra cho em tôi, tôi chưa thông rơ, mong ngài cho biết thêm để tôi tường tận.

Tế Lư kể việc người Nội Mật viện theo dơi Mai từ hơn tháng nay, nên chặn ngay khi nàng cải trang thành nam nhi, đến bến Tây Long hỏi nhà thuyền ngược lên Thanh Tŕ. Phần Trọng Thức, chắc có lẽ đi đường bộ. Người Nội Mật viện lập tức giăng lưới khắp khu Hà Đông, nhưng đến nay vẫn chưa bắt được. Đồng thời, trấn quan hai vùng Thanh-Nghệ đều được báo, và chắc chắn là tóm được nếu Thức lần ṃ về quê.

Huệ lẳng lặng nghe, cắt ngang :

- Thức có bố mẹ anh em ǵ không ?

- Khải Vương phi, không ! Thức mồ côi cha từ nhỏ, mẹ cũng đă qua đời gần chục năm nay.

Huệ nghiến răng, trừng trừng nh́n Tế Lư, miệng mím lại, nói :

- Ngài làm sao th́ làm, thế nào trong một tháng cũng phải lấy đầu thằng Thức mang về đây. Ai chém nó, tôi xuất một trăm lạng vàng ra thưởng!

Vừa lúc đó, Mậu Lân ở đâu sồng sộc chạy vào kêu :

- Thế này th́ tức chết được ! Lấy vợ về mà chả đụng được đến cái gót chân nó. Thằng hoạn Sử-Trung lúc nào cũng lè kè bên cạnh, nào là Chúa dặn thế này, nào là Chúa dặn thế nọ. Thế th́ chị bảo tôi, mang con ranh con đó về nhà để làm ǵ hả ?

Nhận ra Tế Lư, Mậu Lân bớt hùng hổ, im miệng lại, nhưng mặt mày vẫn cau có. Huệ không nói ǵ, chỉ khẽ đứng dậy. Tế Lư hiểu ư, nghiêng ḿnh cáo từ. Đưa Lư ra cửa, Huệ quay trở vào, nh́n vào mặt Lân, thét :

- Mày ngồi xuống !

Có ai ngờ được kẻ bàn dân gọi là « hung thần mắt cú » líu ríu khuỵu chân xuống. Huệ cười nhạt :

- Mày ngủ với cả trăm con đàn bà, c̣n thèm nhạt ǵ. Mang con ranh con đó về nhà là tao mở mày mở mặt ra cho mày thành vương, thành tướng. Cái thứ đốn mạt như mày thật ngu hơn con chó ...

Đến trước mặt Lân, Huệ bất ngờ tát vào mặt, miệng tiếp tục hét :

- ... ngu hơn con chó.

Lân không dám đỡ, ngồi im chịu cái tát. Huệ cứ thế, tát liền tay cho đến khi mỏi ê ẩm.

« Hung thần mắt cú » ôm mặt khóc thút thít, chẳng khác ǵ một đứa trẻ lên mười.

*

Thật là may, Hoàng Tế Lư kịp thời đến vừa lúc Đăng Khoa tuốt kiếm xông ra. Lư vội hét : « Ngưng tay ! » rồi hoành thân nhảy từ yên ngựa xuống chặn giữa đám lính phủ Trung Kính và đội cung thủ của Nội Mật viện . Toàn Nhật cúi đầu chào :

- Thật chỉ có kẻ này đắc tội với bề trên, lính cơ Trung Kính chỉ biết nghe lệnh, xin ngài cứ xử phạt một ḿnh tôi.

Nhật nói xong, tự ḿnh cởi kiếm, hai tay dâng lên Tế Lư. Lư xoay người về phía Đăng Khoa, hỏi sẵng :

- Thế c̣n ngươi ! Không biết tự xử à? Hay bắt ta ra tay ?

Qú xuống đất, Khoa không nói năng, bắt chước làm như Toàn Nhật, mắt quét về phía Lư một cái nh́n nửa như ngạo nghễ, nửa như chịu đựng.

Lư phất tay, ra lệnh cho Toàn Nhật và Đăng Khoa vào Chính-phủ đối chất vào giờ Tị sáng hôm sau.

Người lo lắng nhất không phải là Hoàng Đăng Khoa. Việc giám sát Đặng Thị Mai và Trọng Thức là do Lư ra lệnh cho viện Nội Mật chứ không do Khoa quyết định. Khoa trong bụng vẫn hận việc Tế Lư trao cho Nhật thanh kiếm Hoàng gia. Nhân thời cơ, Khoa chỉ muốn vỗ mặt Nhật cho hả bằng cách phái quân đến khám nhà Nhật, mặc dầu thừa biết là Thức không có ở đấy. Phần Nhật, Nhật lo cho Mai và nhất là lo cho Thức. Cái mạng Thức có đáng ǵ ! Trong sự tính toán xếp đặt ở đất Kinh Kỳ này, Thức là cái gai phải nhổ đi để gả Mai cho Thái tử Cẩn. Nhật hỏi Trần Nguyên Nhưng mới biết Nhưng đă đưa được Thức qua bên kia sông Nhị, thoát khỏi sự kiềm tỏa của cấm binh. Khách quan về dự đám cưới công chúa dập d́u, Nhật hy vọng là Thức lẩn đi được dễ dàng.

Trước mặt Tế Lư, Nhật giữ thái độ cung phục nhưng vẫn ung dung tự tại. Nhật thưa :

- Bẩm quan, ngài đă biết Thức và tôi là đồng môn, lại như anh em. Anh đến nhà, không lẽ em lại đuổi đi ? C̣n như Thức làm ǵ, quan hệ với ai, tôi làm thế nào mà trách nhiệm cho được. Chức phận quan xếp đặt cho tôi là chỉ lo bảo vệ an ninh cho ngũ cung tam phủ, không phải giám sát bất cứ ai.

Lư giơ tay chặn Nhật, rồi quay sang Khoa, hỏi như buộc tội :

- C̣n ngươi ? Ngươi gọi cung thủ định giết quan của triều đ́nh à! May mà ta kịp đến, nếu không, ngươi có biết là tội ấy phải xử h́nh phạt nào không ?

Không để Khoa nói, Lư dằn giọng:

- Tội này phải xử tử, dẫu ta là cha ngươi ! Mạng đền mạng !

Ngừng một lát, Lư nói tiếp :

- Ta nai lưng gánh vác mọi việc trong Chính-phủ, nh́n quanh số người tin cậy được chẳng có bao nhiêu. Với Toàn Nhật, ta coi như là ruột thịt nên mới giao cho trọng trách.

Nh́n Nhật và Khoa, Lư dịu dàng :

- Ḷng ta mong hai người coi nhau như thủ túc, cho nên nếu một trong hai không làm được thế th́ cho ta biết ngay, để ta c̣n tính.

Quay nh́n Đăng Khoa, Lư trầm giọng :

- Việc Nội Mậït là quan yếu, con lấy đó làm trọng, chớ để mờ quáng bằng những chuyện không đâu. Tiện đây, ta hỏi cả hai con, việc Trần Danh Kỷ đến đâu ?

Nhật thót bụng tự hỏi có phải Kỷ cũng là người của Nội Mật viện ? Khoa nh́n lên, từ tốn :

- Thưa cha, Kỷ lẻn vào Kinh với bốn người. Hiện tóm được ba, nhưng tên nào tên nấy đều cắn móng tay lúc bị bắt, chết v́ độc dược. Kỷ rời Kinh hai tuần rồi, có tin hắn luẩn quẩn ở vùng Sơn Nam Hạ ...

- Hắn là người của Biện Nhạc ? hay là người của bọn Nguyễn Ánh - Đỗ Thanh Nhân ?

Khoa ngẫm nghĩ :

- Người của Ánh và Nhân th́ chắc không phải ! Hiện Ánh đang bị quân Tây Sơn dồn vào thế phải trốn chui trốn nhủi ở Gia Định, đâu ḷng dạ nào phái người đến đây ḍ xét ta. C̣n Biện Nhạc, từ ngày tự xưng là Thái Đức hoàng đế, hắn chừng thỏa măn, chỉ ra vào ở Qui Nhơn, mặc hoàng bào tay cầm ấn, tập làm vua, cũng lập tam cung ngũ viện, nghe đâu lại sắp «xuống chỉ » cho thi đệ nhất khoa tiến sĩ ... Kỷ chưa hẳn là người của hắn.

- V́ sao ?

- V́ cái Kỷ ḍ t́m là để lấy cả thiên hạ.

- ???

- Kỷ t́m sách « Luyện kim yếu pháp » của Koji Mishima. Có lẽ v́ biết Vơ tướng quân đă một thời ăn cận ở kề Mishima nên Kỷ mới lần lữa đến chứ chẳng phải là v́ muốn làm quen La Sơn Phu tử hay Trọng Thức ...

Hoàng Tế Lư khẽ ra hiệu cho Khoa ngừng nói, lấy tay gơ lộp bộp trên kỷ, mặt trầm trọng :

- Toàn Nhật, có biết ǵ về quyển sách đó không ? Có nó th́ đúc được ṇng súng, và đúng đấy, sẽ lấy được cả thiên hạ ...

Trong đầu Nhật, h́nh ảnh Koji lại hiện ra với những trang sách xé rời cháy xém trong lửa đỏ, và giọng nói khàn đặc ê a : «...A ha, nếu Đàng Ngoài này mà rèn được súng th́ Đàng Trong không chống nổi, đấy chuyện phong hầu cho tôi nó là thế ... Tôi không nhận th́ không được. Tôi nhận mà không làm ṇng súng, tất phải chết như kẻ bề tôi không hoàn thành trách nhiệm. Nhưng nếu tôi tham sống mà làm súng th́ biết bao nhiêu mạng người Đàng Trong sẽ tiêu vong ... Đàng Trong đánh, Đàng Ngoài đỡ. Rồi Đàng Ngoài đâm, Đàng Trong chém...cứ thế đă cả trăm năm rồi. Đâm chém thế, làm sao thành được một quốc gia. Không ! cái nghiệp dĩ này sẽ biến dân tộc các bạn thành một dân tộc chia rẽ từ trong tâm thức. Cùng gốc gác, cùng phong tục ngôn ngữ, nhưng chém giết nhau măi th́ cứ thù hận, cứ nghi kỵ, tạo ra cái nghiệp c̣n nặng hơn là phải đối phó với ngoại nhân. Nó như căn bệnh vô h́nh vô sắc, đục ruỗng ra từ bên trong, nguy hiểm gấp trăm lần mụn nhọt mọc bên ngoài thân thể ».

Nhật ngửng nh́n Tế Lư, chậm răi lắc đầu.

Lư lại nh́n Khoa dọ hỏi. Khoa thưa:

- Con đă cho người lật từ ḥn gạch, xem từng cái kèo, xét từng cái cột, nhưng không t́m thấy ǵ. Hiện nhà Mishima ta niêm phong canh gác cẩn mật.

- Đốt, đốt nhà nó đi. Sách không vào tay ta th́ không được vào tay bất cứ một ai. C̣n Kỷ, phải t́m bắt cho bằng được. Ta ngờ hắn là người của Quận Tạo Phạm Ngô Cầu, hiện đang trấn thủ Phú Xuân, chứ chẳng là ai khác ! Ở Thăng Long, chắc là yên, không có ǵ quản ngại. Vậy chuyến này, Đăng Khoa lấy người đi vào châu Hoan, bí mật đến Phú Xuân xem động tĩnh và tổ chức lại mạng lưới của Nội Mật ...

Nắng bên ngoài chếch qua mái hiên chiếu in lên tường những bóng cây rung rinh trong gió. Lư đứng lên, trầm ngâm, lẩm bẩm nói một ḿnh. Nh́n Toàn Nhật và Đăng Khoa, ḷng Lư bỗng hân hoan, miệng mỉm cười. Khi chia tay, Đăng Khoa nghiêng người nh́n Nhật nói :

- Vơ tướng quân, chuyện cũ bỏ qua cho !

Nhật chưa kịp trả lời th́ Lư đă cắt ngang, vui vẻ :

- ... chúng bay phải gọi nhau là anh em, ta đă bảo phải coi nhau như thủ túc kia mà !

*

Không biết từ đâu chim từng đàn bay về khoảng giờ Dậu. Tiếng chim quang quác ríu lên thảng thốt như bị săn đuổi làm náo loạn dân hàng phố sống ven hồ Thủy Quân. Họ kéo nhau ra ngơ ngác đứng xem. Từng đàn chim nháo nhác bay dọc, rồi bay ngang, lắm khi tưởng như sắp xô vào nhau, nhưng lại túa ra, bốc lên cao, sà xuống thấp. Đầu giờ Tuất, chim đậu đen nghịt tháp Rùa.

Sáng hôm sau, cánh chim bay che rợp mặt trời, tới giờ ngọ mà trông cứ tưởng chừng như là trời đă tối. Rợn nhất, vẫn là tiếng chim kêu. Tiếng chim có lúc chíu chít như kim chích vào năo bộ, có lúc lại o o tựa như cơn sốt của nước sông Nhị lên vỗ mặt đê. Bỗng nghe ầm ầm như tiếng súng thần công. Bàn dân bảo nhau rằng nhà Chúa bắn súng để đuổi chim. Chim lại nháo nhác, bốc lên tít cao, nhưng vẫn bay quanh, hàng đàn, hàng đàn, rít lên đinh tai nhức óc.

Cứ như thế, hai ngày liền. Sáng ngày thứ ba, chim sống bay hết đi đâu không c̣n một bóng. C̣n chim chết đầy đường, chẳng biết cơ man nào mà kể. Người ta đi xúc xác chim rơi hàng xe ḅ mang đi đổ. Các cụ x́ xào kể với nhau rằng điềm gở này đă xẩy ra cách đây hơn ba trăm năm, cũng vào độ tháng chín năm Nhân Dần, ngày Thái sư Trần Thủ Độ chôn sống ba trăm người tôn thất nhà Lư.

Trong hai trấn Thanh-Nghệ, lại hạn hán. Nạn đói đẩy cả vạn người thất thểu đi về xuôi, bồng bế nhau, mắt trắng dă vô hồn trên những khuôn mặt vêu vao sạm đen v́ nắng gió. Họ lê bước, im lặng đi, không c̣n đủ sức kêu xin, chỉ nh́n rồi ch́a tay ra, khóe mắt lóe lên một chút hy vọng như ánh đèn dầu đang lụn dần.

Hoàng Tế Lư nhân danh Chúa ra lệnh lấy gạo trong kho ra phát chẩn. Hết gạo kho, Lư phái thừa sai đến những điền ấp ở hai hạt Thái B́nh và Nam Định thu gạo. Đám điền chủ nhất định không chịu. Bọn quan quân địa phương được đút lót ngầm cũng lơ đi khiến Lư bắt buộc phải mua gạo. Giá quá rẻ, đám điền chủ từ chối không bán. Lư phái hai ngh́n quân từ đồn Hạ Hồi đến nơi, nhưng không vào được bởi đám điền chủ đă trang bị giáo mác cho tráng đinh và đắp lũy pḥng thủ. Khi ấy, người chết rải rác khắp chốn, xác nằm trên đê, dưới bụi, chương ́nh lên, mùi thối xốc vào mũi trong cả một vùng rộng đến hai huyện. Nạn dịch hạch lan ra, ban đầu chỉ ở Ninh B́nh, nhưng chỉ độ tháng sau đă thấy người chết v́ dịch ở vùng ven đô. Dân đất thượng Kinh cũng bắt đầu nhốn nháo.

Khi điềm chim bay về kêu liền ba ngày, họ kháo nhau rằng nước đang đổi Chúa, quyền hành thế nào cũng vào tay Hoàng Tế Lư. Họ đồn rằng Lư đă tư thông với Tuyên phi Đặng Thị Huệ. Chẳng bao lâu nữa, khi Thế tử Trịnh Cán oặt oẹo chết đi, Tế Lư sẽ liền tay cướp ngôi, ứng vào câu sấm « Nhất thiœ trục quần dương », nghĩa là «Một con lợn đuổi đàn dê». Họ x́ xào nhắc là Lư tuổi Hợi, c̣n Tiên Chúa Trịnh Doanh và Tĩnh đô Vương Trịnh Sâm đều là tuổi Mùi. Về phần Cán, họ nói ra miệng với nhau là con riêng của Huệ và Lư,ï đặt ra câu vè :

Ve vẻ vè ve

con rồng làm Vua

con rơi làm Chúa....

Lư giận lắm, ra oai bắt xẻo lưỡi ở chợ năm bảy người, làm thiên hạ ai nấy sợ, không c̣n dám nói năng ǵ nơi công cộng.

Cũng thời gian đó, Lư đă triệu được Lê Duy Trác, hiệu là Hải Thượng Lăn ông từ Hương Sơn về trị bệnh cho Cán. Bọn quan thị-y và thị-dược ganh ghét với Lăn ông, chê bai dèm pha khiến Huệ nghi ngờ. Ban đầu, bệnh Cán có giảm, đă ăn uống được sau khi uống sáu thang thuốc do Lăn ông bốc. Thấy vậy, đám thị-dược sợ bị thất sủng, tự tiện gia giảm toa thuốc. Cán lại đau ốm trở lại, mạch Thốn mạch Xích yếu hẳn đi. Huệ không tin Lăn ông nữa, dắt vào nơi giam Đặng Thị Mai, đay nghiến : « Phá cái thai trong bụng nó đi. Thuốc ông không cứu được người th́ chắc giết được người ! ». Sau, Tế Lư biết việc, cùng Lăn ông đến bắt mạch lại cho Cán, tự ḿnh giám sát việc thuốc thang. Lăn ông xem mạch rồi lắc đầu xin về. Lư mang hết đám thị-dược ra chém, nằn nỉ xin Lăn ông cứu Cán. Lăn ông đưa cho Lư một toa thuốc, nói :

- Nếu Thế tử qua mùa đông th́ c̣n cứu được. Nay cứ tạm dùng thuốc này cầm cự.

Thở dài, Lăn ông ngửng mặt lên trời như cầu xin :

- Sống chết là do Hoàng Thiên,Trác này mà làm ǵ được!

Lư tiễn Lăn ông, đưa tặng hai mươi lạng vàng. Lăn ông sụp xuống tạ ơn nhưng không nhận, miệng nói :

- Bẩm Thượng quan, Trác xin một việc.

- ???

- Xin đừng phá cái thai trong bụng một người đàn bà đang bị giam trong cung Đặng Tuyên-phi.

*

Nhật ăn cơm xong, mắt nhắm mắt mở định bụng ngủ trưa, chợt nghe tiếng chân ngựa, rồi giọng người hớt hải kêu :

- Vơ tướng quân ! Có lệnh quan gọi ...

Nhật nh́n ra, thấy lăo Hài bương bả bước lên thềm, cḥm râu bạc thếch dựng ngược lên qua hơi thở ph́ pḥ như kéo bễ. Lăo là lính từ thời Chúa Trịnh Doanh, đánh đông dẹp bắc, rồi pḥ Chúa Trịnh Sâm vào chiếm lấy Phú Xuân cách đây gần một giáp. Người lính già chất phác, suốt đời mở miệng chỉ biết một điều hai điều là «nhờ ân Chúa... ». Không vợ không con, bổng lộc riêng tư lăo Hài chia một phần cho bọn lính trẻ uống rượu, đứa nào cũng gọi lăo là Bố-già. Chẳng phải chỉ có quân, mà ngay cả quan cũng quen miệng gọi lăo như vậy, nên tên cúng cơm là Hài ch́m vào quên lăng, có lẽ là chỉ độc có lăo là nhớ được. Nhật ngồi lên, hỏi :

- Chuyện ǵ đấy Bố-già ?

- Đi, đi ngay ... Tôi suưt chết v́ tay Pḥ mă Đặng Mậu Lân đấy. Sử-Trung hầu bị chém bay đầu rồi !

Trên đường đến Chính-phủ, Bố-già kể lại. Đêm qua Lân say rượu nằng nặc đ̣i vào pḥng công chúa Ngọc Lan, thị nữ bị hắn đánh đuổi, réo gọi nhau chạy. Sử-Trung được Trịnh Sâm phó thác kề cạnh công chúa chạy ra can :

- Pḥ mă, Chúa dặn là công chúa vẫn chưa lên đậu, theo thói tục như vậy là chẳng thể chăn gối được. Xin ngài bớt giận.

Lân quát :

- Chúa, lúc nào mở miệng ra cũng Chúa. Ta ngủ với vợ ta mà nhà Chúa cũng ngăn, cũng cấm, th́ là làm sao ? Mà nhà Chúa là cái đếch ǵ ? Con ranh vô dụng kia - Lân chỉ tay vào Ngọc Lan - để lâu không sờ vào th́ nó mốc ra, quí báu ǵ !

Sử-Trung qú xuống, dập đầu :

- Xin Pḥ mă chớ nói nặng. Nhà Chúa hai trăm năm nay tiếp mệnh Trời cai quản thiên hạ, không phải là thường, ngài nên giữ mồm giữ miệng ...

Lân nóng mắt thẳng chân đá một cái, Sử-Trung văng vào tường, mếu máo đứng lên. Ngọc Lan nằm trên sàng, xiêm y bị xé rách toạc, lơa lồ nằm co vào, sợ đến độ chỉ ú ớ rên rỉ gọi « Ới, cha ơi ... », nước mắt nước mũi ṛng ṛng. Lân quay lại hét :

- Câm miệng ! Quí báu đéo ǵ !

Quay sang Sử-Trung, Lân rít lên :

- C̣n mày, đi khỏi đây ngay ...

Sử-Trung lắc đầu th́ Lân rút phăng kiếm ra, chẳng nói chẳng rằng cầm kiếm lia ngang một nhát. Máu Trung phụt ra từng vũng, tung tóe bắn vào mành, vào chăn, vào gối ... Lân sững sờ, tỉnh rượu, cuốâng lên quát thủ hạ đóng cổng dinh, canh gác không cho xuất nhập. Một người thị nữ của Ngọc Lan chui qua ống cống về phủ Chúa báo.

Nghe tin, Trịnh Sâm điếng hồn, vời ngay Hoàng Tế Lư đến. Lư b́nh tĩnh, miệng ôn tồn :

- Công chúa c̣n ở đấy, Pḥ mă Lân nổi dại nổi điên lên th́ ném chuột sợ vỡ b́nh.

Nói xong, Lư sai Bố-già đến dinh đ̣i Lân vào phủ Chúa. Lân sai người ra kiếu ốm nói thác rằng đang đau bụng. Bố-già nhất định không về, gọi to :

- Đặng Pḥ mă, việc ǵ mà phải sợ ...

Nghe đến chữ sợ là đúng ruột đúng gan ḿnh, Lân nổi cuồng lên, vác đại đao sồng sộc chạy ra, tay quơ chém loạn xạ, miệng hét :

- Việc đéo ǵ mà tao sợ đứa nào.

Bố-già đành chạy về báo quan Chánh dường. Lư bảo để đến mai xem động tĩnh, rồi sẽ tính. Trong bụng, Lư thừa hiểu là Lân sẽ nhụt dần, nhưng biết là Chúa v́ bị ép nên mới đành gả con gái cho Lân, nên nhân thời cơ Lư nhất định không nương tay mặc dầu biết Lân là em ruột Tuyên-phi Đặng Thị Huệ. Buổi sáng Lư vào chầu Chúa. Chúa bồn chồn phán : « Nó thế th́ cứ giết quách đi. Chém sứ của Chúa theo phép là tội tử h́nh. Vậy nó chống cự, cứ việc, khỏi phải xét xử ǵ nữa ».

Lư liền vời Nhật đến. Sau khi gặp Lư, Toàn Nhật và Bố-già cùng một toán lính đội Trung Kính thẳng đường đến dinh Mậu Lân. Cổng dinh đóng kín, trên nóc nhà thấp thoáng có bóng xạ thủ. Nhật dàn lính ra, rồi tay xách kiếm, một ḿnh vào trước cổng, quát :

- Lệnh của Chính-phủ, mở cổng !

Không thấy động tĩnh ǵ, Nhật lẳng lặng lùi ra, lấy đà phóng chân đạp. Đến lần thứ hai th́ chiếc cổng đổ xuống. Nhật vẫy lính, từ từ tiến vào. Đặng Mậu Lân tóc xơa, tay cầm đao chạy ra, tru tréo, lồng lộn :

- A, quân nào dám phá nhà tao ...

Toàn Nhật đứng sừng sững nh́n Lân chăm chú. Lân sựng người lại, ú ớ :

- ... mày giật roi tao ngày xưa phải không ?

Nhật làm sao quên được cái cảnh Lân cùng đám thủ hạ quây người mắc bệnh hủi lại rồi nổi lửa thiêu sống. Dằn máu nóng đang bốc lên mặt, Nhật định thần, từng bước đi về phía Lân, không nói năng ǵ cả, mắt xoáy vào mắt Lân cái nh́n lạnh đến làm nước đóng băng. Lân hoảng sợ, chân cứ lùi dần, đến vách th́ quị xuống. Tay trái, Nhật nắm lấy cổ Lân bóp lại, xách lên, rồi nâng bổng ép người Lân vào vách, gằn :

- Ngươi nói bậy một câu là ta vả vào cái miệng ...

Liều lên, Lân chửi :

- Tổ cha mi !

Một tiếng bốp vang lên chói tai. Mồm Lân đỏ ḷe loẹt máu, nhổ ra một búng răng, mặt như hề bôi son trong những vở tuồng cổ.

*

Giải Lân về Chính-phủ xong, Bố-già và Toàn Nhật lững thững đi sang bến Hàm Như, nơi đóng quân của đội Tiền Hùng do Trần Nguyên Nhưng chỉ huy. Chiều hôm ấy, Nhưng mở tiệc mời bạn bè nhân ngày thượng thọ ngũ tuần. Trà dư tửu hậu, những lời đồn đăi hàng dân lại thành ra câu chuyện lính Tam phủ đem ra bàn bạc. Bố-già xưa nay vốn lừng khừng, sau dăm chén rượu, cũng mạnh miệng :

- Một họ nhà tôi đă ba đời nay xung quân tôn vua Lê, pḥ Chúa Trịnh. Riêng tôi, nay đây mai đó kểù từ ngày biết cầm cái dao, cái kiếm, thờ hai đời Chúa, có đâu một dạ hai ḷng. Ai chứ tôi, tôi sẵn sàng chết cho nhà Chúa, không để đứa nào tiếm ngôi được ...

Đám thực khách cười rộ lên đồng t́nh. Bằng Vũ, nay là thư lại đội Tiệp Bảo, đổ dầu vào lửa :

- Tệ nhất là cái đám quan lại khoa bảng xưng là kẻ sĩ, miệng nói chữ Trung nhưng bụng th́ chỉ biết chữ Lợi, đâm thọc, mưu này kế nọ, chỉ đợi Chúa băng hà là chia nhau lạm quyền ... Cứ vây lại, chặn gạo bỏ đói th́

Nhất sĩ nh́ nông

Hết gạo chạy rông,

Nhất nông nh́ sĩ

Mọi người trong tiệc thích chí reo :

- Nhất nông nh́ sĩ. Đúng đấy. Bọn sâu chữ có làm được ǵ ! Xốc vác việc nhà Chúa là chúng ta cả.

Chén vào lời ra, chẳng ai kiêng nể ǵ tên quan Chánh dường và Tuyên-phi. Có kẻ lại phao rằng Đông cung Cán đă chết rồi, nhưng tiếng giữ kín, để Lư tiếm ngôi Chúa trước rồi mới báo. Nhưng Thế tử Tông th́ sao ? Cán chết th́ ngôi Chúa lại trao về Trịnh Tông chứ ? Liền có người nói rằng Tông đă bị Lư phát văng về Sơn Tây, giao cho Quận Thạc Hoàng Phùng Cơ giam giữ. A, cái lăo Quận Thạc cũng chẳng phải tay vừa. Biết đâu lăo chẳng thừa cơ mang Tông về Kinh, lấy tiếng phù nhà Chúa mà đuổi Hoàng Tế Lư ? Những t́nh tiết bí hiểm, âm mưu lắt léo, tráo trở, ly kỳ kể ra hệt những sự kiện không thể chối căi được. Nghe chán chê, Nhật một ḿnh lững thững tản bộ về phía bờ sông, ngồi nh́n nước chảy. Ḍng nước đục ngầu như nước tù cứ loanh quanh như quẫn, xô vào đâu cũng là bờ là bụi, rác rưởi lềnh đềnh.

Một lát sau, Nguyên Nhưng và Bằng Vũ cũng theo ra. Ngập ngừng, Nhưng hỏi :

- Dân kháo, lính kháo như thế, chắc Nội Mật viện nắm hết, sao không thấy động tĩnh ǵ ?

- Động tĩnh ǵ được trước lời đồn như gió bay ? Nhật hỏi lại, rồi tiếp - ... Vả lại, từ ngày công tử Hoàng Đăng Khoa vào Phú Xuân, công việc của Nội Mật chắc cũng có phần lỏng lẻo ...

Bằng Vũ ngần ngừ rồi hỏi Toàn Nhật :

- Vạn nhất có ǵ xẩy ra, huynh liệu đứng ngoài xem hay muốn nhập cuộc ?

- Nhập để làm ǵ ?

Bằng Vũ như đinh đóng cột, chậm răi :

- Để mở đầu cho cái thời « Nhất nông nh́ sĩ ».

Chưa kịp đáp, Toàn Nhật nghe tiếng gọi Bằng Vũ. Một trung niên tay cầm quạt nhanh nhẹn bước tới, miệng tươi cười : « ... quí huynh cho Bùi Bật Trực này nhập cuộc với nhé ! ».

*

Bùi Bật Trực cũng người huyện La Sơn, xưa có học với Tiến sĩ Nguyễn Huy Oánh ở miệt Trường Lưu, làm Viên ngoại lang rồi mất quan, nhưng được Viêm Quận công cưu mang. Viêm Quận công là Quốc Cửu, đối với Chúa Trịnh Sâm là hàng bác, phú quí vinh hoa nhất nh́ thiên hạ.

Trước kia, Trực lân la đến chơi với Trọng Thức và Toàn Nhật ở dinh Khương Tả hầu, viện t́nh đồng hương và cùng là con nhà danh giáo. Trực thích biện thuyết, than thân là viên ngọc quí ở chốn bụi đen, rất trọng Hàn Phi nên thỉnh thoảng lại mang lời Hàn Phi ra, bóng gió nói lên cái chí của ḿnh. Hôm mừng thượng thọ của Trần Nguyên Nhưng ở bến Hàm Như, Bật Trực cũng có mặt, ngồi th́ thào với đám cấm binh, vẻ khẩn trọng, lo lắng.

Một tối, Trực mời Toàn Nhật và đám Bằng Vũ, Nguyên Nhưng đến dự tiệc nhân dịp ăn đầy tháng đứa con trai út. Đám khách quan gần hai chục người, trong đó có Gia Thọ làm thư lại cho Thế tử Trịnh Tông hiệân c̣n bị giam lỏng trong Nội phủ. Chè chén đến độ ngà ngà, Gia Thọ mớm lời xoay chuyện, lại đề cập đến việc tiếm ngôi Chúa, chủ tâm ḍ xem ư tứ. Thấy không ai chống, Thọ lửng lơ :

- Thế tử Tông nóng ruột, thấy xă tắc bấp bênh, nhưng thân cô thế cô, tính mạng lại đang nằm trong tay bọn nghịch thần, chẳng biết xoay sở thế nào...

Một người râu xồm đứng lên ồm ồm nói :

- Nếu Chúa băng hà, Thế tử có chính nghĩa mà đứng ra th́ mới nên chuyện, chứ cứ co lại sợ chết, hỏi ai làm ǵ được ? Cấm binh Tam phủ là người từ đất « tắm gội » của bản triều, có ai nỡ để nghiệp nhà Vua nhà Chúa rơi vào tay bọn hoang dâm vô đạo !

Thế là nhao nhao lên mỗi người một ư, bàn tán xôn xao. Bằng Vũ đứng dậy, hai tay vỗ vào nhau khiến mọi người im lặng, rồi chậm răi :

- Trong Kinh, quyền lực nào cũng phải dựa vào Cấm binh, kể cả Lư và Huệ. Vậy mà bọn ta là Cấm binh chứ c̣n ai vào đấy ! Thế th́ có ǵ là sợ... Trong bảy đội, chỉ c̣n hai đội ưu binh là chưa rơ ư, chứ ai cũng chỉ pḥ nhà Chúa, đâu có hai ḷng. Đội Thị Kỵ th́ nhỏ, thuận hay chống không là việc quyết định cho thành bại.

Quay về nh́n Toàn Nhật, Bằng Vũ hắng giọng:

- Riêng c̣n đội Trung Kính, anh em con nhà lính phân vân, chẳng biết Chưởng Cơ nghĩ sao ?

Cả bọn im lặng, mắt chăm chăm nh́n. Nhật mỉm cười, bỗng nhấc cả ṿ rượu lên tu ừng ực, tu xong nói :

- Các vị là bằng hữu, cứ theo nhân nghĩa mà làm th́ Nhật này không chống !

Gia Thọ xen vào :

- Không chống nhưng không theo ?

Nhật trừng mắt, hỏi lại :

- Theo ai ? Theo ǵ ? Theo để làm ǵ ?

Bằng Vũ thấy không khí có vẻ găng lên, vội đứng dậy, nghiêm trang:

- Thưa các vị bằng hữu, Vũ này ở lính đă hai mươi năm, kể ra không gọi là ngắn được. Lính chúng ta xuất thân từ dân dă, gốc gác nhà nông, dẫu có tí chút học hành th́ cũng không quên người làng xóm ḿnh cày sâu cuốc bẫm, mang hột gạo hạt thóc về nuôi cả nước. Thời b́nh, cái ăn là từ mô hôi nước mắt của ta. Thời chiến, th́ cũng lại xương máu của ta mang về để bảo hộ giống ṇi, yên bề xă tắc. Thế mà từ ngày Vũ này biết nh́n biết nghĩ th́ chỉ thấy dân dă chúng ta chịu sưu cao thuế nặng, c̣ng lưng cam chịu sự o ép của đám cường hào đă lươn lẹo thông đồng với đám quan lại ở Phủ, ở Huyện, thật là cay cực không sao tả xiết. Vừa đây, dân hai trấn Thanh-Nghệ lại chết đói đầy đường, thây nằm rải từ sông Lam đến núi Tản, càng nghĩ càng đau ḷng xót ruột...

Cảm động, Vũ nghẹn ngào nói tiếp :

- Thưa các vị, dịp này Cấm binh ta giữ nghiệp Chúa không để bị soán đoạt cũng là dịp ta tâu tŕnh để xin bỏ hết sưu dịch, giảm tô giảm thuế trong ba năm, để dân đen được thở ra...Vậy theo ai, ta theo nhân dân. Theo ǵ, ta theo đạo nghĩa, đền bù kiêm ái những người khốn cùng. Theo để làm ǵ ? Để bắt đầu một xă hội công bằng cho kẻ tay làm th́ hàm có quyền nhai, không để ai đi bóc đi lột ḿnh...Vâng, một xă hội công chính, căn bản là nông. C̣n tầng lớp Sĩ, Phú, Địa, Hào? Phải đánh tận gốc, trốc tận rễ...

Thời gian bỗng như chùng xuống. Lời Bằng vũ bay bổng mang sức mạnh một giấc mơ từ lâu đời. Cả đám thực khách cứ thế vỗ tay ḥ :

- Đánh tận gốc, trốc tận rễ.

Nguyên Nhưng đứng đậy, ṿng tay rồi nói :

- Các vị bằng hữu, về cứ nói cho mọi người tỏ cái đồng tâm, đồng chí của chúng ta, và hẹn ngày rằm lên chùa trên núi Khán Sơn cùng nhau cắt máu ăn thề.

Toàn Nhật là người ra về cuối cùng. Đến cửa Bật Trực nắm tay :

- Chắc Vơ huynh cũng bắt buộc phải nhập cuộc rồi.

Nhật cười khẩy, hỏi lại :

- C̣n huynh ?

Trực thâm trầm nh́n lên, rồi thủng thỉnh :

- Nhập thôi !

Nhật nheo mắt hóm hỉnh :

- Đừng quên ḿnh là Sĩ đấy. Đào tận gốc...

Bật cười, Trực nói như đùa :

-... rồi cũng có lúc họ cần người biết đọc biết viết chứ, phải không ?

*

Tiếng kḥ khè từ sập ngự xung quanh có treo những bức trướng thủy tinh mỗi lúc một gấp gáp. Đặng Thị Huệ vạch trướng bước ra, tay vẫy một người nữ t́ đứng gần, nói nhỏ vào tai. Lát sau, hai quan thị-dược vội vă bưng vào một bát thuốc sóng sánh màu đen biếc. Ánh sáng từ những ngọn bạch lạp để khắp pḥng lung linh, chập chờn rọi vào những nét mặt căng thẳng, môi mím chặt, mắt nh́n xuống, im lặng. Tiếng kḥ khè bỗng to lên, tưởng sắp tắc nghẹn, rồi lại nhỏ xuống, rên rỉ, lê thê kéo dài ra. Huệ xốc nách Sâm, đỡ đầu lên. Mặt Trịnh Sâm lúc này không c̣n thịt, chỉ vêu vao trơ xương, hố mắt trũng xuống sâu như cái chén hạt huyền, miệng há ra hớp không khí, nhe hàng răng lêu nghêu khấp khểnh đen sịt. Một thứ mùi thối khó tả xông vào mũi. Nó thum thủm, lại lẫn vào hơi chua như khi trẻ con ợ sữa, rồi nồng nặc mùi vôi đổ trên một đống rác lâu ngày chưa tiêu. Sâm hé mắt ra, thều thào :

- Mời Thánh Mẫu vào ...

Khoảng ba khắc sau, mẹ già của Sâm vội vă đến, đứng bên cạnh sập, sụt sịt khóc. Sâm được đỡ người ngồi lên, ḿnh dựa vào gối, nh́n mẹ :

- Con biết ḿnh không c̣n ở lâu để phụng dưỡng mẹ, sắp về với cha nơi chín suối. Xin mẹ cứ yên hưởng tuổi già, việc phụng dưỡng do Tuyên-phi và Tự -vương thay cho con ...

Thánh mẫu gạt nước mắt, ngần ngừ măi, xưng « Chị » theo lệ nói với Chúa:

- « Chị » thương con xót cháu, mà chẳng làm ǵ được với mệnh Trời. Trước khi con về với tổ tông, « Chị » xin thưa một điều : Tự-vương c̣n bé, lại yếu đuối trong khi Tông, bị giáng xuống làm đứa con «út » , dẫu sao th́ cũng chưa làm ǵ bại hoại, bất quá chỉ dại dột để bị lừa vào cái thế dấy loạn...

Thánh Mẫu nh́n Huệ, mím miệng tiếp:

- Nay, v́ xă tắc và v́ cơ nghiệâp nhà Chúa, « Chị » xin cho Tông tạm ngôi Chúa đợi khi Tự-vương lớn khôn, lại xuống nhận phận con «út » như giờ ...

Sâm xua tay, lả người ra. Huệ sụp xuống chân Thánh Mẫu, khóc to :

- Chúa đi th́ tôi cũng xin chết, chẳng muốn sống nhục trong nỗi ngờ vực oan khiên. Phụng dưỡng Thánh Mẫu đă có Tự-vương và các Đại-thần, có hay không có tôi cũng chẳng sao ...

Sâm cố sức hổn hển :

- Mẹ lo cho xă tắc th́ con không biết lo sao. Lúc này chưa nhắm mắt được cũng v́ thế ... Thằng Tông định làm phản cả cha lẫn em, đưa ngôi Chúa cho nó th́ sự nghiệp họ Trịnh tiêu tan. Biết con, nào ai hơn cha. Thôi, xin mẹ về đi ...

Thánh Mẫu lui ra, bắt gặp cái nh́n tóe lửa của Huệ, bụng thót lại, không ḱm được văi ra ướt quần.

Sâm lại cho vời quan Chánh dường Hoàng Tế Lư, miễn lạy, chỉ tay cho ngồi cạnh sập. Lư tâu :

- Khải Chúa, c̣n những chuyện phải làm ngay. Một là xin Đức Vua sắc phong cho Thế tử Cán làm Chúa, hai là thảo ra «cố mệnh» chỉ định một số Đại-thần phụ chính cho Ấu Chúa.

Sâm giơ tay, chặn Lư :

- Tờ «cố mệnh» cậu lo thảo ngay. Đ̣i cho ta Quận Khanh và Quận Hoàn vào.

Quận Khanh là Trịnh Kiền, em Trịnh Doanh, là vai chú của Sâm. C̣n Hoàn đỗ tiến sĩ khoa Quí Hợi, trước làm Hữu- tri giảng, dạy Sâm học, rồi lên đến chức Tham Tụng ở tiền triều, nay đă cáo lăo. Sâm nói :

- Chắp tay lạy chú, lạy thày. Con bệnh nặng, nay sắp ĺa đời, muốn Thế tử Cán lên nối ngôi Chúa, xin chú và thày đồng tâm hiệp lực giúp cho.

Nói dứt lời, Sâm lả đi, Huệ phải đỡ lấy giúp Sâm đặt ḿnh nằm xuống. Hoàng Tế Lư qú xuống dâng tŕnh tờ «cố mệnh » nhưng Sâm chỉ xua tay lia lịa, miệng phùi bọt, lại thở kḥ khè. Khanh Quận công cầm bút phê vào những chỗ c̣n để trắng tên của bảy Đại-thần phụ chính. Ngoài Hoàn và Lư c̣n thêm năm người. Đó là Tứ xuyên hầu Phan Lê Phiên, Châu Quận công, Đàm Quận công, Diễm Quận công và Thùy Trung hầu Tạ Danh Thùy, toàn là hàng quan thị gần gũi với Thế tử.

Khi Quận Khanh hai tay dâng tŕnh lên bản «cố mệnh» th́ Sâm mắt đă nhắm nghiền, miệng há ra hớp như cá hớp bọt.

Một quăng đời bốn mươi bốn năm quay về trong một chớp mắt. Sâm thấy một cậu bé trông giống ḿnh. Nó lấy nhựa mít dính lên đầu sào ngồi ŕnh chuồn chuồn, miệng ê a nho nhỏ : « Chuồn chuồn có cánh thời bay ...». Rồi Sâm lại thấy Thái tử Lê Duy Vĩ. Nh́n vào mắt Vĩ, Sâm bảo : « Có Chúa này th́ không có Vua ấy ». Vĩ cười nhạt. A, cười hả ? Sâm sai vào cung Vua bắt Vĩ. Trốn đi đâu ! Bỏ nó vào ngục. Chưa bơ. Chém. Vợ con nó ư ? Bắt, bắt ngay. Giam lại. Sâm mặc hoàng bào thắt đai đỏ dẫn đầu ba quân vào Phú Xuân. Mọi Tây Sơn đuổi Nguyễn Phúc Dương vào Gia Định, mặt bắc đâm ra bỏ trống. Xua quân vào lấy hết Hoan Châu. Cứù để chúng lục đục đánh nhau mặt nam. Phong hầu cho Biện Nhạc. A, cái phường gá bạc, quân vũ phu. Láo nhỉ ? Nó dám xưng Đế. Ha, ha, thằng vua Mọi ... Mặc nó, ta đánh giữ Phú Xuân, đẩy về phương nam ắt nó phải vào diệt bọn Nguyễn Ánh. Chúng nó kiệt sức th́ ta vào thôn tính cả hai. Lê mạt rồi. Cứ xem Hiển Tông bôi mặt diễn tuồng trong Hoàng cung để mà cười. Hai trăm năm nghiệp Vương, đă đến lúc nối tiếp bằng nghiệp Đế cho họ Trịnh. A, Huệ ơi, Huệ yêu dấu ... Ừ, hôm nay ta làm ông hổ, được không ? Ta vồ nàng, lấy chân móng sắc cào vào nhé ?

Này, sao mày lại về đây Duy Vĩ ? Mày vẫn theo tao ám hả ? Tao cắt lưỡi mày, tao cắt lưỡi mày ! Vĩ mặt xanh lè chẳng c̣n tí máu, cười nhạt :

- Đă đến lúc này mà c̣n hung hăng sao, ta bảo cho mi biết, họ Trịnh chỉ đương được nghiệp Chúa mà chẳng quá hai trăm năm. May thêm được hai ba năm nữa là cùng.

- Nói láo, tao đă thảo tờ « Cố mệnh », Tự-Vương được phù chính. Hoàng Tế Lư mưu cơ như thế, trời lại đưa Lư cho ta dùng, ắt rồi sẽ dấy nghiệp Đế cho mày xem.

- Thằng Cán chắc đâu là con mi. Mi có nghe lời thiên hạ đồn đăi không ? Nó là con thằng Lư đấy ! « Nhất thiœ trục quần dương » , mi nhẹ dạ quá nên quên đi mất. Một con lợn rừng lại thêm vào một con rắn lục như Đặng Thị Huệ, th́ cái mạng con dê của mi đến ngày tuyệt... Mi có biết thuốc mi uống hàng ngày có độc dược không ? Chính Hoàng Tế Lư bày ra đấy... Nói ra, cho mi chết mà không nhắm mắt được, ha ha ha...

Lúc đó là giờ Mùi ngày mười ba tháng chín năm Nhâm Dần. Chiếc đỉnh đồng đặt giữa phủ Chúa tự nhiên rung rinh phát ra những tiếng ken két như người nghiến răng. Bỗng đâu cả trăm tiếng cú rúc ban ngày rờn rợn vang lên. Chiếc đỉnh đồng tự nhiên đổ lăn kềnh, rơi xuống vườn uyển, cắm sâu vào ḷng đất.

Sâm oặt đầu, miệng thổ ra một cục máu bầm, mắt trợn trắng dă trong hai hốc đen đầy lệ. Nơi chiếc đỉnh đồng rơi xuống, đất sụt sâu, nước ngầm tóe lên tuôn phùn phụt, lâu thành một cái ao. C̣n cặp mắt Sâm, đúng là ai vuốt cũng không nhắm, tê cứng đi như làm bằng một loại kim màu sắt rỉ.

*

Nhật bực bội vung tay ném ḥn đá xuống ven hồ. Những gợn nước tỏa rộng ra thành những ṿng tṛn, lan ra rồi tan dần vào mặt hồ chỉ lát sau là lại phẳng lặng, lung linh bóng cây cổ thụ rễ gân guốc trồi lên mặt đất, ḷng ṿng chạy tủa ra rồi đâm vào ven bực tam cấp lên chùa.

Từ ngày Thức trốn, rồi Mai bị bắt và cầm tỏa trong dinh Thế tử Cán, Nhật không đi lại chơi bời với ai, kín đáo ḍ xét đợi dịp cứu Mai khỏi chốn tù hăm. Việc cắt đặt đội Trung Kính để bảo vệ tam cung ngũ phủ đă vào nếp, Nhật mặc thường phục, bỏ th́ giờ đi vào khắp nơi ngóc ngách của đất Kinh Kỳ. Khi đầu óc căng thẳng đến độ Nhật chỉ muốn đập phá cho hả, chàng lại ṃ đến chùa Trấn Quốc, một ḿnh ngồi cạnh gốc cây sống hẳn đă ngh́n năm nay, đợi nghe tiếng thỉnh chuông, để cho ḷng theo tiếng ngân, bay xa, nhẹ nhơm.

Những cơn chán nản và bực bội ùa đến Nhật như cơn triều sông Nhị mùa nước lớn dấn vào bờ đê sồi sụt lở lói. Nhật lôi cây kiếm Hoàng gia ra, nh́n chầm chập vào sống kiếm có đổ ch́, nghĩ ngợi mông lung. Bây giờ, Nhật chẳng c̣n nghi ngờ ǵ về gốc gác của ḿnh. Nhưng cái gốc gác đó khiến đường gươm thứ nhất trong ba đường chiêu kiếm học được của Mishima mỗi ngày một chậm. Nhật lại nghe văng vẳng lời dặn «... có dứt bỏ được vọng niệm, căm hờn th́ đầu mới liền lạc được với tay, và đường kiếm nhanh bằng vận tốc của suy tưởng, nghĩ đến đâu là kiếm phát ra đến đó ». Rồi h́nh ảnh người đàn bà quay lưng lại, tay quạt cho Nhật buổi trưa nắng ở miếu Ba Cô cứ chập chờn hiện về, chẳng phải chỉ trong giấc mơ, đôi khi như luẩn quẩn giữa ban ngày ban mặt.

Nhật nhắm mắt, mơ màng nhớ về thuở ở trại Bùi Phong. A, cái thời trong trắng. Cái thời tưởng đă bay khỏi tầm tay níu kéo của mỗi con người, nhưng rồi lại vẫn lảng vảng đâu đây, thoáng trong hương hoa bưởi, vẳng về từ tiếng ếch ven ao. Nhật thầm nhủ : « Thôi, về thôi... Cũng là biển cả với nương dâu, chốn Kinh Kỳ này như thế là đủ ».

Bỗng có tiếng hát lanh lảnh rợn người. Hát rằng :

Ta về, ta hát, ta chơi ...

Co chân xoạc cẳng đo trời ngắn cao ...

Nhật ngạc nhiên, lần theo tiếng hát đi về phía sân chùa. Một người đàn bà trạc tứ tuần, áo cánh vàng, chít khăn đen mỏ quạ, chân đi ṿng, tay múa miệng hát, nước mắt nhỏ ṛng ṛng. Thỉnh thoảng bà ta ngưng bước, ngửa mặt lên trời gào : « Mẹ, Mẹ ơi ! », rồi lại tiếp tục :

... Kinh Kỳ sóng nổi ba đào

Nước dâng tám cấp lửa cao chín tầng

Bà ta bỗng đứng khựng người lại, thét lên:

- Mẹ ơi ! Thánh thần nay cũng hư nữa, nói chi đến con người !

Hai tay chắp, bà lại bất động đứng dưới bệ thần Bạch Hổ, lưng quay về phía Nhật. Không ngoảnh lại, bà ta đột nhiên gọi :

- Này anh ơi ! anh vào đây ...

Ở góc sân, một đứa bé gái trạc lên mười ngồi thụp xuống đất, bên cạnh một sư ông râu tóc bạc phơ. Họ nh́n Nhật, không nói. Nhật bước vào sân. Người đàn bà lại cười khúc khích :

- Anh lên bệ đây, cho em lạy chào... Cứ lên, không ai ăn thịt đâu mà sợ...

Nhật rón rén ngồi xuống cạnh bệ thờ. Bà ta lại ṿng chân bước, miệng hát :

Trăm năm trong cơi người ta

Bên tài bên mệnh khéo là ghét nhau

Trời đầy kẻ trước người sau

Biển kia cùng với ruộng dâu, cũng là...

Nhật giật ḿnh. Hai câu đầu là hai câu thơ của Nguyễn Du, cậu bé đă lên sống trên trại Bùi Phong cách đây hơn ba năm. Nhưng những câu này họa chăng chỉ có Thức biết, làm thế nào mà nó lại từ cửa miệng của người đàn bà kia vừa cất tiếng hát ? C̣n hai câu sau ? Lạ quá ! Người đàn bà như đọc được tư tưởng của Nhật vài phút trước, khi chàng muốn bỏ chốn Kinh Kỳ, vừa nói vừa cười :

- Này anh ơi, chưa về ngay được đâu ! Mà về th́ rồi nhớ giúp ông Hoàng Mười, ba bốn năm nữa anh lại ra đây.

Dứt lời, bà ta xoay ṿng, tay x̣e ra múa may uốn éo, hát theo điệu Hồ Quảng :

Duyên chưa đành, nghiệp chưa dứt, ới ai ơi...

Cái cơi sân si nó rộng, nó nổi ba đào !

Nhật hoảng sợ, không biết ai là ông Hoàng Mười và chẳng hiểu làm sao người đàn bà kia có thể nói toạc ra một phần tâm thức của chàng. Bước về phía sư ông, chàng ṿng tay chào, tai lại nghe :

- Đấy, nhà em đấy. C̣n con cháu kia là con chúng em ...

Nhật ngẩn người ra. Sư ông chỉ cười hiền lành :

- Mẹ nó điên, ông đừng chấp.

Mùi khói hương sực vào mũi ngây ngất. Chẳng hiểu v́ lẽ ǵ, tự nhiên Nhật thấy nhẹ hẳn ḿnh. Phải chăng phần số đă là tiền định, th́ có xá ǵ, thành mây mưa nắng gió hay hổ báo chim chóc cũng là...

Cũng là ... cả biển xanh với nương dâu. Cũng là ... kẻ trước với người sau...

Nhật lững thững ra cổng chùa. Con bé con, mặt mũi lem luốc, cặp mắt nâu tṛn lóng lánh, đứng đậy đi theo. Nhật lại nghe giọng lanh lảnh :

- Con ơi, chớ bỏ theo trai ...

Nhật bước nhanh giữa gió chiều trống trải. Từ xa vẫn cứ văng vẳng tiếng hát :

Ới ai ơi ...

Cái cơi sân si, nó rộng , nó nổi ba đào.

 

5 Kiêu binh

 

Xế chiều hôm Tĩnh-đô vương Trịnh Sâm ĺa đời, Vua Lê Hiển Tông hạ sắc phong Trịnh Cán làm chúa, hiệu là Diễn đô Vương. Đặng Thị Huệ và bảy vị quan Đại-thần phụ chính cũng nhận được những lời phủ dụ từ Hoàng cung. Cán mặc sắc phục tước Vương, ra sập ngồi cho hai hàng quan văn vơ lạy chào. Sau, Diễm Quận công bế Cán vào Huỳnh cung ra mắt Thánh Mẫu.

Quan tài Sâm vẫn quàn đó, đợi phong Vương cho Cán rồi mới khâm liệm cho Sâm. Trong triều, chỉ một ḿnh Tế Lư biết là Cấm binh họp nhau ở Khán Sơn, nhưng không có th́ giờ đối phó. Lư chặc lưỡi khinh bỉ, trao cho Quận Châu chức Binh phiên tŕ sự và dặn phải cẩn thận.

Trên núi Khán Sơn, có lẽ có đến cả trăm người đến hội. Oai Lư c̣n lớn, nên ban đầu ai cũng dè dặt. Đến khi bàn việc, không một ai lên tiếng. Bằng Vũ nhẩy lên đứng trên một mỏm đá, giọng kiên quyết :

- Gần như toàn thể Cấm binh Tam phủ ở trong quyền chỉ huy của chư vị có mặt ở đây. Lâm sự, ta chặt cầu cản đường cứu viện đường bộ từ Kinh Bắc và Sơn Tây. Mặt thủy, Đinh Tích Nhưỡng có đến được cũng không đổ bộ nổi. Vả lại, họ có đến được Kinh cũng phải dăm bữa một tuần. Nếu ta xử sự cho gọn, bắt giết Huệ và Lư, rồi xin ngay Đức Vua ban sắc phong Vương cho Thế tử Trịnh Tông, th́ chỉ nội nhật là xong. Lúc đó, ai không nghe hiệu lệnh của Vua và Chúa là làm phản, bọn cứu viện nào dám đến nữa.

Ngưng lại, Bằng Vũ nh́n khắp lượt, nghiêm trang tiếp :

- Chỉ sợ anh em ở đây không đồng một ḷng. Bây giờ trước Hoàng Thiên soi xét, ai tôn phù nghĩa tôi Chúa, quyết dẹp bọn tặc thần chuyên quyền, xin đứng sang bên phải. Ai chống, bên trái. C̣n ở giữa th́ xin cứ b́nh chân như vại, đừng có can thiệp.

Cả đám cấm binh ồn ào lên, rồi di động. Hai phần ba bước về bên phải. C̣n lại đứng giữa trừ một người. Nguyên Nhưng há hốc mồm nh́n, thảng thốt kêu: « Sao vậy ? sao lại vậy ?».Trăm cặp mắt đổ dồn vào phía bên trái, và đă có người nắm đốc kiếm, miệng hầm hè. Người đó quần áo nho sinh, tóc búi, tay cầm quạt phẩy nhè nhẹ, đủng đỉnh bước lên đứng trên g̣ đất, nói rành mạch:

- Chưa được đâu ! Làm như cách Bằng Vũ nói là vội quá, dục tốc bất đạt. Hành sự chín chắn phải nghĩ đến khả năng bất thành, c̣n giữ đường mà lùi...

Giữ đường lùi đúng là đánh vào tâm lư đám Cấm binh thật ra vẫn c̣n sợ sệt. Họ nhôn nhao hỏi. Người cầm quạt nghiêm nghị :

- Bùi Bật Trực xin có một lời. Phàm làm việc, giữ được chính danh mà không mang hại là thượng sách. Ai cũng biết là Thánh Mẫu không đồng ḷng việc phế Tông lập Cán. Hay nhất là bàn với Quốc Cửu Viêm Quận công, để ngài vào tŕnh với Thánh Mẫu, và phát hiệu lệnh rồi mới bắt Lư và Huệ. Nếu thuận như vậy, Trực này xin làm con én đưa đường...

Đám Cấm binh vỗ tay hoan hô, cho là diệu kế. Bằng Vũ gật gù rồi nói :

- Ngày khởi sự như vậy chưa biết. Tam quân lúc nào cũng phải sẵn sàng, khi nghe tôi vào phủ đường đánh ba hồi trống sau giờ cúng cơm buổi sáng là cứ việc tiến đến vây Chính-phủ và Vương phủ.

Đám Cấm binh lại vỗ tay hoan hô, cho Vũ là đảm lược hơn người, cử Vũ cùng Trực đi gặp Quốc cửu.

Sáng hôm sau, trên đường đến dinh Quốc cửu, Vũ bảo Trực :

- ... có ư Quốc cửu và Thánh Mẫu hay không, đă cưỡi cọp rồi, xuống thế nào được !

Trực trả lời :

- Có càng hay. Không th́ lại càng phải làm. Thành th́ khối các vị Đại-thần nhảy ra xin ăn theo, lo ǵ.

Quốc cửu là loại người vừa ngu vừa nhát, cứ ậm ừ, khuyên nên đến thẳng Huỳnh cung. Vũ và Trực đến, phao rằng Quốc cửu đă thuận và nay xin ư Thánh Mẫu. Bà ngần ngừ, biết là việc trọng đại, muốn tŕ hoăn và vời Hoàn Quận công vào tham khảo. Lúc đó, không biết kẻ nào đă thảo ra một tờ hịch, tựa là ¨ Tam Quân Phù Chính ¨, kể tội tiếm quyền, dâm loạn của Lư và Huệ, đ̣i truất Cán lập Tông. Hịch dán trên năm cửa ô, rồi chép ra truyền tay nhau đọc trộm, bàn dân xôn xao, có kẻ sợ Kinh sắp gặp đại biến, lục tục rủ nhau bồng bế về quê. Giá gạo cao vụt lên, và trộm cắp tha hồ hoành hành, bất kể luật pháp.

Hoàng Tế Lư gọi Toàn Nhật vào Chính-phủ, từ tốn hỏi Nhật về binh t́nh trong đội Trung Kính vốn có nhiệâm vụ bảo vệ Tam cung Ngũ phủ. Lư đăm chiêu :

- Tin được bao nhiêu đầu lính ?

- Năm sáu trăm, Nhật trả lời.

Nh́n ra sảnh đường, Lư làm vẻ thản nhiên :

- Địch được bao nhiêu ?

Nhật thận trọng :

- Ba ngh́n, ba ngh́n rưởi.

- Bao lâu ? Lư cười nhẹ, nhướng mắt lên.

Ngần ngừ một lát, Nhật đáp, giọng quả quyết :

- Ba ngh́n th́ cả tuần, ba ngh́n rưởi, bốn đến năm ngày.

Lư trầm ngâm nghĩ ngợi rồi xuất một ngh́n lượng bạc ra cho Nhật để thưởng cho lính đội Trung Kính. Mặt khác, Lư đích thân phái người của viện Nội Mật lên Sơn Tây vời quân Hoàng Phùng Cơ, sang Hải Dương vời quân Đinh Tích Nhưỡng và xuống Thanh Hóa vời đội chiến thuyền của Nguyễn Hữu Chỉnh.

*

Từ dạo anh ḿnh là Nguyễn Khản được tha tội chết, chỉ bị Chúa Trịnh Sâm giam lỏng tại tư dinh Châu Quận công, Nguyễn Du đă lánh lên Tuyên Quang, tá túc nhà một viên vơ quan cấp thấp. Năm sau, Du về trấn Sơn Nam, rồi thi đỗ Tam trường khóa năm Giáp Th́n. V́ đường xá xa xôi, Du ít tin tức, không hề biết là Đặng Thị Mai bị giam hăm, và Trọng Thức phải bỏ trốn, trôi giạt chẳng biết đến nơi đâu. Mấy tháng gần đây, tiếng đồn đăi về khả năng binh biến ở Kinh lan xa, bàn đân ở các phiên trấn ngóng cổ chờ diễn biến. Du quyết định lần về Thăng Long, một mặt v́ ṭ ṃ, một mặt v́ muốn t́m giữ những tập bản thảo do chính ḿnh trước tác đă để lại dinh Kim Âu, tư dinh của anh ḿnh là Nguyễn Khản.

Hai hôm sau ngày về Kinh, Du đến dinh Khương Tả hầu nhưng Nhật vắng mặt. Đành ngồi đợi, Du nh́n đám Cấm binh mặt mũi nghiêm trọng, biết là tiếng đồn đăi cóù xác cứ. Bố-già, người lính lâu năm nhất, cũng ṃ tới t́m Nhật. Ông ta nh́n Du đăm đăm, buồn rầu :

- Đời lính tôi suốt mấy mươi năm rồi, đến nay đâu lẽ nào phải cầm gươm cầm kiếm đánh đấm với chính anh em lính chúng tôi... Đánh giặc, lúc nào tôi cũng sẵn sàng, nhưng ai nỡ ḷng nào đâm chém vào ruột vào thịt ḿnh.

Nh́n cánh bướm vàng chập chờn trên hàng dâm bụt màu đỏ tươi, Du bâng quơ an ủi cho có lệ người lính già nhăn nhó đang khổ tâm lo lắng. Nhật về, thấy Du, vội ôm chầm lấy, quên Bố-già đứng lóng ngóng bên cạnh. Uống chén nước hàn huyên xong, nh́n Nhật, Du nhắc lại lời Bố-già. Lúc ấy, Bố-già chắp tay, giọng trang trọng :

- Quan Chưởng cơ, chỉ có ngài mới cứu được việc anh em lính chúng tôi phải đâm chém lẫn nhau. Bọn Bằng Vũ, Nguyên Nhưng hăng lắm, không cản được, lại có Bật Trực thúc vào. Lính Tiền Hùng đă từng tốp vào Kinh, bỏ hết pḥng thủ tuyến sông, tiếng là về cứu Ấu Chúa. Ngoài ra, cơ đội Nhượng Trung, Hậu Dũng và Tiền Ninh cũng phối hợp trấn đóng những chỗ hiểm yếu, hăm hở đợi tiếng trống hiệu... Riêng đội Trung Kính và Thị Nội tả quân do Chưởng cơ chỉ huy là không động tĩnh ǵ, vẫn tiếp tục phận sự bảo vệ Tam cung Ngũ phủ. Nay, anh em ăn thề trên núi Khán Sơn phái tôi đến xin ư của Chưởng cơ, và cầu trời cho khỏi đổ máu, là phúc cho lính...

Nói đến đấy, Bố-già sụp xuống qú lạy Nhật, khóc ṛng ṛng. Nhật vội đỡ Bố-già lên, mủi thương, nhẹ nhàng :

- Xin lăo đứng dậy. Nhật này cũng chẳng ưa ǵ mùi máu.

Nghiêm nghị nh́n mớ tóc lởm chởm bạc mọc như nổi loạn trên đầu người lính già đă suốt một đời chinh chiến, Nhật trầm giọng :

- Cuộc nội chiến này không tránh được nữa rồi. Ngay như quan Chánh dường có lập thế tử Tông lên ngôi Chúa, ta cũng đồ rằng chưa đủ để tránh việc binh đao ...

Thở dài, Nhật quay sang Du, hỏi :

- Có phải đường huynh là Nguyễn Khản đă về dinh Kim Âu rồi chăng ?

Du lắc đầu. Bố-già chen vào :

- Không, Khản dẫu ở nhà Châu quận công nhưng cả hai đều biết rơ t́nh thế. Bây giờ, chỉ chờ ư quan Chưởng cơ rồi anh em lính chúng tôi mới dám động tĩnh.

Nhíu mày lại, Nhật nhăn mặt nh́n ra góc vườn, nét đăm chiêu khiến chàng như già đi hàng chục tuổi. Bố-già tần ngần, nước mắt lại ứa ra, giàn giụa chảy theo vết nhăn đă thành rănh trên khuôn mặt phong trần sạm màu nắng gió. Du ngần ngừ, nói trong cuống họng :

- Cứ đổ một giọt máu là phí đi một giọt, dẫu là của bất cứ ai.

Nhật vùng đứng dậy, vỗ nhẹ lên vai Du. Ôm vai Bố-già tiễn ra cổng, Nhật nh́n lăo, nói:

- ... Ta không phụ ai, nhưng cũng chẳng để ai phụ ḿnh. Lăo về bảo họ như vậy.

*

Trong thời gian đó, Thánh Mẫu đă gặp Hoàn Quận công. Hoàn đồng ḷng, xin Thánh Mẫu hạ chỉ dụ Hoàng Tế Lư, hứa sẽ thuyết phục đám Đại-thần phụ chính. Chỉ của Thánh Mẫu như sau:

« Ấu Chúa ốm đau, trong nước bàn dân lo sợ nghi ngờ. Tướng quân nếu lấy xă tắc làm trọng, th́ nên tạm cho Thế tử Tông nhiếp chính để yên ḷng người. Chờ đến khi nào Ấu Chúa trưởng thành, Tông sẽ trả lại chính quyền, lui về làm tôi...»

Tế Lư lĩnh chỉ, đọc xong, lắc đầu cười nhạt. Khạc vào cái ống nhổ bằng đồng để dưới chân, Lư lẩm bẩm « ... rơ là dơ. Nghi ngờ ǵ th́ lại chẳng dám nói ». Ngồi ngay ngắn trước thư án, Lư tự lấy bút nghiên ra thảo :

« Lư tôi qú lạy dưới cửa thánh Mẫu. Thánh Mẫu đă lo đến việc lớn của xă tắc, tôi đâu dám không vâng lời ? Chỉ hiềm là việc đó không phải ư của Tiên Vương. Lư tôi khi được Tiên Vương gửi gấm, ngài đă dặn ḍ cặn kẽ, lại có tờ «Cố mệnh» làm bằng. Nay quan tài c̣n quàn ở đây mà thay đổi mệnh ngài, ḷng tôi nghĩ sao cho đang ? Vậy xin việc đó hăy để sau rồi sẽ liệu tính ... Vả chăng, trong thiên hạ sau này nếu lo âu sẽ hết lo, nếu ngờ vực sẽ hết ngờ, dám xin Thánh Mẫu cứ yên tâm... »

Đưa thư hồi âm về Thánh Mẫu xong, Tế Lư gọi hai hàng quan văn vơ vào triều ngay buổi chiều hôm đó tại Nội phủ. Đám Thị Nội quân được chia ra canh gác, mặc quần áo trận, cứ sáu thước có một người lính, gươm giáo sáng ḷe. Đội Nội cuông chấn mặt Bắc, Nội dực mặt nam, c̣n phía đông và tây do đội Nội nhưng và Nội kiệu pḥng thủ. Ở ṿng ngoài, những dinh thự lớn như dinh Kim Âu, dinh Trung Nhuệ đều được canh gác cẩn mật bởi cơ đội chủ lực Trung Kính. Đám Thị-kỵ quân được giao giữ cung Vọng Hà, cung Tây Long và cung Trung Hoa ở trung tâm, có thể dùng như lực lượng trù bị sẵn sàng cứu viện những mặt quan yếu.

Cuối giờ Thân, các quan đă đủ mặt, ngồi hai hàng ghế. Trên trướng cao, chiếc ngai Chúa để trống, nhưng bên cạnh có sắp một chiếc ghế cho Đặng Tuyên-phi. Ở hàng đầu, Tế Lư liếc mắt nh́n kiểm điểm, thấy thiếu Hoàn Quận công. Quốc cửu Viêm Quận công cáo ốm, không đến. Lư tŕnh bày sự thể, cắt đặt công việc cho Châu Quận công là Binh phiên Tŕ sự, đưa ra bằng chứng có người tố Viêm Quận công định làm loạn và yêu cầu chư quan đ́nh nghị để trị tội. Lư chau mày, trầm giọng :

- Chỉ mai kia là có biến, hàng quan vơ các ông cũng nên một phen hăn mă, thử xem nghề cung kiếm c̣n phong độ hay không ... Phía quan văn, các ông bảo người nhà sửa soạn đao kiếm để tự pḥng vệ, chớ có khinh trọng.

Hai hàng quan x́ xào, hư thực, bấm bụng nói cứng nhưng lo ngay ngáy, ai nấy nhấp nhổm chỉ muốn về nhà. Trời sập tối, có kẻ khuyên Lư mang nghĩa sĩ vào phủ hộ vệ cho ḿnh, có kẻ lại bàn là Lư nên ẵm Ấu Chúa trốn khỏi Kinh rồi gọi quân ở ngoài vào bắt bọn phản loạn. Lư chỉ im nghe, rồi chắp tay cảm tạ các quan, giọng khẳng khái :

- Xưa nay, hư thực trong chuyện binh biến thế nào ai mà lường được. Dẫu sao, cứ để thong thả, không việc ǵ phải mất b́nh tĩnh .

Lư cười, ung dung, tiếp :

- Ví bằng việc gấp quá, không trị nổi bọn làm giặc, th́ tôi đă vâng mệnh Tiên Vương, sống thác cũng cam, có chi mà hốt hoảng ?

Đêm hôm ấy, Tế Lư vẫn mang vài người hầu như thường lệ vào ngủ ở Phủ đường nhưng cho người đi gọi Toàn Nhật. Chờ đến canh hai không thấy, Lư bắt đầu lo, cả đêm không chợp mắt.

*

Tiễn Bố-già xong, Nhật thấy đầu choáng váng, vào nhà trong đặt ḿnh xuống giường. Mấy hôm nay, trời ẩm đục, âm u, mây trĩu xuống như bị ai tŕ kéo. Chợp mắt được một lúc, Nhật nghe tiếng người gọi tên ḿnh. Nhật choàng dậy. Cạnh cửa sổ, bóng người đàn bà ở miếu Ba Cô trên Phố Hiến thấp thoáng. Lưng quay lại, giải áo trắng bung phần phật mặc dầu không có gió, tóc xơa ra đằng sau như uốn như lượn, người đàn bà như chực bị bốc lên không trung. «Con ngoan, mẹ về với con nhưng chẳng được lâu, lại sắp phải đi đây ! ». Nhật đứng dậy, mắt căng ra, gọi : « Mẹ đừng đi nữa, ở lại để con báo hiếu mẹ ... Tội nghiệp thân mẹ ». Tiếng khóc thút thít, bắt đầu c̣n nhỏ, sau lớn dần rồi choáng ngợp thành những tiếng nấc, lẫn vào dăm câu nói tức tửi : «... báo hiếu, con ơi..., mẹ chờ... ». Cánh cửa sổ phềnh ra, đen ng̣m, hút lấy giải áo trắng vẫn phần phật bay, mờ dần rồi tan biến như khói. Nhật gào lên : «Mẹ, mẹ ơi... »

Khi Du vào lay, Nhật tỉnh lại, thấy mặt ḿnh lă chă nước mắt, người nhễ nhại mồ hôi. Du nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh, lo ngại :

- Chắc huynh ốm mất rồi.

Nhật nhắm mắt định thần một lúc rồi đứng dậy ra sân sau. Chàng rút gươm chém ba đường, cứ thế chém, vừa chém vừa hét. Không biết v́ lẽ ǵ, đường gươm thứ nhất lại chậm hơn trước. Nhật ngừng, nói với Du : « Du xem mắt ta có ánh căm hờn không ? » rồi lại tiếp tục chém.

Tối đến, Du về dinh Kim Âu. Toàn Nhật lên ngựa đi thẳng về phía sông Nhị. Quả thật những điếm canh nay bỏ trống, lính Tiền Hùng đă kéo nhau vào Kinh. Ngồi ven sông, Nhật nghe tiếng nước ŕ rào như tâm sự những nỗi niềm từ vạn đại. Chàng nhắm mắt, liên tưởng đến khoảng thời gian vừa qua. Khi quan Chánh dường trao cho chàng thanh kiếm « Hoàng gia », Nhật biết là gốc gác ḿnh quả có rễ rợ sâu xa với họ Hoàng. Cha chàng là ai ? Là Quận Việp Hoàng ngũ Phúc ? Hay chính là Hoàng Tế Lư ? Nếu là Quận Việp th́ thôi, đă chết rồi, vậy chẳng qua là chàng mồ côi cha từ nhỏ ! Nhưng nếu là Tế Lư ? Thế có nghĩa là kẻ phụ bạc mẹ chàng, khiến mẹ phải trầm ḿnh chết để rửa nhục, sờ sờ c̣n đấy, quyền cao chức trọng, thế lật thiên hạ như trở bàn tay. Và bóng mẹ chàng ở miếu Ba Cô c̣n luẩn quẩn quanh đây, phải chăng là để nhắc nhở chàng mối hận câu chuyện ngày xưa mà nước sông Lam vẫn chưa rửa sạch ?

Nhật bần thần, tay mân mê đốc kiếm, ḷng phân vân. H́nh ảnh Bố-già và những giọt nước mắt một người không muốn máu lính vấy lẫn tay lính lại hiện ra. Ngày mai sự thể diễn biến ra sao ? Chàng thừa biết là lính đội Trung Kính sẽ nghe lệnh, chắc chắn sẽ chống trả khi bị tấn công. Từ ba hôm nay, họ khẩn trương chuẩn bị, sẵn sàng đối phó với mọi t́nh huống. Nếu việc binh đao không tránh được, số nạn nhân hẳn là không dưới vài ngàn. Nhưng làm thế nào đây ? Lúc can qua, Hoàng Tế Lư sẽ trực tiếp chỉ huy cả ba cơ đội Thị Nội, Thị Kỵ và Trung Kính. Con người Lư chiến trận đă quen, chắc ǵ bọn Bằng Vũ, Nguyên Nhưng thủ thắng được. Hơn nữa, quân biên ngoại hiện cũng đă rục rịch về Kinh mang danh nghĩa phù Chúa. Xương máu hàng vạn người sẽ đổ ra ! Nhưng để làm ǵ ? Cho ai ? Nhật chép miệng, thở dài. Chắc chắn là không phải cho những người phải liều mạng ḿnh vào chuyện xương rơi máu đổ !

Nhật nh́n ḍng sông, miệng thầm gọi : « Nước, nước ơi ! cho ta xin một lời khuyên. » Mắt rưng rưng, chàng ngửng lên trời t́m một ánh sao đêm. Không, không có một v́ sao nào hiện ra chỉ lối.

Nhật nhắm mắt, cố lôi trong óc mớ chữ nghĩa đă học xem có ǵ giúp được cho chàng lấy được cái quyết định cam go này. Không, vẫn không. Không có thứ chữ nghĩa nào đặt lên bàn cân, một bên là máu xương hàng trăm hàng ngàn người, một bên là cha chàng, cho dẫu rằng cha chàng có phụ rẫy, bức tử mẹ chàng.

Phải chăng có thầy chàng, thầy sẽ nói ǵ ? Phải chăng có Trọng Thức, Thức sẽ khuyên ǵ ?

Nh́n sang bên kia sông, Nhật bỗng thèm bơi qua, rũ hết đi mọi vướng bận mặc cho cán cân nghiêng thế nào th́ nghiêng, đổ thế nào th́ đổ. Đầu nóng lên đến bốc khói, Nhật rút từ sau lưng cây kiếm vơ sĩ do Mishima tặng, rồi vừa hét vừa chém, tiếng xé gió nghe đến buốt xương lạnh thịt. Chàng chém cho đến độ tay mỏi nhừ, óc rỗng tuếch, mồ hôi đổ ra ướt hết hai lần áo. Ngồi xuống vệ cỏ, Nhật nhắm mắt lại. Quái lạ, sao chàng thấy ḍng sông dưới kia bỗng thành một ḍng sông máu đỏ lừ lừ, cú lững lờ trôi đi.

« Đổ một giọt máu là phí một giọt », tiếng Du văng vẳng từ đâu đưa lại. Phải, có phải thế chăng ? Câu trả lời bẩy bật người Nhật dậy.

Phóng ngựa vào trung quân của cơ đội Trung Kính ra quân lệnh xong, Nhật đến dinh Kim Âu nơi Du trú ngụ chứ không về nhà. Khoảng canh hai, những tốp quân cứ mười người một từ ba cửa ô Ông Thánh, Trường Bản và ô Cầu Giấy lẳng lặng chia nhau tản ra ven đô. Họ đi ngược lên bến Tây Long, giữ bến Hàm Như, bến Thúy Ái cho đến bến Thanh Tŕ.

*

Sáng ra, trong Kinh im ắng đến ngơ ngác. Hàng dân sợ, không họp chợ, nhà nào nhà nấy đóng chặt cửa ngơ. Người kẻ chợ thấp thỏm, chờ đợi một biến cố đến từ sự quái ác của vần xoay. Trời lại mưa tầm tă, nh́n ra một màu trắng xóa, như sắm sửa tang ma cho những thân phận bị xô đẩy vào ṿng rủi may đao kiếm.

Sau giờ cúng cơm, ba hồi trống chín tiếng trong Phủ Chúa chợt thúc lên rộn ră. Đột nhiên, tiếng reo ḥ vang dội từ bốn phía nổi lên. Sáu người lính trong đội Thị Nội vây Bằng Vũ lại, trói giật cánh khuỷu, đẩy vào sân Chính phủ. Ở bên ngoài, một đám lính Tam phủ kéo ra, gươm giáo loảng xoảng, vừa đi vừa ḥ hét, tiếng chân dậm trên đất th́nh thịnh. Quận Châu ra lệnh đóng chặt cửa Chính-phủ và Nội-phủ, hớt hải gọi lính Thị-kỵ ra tiếp sức với đội Thị Nội, rồi báo Hoàng Tế Lư :

- Lạ thật ! Không c̣n bóng lính nào của cơ đội Trung Kính cả !

Bụng hoảng sợ, nhưng lại lấy vẻ ung dung, Lư cười bảo:

- Đừng lo, việc quân ta đă xếp đặt đâu đấy rồi ..

Quận Châu đi ra lắc đầu, mặt tái ngắt. Điệu Bằng Vũ bắt qú trước thềm, Lư cao giọng hỏi :

- Mày đánh trống làm hiệu dấy loạn, vậy làm loạn để đạt mục đích ǵ ?

Bằng Vũ vùng ḿnh đứng dậy, miệng hiên ngang nói :

- Ta không làm loạn. Kẻ làm loạn là bọn lập ra Ấu Chúa để tiếm quyền rồi phá nát cơ nghiệp nhà Chúa !

Lư b́nh tĩnh :

- Bay có bao nhiêu lính mà làm loạn nổi ?

Bằng Vũ ngửng mặt dằn giọng :

- Hỏi cung ta à ? Đă vào đây, ta nào sợ ǵ cái chết ! Nhưng để ta bảo cho mi biết, bọn ta là lính đất «tắm gội » của nhà Chúa, đă đồng tâm với nhau từ hai trấn Thanh-Nghệ cho đến tận Tuyên Quang, Hà Bắc ...

Lư quát :

- Giỏi đấy ! Chư Đại-thần phụ chính, ta phải chém đầu thằng tặc này, bêu lên làm lệnh cho ba quân để giữ phép nước !

Lúc ấy, Tạ Danh Thùy đứng ra can, trong bụng là t́m cách cứu lấy thân ḿnh nếu vạn nhất không thắng được bọn lính Tam phủ, nhưng ngoài mồm lại nói :

- Giết một đứa như tên đánh trống này th́ lấy đâu là đầu mối để bắt bọn đầu đảng ?

Lư chỉ cười nhạt, ra đứng ngoài lan can nhướng mắt xem xét t́nh h́nh. Vẫy tay gọi gia nhân, Lư th́ thào vào tai, rồi vào thảo tờ khải :

« Lư tôi kính tâu : đám ba quân nổi loạn làm cho Kinh khuyết náo động. Tôi xin vâng lĩnh mệnh Chúa đem quân giết chúng, nếu được, ấy là nhờ oai lĩnh nhà Chúa, nhược bằng không, tôi đành liều chết để xuống dưới âm cung ra mắt Tiên Vương ».

Trao tờ khải cho đám phụ chính, Lư ung dung nói : «... Cứ yên tâm, đâu sẽ vào đấy ! » rồi lên ngựa trẩy về tư dinh của Trịnh Cán với sáu người vơ sĩ hộ vệ.

Bấy giờ, Đặng Tuyên-phi và Diễm Quận công đă chực sẵn chờ Lư. Huệ cười khẩy, nói mát :

-... quan Chánh dường tính toán thế nào để tam quân mở hội mừng Tân Chúa vui vẻ đến như vậy !

Lư lẳng lặng đi trước, Diễm ẵm Cán, Huệ và dăm ba t́ nữ đi sau, đến trước cửa dẫn vào đường hầm bí mật được ngụy trang sau một cái tủ chè bằng gỗ mun rộng bằng nửa bức tường. Lư mở tủ, tay vặn ba cái khoen bằng đồng, sai vơ sĩ đẩy tủ sang một bên. Cửa hầm rộng vừa một người đi lờ mờ hắt ánh sáng lên. Đường hầm đó sẽ dẫn vào nghĩa địa cạnh bến Tây Long. Lư tính rằng Ấu Chúa và Đặng Tuyên-phi có thể lấy thuyền con sang tả ngạn sông Nhị, từ đó tắp lên Kinh Bắc rồi liên lạc với Quận Thạc là Hoàng Phùng Cơ đang chuyển quân về Kinh cứu giá.

Đợi cho bọn người tùy tùng Ấu Chúa lục tục vào hầm, Lư đóng cửa, đi ra gọi đám vơ sĩ cận vệ đă nai nịt gọn ghẽ. Ghé vào tai tên Chưởng đội, Lư dặn ḍ, nét mặt vẫn b́nh tĩnh nhưng giọng nói đă có chút căng thẳng. Vẫy tay, hai tên phu lực lưỡng vai khiêng một ḥm vàng cong người từng bước đi theo Lư vào căn pḥng có cánh cửa bí mật. Đang làm động tác mở cửa hầm, Lư chợt giật nẩy người, lùi ngược lại, quát : « Ai ? ».

Từ cửa hầm, một người khoan thai bước ra, lưng gài kiếm dài, tay cầm kiếm ngắn, vai đeo khiên. Tế Lư sững sờ rồi thét lên:

- A ! Toàn Nhật, là ra ngươi ...

Nhật nghiêng người thi lễ, miệâng cười buồn buồn :

- Kính chào thượng quan, đội Trung Kính đă chờ Ấu Chúa ở ven sông để xa giá.

Nhật nghiến răng, rành mạch :

- Nhưng thượng quan là rường cột, đâu bỏ đi như thế được!

Lư tái mặt, tay nắm vào đốc kiếm. Nghĩ thế nào, Lư lại bỏ ra, giọng như van vỉ :

- Nhật con, con cầm thanh kiếm Hoàng gia do tổ phụ truyền lại là để giết cha sao ?

Nhật nh́n lên trần, gằn từng tiếng, lạnh lùng :

- Tôi họ Vơ, đẻ ra chưa đầy tháng th́ mẹ tôi trầm ḿnh trong ḍng sông Lam. Sống với ông ngoại đến năm mười hai, ông tôi mất. Từ đó, tôi về làm nghĩa tử của La Sơn Phu tử họ Nguyễn, làm ǵ có máu mủ với họ Hoàng ?

Toàn Nhật vung tay ném về phía Tế Lư, miệng tiếp :

- Quan Chánh dường nhận lầm người, đây xin trả lại ngài thanh kiếm !

Tế Lư bắt lấy, rút ra khỏi bao, nh́n chằm chặp vào sống kiếm, rồi bật cười năo nùng, miệng rên : « Ới oan gia, hỡi oan gia ... »

Sáu người vơ sĩ đứng hai hàng quanh Lư ngẩn ra như phỗng, không biết cư xử thế nào, đưa mắt nh́n nhau. Chợt Lư quát :

- Thôi th́ đành ... Giết nó cho ta!

Ba người vơ sĩ lừ lừ tiến lên, tay đao sáng quắc, rồi bất ngờ xông vào. Lóe lên ba lằn sáng và một tiếng hét. Toàn Nhật thoắt đă trở về vị trí cũ, thanh kiếm cũng lại bỏ vào bao giắt sau lưng. Một thây người đă mất đầu đổ xuống như thân cây mục, máu phun ph́ ph́. C̣n lại hai vơ sĩ. Họ thất thần, rồi gập xuống, theo vết chém xẻ đứt bảo giáp từ trên xuống dưới và từ trái sang phải.

Lư kinh hoảng rú lên, rồi quát : « Bắn, bắn nó ... ». Ba người vơ sĩ c̣n sống vừa đưa tay ra sau lấy súng th́ Nhật xoay người hất ngược cánh áo. Trên mu bàn tay cả ba vơ sĩ, ba đồng chinh cạnh mài sắc ghim vào, máu ứa ra nhỏ giọt xuống sàn đá hoa. Họ thất sắc, đứng như bị thôi miên, ngẩn người ra nh́n.

Nhật lại nhẹ nhàng :

- Ba vị không hại Nhật này, th́ không lo Nhật hại ba vị, xin đi đi.

Khi họ lùi ra, Tế Lư cũng liền chân theo, vừa bước vừa lẩm bẩm những ǵ không ai nghe rơ.

*

Cắm đầu chạy luồn qua những luống hoa thược dược trong vườn uyển, Lư và ba người vơ sĩ trở lại Chính-phủ. Bọn quan Đại-thần phụ chính ngơ ngác chờ Lư, nhao nhao lên kêu. Quận Châu báo vào là loạn binh đang đục tường để vào phủ. Lư ngầm tính trong bụng là sẽ tŕ hoăn bằng cách nhậân đ̣i hỏi đưa Tông lên ngôi Chúa, nhưng bó buộc phải chờ sắc phong của Vua Lê cho thuận danh nghĩa. Hét quản tượng đưa voi ra, Lư nhảy lên, sai thúc chiêng. Bấy giờ, Quận Châu đă mở toang cổng phủ, đám binh Tam phủ kéo nhau vào đầy sân, không có trật tự nào, vừa chen vai thích cánh, vừa la hét vừa chửi tục. Lư tuốt gươm đứng trên lưng voi, từ từ đi ra, quát :

- Bớ tam quân, các người là lính đă mấy đời ơn Vua ơn Chúa, có chi không toại chí th́ cứ đề bạt qua chư quan, việc ǵ mà phải mất phép nước mang tiếng loạn tặc ...

Vốn sợ oai Tế Lư, lại chẳng biết đầu suôi đuôi ngược thế nào, đám binh Tam phủ kéo nhau ngồi bệt xuống đất. Nhân thế, Lư đánh thêm một đ̣n tâm lư, lập lờ tiếp :

- Nay, ta bảo cho biết, lính tráng là để đi dẹp giặc chứ không phải đi làm giặc. Cơ đội Trung Kính đă vây quanh từ ven đô trở vào, nhưng ta không nỡ nồi da xáo thịt, nên không cho hành động sợ làm máu đổ vô ích ... Vậy chư quân ai về đội ngũ nấy, làm tờ khải lên triều đ́nh, việc ǵ ta cũng sẽ cất nhắc cho ...

Đám lính hoang mang, nh́n nhau, rồi đùn Bố-già ra. Vị lăo binh này đi đến trước chân voi, qú xuống, nói lớn :

- Bẩm Chánh dường thượng quan, kẻ hèn này là Hài đă suốt đời làm lính, một ḷng ân nhà Chúa, và chỉ mong giữ yên xă tắc chứ đâu muốn dấy loạn thành ra bọn tặc phản...Tŕnh quan, cứ như chỉ dụ của Thánh Mẫu là tạm lập Thế tử Tông vào ngôi Chúa, đợi cho Ấu Chúa trưởng thành rồi trả lại quyền bính, th́ bọn lính tráng chúng tôi cắn cỏ ngậm vành đội ơn bề trên, và xin tha ngay tội náo động cung khuyết, ai về cơ nấy lập tức. Bằng không th́…

Nói chưa dứt lời, bỗng con voi rống lên, lấy ṿi cuốn lấy Bố-già tung bổng lên trời rồi quật xuống. Th́ ra có kẻ lấy kích đâm vào bụng voi, nó nổi khùng, phản ứng nhanh khiến quản tượng không kịp ḱm lại. Ba quân nhốn nháo đứng cả dậy, ào ào ném thương, ném kích vào ḿnh voi, miệng la hét vang trời át tiếng gào của Lư. Quản tượng bị câu liêm ném lên giật xuống đất và bị ba quân dẵm chết tại chỗ. Con voi lùi ra sau, luống cuống, xoay ṿng ṿng. Lư kêu : « Bằng ḷng, ta bằng ḷng ... » nhưng nào có ai nghe nữa. Năm sáu cái câu liêm ném lên cùng một lúc giật Lư ngă từ ḿnh voi xuống đất. Chỉ hai phút sau, Lư đă là một cái xác không hồn, đầu bị đập nát, óc pḥi ra trắng hếu.

Có một kẻ lấy đại đao nhè cổ Hoàng Tế Lư chém hai nhát. Cổ không đứt, hắn nhay qua nhay lại lưỡi đao, mồm văng tục. Thấy thế, một kẻ gạt hắn ra, ngồi xổm thọc kiếm vào khớp xương cắt như đồ tể đang sẻ xương lóc thịt trâu ḅ. Lúc chiếc đầu ĺa ra khỏi xác, lại một kẻ khác lấy đầu ngọn giáo cắm vào, rồi đưa lên cao, miệng ḥ như khi hát đúm.

Đám lính rầm rập bước theo ngọn giáo cắm đầu Hoàng Tế Lư, vừa đi vừa ḥ hét như hổ beo trong cát bụi mờ mịt. Riêng có hai kẻ, mặt mũi gân guốc, mắt mầu đỏ đục, chạy ào lại lôi cái xác không đầu vào một góc. Họ cởi giáp, lấy dao thọc vào, miệng hềnh hệch cười, tay móc ra một buồng gan nóng hổi. Một kẻ liếm môi tiếc rẻ nói : «... Chà, phải chi có cút rượu ! »

*

Trưa hôm lính Tam Phủ kết thúc được thời lạm quyền của Hoàng Tế Lư và Đặng Thị Huệ, trời bỗng đột nhiên bừng nắng sau một cơn u ám kéo dài cả tháng. Hàng dân kháo nhau rằng đấy là điềm thái b́nh. Không hẹn, họ kéo nhau ra chật phố, cứ thấy bóng lính là thi nhau ḥ reo. Người thổi cơm, kẻ nắm xôi, mang ra giúi vào tay lính. Họ đặt bàn thờ, cắm hương, hăm hở đợi xem Tân Chúa. Không khí giải phóng khỏi những tù túng bốc những giấc mơ đổi đời lên chín tầng mây trắng.

Bằng Vũ vào Vương phủ t́m Trịnh Tông, qú xuống :

- Xin Thế tử ra mắt hàng dân. Trăm họ đang chờ đợi, không phụ ḷng họ được.

Lính Tam phủ chia nhau đội Trịnh Tông trên một cái mâm đồng, vừa đi vừa reo ḥ, cười nói vang vang, hô to nào là « Cách Mạng », nào là « Nông chế », nào là « Đất trả người cày ». Bàn dân dẫu không hiểu ǵ cũng vui miệng hô theo. Kinh đô nhộn nhịp hẳn lên, chăng đèn kết hoa và đốt pháo như ngày Tết.

Ngay đêm hôm đó, dân hàng phố mở hội, phường nào cũng chăng đèn, trống cái trống con đánh lên rộn ră. Lính Tam phủ được vồ vập săn đón và nh́n với con mắt đầy ân nghĩa. Mới chỉ ngày trước, lính lạnh lùng, cứ theo lệnh trên như máy mà thi hành, dẫu oán than chi th́ cũng mặc. Dân sợ họ, lảng tránh, khép nép, đi ngang thường cúi đầu không dám nh́n. Bây giờ, trái ngược hẳn lại. Người dân mong đợi thay đổi nh́n những người lính vần xoay thế cục một cách hoàn toàn khác hẳn. Vừa được giải tỏa tất cả những uẩn ức thầm lặng trong mười sáu năm trời dưới quyền bính của Chúa Trịnh Sâm, họ ùa ra tỏ niềm hân hoan. A, th́ ra lính cũng là bàn dân đấy chứ ! Dân và lính, khác ǵ nhau ? Trên khắp đường phố, họ cười cười nói nói, chuyện nổ như pháo, ôm vai sát cánh nhau như đi trẩy hội.

Bỏ đằng sau tiếng chiêng tiếng trống, Nhật vào sân Vương phủ. Lính đă lấy xác Lư mang đi bêu đầu ở trước Tây Long cung. C̣n lại cái bó chiếu nằm chơ vơ trên thềm Chính-phủ, xác của lăo Hài, kẻ lính gọi là Bố-già, mà người ta quên mất trong những giây phút hồ hởi. Đêm đầu tháng chạp đen ḱn kịt. Lính bỏ hết những vọng canh xung quanh dinh thự, đang say sưa túm tụm với nhau. Nhật lẳng lặng ôm xác lăo Hài bỏ ngang lên lưng ngựa, rồi chậm răi dắt đi trên con đường ra đê Yên Phụ. Đến nghĩa địa gần hạt Nghi Xuân, Nhật lại ôm bó chiếu, đi một quăng t́m chỗ. Nhật rút thuổng ra đào. Đào h́ hục.

Mở bó chiếu ra, mặt lăo Hài nhợt nhạt, miệng c̣n đọng một vệt máu đen. Dưới ánh nến, Nhật lau mặt cho lăo, nhớ lại ngày lăo đến gặp Nhật, ḷng ôm mối lo rằng lính Tam phủ phải đánh giết lẫn nhau. Nhật nhặt nhạnh được dăm cây hương cháy dở trên những ngôi mộ xung quanh. Lấp xong đất, Nhật đốt những nén hương thừa đó, chua xót nhớ ḿnh đă đưa được đội Trung Kính ra ven đô để tránh đi mọi đụng độ giữa lính với lính. Chàng chắp tay cúi đầu, khấn nhỏ : « Tránh được đổ máu rồi, Bố-già ạ ! ». H́nh ảnh con voi cuốn lấy lăo tung lên không rồi quật xuống lại lởn vởn hiện ra. Tiếng voi lại văng vẳng rống lên đâu đây, rồi tiếng chiêng trống, tiếng Hoàng Tế Lư bị át trong tiếng reo ḥ quát tháo ào lên như nước vỡ bờ.

Đấy mệnh người nó thế, nho nhoi, chết đến thật t́nh cờ, chết vô lư vô nghĩa.

Giá mà không có ngọn kích nào đó phóng vào bụng voi, th́ nào lăo Hài có vong mạng. Và như thế biết đâu, biết đâu Tế Lư chẳng đă thuyết phục được đám lính Tam phủ cơ nào về đội ấy. Rồi quân Nhưỡng, quân Thạc kéo về. Chắc ǵ lính Tam phủ bảo vệ được ngôi Chúa cho Trịnh Tông ? Máu đổ. Lại máu đổ ! Cho Tông hay Cán, Cán hay Lư, Lư hay Bằng Vũ, Bật Trực th́ có khác ǵ ? Những kẻ phải đổ máu ra có lẽ thực t́nh không hiểu v́ sao. Như bị tŕ kéo vào cái cộng nghiệp oan trái, họ không hiểu nhưng vẫn làm. Làm điên cuồng. Làm hối hả. Cứ hệt như khi lên đồng, lú lẫn quay cuồng trong điệu kèn tiếng trống dẫn vào một cơi u mê.

Nhật bỗng ngậm ngùi, rưng rưng nước mắt, nghe loáng thoáng « ... để giết cha sao ? ». Chàng ngẩn ngơ, không hiểu rơ động cơ nào đă khiến chàng chặn đường đào tẩu của Tế Lư, buộc cha chàng phải gánh trách nhiệm trực diện đối đầu với đám kiêu binh. Phải chăng trong tiềm thức đó là cách chàng bắt cha trả giá cho sự trốn tránh cái trách nhiệm đối với cái bào thai bị bỏ rơi ngay trong bụng mẹ và người đàn bà đă trầm ḿnh vào ḍng sông Lam lạnh cóngï để rửa nhục ? Toàn Nhật cắn răng, tai lại văng vẳng tiếng thét «...Giết nó cho ta ».

Nhưng sao vẫn có điều ǵ gần như một niềm ân hận, lênh đênh tựa thủy triều, dâng lên, rồi ùa đến d́m dắm ḷng chàng vào một nỗi cô đơn khủng khiếp.

Nhật ôm nấm mộ mới đắp ngủ thiếp cho đến lúc gà gáy sáng.

*

Ngày hôm sau, Tông nhận được sắc phong Chúa và vời ngay Nguyễn Khản, thầy dạy học ḿnh đang bị giam ở nhà Quận Châu, về làm Tể Tướng. Dương Khuông, em của Dương Ngọc Hoan và là cậu của Tông, nhậm chức Quyền Phủ Sư. Đám thủ lănh lính Tam phủ không mấy ưng ḷng, trách Khản xưa là Trấn Thủ Nghệ An đă hà khắc với nhân dân đất « tắm gội ». Họ nói ra miệng : «... Hắn mà thành Tể Tướng th́ dân cả nước sẽ bị cướp bóc đến manh quần cũng sẽ chẳng c̣n ... ». Tông sợ, vội đ́nh ngay việc bổ nhiệm Khản, lúng túng không biết tin vào ai, xin ư của Quốc cửu Viêm Quận công.

Viêm rỉ tai, Tông hiểu ra liền xuống chỉ phong cho Bằng Vũ làm Suy Trung Dực, Vận công thần, tước Hầu. Bọn Trần Nguyên Nhưng, Gia Thọ, Bùi Bật Trực làm Tuyên-lực công thần và theo thứ tự đều lănh trọng chức. Đám người nhóm họp ở Khán Sơn được ghi tên vào sổ Trung Nghĩa, cấp những đạo sắc bỏ trống chỗ đề tên người để họ bán cho kẻ khác lấy tiền. Ngoài ra, toàn bộ lính Tam phủ tham gia ở trong hay ngoài Kinh đều được thăng chức một cấp và ban tiền thưởng khắp lượt.

Về phần Toàn Nhật, Tông vời đến Vương phủ để thưởng công nhưng Nhật không nhận ǵ, xin được trở về trại Bùi Phong. Tông nhất định không nghe, một mực đ̣i giữ Nhật, lại hỏi :

- Theo ư tướng quân, liệu Phu tử có chịu giúp Tông này không ?

Nhắc lại bữa ăn buổi tối trước vụ án năm Canh Tư đă là cái cớ để Hoàng Tế Lư bắt Thức và o ép Phu tử trong việc phế Tông lập Cán, Tông làm ra vẻ ngậm ngùi, tiếp :

- Nếu Trọng Thức chịu về Kinh để cùng với Tông này hợp sức cùng nhau xây lại đời Nghiêu đời Thuấn th́ hay biết mấy. Tướng quân nghĩ thế nào ?

Nhật cười thầm, nhưng chỉ cúi đầu cảm tạ, và cho biết là chẳng ai biết Thức đă trôi giạt về đâu từ ngày trốn khỏi Kinh dăm tháng trước. Tông đưa tay lên trời, điệu bộ như người đóng kịch, thở dài :

- Ô hô, nhân tài như sao buổi sớm ! Cầu trời cho Tông này được những bậc chính nhân phù trợ !

Toàn Nhật khải Chúa về việc Đặng thị Mai bị Huệ bắt và chỉ xin được phép mang nàng ra khỏi chốn tù ngục. Tông biết rơ chuyện Huệ ép Mai lấy Thái tử Lê duy Cẩn cũng như ư đồ Mai định trốn theoThức, nói dăm câu phủ dụ nhạt nhẽo và ban cho ít tiền thưởng để lấy ḷng. Ra khỏi Vương phủ, Toàn Nhật vào thẳng dinh Trịnh Cán t́m Mai. Gia nhân trong dinh lấy khóa mở cái xiềng cửa một căn pḥng nằm tuốt phía sau. Mai nằm trên một chiếc trơng tre, ḿnh đắp chiếc chăn đơn. Nàng không hề hay biết ǵ về những sự cố xảy ra bên ngoài. Thấy Nhật vào, Mai ứa nước mắt.

Những ngày tù ngục vừa qua là đoạn đời cực nhọc nhất của Mai. Sợ bị đánh thuốc để phá cái thai trong bụng, Mai không dám ăn ǵ, chỉ uống nước cầm chừng gần ba tháng. Sau, có một con mèo đen không biết thế nào mà lọt được vào pḥng. Thức ăn bưng vào, Mai để mèo thử trước, một ngày sau không thấy ǵ bất thường mới dám ăn. Ăn cầm chừng. Lúc nào cũng phấp phỏng. Nhưng vẫn phải ăn để nuôi cái bào thai mỗi lúc một lớn, cựa quậy, chân đạp, tay quào. Mai vuốt ve cái bụng ḿnh, miệng nựng : « Con ơi, cố đi, rồi có lúc thái lai... », nhắm mắt mơ tới ngày phá cũi xổ lồng. Trong những giấc mơ ấy, người đứng phía bên kia chờ Mai là Thức. Chàng mỉm cười, hai tay giơ lên, nói lớn : «Trời có mắt, trời có mắt ...».

Người Mai gầy tọp đến một nửa, mắt sâu hoắm, ngực lép kẹp. Sợ Mai chết, thị nữ đến báo Đặng thị Huệ. Huệ vào, tay để lên trán Mai, nói giọng như khóc : «Chị đâu có muốn em thế này, sao không chịu làm hoàng hậu mà lại làm con ma không chồng ? Đă bắt được thằng Thức rồi, hiện bỏ ngục. Nếu em nhất định không chịu lấy Thái tử Cẩn, chắc Tế Lư giết nó thôi. C̣n cái thai này, cứ ưng ḷng đi, đẻ ra chị sẽ nhận làm con nuôi. Như vậy, thế là cứu cả con lẫn thằng Thức, cho em thêm ít lâu để em suy nghĩ ...».

Mai nghe Thức bị bắt, người điếng đi, lưỡi cứng ra, sợ quá cứ vâng vâng dạ dạ. Khi Huệ đi rồi, Mai ngẫm nghĩ : bất cứ giá nào cũng phải cứu Thức. Vả lại, cái thai mới năm tháng, vậy là c̣n bốn tháng có thể tŕ hoăn được. Nàng xin gặp Huệ, gập đầu thưa : «... Từ nay em nghe lời chị. Chỉ xin rằng được gặp Thức một lần, trao đứa con lại cho bố nó, rồi chị đặt đâu em ngồi đó ...». Từ dạo đó, mặc dầu vẫn bị quản thúc, nàng được phép ra khỏi pḥng, lẩn quẩn ở Hậu cung nhưng lúc nào cũng có hai thị nữ kèm cặp.

Một trong hai thị nữ tên là Soan, vốn là vợ một cai cơ trong đội Thị-kỵ. Soan thấy cái dây chuyền có đính một viên bích ngọc của Mai cứ trầm trồ, mê mẩn ngắm. Mai thấy thế, nhờ Soan hỏi thăm tin Trọng Thức, nếu có ǵ đích xác th́ bồi tặng sợi dây chuyền. Nửa tháng sau, Soan bảo : «... có bắt được đâu !». Trong lúc ấy, viện Nội Mật tỏa người ra khắp nơi truy nă Thức ngặt nghẽo. Mai mừng quá, vào pḥng, nằm khóc rồi lại vuốt bụng ḿnh, nói thầm : «... con ơi, bố con vẫn tự do ». Đêm hôm ấy Mai mơ thấy một con chim phượng trắng toát tít cao trên mây, cánh chơi vơi bay lên đáp xuống, rồi sà vào nằm ủ lấy thân thể ḿnh.

ư t́m đường thoát thân nhen nhúm như lửa bén vào cây khô trong ḷng Mai. Nàng hứa với Soan là tặng hết tài sản nếu Soan giúp nàng. Tháng sau, Soan xin về quê giỗ bố, rồi lén lút quay lại, dẫn Mai ra phía đông vườn Uyển, định trốn ra Cầu Giấy, sau đó lẻn sang bến Thúy Ái t́m thuyền xuôi về Nam Định. Không may, lính tráng trong đội Hậu Dũng bắt lại cả hai, mang nộp Tế Lư.

Huệ giận quá, bắt vợ chồng Soan đem chém ngay, không hỏi tội trạng ǵ thêm. Nàng gọi Mai ra, nh́n chằm chặp :

- Mày đối với tao tệ đến thế à ?

Mai chưa dám nói ǵ th́ Huệ bất ngờ quào vào mặt. Móng tay dài như vuốt chim rạch vào má Mai hai vết chạy từ cuối thái dương đến cằm, máu ứa ra nhỏ giọt. Huệ rít lên :

- Đồ khốn nạn. Mặt mày sẹo thế này, cho mày nhớ đời. Nhan sắc à ? Để làm ǵ ? Cái nhan sắc ấy mà không ra tiền ra quyền th́ có hơn ǵ xấu xí !

Từ đó Mai lại bị bỏ vào pḥng, cửa lúc nào cũng xiềng lại. Mai nghiêng người cho Nhật nh́n thấy vết sẹo trên má ḿnh, giọng run rẩy :

- Nhật có biết anh Thức ở đâu không ?

Nhật lắc đầu, kể cho Mai chuyện cấm binh đă lật Lư và Huệ, nh́n vết sẹo rồi hỏi, giọng sắc đanh :

- Chị có định quào lại Huệ th́ Nhật xin đưa chị đi ngay !

Mai cười buồn, lắc đầu :

- Thôi, chẳng để làm ǵ ! Thôi đi, Nhật ạ !

Nhật xếp đặt đưa Mai về quê nội ở Phù Đổng, hẹn sẽ t́m Thức và báo tin. Mai lúc đó gày g̣, bụng chửa vượt mặt, tay xanh xao nắm lấy Nhật, nước mắt giàn giụa. Linh tính thấy một điều ǵ, nàng bật miệng :

- ... chắc c̣n lâu, lâu lắm mới lại thấy nhau.

*

Thế quyền nào với bàn dân cũng đều có một thời gian trăng mật. Hệt như vợ chồng mới cưới, hai đằng khám phá lẫn nhau, thử thách giằng co nhau. Đến cái mực biết nhau rồi th́ thôi, t́nh nghĩa lại nhạt phèo, quay lưng vào với nhau mà ngủ. Co chân lại giả ngủ say, ngáy cho đều là bàn dân. C̣n thế quyền, lúc nào cũng chập chờn, chỉ lo không biết lúc nào ngă xuống chân giường. V́ vậy, thế quyền nằm xoạc cẳng ra, tay níu lấy thành giường, và cất dao kéo dưới gối.

Những giấc ngủ như thế bắt đầu ngay khi bọn chỉ huy lính Tam phủ sai đi t́m đám thủ hạ của Lư và Huệ đă lừa bắt những kẻ theo Trịnh Tông trong vụ án Canh Tư mang chém hoặc bỏ ngục. Nếu thời trước người ta c̣n mang ra định án rồi khu xử theo tội trạng th́ ngày nay, lính Tam phủ mau mắn hơn, khỏi bỏ cái công mang ra tra xét cho mệt. Đối với bọn ác ôn, họ mang ra đường kể tội, rồi để cả giỏ đá sẵn đấy, bàn dân ai thích cứ lấy mà ném cho đến chết. Đám tội nhẹ hơn, họ để bàn dân đánh đập. Nếu có chút tiền đưa ra, họ thôi. Nếu không có, th́ lại đánh đập nữa. Đánh cho đến khi ḷi tiền ra. Không tiền, kẻ bị đánh trở thành ác ôn. Và lại để bàn dân vui vẻ chơi tṛ ném đá, họ rêu rao : «... chúng là kẻ thù của nhân dân, phải trừng trị xứng đáng ». Triều đ́nh không dám ho he. Nhà Chúa cũng v́ nể, nếu có trách th́ chỉ dám nói bóng nói gió. Lính Tam phủ đi ngoài chợ, quan lớn quan nhỏ, công hầu khanh tướng gặp họ thường phải né tránh để khỏi bị họ làm nhục trước mắt bàn dân.

Dân Kinh Kỳ gọi lính Tam phủ là Kiêu binh.

Bọn Bằng Vũ, Bật Trực, Nguyên Nhưng và Gia Thọ là những công thần trong thời đại mới. Họ hồ hởi lao ḿnh vào việc triều chính, khiêm nhường tự xưng là đầy tớ nhân dân, đưa ra phương án dẹp Tây Sơn và Chúa Nguyễn ở Đàng Trong hầu thu đấùt nước về một mối. Bàn dân nhận được lệnh bắt lính lo lắm, nhưng chẳng biết làm ǵ hơn là tiếu lâm với nhau, nói lái hai chữ chinh chiến ra thành chuyên chế.

Quên khuấy mất việc hứa miễn sưu miễn thuế ba năm cho bàn dân, những kẻ nay cầm quyền bính trong bụng chỉ lo đối phó với bọn sĩ phu cả trong triều lẫn ngoài tam cung ngũ phủ. Đám quan mới nghĩ cách phân biệt họ với đám quan cũ bằng cách cắt bỏ hai cáng chuồn và đính trên mũ của ḿnh h́nh một ngôi sao mầu đen. Bàn dân lại có dịp đùa đó là những v́ sao sáng giữa ban ngày.

Theo kế của Bùi Bật Trực, lính gốc Thanh-Nghệ đóng ở mọi trấn đều được đặt vào những vị trí quan yếu, giữ thế liên hoàn với lực lượng trấn thủ Thăng Long. Trực hội họp với Bằng Vũ, Nguyên Nhưng và Gia Thọ, hàng ngày theo dơi việc triều đ́nh, thấy ǵ không vừa ḷng là họ hoạnh hoẹ và can thiệp ngay. Bằng Vũ tiếm chức chỉ huy đạo quân Thị Nội, áp đảo cả Chúa lẫn đại thần và tự ḿnh tổ chức lại Nội Mật viện mà không thèm hỏi ư triều đ́nh. Về phần Gia Thọ, hắn cậy thế kiêu binh xen vào việc xét xử cả việc h́nh lẫn việc hộ, cứ tư riêng với ai là kẻ đó thắng kiện, thay trắng đổi đen tùy ư.