BacNguyen

 

 

 

Bút kư

Nam Dao

 

Bác Nguyễn

 

1

  Chợp mắt, đă đâu đó đúng 18 năm, thưa bác. Đấy là kể từ cái ngày bác nhắm mắt, và thôi chẳng mở ra một lần để tiếp tục nh́n gió. Và cát. Và những hạt bụi một thời. Những hạt bụi bay vào làm cộm mắt, nước chảy, cứ như khóc, tay đưa lên quệt cho nó chảy vào trong theo kiểu nói của Văn Cao. Nuốt nước mắt, a cái ngôn ngữ tuyệt vời ông cha để lại. Nhưng Giời ơi, ai lại khéo dư nước mắt, thưa bác! Ấy thế mà khi nghe cái tin bác lẳng lặng ra đi, kẻ tiểu tử này, theo cung cách xưa, cũng đă ngậm ngùi rơi lệ. Vào một cái quán rượu trên Avenue du Parc ở Montreal, hắn ngồi một ḿnh, uống liên miên, rồi động ḷng khóc hu hu trong một cái góc khuất. Cho đến nay, hắn vẫn c̣n tự hỏi, hắn khóc cho một người tài hoa  vừa vượt cái biên hữu hạn, di tản khỏi cuộc thế chẳng mấy vui, hay hắn khóc v́ thương thân ḿnh? Hắn nghĩ đến Một trăm cách cười rất Nguyễn Tuân, kê giấy viết thành một trăm cách khóc. Thưa bác, tiểu tử này đă t́m ra đủ số trăm để phúng viếng. Khóc rưng  rức,  tỉ tê, tức tưởi, khóc trong ḷng, khóc ủ ê, ti tỉ, rấm rứt, i ỉ, ấm ức, khóc gào, khóc toáng, khóc thét...Nhưng thảm nhất, là khóc như cười. Thanh âm ằng ặc, như bị chẹn họng khiến khóc thành cười, không mấy ai phân biệt được trừ người khóc.


 

2

  Thuở thiếu thời, tôi đă biết bác Nguyễn không chỉ qua Vang Bóng Một Thời , Mái Tóc Chị Hoài, hay Chùa Đàn, mà c̣n những dịp cha hoặc mẹ nuôi tôi chuyện tṛ nhắc lại dăm ba kỷ niệm có cái tên nghe rất xa xôi là kỷ niệm ngoài Bắc của đám Bắc Kỳ di cư 54. Cha nuôi tôi, vốn là bạn thân bác Nguyễn, kể  ‘’... bác ấy dẫn mẹ mày đi bắt tao ở chỗ hút thuốc phiện, nhưng đứng trốn đằng xa. Khi tao biết, tao chỉ tay bảo, lần sau th́ ông giết mày, bác ấy chỉ cười hề hề!’’. C̣n mẹ nuôi tôi, là chị dâu của bà giáo Thảo, tức Bồ phu nhân, và chính là chị Hoài có mái tóc đi vào văn học sử qua cái ng̣i bút chao ôi đến là tài t́nh của bác Nguyễn. Phu nhân khiến tôi không hiểu sao cứ mường tượng ra Dương Quí Phi, cao lớn nhưng thướt tha, răng đen chứ không chịu cạo trắng mặc dầu rất tân thời, và có cái cười má lúm đồng tiền nghiêng thành đổ nước. Dĩ nhiên, ai mà biết được mặt giai nhân trong huyền thoại, rồi thành có đổ nước có nghiêng th́ cũng v́ các vị tu mi chẳng qua là loại anh hùng bất quá mỹ nhân quan. Ôi, tôi dễ thông cảm, và vô cùng thông cảm các vị. Tôi không anh hùng mà cũng thế!

 

  Về Sài G̣n sau 14 năm xa cách, tôi sao vẫn thấy có điều ǵ h́nh như là thê lương mặc dầu nắng vẫn thế, nóng rừng rực, ập xuống từ trời cao và xanh. Ngay cả với những người ruột thịt, một khoảng cách vô h́nh nào đó ngăn không cho vượt qua. Đứa con đi hoang trở về như đứa  a ṭng với những kẻ chiến thắng, buộc một thành phố vào cái cảnh bị chiếm đóng,  tà áo dài đủ mầu đủ sắc thướt tha vờn gió mới ngày nào đâm phạm tội Mỹ-Ngụy và nay được thay bằng đồ bộ, áo ngắn trắng quần bà ba đen, đồng phục một thời hộ khẩu thành nếp mới với sổ gạo, sổ đường... và những buổi họp lúc tối trời với ủy ban nhân dân phường để nghe phổ biến chính sách xây dựng xă hội XHCN. Bây giờ, làm thế nào đây để lấp cái khoảng cách kia? Nghe và hùa theo những than văn? Vô ích, đă không thay  đổi được ǵ mà e chừng có ngày c̣n vạ miệng! Vả lại, đó là những ngày đầu một cuộc đổi đời, chiến tranh đă chấm dứt, chính ḿnh đây cũng đang mơ một b́nh minh tươi đẹp, đặt bước trở lại quê hương là mong góp tay vào xây dựng lại, không thể nâng tầm những sự ma xát giao thời lên mức sống c̣n. Nhưng phải chinh phục lại t́nh ruột thịt máu mủ thôi. Hăy bắt đầu bằng biến mọi sự thể giao thời thành chuyện tiếu lâm. Và tôi đă chọc cười, mua vui, làm cho ai nấy thấy nhẹ đi. Và mong là hiểu dẫu tôi không  nói nên lời, tôi đâu có được  là tên VC đeo trên cành đu đủ nhe răng ra cắn cấu cuộc đời.

 

  Những người thân bị cái cười chặn lại, không nói được cái chuyện độc nhất ám ảnh là ra đi. Ông anh con chú con bác với tôi có lẽ được nhắn nhủ, yêu cầu cho nói chuyện riêng, chuyện đứng đắn. Anh rủ tôi lên sân thượng. Nh́n qua phía bên kia là nhà ga xe lửa trước khi bị phá đi để xây công viên hiện nay, anh th́nh ĺnh ôm lấy tôi khóc rú lên, nghẹn ngào ‘’ ...chú ơi, chú làm sao th́ làm, mang gia đ́nh đi đi, báo hiếu ông bà...’’. À, chuyện đứng đắn là thế. Tôi đẩy nhẹ anh ra, nh́n vào cái mặt mếu máo nhưng trên không có giọt nước mắt nào. Muốn cười, nhưng tôi không cười được, chỉ ngại ngùng nói nhỏ, nhưng nói thật,  ‘’...thưa anh, em có quyền hành ǵ đâu!’’. Nhưng thật kỳ lạ, một người duy nhất hiểu được tấm ḷng tôi là một người đàn bà. Bà ít, hay  có thể chưa bao giờ, cắp sách đến trường. Nhưng bà có một trí nhớ tuyệt vời, thơ văn thuộc làu làu, chẳng phải thơ cổ thời cụ Chu Mạnh Trinh vốn là hàng ông phía bên ngoại của bà, mà cả thơ tiền chiến, nào Huy Cận, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Đoàn Phú Tứ...Bà là mẹ nuôi tôi, tính khí rất ‘’ đàn ông’’, góp chuyện ngang hàng với đám tao nhân mặc khách của cha nuôi tôi,  nên học kiểu truyền khẩu rất nhiều, và vanh vách kể những thứ giai thoại làng văn chỉ  người trong ‘’cuộc’’ mới biết. Trong khi cha nuôi tôi cứ nắm tay tôi cấu, cái cấu vừa có niềm bực dọc nhưng lại đầy xót thương, và dặn tôi phải cẩn thận th́ bà lẳng lặng quan sát, và một hôm, th́nh ĺnh bà nói lớn, ‘’ tao hiểu mày rồi!’’. Hiểu thế nào, tôi đang ngơ ngẩn, th́ bà phá lên cười, cái cười có chất đồng bóng, tiếp ‘’... con ạ! Mày là cái thằng Kiều Phong  ấy mà’’ . Ơ, Kiều Phong, hắn là ai? Tôi hỏi, bà đáp, th́ cái thằng rợ trong Lục Mạch Thần Kiếm ấy mà! Phải nói khi ấy kiến thức ‘’chưởng’’ tôi chẳng có ǵ, và vài năm sau tôi mới biết Kiều Phong họ Tiêu, con Tiêu Viễn Sơn, người cao lớn, râu rậm, vơ giỏi nhưng nhân hậu, chết v́ đứng làm con đệm ḥa giải giữa vơ lâm Trung Thổ và các hiệp khách gốc Khất Đan. Tôi nhỏ con, vốn là nhát, không có (hay nói cho sang, ít) râu, chưa muốn chết nên chỉ xin hai chữ nhân hậu, nhưng thế mới khó, nhận chỉ sợ  ḿnh lại hợm ḿnh.

 

  Ở Sài G̣n được vài ngày, Kiều Phong đi Hà Nội dự Hội Nghị Toán Học Toàn Quốc năm 1977, và trước khi lên đường th́ cha mẹ nuôi đă sửa soạn một gói quà nhỏ, dặn con đến thăm hai bác hộ chúng tao. Cha nuôi tôi viết vài chữ cho Nguyễn Tuân, th́ cũng lại những nhung nhớ, những kỷ niệm...Phần tôi, có cái ǵ như một vinh hạnh. Chưởng tôi chưa đọc, nhưng văn bác Nguyễn vừa ngông nghênh, vừa tài tử, lại vừa nhuốm mùi khinh bạc th́ Kiều Phong đă thưởng ngoạn  rồi.

 

3

  Hà Nội vào độ nồm, oi ả khó mà tưởng tượng được. Trời hầm hập chĩu hơi, nặng như xà xuống, đe dọa. Mùa băo, nhác nh́n những con chim, con người không có cái tinh nhậy của loài lông vũ ngước mắt lo lắng đợi giông gió. Rồi băo ập về. Cây đổ. Ngói bay. Tất cả tớn tác. Đấy, lầu đầu tôi về Hà Nội là vậy. Và cũng là lần đầu tôi tiếp xúc với một xă hội phe XHCN, với nhiều háo hức, và cũng không ít âu lo.

 

  Một buổi tối, sau công việc, tôi nhờ một người anh họ đèo xe đưa tôi đến nhà Nguyễn Tuân  trên phố Trần Hưng Đạo. Chỉ vài ngày, tôi đă không c̣n lạ chuyện phải cúp điện, cái nghèo, và sự tất bật với miếng ăn ở Hà Nội tem phiếu. Hà Nội ta xơ xác, v́ Hà Nội ta  đánh Mỹ giỏi, tựa một bài phiếm kư của bác Nguyễn trong những ngày chiến tranh ác liệt. Thế cho nên tôi lần ṃ trong bóng tối leo hai nhịp cầu thang lên nhà bác như một sự rất b́nh thường. Và hồi hộp gơ cửa. Tiếng dép nhựa quét sèn xẹt trên đá lát, rồi tiếng hỏi ai đấy, thanh âm đèo thời gian mà thanh xuân ở phía đằng sau. Tôi xưng lai lịch, nói rằng có quà miền Nam,  nh́n qua cánh cửa vừa hé ra. Nguyễn Tuân đầu bạc, tóc dài chấm đến gần vai, râu lún phún, mắt hấp háy sau cặp kiếng lăo, tay dang ra mời vào rồi thủng thỉnh bước.

  Tay gạt gói quà sang một bên, bác Nguyễn  mở bức thư cha nuôi tôi,   đọc chăm chú như  không có khách. Rồi bác im lặng châm trà. Lát sau, bác hỏi, giọng trầm như đặc lại, ông Nguyên bà Thống khoẻ mạnh cả chứ. Tôi gật, dạ thưa bác, bố mẹ cháu vẫn thường. Đẩy hai chén nước trà về phía chúng tôi, bác nh́n ông anh họ tôi, trầm ngâm rồi thốt lên, nhà Nước nên để cho hai ông bà ấy đi ngoại quốc đoàn tụ với con cái chứ giữ ở Sài G̣n làm ǵ. Câu nói bất ngờ khiến tôi ngạc nhiên, chưa biết ứng xử thế nào, lúng búng :

  - Thưa bác, cháu có nghe...

 

Chưa dứt lời, bác Nguyễn dơ tay lên chặn, buông thơng :

  - Tôi với anh chẳng họ hàng hang hốc, có ǵ mà bác với cháu!

 

Tôi điếng người. Kiều Phong bị lăo quái đánh một chưởng đỡ không đặng, ngực tức, hơi thở ngưng ở đan điền, máu nóng dồn lên mà không thổ ra được, huyệt Bách Hội như có kiến ḅ vào đốt lấy đốt để. Vận khí, tay bắt quyết B́nh Tĩnh, tôi mặc ông anh họ cũng choáng người v́  sức ép của chưởng phong đang... thưa với bác, em nó là người dưới, xưng hô thế là...vân vân. Được, tiểu tử đây tuổi mới ngoại tam tuần, xưa nay đi không đổi họ, đến chẳng  giấu tên, mặt mũi dẫu có khó coi nhưng đâu có mang cái tạng yêu cho roi cho vọt  mà lăo quái xuất chưởng Đoạn T́nh như vậy. Một lời nói ra, tứ mă nan truy, bốn con ngựa cũng chịu, theo không kịp nữa là. Tay tḥ ra phía sau, tôi kín đáo bấm vào huyệt Ngọc Chẫm, hít hơi theo thủ pháp Cửu Âm Chân Kinh (sau này luyện sách Kim Dung tôi mới t́m thấy tên), từng bước điều hoà kinh mạch, sửa soạn thế phản công. Nhỏ nhẹ, tôi hỏi :

  - Thưa...cụ, cụ vẫn viết lách đều chứ ạ!

 

Lăo quái gật gù, ờ th́ vẫn viết! Mượn đà, tôi vuốt gió phẩy chỉ phong, giả như vô t́nh, hỏi,  nghe đâu như nhà văn ở đây đều được  nhà Nước trả lương cho viết, phải không ạ? Lăo quái gật gù, ờ có thế! Tôi xuỵt xoạt bỏ nhỏ, cái lịch sử nước ta nó kinh hoàng và thương đau loại hạng nhất thế giới, chất liệu văn chương đầy rẫy...Lăo quái gật gù, giọng trưởng thượng, đúng đấy! A, thế này th́ vào thế rồi. Không ngần ngừ, tôi th́nh ĺnh vận 10 thành công lực, phát :

  - Được nhân dân nuôi cho ăn cho viết, thế bao giờ cụ đoạt giải Nobel cho đất nước này có chút mặt mũi trên văn đàn thế giới? Không viết mà chỉ lách th́ hy vọng ǵ?

 

Chuyện viếtlách, tôi học được từ cái giai thoại sau. Trong một buổi họp của Hội Nhà Văn, thủ tướng Phạm Văn Đồng hỏi bác Nguyễn, dạo này có viết lách ǵ không? Bác đáp, viết khó v́ phải lách, mà lách th́ lại khó, khó lắm.  Bác ngước mắt nh́n tôi, vẻ như bảo, đúng là trẻ con. Thế th́ tôi  phải bồi thêm Loạn Đả chưởng thôi, vận chỉ lực điểm:

  - Giá mà cái Chùa Đàn của cụ không phải kèm vào mấy chục trang bắt anh chàng nghệ sĩ giác ngộ cách mạng th́ chẳng biết chừng là có giải cũng nên...

 

Nghe câu tôi nói, bác Nguyễn h́nh như tái mặt, ngả người ra dựa vào lưng ghế.  Lát sau, bác chậm răi :

-  Nói dễ, nhưng muốn làm được...khó lắm!

 

  Đáp đ̣n Đoạn T́nh của bác, tôi, con ngựa non háu đá thỏa măn, hít hơi rồi lịch sự kiếu về nhưng bác Nguyễn giữ lại. Lôi trong tủ chè một chai Johnny Walker đă vơi ra, bác bảo, uống một tí đă. Thế rồi bác tḥ tay ṃ cái gầm bàn khách, lấy hai cái ly chạm bạc ra, để một trước mặt tôi, một trước mặt bác, coi ông anh họ tôi như không có đấy. Bác lẳng lặng rót rượu, thầm th́ :

  - Nhuận bút cho Phở đấy. Ở Liên Xô họ dịch tùy bút Phở, khi  ḿnh qua  th́ họ định trả bằng rúp, nhưng ḿnh bảo, rúp không lấy mà rượu th́ lấy, hà hà..

  Nh́n bác, quả là chướng. Tội nghiệp cho ông anh họ, lúng túng chẳng  biết cư xử thế nào, ngượng ngập nói ḿnh kiêng không uống được rượu. Lăo quái lại thản nhiên gật gù. Khinh bạc đến thế th́ ... tôi phải đối phó. Đẩy chén rượu đến trước mặt ông anh, tôi bảo, anh thử đi, rượu Tây đấy. Thế rồi chúng tôi im lặng. Và xin kiếu.

 

  Xuống đến dưới nhà, chúng tôi dắt xe men ngơ ra đường. Ngơ khá sâu, có lẽ đến 2 trăm thước, đèn đóm tối om. Tôi ngước lên nh́n. Tầng ba, trên lan can, bác Nguyễn ra đứng nh́n theo cho đến khi chúng tôi đi khuất. Chính cái h́nh ảnh ấy làm tôi mủi ḷng, và thú thật, có chút ân hận trong cách hành xử của ḿnh. Về Sài G̣n, tôi kể lại cho cha mẹ nuôi tôi  nghe, cố biến chuyện gặp bác Nguyễn  thành một chuyện vui, nhưng khá gượng gạo. Cha nuôi tôi bảo, từ ngày xửa ngày xưa, lúc nào bác ấy cũng làm dáng lập dị. Nhưng c̣n con, mày ăn nói thế th́ ác miệng quá, con ạ!

 

4

  Cũng phải đến 4 năm sau tôi mới lại gặp lại bác Nguyễn. Trước đấy, tôi có về Hà Nội, nhưng ngại gặp bác. Một phần, tôi hơi xấu hổ v́ cư xử có ǵ như quá mức, một phần tôi cứ sợ như trong Hương Cuội, bác là kẹo mạch nha cuộn quanh ḥn cuội trắng, ngọt ngào tài hoa đấy nhưng vô ư cắn vào là có thể gẫy răng như chơi. Đầu đông năm 81, tôi ở khách sạn Hoàn Kiếm. Sáng  sớm một ngày Chủ Nhật, cô tiếp viên gọi lên pḥng báo có người đến t́m. Ai dấy cô? A, tiếng cười khúc khích, t́m anh th́ chỉ các cô, có cái cô nào ấy, tóc búi cao... Ấy ư, thật à, và tôi vuốt tóc chỉnh trang nhan sắc, vội vă đi xuống. Pḥng khách chỉ có một ông cụ ngồi quay lưng về phía chút nắng hanh len qua song cửa, mái tóc búi củ hành chóa sắc bạch kim.  Cô tiếp viên lại khúc khích, tay chỉ, người  đẹp đấy! Ô, hóa ra bác Nguyễn. Bác đứng dậy, tươi cười, về đây sao  không  đến thăm ḿnh, hả? Lúng túng, tôi đáp, thưa...Không nhẽ lại xưng cháu? Thế là tôi  bỏ lửng, thành ba cái chấm... trống không. Tôi hỏi thăm, dạo này ...Gọi bác bằng ǵ đây. Bác? Cụ? Thôi, cứ để bác Nguyễn  cũng thành ba cái chấm, như tôi, nghĩa là ...trống không, chứ lỡ miệng lại có thể bị thêm một chưởng, lần này Kiều Phong đă nhụt chí đấu tranh, chắc chỉ c̣n ngậm bồ ḥn làm ngọt! 

 

  Bác rủ, đi ăn bánh cuốn với ḿnh. Thế là một già một trẻ khệnh khạng bước như hai kẻ nhàn du, một lát sau th́ đến phố Yết Kiêu, ngay dưới nhà Văn Cao. Bác Nguyễn chào bà hàng, nheo mắt, khủng khỉnh, bà cho hai suất, như lệ thường. Không hỏi, bà hàng cười, đẩy đến trước mặt chúng tôi hai cái ly nhỏ, rút gầm bàn một cút rượu trắng, vừa rót vừa nói, thưa cụ cứ xem rượu sủi tăm th́ biết, rượu chào khách đấy. Bác Nguyễn cười, râu mép bần bật thứ thanh âm khô mà ấm một lời cám ơn. Bà hàng đổ bánh, hỏi, cậu đây người ở đâu? Tôi chưa kịp đáp th́ bác Nguyễn bảo, bên Tây đấy, tận Canada. Bà hàng hấp háy nh́n tôi từ đầu chí chân, ngỡ ngàng, thôi cụ đừng lỡm nhà cháu, Tây ǵ mà đi dép B́nh Trị Thiên, lại mặc cái áo zết bộ đội thế này? Bác Nguyễn phá lên cười sằng sặc, đáp với giọng giễu cợt, th́ về đây phải nhập gia tùy tục, ăn vận như thế mới Hà Nội ḿnh chứ. Mà này, bác tiếp, thế nhưng cũng biết nước mắm ăn bánh cuốn mà không có cà cuống là không đậm đà bản sắc dân tộc, vậy xin bà mỗi chén một giọt cho nó thơm. Ở đây, tả cái ngon của bánh cuốn nhân thịt nóng hôi hổi chấm với nước mắm có bột ngọt chấm đầu cây tăm và giọt cà cuống thứ thật chứ không là cà cuống hóa học Thái Lan, tôi xin để hai ông Thạch Lam và Vũ Bằng làm hộ. Tôi chỉ nhắc, h́nh như lời của cụ Tản Đà,  ăn muốn ngon th́ người cùng ngồi ăn cũng phải thế nào mới ngon. Như thế, chắc là tôi không bao giờ quên bữa điểm tâm sáng này. Ăn xong, bác Nguyễn lại chỉ cút rượu, cười khà khà, uống cho nó sạch miệng. Khi đứng dậy, tôi xin phép bác rồi tḥ tay móc túi. Bác trừng mắt, cái này để tôi,  tôi mời...Rồi bác thủng thỉnh, xách cái can lên, ngoái bảo bà hàng, bà ghi sổ cho, như lệ thường.

 

  Chúng tôi lên nhà Văn Cao. Lại uống. Bác Nguyễn nói, chính Văn cao báo bác tôi về đây tuần trước. Thật kẹt. Với người nghệ sĩ đủ ngón cầm kỳ thi họa này tôi cứ anh anh em em. Bác Nguyễn ở đấy, xưng hô thế nào cho tiện. Thế là chúng tôi tiếp tục là ... trống không lơ lửng. Khi về, tôi ngại ngùng nói về chuyện xưng hô và hai chén rượu với ba người 4 năm về trước. Bác cười hóm hỉnh, gọi tôi là ông và xưng tôi, bảo, tôi là bạn với bố ông c̣n được nữa là làm bạn với ông!

   C̣n chuyện không mời ông anh họ tôi uống rượu th́ bác cười ngặt nghẽo :

  - Cái anh chàng đó ḿnh gập ở Mạc Tư Khoa thời Liên Xô họ mời, làm cố vấn thứ nhất cho Sứ Quán, cứ xoa chân bóp tay nhưng lại bắt ne bắt nét ḿnh cho đúng... thể thức ngoại giao. Ngay cái chuyện nhận rượu thay rúp như tiền bản quyền dịch Phở mà cũng khó dễ, đ̣i gọi đến ông Phạm Văn Đồng để xin phép...

 

  Bác lại cười. Cái cười tinh quái, nhưng hồn nhiên, chỉ nghịch ngợm! Sau này tôi mới biết uống rượu Tây của bác không dễ. Nghe đâu cũng chỉ v́ kéo một đệ tam nhân đến đ̣i rượu mà không được nên Nguyễn Sáng, một họa sĩ tài danh, không chơi với bác nữa.

 

5

  Trở thành một thứ tiểu đồng hầu rượu bác Nguyễn có cái thú là nghe bác kể chuyện. Bác dí dỏm, biết ngưng câu chuyện ở đúng chỗ, chờ người nghe vừa đủ nóng ruột là tiếp, nhưng lưng chừng, khiêu dụ, úp mở khiến cả người kể lẫn kẻ nghe nhập cuộc - cái cuộc lên đồng ngôn ngữ bắt buộc ít nhất là có hai tác nhân để phát và thu - và nhất là sau th́ cười, cười hể hả, cười đủ một trăm cách Nguyễn Tuân.

 

  Hà Nội  ta đánh Mỹ giỏi, chắc không?  Tôi đùa cái tít bài bút kư của bác. Nguyễn Tuân khề khà : Chắc quá đi chứ lị. Cái trận gọi là Điện Biên Phủ trên không ấy, loa gọi dân sơ tán. Đi,  đi đi, nó bom  thế này ở lại th́ chết. Ḿnh bảo ḿnh, sống thế này đủ quá rồi, đi là phải bỏ những thói hư tật xấu ở lại, như một rượu, như một chè ...và c̣n cái món thứ  ba (giọng hóm) th́ thôi, quen nhịn mất rồi (cười), cho nên ḿnh ở lại. Cứ báo động là ḿnh leo lên nóc nhà trên cao, ôm chai rượu, ngất ngưởng ngắm thành phố đang tối om bỗng sáng ḷa, đạn pḥng không như pháo bông xanh lè, đỏ rực, thi nhau chớp lên nhoang nhoáng,  chạy đuổi nhau như chửng giỡn thành những vệt quanh co ngoằn ngoèo định mệnh. Trời Hà Nội lúc ấy đẹp, đẹp vô cùng. Tôi nghe đến đấy chặn bác lại, hỏi, thế bác không sợ ǵ cho thân bác, không nghĩ đến cái chết đang tràn ngập 36 phố phường, B52 chứ có phải chơi đâu, lại nghe có cả bom bi khi nổ bắn ra hàng chục ngàn mảnh. Ôi dào, mặc nó, chuyện nó nổ cứ nổ, chuyện ḿnh ngồi ngắm nó cứ ngắm, duyên phận mà đến th́ gặp nhau. Ấy thế mà khi nghe cái đài ḿnh kè kè ở bên cạnh báo bom rơi vào Khâm Thiên th́ ḿnh nhói ḷng buốt ruột, nhắm mắt lại, và ḿnh nghe tiếng hát của cô Diệp, bà Kim hát những bài hát ả đào một thời  xa xưa. Lạ thật, ḿnh tự hỏi, sao lại đau những cái đă không c̣n mà dửng dưng trước bao nhiêu điều đang bị hủy hoại đi. Mất và c̣n. Những điều đáng mất, những điều đáng c̣n? Ôi chao, sao mà phức tạp đến vậy. Lúc đó, thèm một quả bom rơi ngay vào đầu để khỏi bắt nó nghĩ thêm những điều rối như tơ ṿ...

  C̣n rượu, thưa bác, văn nhân nói chuyện rượu có ông kêu đất say cũng lăn quay ra cười. Bác Nguyễn bắt vào, nhấp môi, ề à :Ờ, tài hoa sinh ra đủ chuyện như ông trời, khi say mặt cũng đỏ gay, ấy là uống rượu ta,  chứ rượu Tây uống đến say th́ mặt lại tái nhợt... Để tôi kể cho mà nghe. Thế này, này. Hàng năm, cứ ngày cát-tó-zuy-ê  - có người đùa gọi là ngày cắt tóc phi-dê, tức ngày kỷ niệm Cách Mạng Pháp - là ḿnh được Toà Đại Sứ Pháp trên phố Trần Hưng Đạo gửi cho một cái giấy mời, có lẽ v́ rằng ḿnh cũng bi bô dăm ba  câu, kiểu c’est la faute de Voltaire! Cho nó ‘’văn hóa’. Và năm nào cũng vậy, mấy anh công an chặn ngài cổng, đưa giấy mời ra th́ các anh ấy làm phận sự lắc đầu, cứ phải vẫy đến khi ông Tùy Viên văn hóa ra bắt tay th́ công an Ta mới để Tây dắt ḿnh vào...Merci, c’est bien gentil ! Trong sân ṭa Đại Sứ, họ bày ê hề, nào là  thịt nguội, xúc xích, ba tê, phó-mát đủ loại.  Nhưng tuổi ḿnh, ăn không được mấy nên ḿnh cứ sà vào mấy chai vang đỏ, nhấm nháp hết loại này đến loại kia. Cụng ly và nói Vive la révolution - cách mạng muôn năm - thế là ḿnh được ḷng cả công chức Tây lẫn công an Ta, cả hai đều vơ hai chữ cách mạng vào cho ḿnh. Năm ngoái,  sợ quá chén, đến khi ngà ngà th́ ḿnh ngưng, tự nhủ phải giữ thể thống quốc gia nên thôi cụng ly, thôi hô khẩu hiệu, và khi đi về nhà vẫn c̣n nói được au revoir, Monsieur l’embassadeur, à l’an prochain. Ấy thế mà  đi được dăm chục thước trên hè phố, vừa đến ngay trước cửa Sở Công An Thành Phố th́ ḿnh xây xẩm mặt mày, bèn ngồi thụp xuống bên hè đường. Thế là một anh công an ra hỏi, ḿnh khai chóng mặt có lẽ vừa mới uống rượu Tây và vừa hô cách mạng muôn năm. Anh ta tưởng ḿnh xỏ xiên, gọi thủ trưởng ra giải quyết, nhưng anh này lại biết ḿnh, liền đưa ḿnh về nhà, cũng gần đấy.  Vừa mở cửa, bà nhà ḿnh nói giỗi, say ǵ mà mặt lại xanh lè tái nhợt thế kia. Ḿnh đáp, rượu đỏ của Tây ngày Cách Mạng Pháp cắt tóc phi-dê, nó thế. C̣n rượu Ta trắng tệch trắng toạc, ngày Cách Mạng Ta, uống dẫu đỏ mặt nhưng lại không say được, bà ạ!

 

  Đấy, văn chương truyền khẩu theo thủ pháp đa nghĩa, ám chỉ, và ẩn dụ đâu cứ đợi thời Đổi Mới ‘’cởi trói’’ mới lộ diện trong chốn vơ lâm.

 

6

  Cha mẹ nuôi tôi thế là đi. Qua Pháp, rồi Cali, một cuộc đoàn tụ với những người ở xa. Và chia ly với những người ở lại. Ở cuối đời, thế là hết. Căn hộ xưa phố Tô Hiến Thành ở Hà Nội nay công an quản lư. Di cư, cái nhà hai tầng trong hẻm số 54 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Rồi nay, vượt biên đoàn tụ th́ căn nhà trên Phan Kế Bính, ai muốn ở th́ ở, có tiếc chăng là bao nhiêu kỷ niệm những độ đổi đời. Gặp đứa con đi hoang, cha mẹ tôi tới tấp hỏi ai c̣n ai mất, và tất nhiên là có ra thăm bác Nguyễn không. Dạ có, tôi đáp. Bác vẫn khoẻ mạnh. Đưa những bức ảnh ngày tôi ‘’lên xe hoa’’ ra cho cha mẹ nuôi tôi xem, tôi chỉ đây bác Tuân đây này. Cha nuôi tôi nghiêm mặt hỏi ‘’cưới hỏi thế có phép tắc ǵ không?’’. Tôi thưa, dạ không, cứ làm đại! Ông lắc đầu, bật miệng, hỏng rồi. Đến khi tôi đưa ông đọc bản đề tŕnh của tôi lên Hội Đồng Bộ Trưởng về Ổn Định và Phát Triển Kinh Tế  Việt Nam th́ ông bực tức kêu, thế th́ hỏng thật, hỏng hết rồi. Sau đó, ông mắng tôi ‘’cái Cộng Sản trong đầu con là thứ do mấy thằng trí thức Tây Âu có truyền thống nhân văn tưởng tượng ra, không có thật, và khác một trời một vực với cái Cộng Sản phương Đông kiểu Mao. Con viết thế này, đề nghị toàn những chuyện động chạm đến cơ sở nền chuyên chính của họ th́ làm sao có đứa nào nó ngửi cho được! Hỏng hết rồi con ạ! ’’

 

  Vâng, hỏng thật. Và không hỏng cũng chẳng được. Có những sự việc tôi chưa bao giờ kể lại cho cha tôi nghe. Chẳng hạn như khi tôi đi ăn mỳ ở Chợ Cũ ở Sài G̣n. Ăn chưa hết, một bầy con nít xô vào tranh mỳ thừa  nước cạn, và tôi về khách sạn, nước mắt ṛng ṛng, thề rằng sẽ bao giờ cũng đứng về phía những kẻ đói ăn. Chẳng hạn như khi tôi ở Hà Nội, có một người con một vị tai to mặt lớn trong Học Viện Quân Sự đến tỉ tê, cái kho vũ khí Long B́nh cướp được của Mỹ để lâu ngày nó hỏng, mà ḿnh không dùng, nhưng biết đâu những nước Trung Đông lại chẳng cần. Anh lại thông thạo tiếng Anh, tiếng Pháp, và có cái hộ chiếu Canada muốn đi đâu th́ đi... Lắc đầu, tôi làm như không hiểu, lơ đi, ngu ngơ nói chuyện xây đựng một nền kinh tế đa thành phần và những thứ... vân vân ... trên đầu lưỡi bọn ‘’tư sản mại bản’’. Chẳng hạn như khi tôi lên lớp về Kinh Tế cho cán bộ giảng viên của Đại Học trong Thành Phố Hồ Chí Minh th́ ngay bàn đầu có một cô học viên xinh xắn, mặt mũi son phấn điểm trang, và áo quần th́ mầu sắc chứ chẳng phải đồng phục áo trắng quần bà ba đen như mọi người. Lên máy bay ra Hà Nội vào thời ấy cực khó, nhưng cô ta lại ngồi ngay ghế bên cạnh tôi. Đến sân bay Gia Lâm, cơ quan tiếp tôi không ra đón. Cô học viên th́ lên xe Volga, cho thầy đi ghé, và thỏ thẻ mời thầy ngày chủ nhật nghỉ th́ đến nhà em chơi! Tôi đến, biết cha cô là một vị Trung Uỷ, và được cô ta dẫn đi tham quan khi th́ chùa Trấn Quốc, khi th́ đền Ngọc Sơn...Chỉ có thế mà vị quản lư tôi,  cấp Thứ Trưởng, vỗ tay reo ‘’ nhất cậu, cơ quan bọn ḿnh là ‘’nhà trai’’ đấy nhé, nào lên kế hoạch đi!’’ Bỏ mẹ, tôi kêu thầm, thế này là thế nào. Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên. Vả lại, đến tay cô ấy ḿnh cũng chẳng dám cầm, nữa là...Thế là tôi đánh trống lảng. Ông  Thứ Trưởng cáu, nói gần như quát, ‘’ cậu đi chơi với con gái nhà người ta nay cả Hà Nội biết, không lấy là họ mang tiếng. Cậu có biết nhà người ta là nhà nào không, cũng gốc Nam Định ḿnh...’’ Ấy chết, tôi lúng búng, ‘’thưa anh đi chơi đúng hai lần, chỉ chùa Trấn Quốc với đền Ngọc Sơn thôi, để c̣n ‘’t́m hiểu’’ đă chứ !’’.  T́m hiểu chứ chớ ‘’ quất ngựa truy phong nhé ‘’. Ông cấp Thứ Trưởng này là công an, chớ đùa. Nhưng tẩu vi vẫn là thượng sách. Làm thế nào đây? Anh bạn mới quen là nhạc sĩ Hồng Đăng tài hoa nhưng phận có hơi mất mầu v́ nắng gió bàn, cứ lăng quăng túc tắc với tớ th́... ắt ‘’nhà gái’’  sẽ giẫy ra, khỏi phải chạy. Thế là tôi theo bạn vào Xưởng Phim thăm những diễn viên, nào Thanh Quí, Phuơng Thanh, Kim Thanh...Rồi đi uống cà phê, gặp anh em Nhân Văn Giai Phẩm, chẳng c̣n có vẻ sợ chuyện ‘’quan trên trông xuống người ta trông vào’’, nhưng cũng xin nói ngay là chẳng có làm cái ǵ mất mỹ tục để có thể mang tội hủ hóa trụy lạc...

 

  Nhưng anh hùng bất quá mỹ nhân quan, bắt đầu là đùa nhưng sau đâm hóa thật. Cái nh́n của nàng có bóng tối, và chính niềm u uẩn đó khiến tôi sau này lao vào một chuỗi những đêm mầu đen có lúc tưởng ḿnh không c̣n ngày thấy ánh sáng. A, cái ải mỹ nhân! Ôi chao, vực sâu chưa rơi th́ vẫn gọi mời, và gió thốc từ đáy vực tăng tốc độ hụt hẫng đến chóng mặt hôn mê. Bạn tôi, Nguyễn Duy, từ Sài G̣n ra. Nào, tôi lấy vợ! Nhất định chẳng hỏi phép tắc ai, chuyện cá nhân mà lị! Thiệp cưới, không có giấy cạc-tông ở giữa một thủ đô xơ xác, Đăng chạy mua (xin?) những cái tấm làm phiếu sách của thư viện. Báo hỉ, phải mầu chứ không lẽ lại đen thùi lùi. Mực in mầu đỏ th́ báo Nhân Dân độc quyền. Duy đi cầu cứu Nguyễn Văn Bổng ở Hội Nhà Văn; Bổng viết, giới thiệu đồng chí...Tổng Biên Tập báo...về nước cưới vợ (!), xin các cơ quan hữu trách tích cực giúp đỡ. Nhà in báo Nhân Dân in xong, người đầu tiên Duy mang bó thiệp cưới buộc bằng lạt đến mời là bác Nguyễn. Bác nheo mắt, nói với Duy, tao nghĩ thế là nó lấy phải công an đấy, bảo nó thế!  Ừ th́ thế, thế th́ phải thế. Lê Đạt vỗ đùi, cười bỗ bă, chú mày thế là mang về cho anh em chút dưỡng khí để thở. Trịnh Công Sơn không ra được Hà Nội, hẹn về Sài G̣n làm thêm ‘’ đám’’ nữa cho anh em trong này. Trần Dần viết tặng 5,6 trang thơ, chữ như kiến ḅ, kêu nợ t́nh nợ bạn nợ thơ,  n~  nợ cosmic bao jờ cho xong trong cái hỉ khúc xíc thằng. Đặng Đ́nh Hưng th́ chép  thanh xuân = hạnh phúc và chép một đoạn có câu ghé bến cắn một  quả vả mầu xanh chưa chín... măi hàng chục năm sau mới xuất hiện trong Bến Lạ. C̣n Hoàng Cầm, lại chạnh nhớ những mối t́nh với Chị, lăng đăng nhắc thuở ấy mây Em t́m núi Chị, ngửa mặt hường hoa khép gió xanh ...

 

  Chỉ ảnh bác Nguyễn đi ăn cưới, cha nuôi tôi lẩm nhẩm một ḿnh, trông hắn thế là vẫn khoẻ. Như sực tỉnh, ông nh́n tôi, nhắc lại, ‘’... thế là hỏng, hỏng thật rồi! Con chưa sự nghiệp ǵ, bất quá có cái nghề kiếm ăn, vừa bỏ qua một cái dịp để thi thố...’’ Tôi thật không hiểu, hỏi, th́ ông đáp, sự nghiệp là làm được cái ǵ cho người khác, đồng loại, đồng bào. Rồi ông thở dài  ’’...con có tí kiến thức kinh tế, nhưng chỉ chữ với nghĩa, việc thật là đi kinh bang tế thế th́ bây giờ chẳng làm được nữa, hỏng rồi! ’’  Mấy ngày sau, trước khi tôi lên đường bay về Canada, cha nuôi tôi vỗ vai, bảo, hóa ra con cũng là giống ṇi t́nh. Vậy th́ sau này nhớ câu chuyện về bác Nguyễn. Ông thủng thỉnh : ‘’ Xưa bác ấy đưa tao xem cái truyện bác viết về một anh đánh giậm, ngày nào như ngày nấy, đều đặn sáng trưa nơi đồng không mông quạnh, đều đặn  đến nỗi chỉ nh́n bóng anh trên mặt nước là biết mấy giờ, như một cái kim đồng hồ mà không cần răng cưa, trục quay, giây cót. Tao đọc, chê là bất cập nhân t́nh, viết thế là không được! Tao bảo, con người là người, ác có thiện có, nhưng ở cực nào th́ cũng không thể kéo xuống để thành ra và bất cứ một thứ dụng cụ vô tri vô cảm nào, dẫu nó tinh vi cách mấy cũng vậy. Sau, chẳng biết bác làm ǵ với cái truyện ấy, bác vốn ngang như cua, tính th́ kênh kiệu. Nhưng con có hiểu tao nói ǵ không? Điều này mới quan trọng... ‘’

 

*

 

7

  Mắc chứng ung thư ác tính, những ngày cuối cùng của cha nuôi tôi có thể ước chừng. Tôi lại bay sang Cali. Những ngày đầu hạ ở quận Cam có thoáng ngậm ngùi, mặc dầu trời rất cao, rất xanh, và nắng trải lên mạ vàng cây cỏ. Cha tôi cho tôi cuốn Kim Cang Kinh. Ông bảo, cụ Nguyễn Du khi xưa đọc nó hơn ba ngh́n lần. Cười móm mém, ông tiếp, chữ không của nhà Phật tao hiểu là tự do, và cái làm mất tự do là nỗi sợ. Nhưng tại sao lại sợ nếu như ư thức được không có ǵ là có, cũng không có ǵ là không, v́ đến cái ngă cũng không th́ có cái ǵ gọi là có... Rồi ông chậm răi, mắt hấp háy nh́n lên đỉnh cây chao trong gió sớm, đọc Sống không tham, tham ǵ? Chết chẳng sợ, sợ ǵ? Sống chết th́ cũng thế! Vậy tham ǵ sợ ǵ.

 

  Hai tháng sau, cha nuôi tôi ra đi, khi tôi đă xa cách ông đúng 6 giờ chim bay với vận tốc Boeing trong những chuyến bay xuyên lục địa. Đúng năm giờ sáng, tôi được báo tin qua  điện thoại, thức dậy ngẩn ngơ ngồi dựa vào vách, một lát th́ mơ màng. Ông đến đứng sau gọi. Tôi quay lại, ông cười, lại cái cười móm mém, nhưng mắt hóm hỉnh, hỏi ‘’ mày tưởng tao chết hả con...’’ Tai tôi vang lên câu kệ tử sinh đồng nhất thể, hà úy hựu hà khinh...

 

  Năm sau, tháng 7 năm 1987, tôi được tin bác Nguyễn cũng theo bạn ḿnh sang cơi khác. Chợ Hà Nội sạch hoa. Bao nhiêu hoa những kẻ biết ơn chữ đă mua hết để mang viếng bác, người  tài tử đă thổi vào ngôn ngữ mảnh đất này những nét hào hoa kênh kiệu Vang Bóng Một Thời trước Tổng Khởi Nghĩa chống Pháp. Đó là một  thời Ta. Cha nuôi tôi có kể, bác ấy cứ ấp ủ viết thêm Vang Bóng Một Thời Tây. C̣n thời Mỹ, bác Nguyễn thở ra, thôi để cho thế hệ sau chứ ḿnh th́ già mất rồi. Ôi chao, thật tiếc, thời Tây cho đến nay vẫn chưa kịp vang bóng, nói chi đến thời Mỹ, dư âm nếu c̣n vang vọng th́ cũng chỉ độc là tiếng nổ của đủ loại súng bom mang thử nghiệm trên những xác người. Khi bác ra người thiên cổ, Nguyễn Minh Châu kể, một hôm râu tóc run rẩy, nước mắt tràn ra trên má trên môi, bác vừa khóc vừa nói‘’ ...ḿnh tồn tại được cho tới nay là  bởi biết sợ! ‘’ Thương làm sao, cái nghiệp nhà văn An Nam, sống đă khổ như chó, mà lại là những con chó lấm lét cụp đuôi biết sợ trong một góc nhà!

 

  Nhưng chết th́ sao? Những ṿng hoa của bao nhiêu kẻ ngưỡng vọng không phải là một niền an ủi lớn à? Tôi hỏi Bửu Chỉ, người  có mặt ở Hà Nội khi bác Nguyễn mất, khi anh sang Pháp làm triển lăm hè năm 88. Không đáp, Bửu Chỉ kể, ông ấy nằm ở nhà xác chờ các thứ cơ quan như Hội Nhà Văn, Hội Liên Hiệp Nghệ Thuật...họp để bàn giao xem nơi nào làm chủ lễ tang, kinh phí đào ở đâu ra, tri trả thế nào...Ba ngày liền phải chờ, trời th́ nóng, Hà Nội mất  điện liên tục nên xác ông ấy bắt đầu trương lên, chuột nó vào gặm cái tai trái cắn nát ra, da mặt đă xám lại. Để trang điểm cho ông, người ta lấy phấn viết bảng nhà trường  ghiền ra bôi lên mặt. C̣n môi ông, người ta thoa son, son loen ra cằm nhếch nhác, trông chẳng khác ǵ hề trong những vở chèo. À, th́ chết như vậy, hỏi có năo ḷng, hở Trời!

 

8

  Về Hà Nội, việc đầu là tôi đến thắp hương vái bác Nguyễn. Vẫn căn pḥng với giá sách bám bụi như xưa. Nhưng thôi, đâu rồi cái giáng gù gù, mái tóc bạc xơa đến gần vai, và nhất là cái nh́n hóm hỉnh đèo nụ cười nửa miệng. Nay, có khác là cái bàn thờ đặt ngay lối vào pḥng. Nay, chỉ c̣n bức ảnh bác lặng lẽ trang nghiêm đặt trước một bát nhang đầy tro rải xuống nhắc chuyện về nơi cát bụi. Bác gái bật diêm cho tôi châm hương, th́ thào, ông nhà tôi đi sau ông bạn già đúng một năm, đôi lúc không c̣n tỉnh là hỏi tôi có tin ǵ từ bên Mỹ không...C̣n tôi, tôi chắp tay vái, tai văng vẳng câu ‘’... ḿnh tồn tại được cho tới nay bởi biết sợ’’.

 

   Như bác Nguyễn mà phải sợ th́ hỏi có ai mà không sợ?  Nhà văn Kim Lân kể, trong một buổi họp hành ǵ ở Hội Nhà Văn, bác Nguyễn bực dọc kêu với đồng nghiệp rằng ǵ cũng sợ, nhưng ngẫm lại th́ chẳng biết sợ cái ǵ! Bác nói, rồi uể oải chống batoong đi ra. Nhưng lần này, lần đi cuối, chắc bác chẳng cần cái sợ theo chân. Sống chết th́ cũng thế, vậy sợ ǵ tham ǵ, chắc chắn người bạn già của bác cũng đă đọc cho bác nghe rồi. Nói chuyện với anh Lân, ngày đưa bác đi Văn Điển quả bao nhiêu hoa ở Hà Nội  đều là hoa tiễn bác. Và từ thời đám tang cụ Hồ, chỉ lần này dân Hà Nội mới lại tự động xuống đường đưa đám một người. Lại một người không quyền cao chức cả mà chỉ mang danh phận nhà văn. Aidám bảo bạc là dân nào?

 

  Danh phận nhà văn? Trí thức phương Đông xưa’’trung quân’’, và  nay tiếp tục pḥ chính thống như một cái nếp tiềm thức bao che một loài vi khuẩn mang tên nô vong. Thỉnh thoảng mới có một Nguyễn Hữu Chỉnh, một Cao Bá Quát, hay một Hồ Xuân Hương, những người dám nổi loạn. Ngoài ra, phần đông họ ngâm vịnh cho sướng miệng, đánh tráo nghĩa bằng chữ, và thường mang giấc mơ tiến vi quan, dẫu cho quan th́ nhất thời nhưng dân vạn đại vẫn cứ vạn đại là loài thấp cổ bé miệng. Nhưng may thay, chính những kẻ thấp cổ bé miệng đó mới đồng thanh tương ứng với những người cầm bút nói thay được ước vọng ngàn đời của họ để âm vang của những con chữ có nghĩa sẽ truyền qua vách vực thời gian...

 

  Bác Nguyễn, thế là đâu đó đúng 18 năm bác đă thành người thiên cổ. Năm kia, phúng bác dăm câu thơ. Năm nay, chép lại một đoạn, 

...    

Viết toạc trời xanh

              chữ người tử tù

 

Những chữ ngoằn ngoèo

                    rạch mây nhỏ máu

Ô này,

        một thời từng vũng…

 

Vũng nào vang bóng chốn thiên thu ?

 

gửi bác với tấm ḷng kẻ hậu sinh này ngày xưa đă đi t́m một trăm cách khóc để khóc bác.