1

TRĂNG NGUYÊN SƠ
nam dao

 

 

 

 

 

 

 

 

TRĂNG NGUYÊN SƠ

 

 



 

 

 

 

 

 

 


NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG

 

 

Lời phi lộ:

Cấu trúc tiểu thuyết này kết hợp với thể cổ điển
nào là phóng sự, rồi cả chưởng Kim Dung,
tức một món lẩu đủ yếu tố "hậu hiện đại"
có thể gây sốc cho người đọc.

Nay cẩn cáo.

Nam Dao

14-11-2007

MỘT

N

ghiêng mắt nh́n xuống, nghe người bên cạnh bảo đê sông Hồng đấy, năm nay lại phải đắp đê chống lũ. Con nước mầu nâu đục ánh sắc đỏ lững lờ, xung quanh ruộng đồng sau vụ gặt nằm dài trơ trẽn. Lẳng lặng, tôi bấm chiếc Palm, t́m địa chỉ ghi trong bộ nhớ.

Cách đây hai tháng, hắn chắc cũng như tôi, cũng nh́n xuống sông khi máy bay lượn ṿng trước khi đáp xuống. Khi đó, mùa gặt, ruộng chưa hoang vu. Cứ theo trí nhớ những đoạn văn học thuở vỡ ḷng, thế nào mà chẳng có đàn c̣ trắng phau bay về đậu trên những mô đất đợi dăm hạt lúa rơi. Hẳn là thế, khác thế nào được. Hắn xuống máy bay. Rồi hắn về một khách sạn nào đó, đưa hộ chiếu. Lên pḥng, hắn viết nhật kư như một thói nghiện ngập. Ở đấy, hắn khôn ngoan chuyển qua e-mail ngay về cho tôi, dặn giữ hộ, đất này lắm kẻ ŕnh ṃ trấn lột, kể cả nhật kư. Hắn viết:

11-03

"... chiếc xe Toyota của Vietnam Airlines chạy chậm dần, chậm dần. Có người hô, xuống xe, sửa soạn qua cầu vào Kinh. Thế là nhốn nháo lên, xô đẩy nhau. Đặt chân xuống đất, tôi chao người suưt ngă. Đất bùn trơn như mỡ, mầu đỏ như mầu tiết lợn nhầy nhụa. Ngước lên, ô ḱa, sao lại chỉ thấy toàn xe trâu kéo. Xe thồ đủ thứ. Giường chơng, bàn ghế, nồi niêu, chăn màn... Nh́n quanh, thật lạ lùng. Mới đây là cô tiếp viên thơm mùi nước hoa Gucci. Bây giờ? Tôi hỏi đi đâu thế này? Có tiếng véo von khúc khích:

"... anh giai ơi, ta di đô từ Hoa Lư về Thăng Long mà".

Tôi quay lại. Cô bé gái vừa cất tiếng nói mở miệng cười, vết quết trầu đỏ thắm, hàm răng nhuộm đen tuyền như những hạt na ánh lên dưới nắng trưa ngột ngạt. Mùi cứt trâu bốc lên thối hoắc.

Tôi đành bịt mũi. Mắt liếc như dao bổ cau, cô bé trêu "... chưa về đến Kinh mà anh giai đă văn minh ngay rồi à?". Thế là các cô đi xung quanh cùng ré lên cười lăn cười lóc.

Chúng tôi nối đuôi nhau, chân bám vào bùn, tay xách nách mang trong tiếng cười nói tưng bừng. Nh́n cô bé, tôi ngập ngừng:

"... lối này đi đến cầu Long Biên, phải không?".

Cô ấy ngạc nhiên:

"Cầu ǵ th́ em không biết, nhưng từ Hoa Lư, trai tráng đăđến bến sông đóng bè ghép lại tháng trước".

Tôi buột miệng: "Cầu Long Biên do Tây nó xây, xưa gọi là cầu Đuy-me..."

Cô bé lại ngặt nghẽo:

"Thôi đừng lỡm em, anh giai... Anh người trại nào?".

Ngây người, tôi không biết trả lời làm sao. Cô bé thấy tôi im lặng, nguưt dài, lại trêu "Chẳng phải ngô, chẳng phải khoai... Chàng đi em biết nhớ ai, em chờ". Nói xong, cô chạy ra sau, miệng hát:

Yêu nhau, cởi yếm, í à, cho nhau

Về nhà, dối rằng, cha với mẹ

Rằng a ối a qua cầu

T́nh t́nh t́nh gió bay.

Đám chị em vây quanh nàng đồng thanh "t́nh t́nh t́nh gió bay" rồi phá lên cười nắc nẻ, tiếng hát tiếng cười vút lên đậu trên mây chín tầng chót vót. Tiếp tục dấn bước, tôi ngoái nh́n phía sau, nhưng chỉ thấy đôi mắt tinh nghịch xanh mầu cốm non nheo lại chọc ghẹo. Đến gần bờ sông, đám con gái rẽ lên phía thượng lưu. Người con gái hát lúc năy bấy giờ mới chạy ra sau, nói với lại: "Chúng em đến hồ DâmĐàm định cư. Có hỏi th́ hỏi họ Đào, tên Hạ Trang, quê ở Đông Hải nhé..."

Xe trâu phải ṿng xuống hạ lưu, nơi nước cạn ngang lưng để sang sông. Đoàn người khoác gùi trên vai trèo lên những mảng bè cột chặt bằng những sợi chăo làm từ vỏ cây sồi bện lại. Sang đến bờ bên kia, lại phải chờ xe trâu. Trời sẫm xuống. Mặt trời tím lịm phớt lên mặt nước mầu hoa cà se sẽ chao trong gió chiều. Một kỵ sĩ cưỡi con ngựa ô ở đâu xồ tới, nhẩy xuống, đến th́ thào vào tai cụ già râu trắng như cước. Ông cụ nói lớn cho mọi người nghe, "Qua đêm ở đây, mai tốt ngày mới được phép vào Kinh, nghe chưa!". Đoàn người ồ lên, rồi chia nhau t́m những g̣ đất khô ráo. Họ túm năm tụm ba thổi lửa, nấu cơm, thỉnh thoảng có kẻ cất tiếng ḥ lên gọi nhau. T́m một gốc cây, tôi ngả lưng, nhắm mắt nhưng chẳng sao ngủ được. Chẳng lẽ thoắt một cái tôi từ đầu kỷ XXI lộn ngược gần 1000 năm quay về thời nhà Lư đang dời đô đến Thăng Long. Thật hay mơ? Không, mùi cứt trâu thối hoăng lên có thật. Tôi đưa tay sờ mặt đất ẩm bùn, bốc một bốc, bóp vụn ra. Đất rơi tơi tả. Đất có thật. Tôi xuống bờ sông rửa tay. Bùn đất trôi đi, tay tôi sạch, và thế là nước có thật. Đất nước có thật, nhưng c̣n cô bé Hạ Trang họ Đào? Tôi đứng lên, tản bộ đi t́m. Đêm len vào bịt mắt cản đường. Cứ thế, tôi bước, tôi chong mắt nghển cổ ra nh́n. Không thấy Hạ Trang đâu. Có thể Hạ Trang không có thật. Hoặc là tôi đă quay về kỷ XXI, thời điểm cách lúc này chưa hơn vài giờ trước khi tôi lên máy bay? Hay là , hay là…hoặc giả chính tôi không có thật?

*
*    *

Đúng như hắn dặn ḍ, tôi hỏi lấy pḥng 403 hoặc 503 tại khách sạn BK. Cô bé tiếp viên lật hộ chiếu, ghi chép, nheo mắt hỏi: "Anh về nước lần đầu?". Tôi lắc. "Ai bảo mà anh biết pḥng 403 để đ̣i ở đó?". Tôi đáp: "Ông anh tôi về ở đây độ hai tháng trước bảo tôi thế!". Nhân dịp, tôi hỏi:

"Anh ấy thấp người, đeo kính trắng, cũng đến từ Canada... Em có gặp anh ấy không?"

Cô bé lắc đầu, mời tôi xuống Bar ở tầng dưới uống nước, đợi cô làm thủ tục nhận pḥng. Trưa, trời hầm hập, mồ hôi đổ ra như tắm hơi. Đợi đâu mươi lăm phút, điện thoại từ tiếp tân gọi xuống. Tôi lên. Bà quản lư khách sạn, tuổi sồn sồn, tươi cười "... Chúng tôi tiếp thu nhu cầu của khách, nhưng phải tính tiền dịch vụ, chỉ năm đô thôi". Ngạc nhiên, tôi hỏi: "Pḥng trống th́ để tôi ở, c̣n dịch vụ ǵ?".

"Dạ, khách thích mà được chúng tôi thỏa măn th́ trả phí, ở đây như thế. Thoả măn được, là ở quyền hạn quản lư của chúng tôi mà... Năm đô là lần này thôi, giá pḥng th́ vẫn 20 đô một ngày, như mọi pḥng khác! Pḥng 403 là pḥng tốt nhất đấy, vừa yên, lại nh́n được ra hồ...".

Cố lấy vẻ thản nhiên như không có chuyện ǵ lạ, tôi lẳng lặng tḥ tay móc túi.

Nhoài người nằm thườn ra, tôi nhắm mắt lấy lại sức. Ngồi trên máy bay gần hai mươi giờ, không kể thời gian đợi chuyển máy bay ở Tokyo, những bắp thịt trong người nhừ ra như bị dần, đầu không c̣n sức đề kháng, tôi gần như mê mụ. Nửa thức nửa tỉnh, tôi chợp đi, tai nghe loáng thoáng tiếng hắn nghiêm trọng "Sắp t́m thấy nó rồi, hăy về giúp một tay, cần lắm!", hệt như trong cái e-mail cuối cùng tôi nhận được cách đây vài tuần.

Người ngoài tưởng tôi và hắn là anh em ruột, nhưng không phải vậy. Tôi vốn là một đứa con rơi, bố mẹ nuôi tôi nhặt về trong vụ đói năm Ất Dậu. Khi đó, hắn mới lên hai. Mẹ nuôi tôi nựng hắn, chỉ tôi, bảo... cho con có bạn. C̣n bé, tôi nào hiểu tôi là một thứ đồ chơi. Đến năm lên sáu, tôi mới biết. Phận tôi, nó thế. Bài học đầu tiên là phải biết cam phận. Khi nó cắn cấu, chỉ được khóc. Và chạy. Khi ăn, nhận phần ít. Và có thèm chút âu yếm th́ lần xuống nơi U già, một người đàn bà lớn tuổi mắt đă ḷa thường ngồi ở góc bếp chẻ rau, vo gạo... Thỉnh thoảng U giấu được cái bánh, cái kẹo, giấm giúi vào tay, giục: "Ăn đi, cho U xem!". Mắt ḷa, U nào thấy ǵ! Nói thế nhưng tôi chẳng oán trách ǵ bố mẹ nuôi. Không chết đói, đă là may lắm, U thỉnh thoảng dặn tôi đừng quên. Chẳng qua phận tôi nó thế!

Nhưng cũng v́ thế mà tôi thực tế. Từ năm lên mười, tôi hiểu để tồn tại, tôi phải mở mắt ra nh́n những người chung quanh. Họ thế nào? Ai thương ai, ai ghét ai? Và nhất là đối với chính ḿnh th́ họ ra sao? Tôi không tranh ăn, tranh chơi, lỉnh đi khi bố mẹ nuôi tôi phát thuốc tễ, thuốc bổ... cho đám bốn đứa con đẻ. Tôi biết nhanh nhẩu góp tay vào bất cứ chuyện ǵ làm được, nhất là khi bố mẹ nuôi tôi có mặt. Tôi cố gắng nói thật ít, không bao giờ tỏ ra ranh mănh, che giấu tất cả bằng thứ cung cách ngu ngơ hiền lành. Được đi học, lại học cùng lớp, tôi làm sao cho điểm của hắn lúc nào cũng nhỉnh hơn điểm của tôi, tránh thành đối tượng của so đo ganh tị... Tóm lại, tôi không c̣n tuổi thơ, sống hai mặt, một là cho riêng tôi. Mặt kia là tôi dưới mắt người khác, nhợt nhạt, không cá tính và đôi khi ngu ngu dở dở nhưng hiền lành. Nhưng khi chỉ có tôi đối mặt với tôi, tôi giữ một góc mơ mộng tư riêng. Tôi tưởng tượng gốc gác tôi là con một vị quan lang Mường ở chân núi Tản. Cha đẻ tôi cầm đầu dân quân chống Pháp, tử thương trong một trận giáp chiến. Mẹ tôi bế tôi chạy đến một ngôi chùa, bỏ tôi đấy rồi nhảy xuống giếng tự vận. Sư ông ngôi chùa tôi đặt tên là chùa Thiên Phương ở Lạng Sơn nhặt tôi, rồi v́ nhà chùa nghèo không đủ ăn nên phải t́m người khá giả nhờ nuôi. Thế là cái duyên đến buộc tôi vào gia đ́nh bố mẹ nuôi, lúc ấy tản cư từ Hải Pḥng. Họ Nguyễn là họ của bố nuôi. Tôi họ ǵ? T́m đọc sách nói về dân tộc Mường, tôi tự gán cho tôi họ Bạch. Vâng, tôi họ Bạch, một ḍng quan lang xưa oanh liệt nhưng nay thất cơ lỡ vận. Và để tạo cho thiếu niên họ Bạch này sinh khí, tôi cho ḿnh đóng vai một điệp viên nhị trùng, xông vào cuộc đời với nhiệm vụ c̣n nằm trong bí mật. Trong khi chờ đợi, tôi nhận lệnh phải học hành thế nào cho giỏi, đợi ngày thoát ly. Và động cơ ấy khiến tôi chong đèn, học, nhưng học kín, không để ai ḍm ngó.

*
*    *

Ngủ mê mệt, khi tôi thức th́ trời đă chập choạng tối. Với tay rót một cốc nước, tôi uống, đầu óc tỉnh táo dần. Tôi lên sân thượng khách sạn, ngồi hóng gió, gọi một chai Ashahi, đưa mắt nh́n về phía Bờ Hồ. Những trụ đèn đă mọc lên, khác thời tôi về Hà Nội mười năm trước. Uống xong cốc bia, tôi mở Palm xem tin nhắn. Không có ǵ. Tôi lại t́m đọc những bức e-mail lưu trữ:

20-02

"... Chúng nó báo - về sẽ gặp nhau ở Huế nhưng chẳng hiểu sao tôi t́m măi không được. Lần đó, dân đồn "Ông về", nô nức trả tiền vé vào để chiêm ngưỡng "Ông", đấng sẽ thế thiên hành đạo. Báo chí có loan tin (dĩ nhiên với hoài nghi của những kẻ thực dụng làm báo phải đạo chính thống), và mặc dầu hy vọng là thật, tôi vẫn giữ vẻ e dè, cùng đám nghệ sĩ thuộc ty văn hóa đất Thần Kinh lên đ̣ sông Hương, đi nghe ḥ Huế trong một đêm tối trời có đủ mưa, đủ gió, và những người đàn bà giọng mặn mà nữ tính của đế đô xưa.

"Thuyền từ Đông Ba thuyền qua Đập Đá. Thuyền rời Vĩ Dạ tới ngă ba Śnh... Lờ đờ bóng ngả trăng chênh... Điệu ḥ xa vắng đượm t́nh nước non". Giọng ngân dài như không dứt được trong khi chúng tôi đợi người đi ḍ tin "Ông" vẫn chưa về. Mưa vẫn mưa rơi, tiếng tí tách buồn bă. Mặt sông lấp loáng ánh dao liếc lạnh rùng rợn. Người đàn bà vừa dứt câu ḥ nh́n tôi, lo lắng:

"Ông về thiệt hỉ, anh?".

Ôi, đôi quầng mắt thẫm bóng những đêm dài ngước đợi. Tôi nhỏ giọng "Về... "Ông" sẽ về, nhất định thế!". Bàn tay nào mượt mà nắm lấy tay tôi, mơn man, như đ̣i vỗ về, như nhắc chút ân t́nh đến từ một mối duyên chẳng ai chờ ai đợi. Nhắm mắt, tôi khẽ nắm lấy bàn tay ấy thay lời cảm ơn, giật ḿnh khi người đi kiểm tin "Ông về" đột ngột xuất hiện, miệng cười hô hố, nói lớn: "Không có "Ông" nào đâu. Một đồn mười, mười đồn trăm, dân xếp hàng mua vé năm ngàn đồng vô xem ông cầm kiếm, miệng giáng những câu tiên tri. Nhưng tui chỉ thấy h́nh ảnh phập phồng một cái mang cua sống, khá lớn, nh́n có thể tưởng tượng là người cầm gươm, nhưng đâu có nghe thấy chi! Một con nhỏ xưng là cô đồng th́ nghe thấy hết, nói lại cho người vô xem. Nhưng công an Thừa Thiên bắt nó tội dùng mê tín dị đoan làm loạn ḷng người, và bắt cả chủ nhà tội lừa đảo, buộc hoàn lại tiền vé...".

Tôi nghe một tiếng thở dài bên cạnh. Bàn tay đó buông tay tôi ra. Tôi với chụp. Vô vọng. Gió lên. Tiếng chèo khua nước nhịp thời gian. Trời chợt trở lạnh hơn bao giờ. Tôi biết tôi vẫn c̣n phải đi t́m... Người đàn bà vừa nắm tay tôi đứng dậy, bước những bước cḥng chành lên bờ, để lại cho tôiđúng một cái nh́n ánh màu tuyệt vọng...

Không, tôi ơi, đừng tuyệt vọng. Câu hát của người bạn rong ca vang lên. Chết, mới tuyệt vọng. Chúng ta chưa có niềm ân sủng cho phép phủi tay ra đi. Và nhất là tôi lại vừa mang ơn một bàn tay níu vào tay ḿnh trong khoang con thuyền cḥng chành gió. Mới năm nào tôi viết: “Nhan sắc vẽ vời/ Lư tưởng viển vông/ Chợt rụng rời giữa có và không/ Mày xanh mi biếc môi hồng/ Tỉnh ra sóng đă bềnh bồng cuộn trôi/ Tôi ơi hỡi, tôi ơi!”. Mới năm nào tôi đă định tự đi vào miên viễn mà không hỏi phép bất cứ đấng Cao Xanh nào. Nếu đến từ một niềm tuyệt vọng th́ tôi ơi, tôi chỉ đáng có đến thế sao. Trong khi từ đỉnh non đến ven biển đấu trường với toàn những kẻ trục lợi tranh danh đang âm thầm tuốt kiếm chém những nhát không khoan nhượng vào đồng loại? Trong khi những người nắm thế quyền đoạt nhà chiếm đất rồi bắt hằng hà sa số nạn nhân cùng nhau hát vang lên bài ca cho ngày mai?

Không thế được, tôi ơi, đừng tuyệt vọng!

Suốt ba ngày, tôi đợi tin Rậm-ria và Tiểu-quỷ. Tôi lang thang trên những con đường của Huế. Qua cầu Tràng Tiền, ghé chợ Đông Ba, đến Gia Hội... Ṿng lại Bến Ngự, ngơ ngẩn ngắm bức tượng Phan Sào Nam xếch mắt nh́n vào tiền đồ. Rồi tôi lại đi. Vào Hoàng Thành, ngơ ngác giữa đám du khách. Tôi luẩn quẩn với một quá khứ nặng như ch́ buộc vào chân. Tôi lê về phía trước với những bộc phá bomđạn c̣n ghi nguyên vết ghẻ lở đậu mùa chi chít khoét đục những bức tường cổ đổ nát. Tôi đến chân Khiêm Cung th́ gặp người đàn bà tối nọ. Đến gần, người đàn bà ấy làm như không thấy tôi, cúi mặt nh́n những bó hương, bó nhang để cạnh chồng giấy vàng, giấy bạc. Nàng thoa chút phấn hồng trên má, môi thoáng vết son rất dịu, mắt vẫn đẫm bóng tốingay khi nắng lên ngang đầu. Tôi im lặng. "Ông" không về, tôi biết. Nàng ngước lên cười, cái cười không kém thê thảm như lần nàng nh́n tôi khi lên bờ tối hôm nọ. Th́nh ĺnh, nàng bâng quơ:

"Ai t́m được cho em hy vọng, em nguyện làm vợ, hiến thân này cho, cho hết..."

Tôi hốt hoảng. Lát sau, tôi nghẹn ngào, cố nói:

"Tôi về là để t́m điều đó cho em, cho tôi, cho tất cả chúng ta..."

Nàng khẽ quay người, th́ thào:

"Th́ anh đi đi, chừ cứ đứng đó làm sao thấy!"

Từng câu, từng chữ, nàng thuật lại cho tôi chuyện người tađổ đi t́m ở dưới Mỹ Sơn, nơi cách Hội An đâu hơn hai ba chục cây số. Rồi giục "... Chừ anh đi nghe anh! Bữa mô t́m thấy th́ về đây với em!".

Sáng sớm hôm sau, tôi bắt xe hàng xuống Đà Nẵng.

*
*    *

Lần theo bản đồ chi chít tên đường, tôi t́m được phố Lư Quốc Sư. Trước mặt một quảng trường, Nhà Thờ nghễu nghện chọc trời, tường xám xịt dấu vết những tháng năm không chăm sóc tu bổ. Dưới nắng rừng rực chực bốc lửa, tôi vội bước, nh́n số nhà rồi rẽ vào một cái ngách. Chục năm trước, tôi có đến đây một lần nhưng bây giờ chẳng c̣n nhận ra ǵ nữa. Quán rượu ngày xưa giờ là căn nhà ba tầng bằng gạch, cửa sắt khóa bằng một sợi dây xích sắt to bằng ngón tay cái. Tôi bấm chuông. Một đứa bé ra bảo: "Ông cháu đau, không xuống được!". Tôi nhờ cháu lên gác báo, khẩn khoản dặn: "Cháu cứ nói thế, chắc ông cho gặp!". Quả vậy. Uốn người, tôi leo một cái cầu thang hẹp, bậc không đều, cao thấp khó lường.

Nhà thơ ngước mắt nh́n tôi. Ông ta đây sao? Mười lăm năm trước, ông đă đứng tuổi nhưng vẫn cường tráng mặc dầu khi tôi gặp, ông mới bị quản chế đâu gần ba năm v́ cái tội chính thức là bán rượu lậu. Tội không chính thức, ai cũng biết, là tội chuyển thơ của ông ra ngoại quốc. Chính hắn cũng bị liên quan. Bị cấm cửa không có nhập cảnh cho tới thời kỳ Đổi Mới mới lại được về, hắn nói hắn oan, có tội th́ là cái tội gà chưa sáng đă gáy, kiến nghị chính sách kinh tế ǵ đó. Nay, tóc ông bạc phau, móm mém, mắt lờ đờ, nằm nghiêng ph́ pḥ thở.

"Nhà thơ chắc không nhận ra... tôi!"

Ông lắc. Tôi nhắc lại buổi tôi gặp ông với hắn cách đây mới thế mà đă mười lăm năm. Ông mỉm cười:

"Lâu nhỉ! Ḿnh trí nhớ kém rồi... Lại mới ngă cầu thang, xương chậu bị vỡ, ngồi lên không được! Xin lỗi phải tiếp khách trong cái thế khó coi này!", ông khẽ cười.

Hỏi ông đă gặp hắn chưa, ông nhắm mắt, đáp:

"Bao giờ về cậu ấy cũng đến thăm tôi. Sau dịp Tết vừa qua, cậu ấy từ Đà Nẵng vào..."

"Anh ấy có nhắc sẽ đi t́m chùa Báo Thiên... Thưa nhà thơ, chùa ấy ở đâu?"

"À... Chùa xây cuối đời Lư, bị phá thế kỷ trước mất rồi... Người Pháp xây Nhà Thờ Lớn ngay trên móng nhà chùa, ở góc phố. Làm ǵ c̣n chùa Báo Thiên? Khi cậu ấy hỏi, tôi đă bảo vậy!"

Tôi cân nhắc, rồi ngập ngừng:

"Nhà thơ có biết anh tôi đi t́m ǵ không?"

"Biết..."

"Nhưng đó là một niềm hoang tưởng..."

Tôi nhẩn nha kể lại cho nhà thơ nghe nội dung những bức e-mail tôi nhận được và kết luận:

"Sợ anh ấy hoang tưởng ở mức bệnh hoạn... Cho nên tôi mới về gấp!"

Nhà thơ mỉm cười, từ tốn:

"Đừng sợ. Một thứ vật quư hiếm như vậy, có hoang tưởng th́ cũng tự nhiên thôi. Vả lại, người nghệ sĩ nào chẳng hoang tưởng. Động cơ tái tạo mọi hiện thực phải giẫy bỏ để giải phóng sáng tạo... Hoang tưởng càng lớn th́ khả năng nghệ thuật càng cao. Như cái nghiệp ấy mà!"

Ngưng lại lấy hơi, nhà thơ thều thào tiếp:

"Lấy cái số phôn của Thụy, gọi hỏi xem... Tay này giao du rộng, cũng quen biết anh cậu."

Bấm đốt ngón tay, ông lẩm nhẩm một ḿnh:

"... Thế là tháng nay không thấy mặt, chẳng hiểu đă t́m ra chưa, rơ cơ khổ!"

Ra đường, tôi ṿng lại Nhà Thờ. Đứng dưới mái hiên một cửa hàng bán mỹ nghệ cho khách du lịch, tôi ngước nh́n cây thập tự cao vút chọc vào nền trời sáng lóa mắt, tưởng tượng cảnh xe ḅ chở tượng Phật đi để lấy tượng Chúa thay vào thế chân trong một cuộc đuổi nhà đổi chủ. Thế quyền và tâm linh phải chăng là hai mặt một đồng xu trong một thể cân bằng không bao giờ ổn định. Đồng xu quay sau cái búng tay của tên làm ảo thuật, quay tít tḥ ḷ, và tiếng hô: "Nào đặt cược nào, sấp hay ngửa!".

Khát đến khô cổ, tôi vào một quán giải khát. Chọn một góc trống, ngồi mở Palm đọc lại những bức mail.

*
*    *

21-02

... Từ Lăng Cô nh́n xuống, cây xanh lấp loáng nắng vạch một ṿng chặn biển sóng uốn lượn cứ như chực tràn vàođất. Xe khách ngừng nửa giờ. Tây-ba lô xuống xe, tay lắc lắc khi đám trẻ con bán Postcard chồm đến, mắt ngước lên nh́n, miệng răng khấp khểnh nhấp nhô ngọng nghịu "pho tao dần, bli-bli" (four thousands, please, please). Đến Đà Nẵng, tôi ghé vào Bảo tàng Chàm nằm gần bến sông, định mua một tấm bản đồ Mỹ Sơn, xưa là thánh địa của dân tộcđă gần như bị xóa sổ này. Cô bé bán hàng lưu niệm lắcđầu, bảo tôi ra nhà sách. Gọi taxi, tôi vừa nói th́ anh tài hỏi liền: "Việt kiều hỉ! Hổng có chỗ nào bán bản đồ đâu,đi mô tui chở cho!". Đi đâu? Nói thế nào bây giờ? Tôi vừa kể tôi nghe đồn là có nhiều người đi kiếm th́ anh tài cườilớn: "Rồi, tui biết! Đi đào vàng phải hông? Nhưng tui chở chú tới chớ có được vô đào hay không th́ c̣n phải qua "ải" mấy trùm, tui không bảo đảm". Anh hạ giọng:

"Ở đây th́ cứ có đô xanh là cái ǵ cũng được, lo chi..."

Xe chạy được khoảng gần một giờ, đỉnh tháp Chàm nhô lên từ đầu những ngọn cây xa xa khiến tôi hoang mang. Tôiđâu có ư định đi t́m vàng. Mặc dầu anh tài "xin" thêm năm đô để giúp tôi móc nối với đường dây một ông trùm anh quen thân, tôi vẫn không mấy yên ḷng. Chắc chắn ông trùm sẽ hỏi, không t́m vàng th́ t́m chi? Trả lời thế nào nghe cho xuôi tai đây? Thôi, để hạ hồi, linh động đối phó chứ làm sao biết được mọi t́nh huống. Anh tài chỉ một rặng núi xanh ŕ đằng trước, kêu: "Trong kia là chỗ ḿnh t́mđó, chú!".

Đến eo núi, anh tài thắng xe, móc điện thoại di động, không nói ǵ nhưng bấm tin nhắn. Lát sau, anh rồ máy, quẹo xe vào một con dốc, nhấn ga. Đi chừng ba trăm thước, một người vai đeo AK ở đâu xô ra, tay làm dấu, quát: "Ngừng!". Mắt trừng trừng, anh ta bảo chúng tôi xuống xe. Anh tài ghé vào tai th́ thào thế nào mà anh ta gật gật. Tôi theo anh gác cửa đi vào con đường bụi bờ quanh co đến trước một cái lán. Lại một người khác đeo AK trỏ tay vào cái ghế đẩu trong góc, lạnh lùng bảo: "Chờ đấy!" rồi quay lưng châm điếu cầy rít thuốc, tiếng kêu sằng sặc như bị bóp cổ.

Lúc ấy, mặt trời xế bóng nhưng vẫn nóng gay gắt. Tôi xin một ly nước, lẳng lặng uống, mắt nh́n về chỏm tháp Chàm lung linh chớm nắng. Nhớ lại câu nói của người đàn bà hôm rời Huế, tôi buột miệng "Chắc anh sẽ về, chỉ mai mốt...". Anh gác nghe, cười khẩy: "Muốn thế th́ đừng để rắn cắn, rắn độc nhất là rắn mang h́nh người!". Được thể, tôi bắt chuyện, hỏi. Anh ta giảng giải: "Ai đào được vàng th́ kẻđồng loại bên cạnh trở thành rắn ngay, có lần hết người nọđến người kia hóa rắn, cắn nhau cướp vàng chết cả đàn. - Giọng thương hại, anh tiếp - V́ vậy, người ta đi đào đi một tốp năm ba người. Anh đi một ḿnh th́ đào không thấy là sống, mà thấy th́ chắc toi, hiểu chưa?".

"Nhưng tôi có định đi đào vàng đâu!" Tôi buột miệng.

Anh gác hạ khẩu AK trên vai xuống, lùi một bước, mắt lừ lừ nh́n tôi như thôi miên. Chết chưa, tôi đă nói thật, nguy rồi...

*
*    *

Theo lời nhà thơ, tôi gọi cho Thụy nhưng máy điện thoại di động hoặc bị tắt, hoặc ở nơi không nhận được sóng. Sáng sáng, tôi lên sân thượng khách sạn ngắm trời Hà Nội lúc c̣n mờ sương, đợi lúc xuống đi bộ quanh hồ Hoàn Kiếm. Tôi nghĩ về tôi, những được mất, và về cái thời niên thiếu đầy những phút chạnh ḷng tủi phận. Thời đó, giấc mơ một ngày sẽ cao bay xa chạy khiến tôi âm thầm trui rèn thứ vũ khí thoát thân là học thế nào để có cái may mắn được một học bổng đi ra ngoại quốc. Đó là mơ ước h́nh như bọn trẻ chúng tôi đứa nào cũng có. Ở tuổi mười tám, chúng tôi có thể bị gọi đi quân dịch nếu thi trượt Tú Tài 2. Nếu đỗ Tú Tài 1 th́ đi Thủ Đức ra trường thành Chuẩn Úy, c̣n không th́ vào Quang Trung, chẳng cai chẳng đội tất binh nh́, thế nào cũng bị đem "thí chốt" nếu không khả năng chạy chọt. Chiến tranh đă luẩn quẩn tới ven Thành Phố. Sợ chưa hẳn sợ, nhưng vui th́ chẳng mấy vui, đối với một kẻ như tôi chỉ có một giấc mơ là ra đi.

Nhưng hắn không vậy. Hắn là con đầu ḷng, được nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa. Hắn hay ngồi "chầu ŕa" hóng chuyện "người lớn". Chả là bố nuôi tôi quen biết giới báo chí truyền thông, khi gặp nhau "người lớn" bàn chuyện chính trường thời Đệ nhất Cộng ḥa miền Nam, chuyện chống Cộng, rồi chuyện đám nhân sĩ Bắc di cư bị chính quyền Diệm hắt hủi... Hắn được mớ chuyện chính trị tiêm nhiễm, tự cho ḿnh một phận vụ thiêng liêng, t́m sách về nghệ thuật hùng biện trước công chúng, soi gương hoa chân múa tay tập nói cái câu của Tổng thống Mỹ Kennedy, nhưng bằng tiếng Việt, "Đừng hỏi đất nước đă làm ǵ cho ta, mà phải hỏi, ta đă làm ǵ cho đất nước...". Tôi cố nhịn cười, tránh tham gia vào những dự án đổi đời của hắn. Không nhóm được ngọn lửa thiêng trong ḷng tôi, nhưng có lẽ thương hại, hắn chỉ thỉnh thoảng nhắc chuyện chí làm trai của Nguyễn Công Trứ, xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên. Phải nói hắn thuyết phục được một số bạn bè cùng lứa và viết lách in thơ in truyện trên báo.

Năm ấy là năm học sinh sinh viên "xuống đường" trong vụ đàn áp Phật giáo của chính quyền Diệm. Trong thành phố, giáo dân và Phật tử xung đột tứ tung. Tin rỉ tai: sắp đảo chính. Hắn không biết thế nào mà "mua" được một số vũ khí của Địa Phương quân, đem chôn giấu chục khẩu súng trường thời đệ nhị thế chiến, dăm quả lựu đạn... chờ thời cơ khởi nghĩa "chống độc tài Diệm-Nhu". Vô t́nh biết chuyện không phải là đùa này, tôi buộc phải báo bố nuôi. Ông ta cho hắn một trận mắng chửi ra tṛ. Chỉ kịp chỉ mặt tôi quát "đồ mách lẻo" th́ đă có người đến hỏi hắn. Hóa ra tôi chẳng mách th́ mật vụ Nhu - Diệm cũng đă biết, cho ŕnh rập quanh xóm. Thế là bố nuôi tôi phải t́m cách giấu hắn lên Hóc Môn. Và hè năm đó, hắn không thi Tú Tài 2. Đây là lần đầu tôi học, và đi thi, không có hắn bên cạnh. Chạy chọt với công an, bố nuôi tôi lại mang hắn về Sài G̣n để hắn thi kỳ 2, đỗ nhưng điểm không vào hạng xuất sắc. Làm cách mạng, chuyện học thứ yếu thôi, tất nhiên.

Năm sau, tôi lẳng lặng nộp đơn và nhận được một học bổng đi Canada. Đợi đến khi chỉ c̣n một tháng là lên đường, tôi mới báo cho bố mẹ nuôi tôi biết để xin phép đi du học. Lúc đó, tôi đă 18 tuổi, thành niên rồi, đi hay ở chỉ tùy tôi. Ngày đầu, bố mẹ nuôi tôi không nói ǵ, vui buồn khó đoán. Phần tôi, tôi sửa soạn hành lư, mặc dầu chẳng có ǵ để mang theo trừ một xấp thư của N tôi mới gặp hè qua. Ít ngày sau, bố nuôi tôi thân mật ôm vai, nhỏ nhẹ: "Tao định cho anh mày đi cùng, nhà không dư giả nhưng cũng có thể lo được một phần chi phí. Đi xa có anh có em, học bổng của con cũng là cái đỡ đần được... cho bớt lo. Anh mày ở đây th́ c̣n rầy rà với mật vụ, sớm muộn chúng nó cũng t́m cách đẩy vào lính cho mà xem... Con thấy thế được không?".

Tôi lên đường. Lần đầu ngồi máy bay, tôi ngắm những đám mây trắng ngang tầm mắt, không thấy luyến tiếc bất cứ ǵ. Giấc mơ suốt thiếu thời đang chắp cánh vượt những khoảng xa tôi ngờ chẳng bao giờ lấp cho nổi. Ba tháng sau, hắn cũng đến Quebec, nơi tôi đi học. Khi đó, chính quyền Diệm-Nhu bị lật, cả hai bị bắn chết. Chắc chắn hắn không c̣n bị mật vụ nào rầy rà.

Hắn lấy hộ chiếu, đi dạng tự túc, hớn hở kể ngày cách mạng thành công và kết "Tiếc là không có mi ở đó, vui lắm...".

*
*    *

Mất ba ngày tôi mới liên lạc được với Thụy. Anh ta đi quay phim ở Quảng B́nh, về đến Hà Nội mới mở e-mail, nhận tin tôi và gọi điện thoại. Hỏi, anh đáp:

"Tôi gặp anh ấy đâu tháng trước, cùng đi với hai người bạn! Tôi không biết tên, nhưng một cậu cao to, để râu, nói giọng Bắc. C̣n cậu kia, trẻ hơn, da trắng như da con gái, nói eo éo, giọng lai nửa Bắc nửa Nam... H́nh như họ là Việt kiều cả. Họ rủ nhau đi t́m..."

"T́m ǵ hả anh?"

"Chịu, giời mới biết được! Chỉ thấy họ nóng nẩy ra mặt. Mấy ngày sau, anh ấy hỏi tôi cách xuống đáy núi Nùng, và làm thế nào móc nối được một người dẫn đường... Tôi giới thiệu một tay xưa là đặc công, từng xung phong vào chiếm Tân Sơn Nhất ngày Giải phóng!"

"Rồi sao, anh?"

"Sau th́ tôi đi xa nên không biết ǵ thêm. Nhưng anh đợi tôi hỏi thăm cô bé Trang xem sao. Tôi gặp anh ấy uống bia với cô Trang chỗ nhà Thủy Tạ ở ven hồ... Chỉ sợ cô ta về quê rồi!"

"Vâng, mong anh giúp cho. Tôi lo, anh ấy... có vẻ không mấy b́nh thường!"

"Lo ǵ cơ?"

Không muốn nhắc đến những bức mail quái lạ, tôi bịa:

"Anh tôi bị tiểu đường, thuốc insulin mang theo lại hết!"

"Ở đây th́ cứ có đô xanh là cái ǵ cũng có..."

*
*    *

Đầu tháng 6, Hà Nội là ḷ lửa nung cho thân người chảy thành nước. Ngủ không được. Tôi dậy từ lúc trời c̣n chập choạng tối, lên sân thượng khách sạn ngồi. Nh́n xuống, nước hồ Hoàn Kiếm lóng lánh gợn ánh đèn quanh hồ, tháp gươm mơ hồ ẩn hiện. Bên kia, chiếc cầu sơn đỏ bắc vào đền Ngọc Sơn nh́n như vành môi mếu xệch của một thiếu phụ mỏi ṃn. Thỉnh thoảng, dăm ba người lầm lũi bước, bóng khấp khểnh trên hè phố. Ḷng đường vắng xe an b́nh chứ không dọa dẫm, và thật là thần tiên khi tai không nghe tiếng xe máy khằng khặc hầu như suốt ngày, từ sáng sớm cho đến quá nửa đêm.

Quái, có tiếng gà gáy nghe ngay giữa thành phố. Trời sáng dần. Bóng người lao chao trên con đường ven hồ. Hàng đoàn, họ đi ngược, đi xuôi. Tiếng người bắt đầu xôn xao. Tôi xuống đường, nhập vào đám đông, đi theo đoàn người chuyển động theo chiều kim đồng hồ. Họ bước những bước dài, hít thở theo nhịp chân, nét mặt c̣n chút thư giăn đầu ngày. Ở những quăng rộng, có người chăng lưới đánh cầu lông. Gần nhà Thủy Tạ, hơn ba chục người xếp thành ba hàng, tay đưa lên, chân co vào, chuyển ḿnh theo tiếng của ai đó gọi tên thế múa những bài quyền Thái Cực. Tôi bước. Người bên cạnh bước. Người đằng trước bước. Người đằng sau cũng bước. Thật an toàn khi có những người hệt như ḿnh, cùng một động tác, cùng một hướng đi. Khỏi phải nghĩ. Cứ thế mà tiến đến phía trước, như mọi người. Cùng với mọi người. Cảm giác chỉ là một thứ hạt cơ bản quay ṿng ṿng mà không cần ǵ đến ư thức khiến tôi lâng lâng bay bổng. Cứ thế, tôi để tâm trí trống rỗng trên quỹ đạo những bước chân ṿng ṿng quẩn quanh, cứ đúng 30 phút lại quay lại khởi điểm là chân cầu Thê Húc.

Đi đến ṿng thứ sáu, hạt cơ bản bị một cái sốc ngoại sinh. Đó là một con bé con khoảng mười hai, mười ba tuổi. Tôi từng thấy nó lê la ở góc phố Hàng Trống và Bảo Khánh, nơi tôi ghé uống cà phê mỗi sáng. Không biết từ lúc nào cái hạt bé bỏng đó bước theo bước chân tôi, nhưng đến ṿng thứ sáu nó mới níu áo tôi lại, miệng nói:

"Chú không mệt hả?"

Tôi chậm chân, lắc đầu. Vẫn bước, tôi bảo:

"Mỗi sáng đi bộ thế này tốt lắm... Nhất là khi chưa có xe cộ, không khí c̣n thở được!"

"Chú cho cháu tí tiền ăn sáng nhé. Nó ráo hoảnh - ... đi theo chú đến đói ră họng ra, tí nữa th́ hụt hơi!"

"Ai bảo theo mà theo..."

Tôi ngừng bước, tay móc tiền đưa cho con bé năm ngh́n.

"Có thế thôi hả chú Việt kiều?"

Cơn bực ḿnh ở đâu ùa đến. Làm sao nó biết ḿnh là Việt kiều? Năm ngh́n chưa đủ th́ bao nhiêu mới đủ? Tôi nh́n vào mặt con bé. Nó đen đủi, mắt to, mũi hơi hếch, tóc kẹp, miệng hé ra cười duyên.

"Sao mày biết tao Việt kiều? Bát phở Th́n ở bên kia đường chỉ tám ngh́n, cho mày năm mà c̣n chưa đủ à?"

Con bé nghếch mặt:

"Chú Việt kiều th́ dễ biết quá, chỉ Việt kiều mới ở khách sạn. C̣n như muốn ăn bát phở th́ không đủ, chú biết đấy. Nó ch́a tay, giọng nũng nịu - chú cho thêm ba ngh́n đi!"

Tôi lắc đầu, giật áo bước đi không ngoái lại. Loa phát thanh của khu phố lúc đó oang oang đọc tin buổi sáng. Tôi không nghe. Và h́nh như cũng chẳng ai nghe, người đi bộ vẫn bước, người múa quyền Thái Cực vẫn co chân giang tay. Đám đánh cầu lông căi cọ được thua, có kẻ sẵng giọng văng tục. Anh công an đứng nh́n, tủm tỉm cười. Xe máy bắt đầu lượn ṿng, mùi xăng xông lên. Tôi đến góc Lê Thái Tổ và Bảo Khánh. Một cụ bà lưng c̣ng nhấp nhổm qua đường, mắt toét nhèm, đầu lắc lư nh́n ngang nh́n ngửa. Tôi bảo cụ nắm tay cháu, ta cùng qua. Bà cụ gật gật. Nhưng trong ḷng đường, tôi nhích lên một bước rồi lại phải lùi xuống. Những chiếc xe máy cứ vùn vụt lao thẳng tới. Con bé con ở đâu lại xồ ra. Nó gọn lỏn "...Theo cháu" rồi cứ thế đi qua đường, không thèm nh́n trái, nh́n phải. Bà cụ hấp tấp chạy theo. Con bé đặt chân lên hè phố bên kia th́ tiếng phanh rít lên, tiếng va đập và một tiếng kêu ối giời ơi, sau là tiếng chửi. Tôi xoè tay ôm mặt không dám nh́n, chỉ nghe tiếng chân người chạy. Và tiếng công an huưt c̣i.

Vào quán cà phê tôi vẫn đến ngồi đợi tin Thụy, lại thấy con bé quanh quẩn. Nó bảo "Xe cứu thương đến đưa bà cụ đi rồi, nhưng chắc chẳng sống được!". Tôi làm như không nghe thấy, mở Palm ra t́m e-mail.

HAI

23-02

...ñ

ă tưởng chết. Cuộc hồi sinh nào chắc cũng chỉ ngỡ ngàng đến thế, hệt như khi mở mắt sau một cơn mê. Hiện thực là những móc nối của trí nhớ. Nhớ mầu xanh cây rừng, mầu bạc những đám mây xa. Nhớ vị chát của trái sung chưa chín. Nhớ hương thiên lư thoang thoảng. Nhưng nhớ nhất, là tiếng người, thứ âm thanh mà không c̣n th́ chắc chẳng c̣n ǵ lưu luyến.

Trùm B (mắt quắc lên, tṛng sâu hoắm, răng ch́a ra khi nói): "Này anh bạn, anh không vào đây đào vàng th́ anh t́m ǵ?"

"Tôi... tôi nói chắc chẳng ai tin."

"Anh cứ nói, nhưng đừng lươn lẹo!"

"Tôi đi t́m cái vật quư hiếm có khả năng Bảo Quốc Hộ Dân..."

"Cái vật đó là cái ǵ?"

"Tôi chưa biết. Nhưng bạn tôi kể, trong giấc mơ, cái vật đó sáng lên. Nâng nó và khấn một trăm vị Bồ Tát, khi nghe có tiếng gọi từ không trung th́ chính là nó..."

Trùm B chẳng nói chẳng rằng, đến bên cạnh, th́nh ĺnh giang tay tát, miệng quát:

"Tổ cha mi, nói láo!"

Tôi không thấy bóng dáng trăm vị Bồ Tát, nhưng rơ ràng có ít ra cũng vài chục con đom đóm bay lượn trước mắt. Tai lùng bùng, tôi nghe Trùm B ra lệnh nhốt tôi vào ngục A T́. Quay nh́n một tay vác súng AK đứng xớ rớ, Trùm B bảo:

"Mày thông báo và gọi họp để Trung ương xử lư nghe chưa!"

Ngục là một cái lỗ rộng đường kính nửa thước, sâu một thước, nước ứa lên từ mặt đất ngập đến mắt cá chân. Tôi bị trói cánh khuỷu, ngồi thu lu th́ một tên đến đậy lên cái lỗ một phiến gỗ. Trong bóng đen, trí óc tôi hầu như tê liệt. Mất thị giác, hầu như tôi không c̣n ư thức về không gian. Có lẽ từ đó, thời gian cũng không c̣n. May, tôi vẫn giữ được thính giác. Tai tôi vẫn nghe thấy tiếng lũ khỉ chí choé đâu đó. Măi sau, có tiếng côn trùng rỉ rả. Thế là đă đêm rồi. Cái lạnh đâm vào tứ phía, ngấm dần, thấu xương. Răng tôi đánh lập cập. Co người, tôi thu ḿnh, chỉ mong sao quên được giá buốt của rừng. Chắc mai này bọn Trùm sẽ hỏi cung. Cái vật quư hiếmấy là ǵ, tôi không biết. Trả lời chúng thế nào? Hay giả điên, có thể chúng sẽ tin mà thả tôi chăng?

Ôi chao, vẫn lạnh! Ư thức run lên theo nhịp răng lập cập báo sự tồn tại đang có vẻ gặp vấn đề! Hăy tưởng tượng. Tôi, một con người tiền sử. Làm sao thổi cho lửa lên? Lấy hai ḥn đá, đập vào nhau mong cho lửa bén vào đống lá cây khô. Nào, ta đập. Hăy nhắm mắt h́nh dung ra nhoáng lửa, tai nghe tiếng chan chát của đá cứu rỗi. Ở giây phút này, đá là vật quư hiếm. Lửa nhoáng lên, nhưng đống lá vẫn cứ trơ trơ lănh cảm. Ừ th́ thế, thôi làm cách khác. Chẳng sách vở văn chương bảo t́nh có lửa à? Thế th́ tôi sẽ đốt đống lá khô này bằng lửa t́nh. Tôi sẽ nghĩ đến những Ánh, những Liên, những Thanh, những Nguyệt... đă từng làm tôi choáng váng, đau khổ, thương nhớ, hận thù... Tôi tưởng ra những đôi chân thon quặp vào lưng, những cặp vú bồng bềnh căng nứt áp vào miệng, những làn môi hé mở đợi chờ, những cái oằn ḿnh nưng nẩy hất ngược lên... Rồi những lời oán trách, giận hờn, những câu chia tay bạc bẽo. Vô vọng. Vẫn cứ lạnh. Lửa t́nh thế giỏi lắm th́ cũng chỉ gầy được khói. Nhà văn nào tôi quên mất tên ví von nó đốt cháy cả một cánh rừng là nói xằng.

Có tiếng gà rừng. Gà rừng gáy không như gà chuồng, vừa gáy vừa bay nên lẫn vào tiếng gáy là tiếng đập cánh. Ờ, tự do nên có khác thật. C̣n tôi, tù nhưng sáng ra, sẽ đỡ lạnh. Vả lại, tôi sẽ được biện bạch trước đám Trùm. À, c̣n cái phương án giả điên tôi nghĩ tới nhưng chưa đào sâu, nay phải bới lên mọi hậu quả...

Quẳng xuống cho tôi một mẩu bánh ḿ, tên khoác AK nói trống không:

"Ăn đi, rồi sửa soạn "làm việc" nghe chưa!".

Khổ là nó quên cởi trói cho tôi, không có tay th́ ăn thế nàođược. Nhưng nào tôi có đói đâu. Tôi ngẩng mặt nh́n trời xanh. Và tự nhủ, dẫu ǵ th́ cũng phải t́m cho bằng được cái vật quư hiếm kia. Đầu tiên là thuyết phục bọn Trùm cái vật đó có thực. Phương án này, về mặt nổi, chẳng khác mấy phương án giả điên. Hiện tượng là một, nhưng bản chất, khác. Nhất định khác. Vâng, v́ tôi tin nó có thật. Và chúng ta trên mảnh đất này sẽ được cứu rỗi.

Tôi bị điệu đến trước mặt ba tên. Trùm B, tôi đă ăn từ tay hắn một bạt tai hôm qua. Nay thêm hai. Trùm C miệng sặc mùi rượu, mắt nh́n tôi lừ lừ, mép xệch xuống, tay cứ đưa lên ṿ đầu. Trùm c̣n lại, tôi gọi là Trùm A v́ hắn có vẻ như là bề trên hai Trùm kia, người rắn chắc, mắt đeo kính cận, môi lúc nào cũng mím lại. Sau, tôi mới biết Trùm này từng là anh hùng diệt Mỹ thời chiến tranh, đi Liên Xô dưới dạng xuất khẩu lao động, buôn lậu thuốc lá qua Ba Lan và "lỡtay" giết hai tay cảnh sát biên pḥng nên phải lưu đào, cuối cùng hồi hương mà vẫn trắng tay.

Trùm C:

"ĐM, chừ mi không nói cho thiệt th́ tau cho nếm cái này", tay đập khẩu súng Colt lên mặt bàn đánh rầm.

Trùm B:

"Hôm qua mi gọi cái chi đó... mà là tiếng Tầu. Nhắc lại coi..."

"Vật quư hiếm Bảo Quốc Hộ Dân", tôi vội nói.

Trùm C (quay nh́n Trùm A):

" ... Là cái chi vậy, sếp?"

Trùm A (nhẩn nha):

"Bảo như bảo vệ, tức là giữ. Hộ... (cau mày, ngẫm nghĩ) th́ như bảo hộ, ủng hộ... tức là giúp, là đỡ đần... Cái vật quư hiếm đó là giữ được nước, đỡ cho dân..."

Trùm C:

"ĐM... giữ với đỡ những thứ đó th́ được ǵ (tay đập đập vào túi) mà quư với hiếm, cha nội!"

Trùm A (nghiêm trang, tay đưa ra cái hộ chiếu của tôi bị Trùm B tịch thu hôm qua):

"Anh là Việt kiều Canada, phải không?"

Nh́n tôi gật đầu, hắn tiếp, giọng vẫn nhẩn nha:

"Người đời đến đây là đi t́m vàng, anh th́ không, lại nói rằng đi t́m một thứ quư hiếm mà chính anh cũng chỉ nghe nói và chưa biết nó là cái ǵ... Anh có thấy thế là kỳ quặc không?"

Tôi lắc đầu, bắt đầu biện bạch. Quư hiếm mà nhan nhản để ai cũng thấy, cũng biết th́ quư hiếm ở đâu. Không để cho người nghe phản ứng, tôi cao giọng, con ngựa có cánh biết bay trong tranh Tây Phương kỳ quặc thế mà người đời trân quư cất trong những viện bảo tàng. Con khỉ Tề Thiên giứt lông thổi phù phù trong truyện Tây Du biến thành trăm con khỉ khác để bảo vệ thầy Đường Tăng đi thỉnh kinh Phật kỳ quặc thế mà khối người đọc, từ thế hệ này qua thế hệ khác, chẳng phải chỉ ở Trung Quốc mà c̣n ở nước ta, th́ rơ ra là càng kỳ quặc càng quư hiếm, và càng quư hiếm càng không thấy được. Một động lực vô h́nh thúc tôi đứng dậy. Giọng dơng dạc, tôi nói về đất nước chúng ta đang thời kỳ phấn đấu mở ra hội nhập vào thế giới, với nào là WTO, nào là ASEAN, nào là Quy chế Thương mại b́nh thường vĩnh viễn với Mỹ... th́, tôi đánh tay để nhấn mạnh, ở vị thế nước mới phục hồi sau chiến tranh, ta yếu, và nhiệm vụ giữ nước, tức là Bảo Quốc, tất là trọng yếu. C̣n Hộ Dân ư? Có nước nào mạnh mà dân nước đó nghèo khó, khốn khổ, sợ sệt đến nem nép, đàn ông chỉ biết nhậu, đàn bà th́ nhấp nhỏm lấy chồng nước ngoài như Đài Loan, Singapore, Malaysia, Nam Hàn... không? Ấy, tôi hạ giọng, hộ dân trước tiên là làm sao giữ được phẩm cách con người, thôi coi ḿnh là một món hàng rao bán, giá lên xuống theo kinh tế thị trường... Đến đây, tôi chưa biết nên tiếp tục thuyết giảng thế nào th́ Trùm B ngáp, răng ch́a ra:

"Mẹ... thằng cha này chắc chập dây hóa rồ, nói nghe như mấy ổng trên Ủy ban giảng nghị quyết... Mấy anh tính sao?"

Nh́n qua bên cạnh, Trùm C mặt gục xuống bàn, miệng ngáy, nước giăi chảy ra ướt nhèm. Không đợi Trùm A đáp, Trùm B quày quả bước đi, nói với lại:

"Sếp tính chi th́ tính, số đô thu được chia cho đều là nếp sống văn minh, nghe sếp!"

Trùm A gật, đưa tay làm dấu cho tôi đi theo...

*
*     *

Con bé đến sát lớp kính ngăn quán nước với con đường đầy bụi, tay đập, miệng há hốc ra nói như gào. Nhưng tôi không nghe được ǵ. Nó chỉ tay về phía sau. Một người đàn bà trạc trên dưới bốn mươi đứng nh́n, nhoẻn miệng cười, tay ra dấu chỉ vào cái ghế trống trước mặt tôi. Không đợi tôi phản ứng, bà ta đi ngay lại lối ra vào, mở cửa, đủng đỉnh đi tới chỗ tôi ngồi. Đó là một người đàn bà cao ráo, quần xệ hở rốn, môi thoa son đỏ, mắt kẻ viền đen, mi cong, bôi phấn xanh quanh tṛng, giày cao đến độ khó đi nhanh nên phải bước từng bước nhỏ. Nàng tươi tắn, giọng điệu đàng:

"Anh cho phép em nhé. Em cám ơn anh cho cháu tiền quà sáng. Nh́n tôi gạt tay ư bảo chẳng có ǵ, nàng tiếp - người tử tế bây giờ hiếm lắm, cháu kể là em muốn đến chào hỏi làm quen với anh ngay... Tay chỉ về phía con bé lảng vảng bên đường, nàng ngậm ngùi... - Ấy con không cha như nhà không nóc anh ạ. Anh ở nước nào về vậy?"

Tôi chưa trả lời th́ nàng thân mật vỗ tay tôi, nhí nhảnh:

"Để em đoán nhá, anh nhá. Nh́n tôi như định giá, nàng trề môi - Singapore này, đúng chưa?"

Tôi lắc. Và nàng đưa ra một chùm địa danh, từ Đông Âu cho đến Bắc Mỹ. Tôi ngắt lời bằng cách thả thơng - Canada. Nàng phá lên cười, giọng càng hồn nhiên:

"Biết ngay mà, trắng trẻo thế này là phải tới từ Bắc Cực... Em nghe nói ở đó có gấu lông trắng vừa đẹp vừa hiền, anh nhỉ... Vừa nói nàng vừa vô t́nh đặt tay lên đùi tôi, khúc khích -... có nuôi được gấu như chó bên ḿnh để coi nhà không anh?"

Tôi gật, thừa biết lắc hay gật cũng vậy. Thản nhiên, nàng vẫy nhân viên phục vụ quán nước, gọi một ly trà Lipton. Rồi nàng hỏi tên tôi. Và cứ thế, nàng kể gia cảnh ḿnh. Chồng nàng đi xuất khẩu lao động sang Đức, hai năm nay không có tin, nghe đâu đă kết duyên mới với một chị người làng cùng cái cảnh "trơ trọi xứ người", một lư do tất nhiên không chính đáng để hắn phụ giẫy mẹ con nàng, hai sinh vật trung thành vẫn tha thiết đợi hắn cho đến lúc không có cách nào khác là phải, theo nguyên văn lời nàng, "quên mẹ nó đi, anh ạ!". Nh́n sâu vào mắt tôi, nàng ngọt ngào:

"Thế anh đă có gia đ́nh chưa?"

Tôi gật, và chép miệng. Nàng cười:

"Mới có ba ngày mà đă nhớ vợ rồi ư? Chính chuyên đến thế cơ à! Giọng thương hại, nàng tiếp - Anh ơi, chớ buồn, cuộc đời ngắn ngủi lắm đấy, vù một cái là xong... Anh về đây mà phải ở khách sạn, thật là tội, lại tốn tiền!"

Ngạc nhiên, tôi hỏi, đi xa ở khách sạn là b́nh thường chứ ở đâu bây giờ. Nàng mím môi:

"Khách sạn toàn là của bọn tư bản "người bóc lột người" đấy. Nơi anh ở là của một Soái lớn từ Liên Xô về xây. Nó cắt cổ anh mà anh không biết... Em t́m cho anh chỗ hay hơn, máy lạnh có, ăn uống những món dân tộc, giá chỉ chưa đến một nửa... Anh "bao" đi, em lo hết!"

Tôi ngần ngừ. Nàng ngồi sát vào tôi, tay lại để lên đùi tôi, nhỏ nhẹ:

"Bao em, th́ em sẽ là "của" anh thời gian anh ở Hà Nội này..."

"Của là của thế nào?", tôi hỏi, chắc ngớ ngẩn đến độ nàng ph́ cười.

"C̣n thế nào nữa. Tất tần tật. Em thay chị nhà anh một trăm phần trăm. Cơm bưng nước rót, muốn ǵ được nấy, phục dịch ngày đêm, bảo đảm vệ sinh an toàn... Nàng vuốt ngược đùi tôi, chau mỏ - Em có giấy bác sĩ mới tuần trước, chẳng bệnh tật ǵ sất... C̣n chỗ ở, khu Nghĩa Đô, nhà xịn mới xây, một tầng lầu hai pḥng là thuộc về "chúng ḿnh", máy lạnh, nước nóng, giường chăn đủ cả... Ngày, mười đô thôi, chuyên chở có một chú taxi, thêm năm đô, ngày ngày đưa ḿnh vào nội thành, đi chơi xa th́ hợp đồng thêm..."

"Thế sau đó th́..."

"Phần em, v́ anh tử tế với con cháu nhà em, em cảm động lắm... Xem nào. Nàng nghĩ ngợi, rồi nắm tay tôi - anh lại "hợp tạng" em, nên thế này nhé, anh cho bao nhiêu em xin, chẳng dám ṿi ǵ..."

Máu thực dụng của kẻ sống nước ngoài khiến tôi cẩn thận:

"Nhưng không thế được... Em thấy bao nhiêu th́ đủ!"

Nàng nghiêm trang, ngồi thẳng lên, giọng trầm xuống:

"Tháng này em có nhiều việc phải tiêu... Nàng thở dài - thôi th́ em xin anh tám chục mỗi ngày! Vị chi anh cứ cho là trăm đô, kể cả tiền em đi chợ nấu cho anh ăn. OK chứ?"

Tôi chột dạ. Mặc cả thế là đẩy câu chuyện đi quá xa. Thấy tôi ngần ngừ, nàng đứng lên:

"Chẳng dám ép anh, trăm đô cho một ngày thiên đàng ở Hà Nội này là rẻ đấy! Bên Cali, chỉ ăn hai bữa xoàng xoàng cũng hết trăm đô..."

Nói dứt lời, nàng nguưt dài rồi yểu điệu bước đi, nh́n khinh bỉ, mặt không thèm giấu nét sưng sỉa. Con bé con nàng đứng chờ ở cửa. Nó giơ tay, làm cái tác động như để nói "Thế là hỏng ăn rồi, hở mẹ!".

Chiếc Palm lại bần bật rung trong túi quần. Tôi mở chiếc điện thoại di động: Tin nhắn của Thụy, hẹn 6 giờ chiều lên một hàng ăn ở Tây Hồ.

*
*    *

23-02

... Luồn lách cây rừng chi chít được đâu nửa giờ, chúng tôi đến trước một căn nhà mái lợp gianh. Trùm A bấy giờ mới cất tiếng:

"Khu này tôi trông nom an ninh, bảo đảm với anh an toàn tối đa. Sau này, chỉ yêu cầu anh một điều: đừng bao giờ, tôi nhấn mạnh, đừng bao giờ nhắc đến nó khi anh quay về sống với thế giới bên kia..."

Nghe bốn chữ thế giới bên kia, tôi rùng ḿnh. Có phải hắn có ư bảo là thế giới người chết, cái cơi âm vất vưởng những linh hồn không siêu thoát? Tôi gặng hỏi:

"Thế giới bên kia là thế giới nào?"

"Hừ... là cái thế giới từ đó anh đến khu đào vàng này. Nhưngđừng quên, tôi bảo khi anh về sống với thế giới bên kia... Chắc ǵ anh về. Và biết có sống được hay không!"

Tôi lại rùng ḿnh, da nổi gai. Chừng như thấy tôi sợ, hắn trấn an:

"Tôi th́ tôi mong anh sống, anh biết tại sao không?"

- ???...

"V́ cái anh t́m! Kẻ đến đây đăi vàng th́ có được bao nhiêu. Giỏi cũng chỉ 1, 2 lạng sau khi phân kim, lại chia cho dịch vụ an ninh chúng tôi 30%..."

"Dịch vụ an ninh?"

Trùm A giảng giải:

"Th́ cũng bắt chước như thế giới bên kia thôi, nhưng khác một điều là chúng tôi hợp đồng minh bạch chứ không chơi cái cách tham nhũng đâu nhé. Và chúng tôi nghiêm chỉnh áp dụng rốt ráo tiêu chí xă hội văn minh công bằng..."

Chép miệng, hắn tiếp:

"Nhưng quay lại cái vật quư hiếm nhé. Anh t́m, lại chưa biết nó là cái ǵ, th́ c̣n quá đáy biển ṃ kim, nhưng bảo không thể t́m được th́ không đúng, phải không nào! Thế có chi khác chuyện tin vào ông Thượng Đế th́ được cứu rỗi, dẫu là chỉ trong muôn một... Cũng có thể v́ thế nên anh rửng mỡ đi t́m, dẫu anh đang sống b́nh an trong một xă hội đi trước đất nước này hàng trăm năm, đúng chưa?"

Tôi nghĩ đến kiểu đặt cược của Pascal, im lặng gật đầu, thầm cảm phục một người không lư giải quằn quại mà cũng vẫn t́m ra được cách khu xử hợp lư của một triết gia hạng nhất trên thế giới này ba trăm năm có lẻ. Trùm A mỉm cười, thân mật vỗ vào vai tôi. Lúc đó tôi mới dám nh́n thẳng vào mặt hắn. Xương xẩu, lưỡng quyền nhô lên, má trái có một vết thẹo chạy từ màng tai xuống đến cổ, tṛng mắt sâu hoắm lấp loé sau cặp kính trắng khiến hắn mang dáng dấp trí thức tỉnh lẻ hơn là một tên lục lâm thảo khấu bao che chuyện đào vàng. Th́nh ĺnh, hắn nghiêm giọng:

"Giả như t́m thấy, đề nghị ḿnh chia đôi nhé, chỉ anh với tôi thôi. Đám Trùm kia thu được tiền đô của anh là chúng hài ḷng rồi. C̣n như có cái vật quư hiếm Bảo Quốc Hộ Dân ấy th́ bán cho ai? Bán thế nào?"

Lặng người đi, tôi, một kẻ mơ mộng, nào có nghĩ đến chuyện rao bán cái giữ được nước, cứu được dân. Thấy tôi im, hắn lẩm nhẩm:

"Cái phần Bảo Quốc có thể chuồn cho các vị lèo lái thế giới bên kia, nhưng họ chắc không mua cái Hộ Dân đâu... Hộ dân th́ họ c̣n ăn uống thế nào được nữa! Món này khó tiêu thụ... Hừm, để xem."

Bóp trán, mắt lim dim, vết thẹo trên má hắn phập phồng như thở. Lát sau, phá lên cười, hắn reo:

"... tớ biết chỗ bán rồi, tớ là thiên tài. Vồ vai tôi, hắn nắm chặt, lắc lắc - đoán thử xem!"

Không để ư đến tôi nhăn mặt v́ đau, hắn nói như hét:

"Này, tớ bán cho ban lănh đạo láng giềng nhé. Chúng nó mua rồi quẳng đi, thế là ăn đứt được nước ḿnh mà chẳng tốn quân, tốn của, và mang tiếng "bá quyền"! Đấy, thần t́nh chưa - hắn vỗ ngực, giọng phấn khích - một sáng kiến kết hợp nhuần nhuyễn kinh tế và chính trị toàn cầu!"

Gỡ tay hắn ra, tôi nhẹ giọng đến như van vỉ:

"Phải t́m đă chứ, tay trắng th́ bán ǵ?"

"Đúng! Lấy lại b́nh tĩnh, hắn thở ra - Nhưng t́m phải có kế hoạch. Và tổ chức. Hắn lẩm bẩm như nói một ḿnh - phải chođi kiếm Ensara... về trợ lực."

Quay nh́n tôi, hắn nói như ra lệnh:

"Mai chúng ta khởi công! Hôm nay nghỉ lấy sức... Chỗ t́m ra vật quư hiếm ấy, tôi biết!"

*
*     *

Vừa bước chân vào nhà hàng ăn uống nằm ven hồ, một cô tiếp viên tươi như hoa đă ra đón, hỏi tên tôi, trịnh trọng nói: "Xin quư khách theo tôi". Men lối đi trên bờ nước, tôi được đưa đến trước một căn pḥng, cửa đề chữ VIP đỏ, đằng sau có tiếng cười đùa rôm rả. Cô tiếp viên nghiêng ḿnh, giọng văn minh có định hướng kinh tế thị trường, ngượng ngập "Xin mời" rồi đẩy cửa. Không khí mát rượi trong pḥng ùa ra. Chưa nh́n thấy ǵ th́ một vị chạy lại, và mặc dầu tôi chẳng biết là ai, anh ta thân t́nh quàng vai, miệng nói, chà chà, đợi anh măi đấy. Một thiếu nữ rất xinh đưa tay vẫy tôi khi được giới thiệu, tên là Nhất Phương. Một vị, chừng thất thập, tóc dài nhuộm đen, miệng lún phún râu, gầy g̣ trong bộ áo choàng vàng kẻ dọc xanh đứng lên đến bắt tay tôi, nói bằng tiếng Pháp "vous êtes bienvenu, cher ami" rồi vẫy Nhất Phương, đẩychongồi cạnh tôi. Và sáu bẩy vị khác, tuổi từ ba đến năm mươi, đều là những nhà văn nhà thơ, tự kể tên nhưng than ôi, tôi chỉ là một kẻ thực dụng chẳng để ư đến chữ nghĩa, đành chỉ cười cười cúi đầu chào thật lễ độ. Sau đó, ai cũng nói một câu thế nào cho tôi hiểu là họ đều quen biết hắn, thằng anh hờ trời đánh thánh vật tôi phải cất công về đây t́m. Tôi nh́n quanh nhưng không thấy Thụy, quay sang hỏi Nhất Phương th́ nàng đáp không biết là Thụy cũng hẹn đến đây. Vị đứng tuổi, nhà thơ cách tân đầu đàn ghé vào tai tôi, mủm mỉm cười:

"Toa cứ gọi moa là anh, như mọi người chứ đừng theo tuổi tác mà gọi moa bằng chú nhé. Anh em ở đây ai cũng gọi moa bằng anh. Cứ kể cái tính chứ đừng đếm tuổi, dễ moa c̣n trẻ hơn họ đấy. Moa có tiếng là "lăo ngoan đồng" Châu Bá Thông của nền văn hóa bản địa..."

Nhà thơ lảo đảo đứng lên, tay nâng ly, nói lớn:

"Nào, cụng ly uống mừng buổi hội ngộ hôm nay nhé!"

Thế là tiếng thủy tinh loại vừa rẻ vừa bền lạch tạch như pháo chuột vang lên. Rượu là rượu trắng, gọi là Vodka-ta, khá đầm. Uống đệm, có mấy thùng bia Heineken, tiếng mở nắp chai lốp bốp. C̣n món nhậu, th́ ếch, nhái, và đặc biệt là ḅ tùng xẻo. Nhất Phương ríu rít:

"Em xẻo thịt, anh nhé!"

Nghe xẻo thịt anh, tức là mất cái dấu phẩy trong một câu thoại, tôi giật ḿnh ôm lấy cánh tay như một phản ứng tự vệ. Phương tưởng tôi đùa, cười:

"Xẻo thịt ḅ cho anh ăn, đừng lầm mà ăn phải thịt em nhé..."

Nhà thơ cách tân chồm qua, nói bô bô:

"Thịt em th́ phải ăn tươi chứ. - Cười hô hố, ông ta tiếp: - Nhất Phương là thiên nhất phương trong thơ Tô Đông Pha đấy, toa người Tây học có biết là ai không?"

Thấy tôi lắc đầu, nhà thơ cách tân hạ giọng:

"Moa biết, mấy toa giỏi thơ Tây thơ Mỹ chứ mấy cái món cổ th́ nào có để ư. C̣n moa, nói thật nhé, ông cụ đẻ ra moa là thầu khoán, gia đ́nh gốc tư sản nên đi học trường của Pháp từ thời trước 45, may có chút chữ Hán ông nội moa bắt học thuở bé nên mới giữ được chút truyền thống. Mười bốn tuổi, moa mê Lamartine, mê Chateaubriand... rồi khi đọc Beaudelaire th́ moa lập chí làm thơ!"

Tôi gật gù. Kể thật lạ, kỳ trước tôi về nước cách đây đâu mười năm, người đâu đâu cũng bảo ḿnh gia đ́nh vốn ba đời là nhà nông cấy thuê không ruộng không đất. Bây giờ, chỉ mới ba ngày qua, nghe ai cũng khoe gốc họ nếu không tư sản th́ đều là con cháu quan lại thời nhà Nguyễn. Tôi nốc vội ly rượu để quên thắc mắc. Nhà thơ cách tân ghé vào tai, rù ŕ:

"Ngôn ngữ là một điều kỳ lạ. Bất cứ thứ tiếng nào moa học cũng nhanh, và moa cảm ngay cái hồn của nó. Đọc thử toa nghe một vài câu moa làm nhé... La tendre folie... dans cette vie... Ce rêve fantasmagorique... d’une fraicheur frigorifique..."

Tôi chưa dám nói ǵ, Nhất Phương đă xuưt xoa:

"Em nghe có vần như thơ Đường. Nh́n tôi, nàng nói - chả là em đang du học ở Thượng Hải về điện ảnh nên tiếng Trung Quốc bây giờ em cũng tàm tạm, nghe thơ có vần là em biết ngay... Này nhé, em nói sai th́ anh sửa... phôli vần với vi. C̣n cái vần sau là ích... phải không?"

Không dám gật đầu, tôi nh́n sang nhà thơ cách tân, tảng lờ bằng cách nâng ly uống mừng. Mừng ǵ đây? Nhà thơ cách tân vừa cười vừa hỏi. Nhất Phương đáp hộ ngay:

"Th́ mừng cho sự hội nhập Đông - Tây chứ c̣n ǵ nữa! Nàng khúc khích, nâng ly, tay kia giơ lên, miệng ḥ - Nào... zô nhé!"

Thế là zô, zô... Tôi uống, và cứ thế, uống mừng cái này, mừng cái kia như thể cuộc đời cũng đang mừng vui nhộn nhạo.

Trời về chiều, hoàng hôn lướt trên mặt hồ như một tà áo đỏ vờn bay trên mặt nước óng ánh. Ô hay, sao không thấy Thụy. Tôi lại hỏi Nhất Phương. Nàng béo má tôi, cười, có em đây th́ cần ǵ đến ai. Và nàng lại rót, tôi lại uống, cứ thế...

Khi tôi tỉnh dậy th́ không c̣n một ai trong căn pḥng VIP. Giụi mắt, tôi ngơ ngác nh́n một nhân viên nhà hàng vỗ khẽ vào vai, đánh thức tôi dậy để tôi thanh toán cái hóa đơn ăn mừng vừa rồi. Tôi bấm máy gọi cho Thụy. Tiếng anh ta ngạc nhiên:

"Tôi nào có hẹn anh đâu!"

Một lát sau, Thụy phóng xe đến đón tôi về. Nh́n tôi, Thụy nói:

"Anh xem cái tin nhắn gửi đến anh là ai gửi!"

Quả thực không phải Thụy gửi mà là địa chỉ mail lạ hoắc. Gửi ngược về địa chỉ đó, chúng tôi mới biết đó là một trạm Internet trên phố Trần Hưng Đạo. Thụy bực bội:

"Tôi hỏi đám bạn quen tin về ông anh của anh, đưa số e-mail của anh cho một vài đứa để có ǵ chúng nó thông báo thẳng với anh... Nhưng thằng nào chơi cái tṛ "ăn chạy" này?"

Vỗ vai Thụy, tôi bảo chẳng có ǵ đáng để quan tâm. Và hỏi, Trang ở đâu?

*
*    *

23-03 (tiếp)

... Buổi trưa hôm đó, tôi được phép đi quanh quẩn trong khu vực Trùm A phụ trách an ninh dưới sự giám sát của một bảo vệ, hệt như là ở thế giới bên kia. Nắng gay gắt, trời lại không gió, nóng đến mờ mắt, nhưng đám người đăi vàng vẫn say sưa, kẻ xúc, người sàng, đổ nước rửa cát, rửa đá ven một con suối cạn, giơ lên ngắm nghía, lắc đầu hoặc gật gù tùy cái may mắn trời cho. Họ đi từng ê-kíp ba, bốn người, lúc nào cũng có một người lănh nhiệm vụ canh chừng. Anh bảo vệ giảng giải:

"... Ở đây rất dễ bị cướp, lắm khi bảo vệ tụi tôi không can thiệp kịp. Nghèo nên tham mà anh! Bắt được cướp, tụi tui bắn bỏ liền. Mấy xếp trong Trung ương dặn, ḿnh kiếm ănđược là v́ giữ an ninh trật tự nghiêm minh!", rồi cười hề hề.

Tôi nh́n anh, hỏi: "Kiếm khá không?". Th́ thào, anh hạ giọng:

"Bí mật nghe! Ḿnh lấy từ 30 tới 40% lượng đá có quặng vàng. Nếu người đào vàng khoán cho ḿnh phân kim th́ ḿnh lấy 20% lượng kim. Ngoài ra, khi phân chia lô đểđào, mỗi lô ḿnh "thuế" từ một tới hai trăm ngàn đồng mỗi ngày, tùy lô tốt xấu... Bảo vệ tụi tui đứa được triệu hai cho tới triệu rưởi một tháng, mà là tiền Việt Nam ḿnh nghe..."

Không thấy phụ nữ đi đào vàng, tôi thắc mắc. Anh bảo vệ chém tay vào không khí, quả quyết:

"Có mấy bả, chắc tụi tui lại phải lo luôn chuyện ghen tuông lang chạ. Hồi ban đầu, có mấy bả, xảy ra lắm vụ mấy bả kêu là hăm hiếp, phức tạp lắm. Ông xếp khu này họp. Ổng nói - xưa nay người ta lấy vàng thử bụng đàn bà, lấy đàn bà thử bụng đàn ông. Không để phụ nữ ở đây, nhưng bề nào vàng cũng đến tay họ, thế là vẫn đúng quy luật chớ không phải kỳ thị phân biệt nam-nữ chi cả... Anh nghe hay không? Ổng xưa học tới cấp ba, trí thức thứ thiệt chớ không nhưtụi tui đâu..."

Bước lại ven suối gần nhóm người cắm cúi sàng sẩy, tôi thóp bụng lùi lại. Một anh lông mày xếch ngược tḥ tay nắm cán một con dao rừng sáng quắc, ánh mắt chỉ dịu đi khi anh bảo vệ xô đến, miệng kêu "Khách của ông Trùm đó!". Quay sang tôi, anh dặn "Đi lang bang là mất đầu đấy nghen!". Bất giác, tôi đưa tay lên sờ cổ, gật đầu, biết nó c̣n đấy.

Về nằm trong một cái lán để tránh nắng, tôi tự hỏi, Trùm A khẳng định chỗ t́m được cái vật Bảo Quốc Hộ Dân. Nhưng là chỗ nào? Và trên cơ sở ǵ hắn khẳng định như vậy? Ngược lại, nếu hắn không nói thế, tôi cũng chẳng biết t́m chi, và t́m ở đâu, chỉ đoan chắc là khi t́m thấy th́ vật đó phát sáng, đồng thời nghe được một tiếng nói từ thinh không. Tóm lại, tất cả mù mờ như làn hơi nước bốc lên dưới ánh nắng đổ lửa trên thế gian đang lục bục sôi như một nồinước trong đầu tôi. Lơ mơ quẩn quanh như thế, đến lúc xế chiều th́ có người đến gọi tôi đi.

Lên căn nhà mái lợp gianh tôi đă đến ban sáng, tôi vừa tḥđầu vào thời Trùm A vẫy tay, chỉ một người đàn ông, giới thiệu:

"Đây là thầy Ensara. Thầy sẽ trợ lực cho chúng ta!"

Người đàn ông cao lêu nghêu, áo choàng từ đầu xuống chân trắng toát, đầu quấn khăn cũng trắng, ngước mắt nh́n tôi vô cảm. Thật khó đoán ra tuổi tác. Khẳng khiu nhưng lỗ chỗ những vết sứt sẹo có lẽ di lại từ một trận đậu mùa thuở niên thiếu, khuôn mặt Ensara dài ngoẳng, da sạm một thứ mầu mun han rỉ. Ensara nói lơ lớ, nhưng Trùm A hiểu, đáp:

"Khởi công càng sớm càng hay. Ngay đêm nay cũng được!"

Ensara gật đầu, chẳng nói chẳng rằng xách bị đi ra ngoài. Nh́n Trùm A, tôi hỏi:

"Ông ta là ai? Và trợ lực thế nào?"

"Ông ấy là thầy pháp, người Chàm..."

Chỉ chiếc chơng tre bảo tôi ngồi, Trùm A giảng giải. Khu nàyđăi cát t́m vàng là chuyện phụ, kiếm chẳng được mấy. Nhưng sát chân núi là khu cổ mộ của dân tộc Chàm từ mấy trăm năm nay. Họ chôn của cải với người chết, trong những cái chum sành. Người chết càng giầu th́ của cải châu báu càng nhiều, không chỉ có vàng mà c̣n có cả cổ vật, ngọc ngà... Đào mả, phải đề pḥng rắn và ma Hời. Rắn, có thuốc. Nhưng ma Hời, phải nhờ tới thầy pháp. Người đi đào mảkể hễ cứ chạm vào chum là nghe tiếng khóc lóc, tiếng chửi rủa. Có kẻ hoa mắt thấy giáo mác sáng loáng vung lên. Có kẻ tối mặt tối mũi, xây xẩm gục xuống, sau hóa rồ hóa dại. Từ ngày vời được Ensara, những hiện tượng kia bớt dần, nhưng cách đây hai tháng, có người tḥ tay vào một cái chum rất lớn bỗng nhiên bị hút tuột vào, và biến mất, khôngđể lại chút h́nh tích nào, chẳng được như là cát, là bụi. Từ đó, Ensara xin thôi. Hiện c̣n bảy cái chum chưa ai dámđộng tới. Trùm A hạ giọng:

"Tôi đích thân đến nói măi Ensara mới nghe, đ̣i đến 20 lạng vàng thù lao..."

Chỉ nghe Trùm A kể, tôi đă ớn lạnh, lưng đổ mồ hôi. Rùng ḿnh, tôi gặng:

"Nhưng sao mà biết vật quư hiếm ở trong bảy cái chum đó?"

Trùm A bật cười:

"Này nhé! Khi tôi ở bên Liên Xô, tôi nghe một câu chuyện thế này, kể cho anh nghe. Có một đêm, một người đánh rơi một đồng tiền vàng trên quăng đường từ nhà anh ta ra đến cổng làng. Con đường đó có độc một cái đèn đường, c̣n lại tối đen như mực. Anh ta cặm cụi bới từng cọng cỏ dưới ngọn đèn t́m đồng tiền. Dân làng cười, bảo đồng tiền đó có thể rơi bất kỳ chỗ nào trên cả con đường dài này, sao cứ loay hoay t́m đúng một chỗ. Anh biết người đó trả lời thế nào không?"

Nh́n Trùm A, tôi lắc đầu. Giọng hể hả, hắn khệnh khạng:

"Tôi t́m chỗ sáng, v́ chỉ chỗ ấy may th́ t́m thấy. C̣n chỗ tối, rơ là vô phương... Đấy, tôi cũng vậy. Bảy cái chum kia là chỗ sáng, c̣n lại th́ khu này tôi nằm ḷng, có cái quái ǵ mà t́m!"

Vẫn sợ, tôi cố vớt vát:

"Cái may này đổi hai mươi lạng vàng, đắt đấy..."

"Hà hà... đưa trước một lạng thôi, t́m ra th́ mới chồng tiền chứ! T́m được cái vật quư hiếm ấy th́ hai mươi lạng có nhằm nḥ ǵ", Trùm A đáp, giọng chắc nịch.

Cơn sợ bị hút vào một cái chum để rồi vô h́nh vô tướng khiến tôi run lên. Nghiến cho răng thôi đánh vào nhau, tôi c̣ kè:

"C̣n chuyện này, hôm anh nói bán vật quư hiếm cho ông láng giềng th́ tôi chưa phát biểu ư kiến. Tôi nghĩ thế là khôngđược! Họ nay vẫn kè kè sát nách ta... Nguy lắm! Tôi không muốn dính dáng vào cái nghiệp này đâu..."

Trùm A nghe tôi nói, nhếch mép cười như muốn bảo thế là chú mày sợ chứ ǵ, sẵng:

"Thế th́ làm thế nào?"

Không biết ăn nói ra sao, tôi sượng sùng:

"Tôi chịu, anh thử động năo xem sao. Chuyện buôn bán tôi kém lắm!"

Trùm A nhổ nước bọt, quay lưng bước ra ngoài.

*
*    *

24-02

Đến tối, tiếng cú rúc cứ vang lên từng chập. Gió lên, cây rừng xào xạc, trăng non lơ lửng giữa những đám mây rám bạc trên đỉnh đầu. Ngày nóng, nhưng đến đêm, rừng ẩm ướt khiến trời lạnh hẳn đi. Xa xa, tiếng trống bập bùng nhịp cho tiếng kèn ai oán vẳng lại. Trùm A bất ngờ hiện ra. Như một phản ứng, tôi rụt người lại, nói ngay:

"Anh t́m người khác thay tôi... Ở đây thiếu ǵ người!"

"Hừ... không được! Ensara đă liên hệ được với nữ thần Shiva. Thần phán, đây là karma của anh, chỉ có anh mới có cái duyên nghiệp này... C̣n chuyện bán, tôi nghĩ ra để chiều ḷng anh rồi. Ta bán nó cho bọn đă từng muốn chiếm một nửa nước ta. Bây giờ Bảo Quốc là cho nó tất, chắc chắn sẽ OK. C̣n Hộ Dân th́ chúng nó đ̣i ta tôn trọng nhân quyền, điều nằm trong chiến lược toàn cầu trên thế giới, chúng nó không thể từ chối được! Chúng nó lại vẫn mạnh nhất, giàu nhất... anh có đồng ư không!".  Mà này, Trùm A cười nhạt vỗ tay vào bao súng lục, "Anh khôngđồng ư th́ cũng phải hợp đồng với tôi, anh nghe rơ chứ?"

Dứt lời, Trùm A vẫy tay. Một toán bốn người xông vào, kẻ bịt mắt, người xốc vai tôi lôi đi. Quanh co một lát, chúng tôiđến trước một đống lửa cháy có ngọn. Trùm A mở băng bịt mắt, tôi thấy có cả Trùm B và C đứng đợi. Ensara vẫn chân nhẩy tay múa, bước ṿng ṿng quanh đống lửa, miệng hú dài, tiếng hú ḥa vào tiếng chí chóe của những con khỉ khiến nhân giới nay chập chờn hư thực. Ensara đến trước mặt tôi, nói lớn tiếng. Chưa kịp hiểu ǵ, Trùm C ra lệnh:

"... Cởi hết quần áo ra!"

Trần như nhộng, tôi khép chân, tay che, thầm nghĩ ḿnh nào khác chi đàn khỉ leo trèo trên cây. Ensara kéo tôi đến trước một bức tượng bằng đồng, trăm tay trăm chân, đứng nghiêng, hông xếch lên, miệng như cười. Hắn rút từ bị đồ nghề cái chổi lông, chấm vào một dung dịch sền sệt bốc mùi khăm khẳm, hoa lên trời rồi ŕ rầm to nhỏ. Ngửa mặt nh́n trăng, hắn lại hú, ngay sau đó thét lên những từ ngữ lạ hoắc, tiến tới bắt tôi há mồm, đổ ực vào một loại nướcmùi hăng hắc. Làm xong động tác này, Ensara lại nhẩy múa như một con choi choi, giọng hú mỗi lúc một năo nùng, tay dùng chổi quệt vào người tôi những nét ngang, nét dọc. Tôi như mê đi, sực tỉnh khi thấy người bị choàng vào hai lượt dây chăo bện bằng vỏ cây nhuộm đỏ, một ở ngang ngực, một ở bụng. Xưa nay huênh hoang là một kẻ vô thần v́ thừa hưởng được tinh thần duy lư của thế kỷ Ánh Sáng, tôi bỗng thấy cần một sự che chở siêu nhiên. Nhưng cầu ai? Jesus, hay Thích Ca, hay Mohammed...? Không biết, tôi lẩm nhẩm... lạy Trời!

Chẳng biết Trời nghe thấy chưa nhưng tôi bị điệu đến trước một cái chum đường kính độ hai ṿng ôm, nắp mở toang hoác, phía trong đen ng̣m. Người ta buộc những sợi dây nối người tôi vào gốc một thân cây khá to nhằm nếu như cái chum hút tôi vào th́ c̣n có hai sợi dây giữ dịt tôi ở cái thế giới này. Không tin lắm vào khả năng thô sơ này, tôi cứ chùng ch́nh, tay không dám đưa vào cái lỗ trống đen ng̣m trong đó vật chất có khả năng tiêu tan. Thấy vậy, Trùm Cquát:

"ĐM... mi đưa tay zô, nếu không ông bắn bỏ!"

Nghe tiếng đạn nạp vào ṇng súng, tôi tự nhủ, có chết th́ thà là tiêu tan c̣n hơn bị một viên đạn đồng cắm vào tim, thậm chí có thể lệch sang phổi, không chết ngay mà khắc khoải cả đêm. Tôi nhắm mắt, thọc tay vào chum khoắng lên, mắt chờ bảo vật phát sáng, tai dỏng ra đón từ thinh không những lời huyền diệu đổi mệnh Trời. Chỉ có tiếng lục cục xương cốt hàng trăm năm trước đập vào nhau. Trùm A quát:

"Không có đếch ǵ à?"

Tôi lắc. Thế là họ điệu tôi qua chiếc chum thứ hai cách đó cả trăm thước. Cũng vậy. Rồi đến chum thứ ba, thứ tư... Ensara vẫn nhẩy múa, nhưng bước chân có chậm lại. Khỉ trên cành chí choé nhiều hơn. Khi tôi ṃ vào chiếc chum thứ bảy, trời đă tờ mờ sáng. Vẫn chẳng thấy ǵ. Ô hô, cái vật quư hiếm Bảo Quốc Hộ Dân đâu? Trùm B, kẻ đánh tôi một cái tát, lầu bầu như chửi. Trùm A, mặt đanh lại, gằn:

"Đưa nó tới t́m ở cái chum đă hút người... Ḿnh đâu biết có cái ǵ trong đó!"

Tôi lạnh người. Ensara lè lưỡi, mặt dài thuỗn ra.

Đi khoảng mươi phút, người ta đẩy tôi chúi xuống chân một cái chum lớn hơn những cái chum khác ít là hai lần. Không hiểu v́ cớ ǵ, tôi cảm thấy b́nh tĩnh. Có chết, cũng chết cho vinh quang. Chết v́ nước. Chết để Bảo Quốc. Chết v́ Hộ Dân. Và chết như vậy, ai nỡ vừa chết vừa sợ, rên rỉ, khóc lóc. Trong thoáng chốc, tất cả quá khứ hiện lại, rơ ràng từng nét, với từng người tôi yêu thương. Khi thấy lại h́nh ảnh người đàn bà trên thuyền đêm sông Hương hôm nao cười buồn, tôi đă sẵn sàng. Nh́n Trùm A, tôi nói như trăng trối:

"Nhớ đấy... Đừng bán bậy, chọn mặt gửi vàng,  nghe không!"

Quay lại nh́n những con người đứng trợn mắt nh́n, tôi mang tâm trạng một Kinh Kha ngày bên bờ sông Dịch. Trùm A ḥ:

"Buộc dây cho chắc vào gốc cây, rồi hai thằng nắm một dây.Động tịnh bất thường th́ kéo khi tao hô! Hiểu chưa?"

"Hiểu!" Đám tay chân của Trùm A ḥ lên.

Ensara tiến tới trước mặt tôi, vẽ bùa trong không khí, bảo tôi há miệng ra. Tôi lắc đầu, liên tưởng đến cái dung dịch hăng hăng hắn đă đổ vào miệng tôi. Sống cho sạch, chết cho thơm, tôi nghĩ bụng. Th́nh ĺnh, trong tranh tối tranh sáng, tôi thấy một vị đầu trọc mặc áo nâu sồng ngồi dưới gốc cây, một tay che mặt, tay kia giơ lên như bắt quyết. Rồi tôi nghe trong thinh không tiếng mơ văng vẳng, và tiếng ai đó th́ thào bên tai:

"... trong cơi vô thường sinh kư tử quy, ngộ ra trong một sát na cái biên giới tử sinh th́ cũng đáng một kiếp rồi, sân si ái vọng nữa mà chi..."

A, chân lư đây. Và phải sống với nó, chết với nó. Tôi ưỡn ngực bước thẳng đến miệng chum mở toang hoác, đen ng̣m ng̣m, trong đó chắc chắn chứa cả cái vô h́nh vô tướng của kẻ đă từng biến vào đó như chưa từng là da là thịt. Tay tôi vừa qua miệng chum, quả có một thứ lực quy tâm hút tôi vào. Chân dậm xuống tŕ kéo lại, tôi tḥ tay vào. Trời hỡi, một thứ mùi tanh hôi nhớp nhúa sực lên, và có ǵ đó như trăm cái ṿi bạch tuộc cuốn lấy cánh tay tôi. Trùm A hô kéo, rồi chạy lại nắm dây phụ lực. Ensara rống lên như phát dại. Vật Bảo Quốc Hộ Dân tất phải ở đây thôi. Nghiến răng, tôi thọc sâu tay vào, vai đă quá miệng chum, nhưng tôi cố giữ đầu tôi ở ngoài để thở. Tay tôi gần như đụng đến đáy chum. Phải rồi, vật quư hiếm đây chăng? Đụng vào nó, nó sắc lạnh, nó phát sáng. Có tiếng reo. Tôi dỏng tai cố nghe một tiếng gọi giữa thinh không. Gom hết sức, tôi nắm chặt lấy cái vật vô cùng quư hiếm. Bây giờ, chết tôi chẳng sợ, chỉ sợ nó vuột khỏi tay. Chân t́ vào thành chum, tôi cong người vận mười thành công lực, đạp ngược. Có tiếng gió ào ào lướt qua. Tôi hững người, ngă bịch xuống trong tiếng reo, ngất đi.

BA

S

áng tinh mơ hôm sau, tôi lại đi ṿng Bờ Hồ. Một ṿng, rồi hai... Đến ṿng thứ ba, con bé hôm qua ở đâu xô ra lẽo đẽo theo sau. Thêm một ṿng, nó rướn đến cạnh tôi, chạm nhẹ vào tay tôi, mủm mỉm cười. Làm như không biết, tôi nh́n thẳng, rảo bước. Nó đi như chạy, thỉnh thoảng lại khều khều. Cho đến khi tôi ngừng chân, mắt nh́n phía xe chạy, nhấp nhổm qua đường, nó nói "Cháu đi mở đường cho!". Nhớ h́nh ảnh bà cụ bị xe đụng hôm qua, tôi rùng ḿnh, không trả lời.

Sang đến hè đường bên kia, con bé ch́a tay:

"Cho cháu tiền phở như hôm qua đi, công cháu mở đường cho chú. Nhé, chú nhé!"

Gạt tay con bé, tôi leo lên tam cấp vào khách sạn. Mở ṿi nước lạnh, tôi lẩm bẩm một ḿnh, sao măi chẳng thấy Trang điện thoại. Tắm táp xong, tôi mở máy gọi Thụy. Không nói chuyện được, tôi đành để tin nhắn, ra ngoài t́m quán ăn điểm tâm. Con bé đứng chờ ngay cửa khách sạn, nhưng làm như ngẫu nhiên, thờ ơ: "Cháu chào chú". Tôi đi thẳng lại cái quán gần Nhà Chung, ngồi vào chiếc bàn kê cạnh cửa kính. Húp đến th́a thứ hai bát bún thang c̣n bốc khói, con bé đến sát bên, mắt cḥng chọc. Thế này th́ c̣n ăn uống ǵ được hả Trời! Con bé chỉ tay vào mồm, vào bụng, nước giăi ứa ra khoé miệng, ánh mắt khẩn cầu. Chắc nó đói, tôi tự nhủ. Miếng bún nghẹn ở cần cổ, tôi quay đi. Đứng lên, tôi ra cửa quán ăn, vẫy. Khi nó đến cạnh, tôi đút vào tay nó năm ngh́n. Con bé lẩm nhẩm:

"... vẫn như hôm qua, c̣n vật giá th́ leo thang!"

Tôi gần phát điên, hỏi "Ai bảo mày vậy?". Nó thản nhiên "...mẹ cháu chứ c̣n ai. Rồi đài, báo... chỗ nào cũng nói thế cả!".

Nắng đầu ngày mỗi lúc một gắt. Tiếng xe gắn máy rầm rầm, c̣i bóp inh ỏi. Trong ḷng những con đường trung tâm Hà Nội, khói xe bay mù, mùi xăng bốc lên. Tần ngần, tôi chẳng biết đi đâu, lớ ngớ nh́n quanh hệt một kẻ đi lạc đang t́m đường. Con bé đến gần. Tôi hỏi, có chỗ nào vắng xe ở quanh đây không? Nó đáp, ra Văn Miếu, cháu đưa. Tôi lắc đầu, lôi bản đồ thành phố ra. Nửa giờ sau, tôi chẳng nh́n đống văn bia tiến sĩ, t́m một gốc cây tỏa bóng mát, ngồi thật im. Tôi nhắm mắt. Để chiếm hữu lại cái hiện tại tôi không chọn lựa. Để ṃ mẫm trong một cuộc kiếm t́m kẻ đă ngược ḍng thời gian quay về triều Lư.

*
*     *

26-02

Khi tôi tỉnh, Trùm A ngồi bên cạnh. Tôi thều thào hỏi "Cái vật quư hiếm đó đâu?". Hắn giúi vào tay tôi một ống kim loại lạnh ngắt. Nắm chặt lấy nó như níu vào đời này, tôi mỉm cười, sung sướng tự nhủ, th́ nó đây, cái vật quư hiếm mà tôiđă sẵn sàng hy sinh cái thân xác tôi trước nguy cơ phân hóa đến độ vô tướng vô h́nh trong cái lỗ đen không năng lượng - vật chất mà các nhà khoa học đương đại gọi làblack hole. Trùm A văng tục, giọng bực bội:

"Nó là cái đèn pin của thằng chết bất đắc kỳ tử hai tháng trước. Thế th́ bán cho chó cũng chẳng được! Thế là xong, quả này toi rồi. Nay trả lại anh cái hộ chiếu và những vật tùy thân. Tiền đô tươi th́ chúng tôi giữ để thanh lư chi phí..."

Trùm A đứng dậy, nói với lại:

"Sáng ra, có xe đưa anh về Hội An, sau anh t́m xe đi đâu th́đi. Nhớ là cấm khai báo. Đừng quên cánh tay chúng tôiđủ dài để đến đâu với cũng tới, đi là đi, đánh là đánh, giết là giết, nghe chưa..."

Vứt cái đèn pin xuống đất, tôi lặng người, đưa tay quệt nước mắt không biết chảy ra từ lúc nào. Ensara thay quần áo, thu xếp đồ nghề, khinh khỉnh không thèm nh́n ai. Tôi ngoảnh về phía gốc cây, nơi có h́nh bóng một vị sư đưa tay bắt quyết khi tôi tḥ tay vào cái chum cuối cùng, thấy một ṿng khói trắng như sương đang loăng ra, tai nghe, vẫn cái giọng Huế ngọt ngào "... Bữa mô t́m thấy th́ về đây với em!"

Xe rời địa phận Mỹ Sơn, chồm khỏi cơn ác mộng và nỗi thất vọng khiến năo bộ tôi đóng băng, người mất hết cảm giác, chân tay đơ cứng hầu mất mọi khả năng điều khiển. Đến thị xă Hội An, tôi chỉ c̣n sức xuống xe, đứng lớ ngớ, hồn vía bay tuốt đến một cơi nào đó vô minh. Tôi ṃ ra Cửa Đại, thuê căn pḥng nh́n ra biển trong một mini-hotel. Mở cửa sổ, tôi im lặng ngắm những con sóng bạc đầu cho đến khi chiều tà. Mặt trời đỏ tía lơ lửng ch́m nơi biển lẩn vào trời, ánh sáng quết một vết loang loáng mầu huyết dụ, lịm dần, chuyển sang mầu đen thẫm. Tiếng đứa bé tôi gặp khi vào đăng kư thuê pḥng chí choé. Nó dị dạng, mồm méo, răng ch́a ngoài vành môi sưng vều, tay lêu nghêu, chân ngắn chân dài, thổi ph́ pḥ qua kẽ răng hở thứ âm điệu ngọng nghịu của những đứa trẻ lên ba học nói. Ông chủ khách sạn, chắc quăng lục tuần, cười cười:

"Cháu nội tui đấy... Đang chờ bồi thường nạn nhân chất độc da cam". Chỉ một thiếu phụ đang lau bàn, ông tiếp "C̣n đây là dâu tui, lo công chuyện quản lư... Chú cần chi cứ nói nghen"

Thiếu phụ ngước lên nh́n, ánh mắt lạnh lẽo, vô cảm.

Ra ngoài băi biển, tôi t́m một quán ăn vắng người. Quán xập xệ, bàn phủ khăn plát-tích hoen ố, ghế đẩu, ngay cạnh là bếp đốt bằng những b́nh ga, thực đơn nhàu nát kẹp trong hai mảnh giấy nhựa đùng đục. Bà chủ quán đon đả:

"Chú ở khách sạn mini, phải hông?"

Gục gặc, tôi chỉ mấy thân dừa trốc gốc. Chưa kịp hỏi, bà chủ quán đă nói: "Trận băo tháng trước Tết đó chú. Mấy tháng rồi mà hổng ai tới kéo đi. Chẳng bù với mấy cái khách sạn quốc tế, ba ngày là dọn sạch bưng!  Nhà gạch mà... Xóm "nhà lá" tụi tui th́ đợi, trên xă nói c̣n đang "quy hoạch", chú hà...". Không thấy tôi nói ǵ, bà tiếp tục:

"Nếu cái ông chủ khách sạn chú ở c̣n là Chủ tịch th́ chắc quy hoạch lẹ hơn bởi nếu không, ổng mất khách du lịch. Nhưng ổng "về" rồi, bị dân kiện v́ lấy đất người ta ra chia cho quan chức mà hoàn trả không công bằng đó chú! Giáđền bù của Ủy ban chỉ năm, mười phần trăm giá thị trường, giải thích th́ thị trường định hướng này nọ, dân tụi tui nghe hổng hiểu ǵ ráo, chỉ thấy vậy là người ta trả giá rẻ mạt... Kêu lên Huyện, Huyện biểu kêu lên Thị xă. Rồi Thị xă biểu không giải quyết, kêu lên Tỉnh. Tỉnh lại bảo kêu lên Trung ương. Rồi Hội đồng Bộ trưởng, rồi Quốc hội, rồi ông Thủ tướng, ông Chủ tịch Nước... Thiệt cực, chưa thấy ai kêu chi màđược, chú à... Phải chi có ǵ cứu được dân oan, chắc nhiều người xin chết để đánh đổi đó chú!".

A, cái chi cứu được dân oan! Bà quán ơi, tôi cũng đang đi t́m nó đây. Nó có, hay không có?

Nếu nó có th́ thất bại ở Mỹ Sơn vừa qua là chuyện Tái ông mất ngựa. V́ t́m được, th́ dưới áp lực của bọn Trùm là phải bán cho những bọn c̣n tham vọng đế quốc, bá quyền. Cứ nh́n chuyện chúng nó nói chống khủng bố bên Iraq nhưng thực tâm nhằm kiểm soát dầu lửa để khống chế Âu Châu khắc biết.

 Nhưng vật quư hiếm Bảo Quốc Hộ Dân đó, nó có, hay không có? Trước Tết, Rậm-ria điện thoại từ Đan Mạch, giọng nghiêm trọng: thần nhân mách bảo ta, thế là trao nhiệm vụ cho ba chúng ta, cứ gọi hỏi Tiểu-quỷ bên Anh xem. Tiểu-quỷ rành rọt, em cũng thấy một con bướm trắng bay vào nhà, rồi đêm đó, một vị áo nâu sồng lay em, bảo cái vật quư hiếm kia đă "về" đất nước, kẻ nào có cơ duyên sẽ t́m thấy. Thế th́ phải về, cơ duyên ngàn năm một thuở. Lên kế hoạch, tôi đi ngay v́ không công ăn việc làm trói buộc, dặn Rậm-ria và Tiểu-quỷ về sau, càng sớm càng tốt. Nhưng đến hôm nay, chúng vẫn biệt tăm hơi! Mở máy Palm bấm vào mục nhắn tin, vẫn chẳng có ǵ. Thế là sao? Hỏi bà chủ quán, quanh đây có cái cà-phê internet nào không? Bà chỉ tay vào con đường hun hút không một bóng đèn, đáp: "Chú đi bộ chừng nửa giờ, có... Nhưng tối trời thế này, chú là người lạ, không nên đi". Cám ơn bà. Đúng thế. Tôi phải bảo vệ thân ḿnh để c̣n đi t́m cái vật quư hiếm Bảo Quốc Hộ Dân chứ.

Giật nẩy người khi đẩy cửa khách sạn bước vào, tôi giụi mắt, tưởng ḿnh quáng gà. Trong tranh sáng tranh tối, thiếu phụ tóc tai rũ rượi nhảy nhổm từ ḷng một người đàn ông rồi lẻn vội ra sau. Ông chủ khách sạn bật đèn, vẻ bẽn lẽn, cười cười. Khi đó thằng bé tật nguyền xô ra. Nó quơ một chiếc gậy, miệng ngọng nghịu hét toáng lên "ĐM mày, ông nội!".

*
*     *

Hỏi cô tiếp viên khách sạn, tôi mới biết Thụy đến t́m, không gặp và để vài chữ nhắn lại, bảo Trang đă vào thành phố Hồ Chí Minh công tác ngắn ngày, tuần sau mới về Hà Nội, nhưng sẽ cố liên lạc qua điện thoại. Thốt nhiên, tôi cảm thấy bơ vơ. Và bất lực. Thấy mặt tôi chảy dài, cô tiếp viên th́ thào:

"Khi ở đây, ông anh của anh hay ra vườn hoa gần Quốc hội, lắm khi tối mới về... Anh ra đấy thử xem, lắm khi may là gặp..."

Tôi gật đầu cám ơn. Đúng như ṃ kim đáy bể. Vô vọng. Tôi thốt nhiên sợ lên pḥng khách sạn, chỉ một ḿnh, giữa mười mét vuông lặng lẽ. Ra Bờ Hồ, tôi t́m tiếng động. Dẫu là tiếng xe, vẫn c̣n yên ổn hơn một sự im ắng có ǵ giống như khi đầu óc chập choạng lạc vào cơi u mê. Ngồi dưới bóng cây liễu, tôi nhắm mắt lơ tiếng chào hàng của những đứa bé bán thuốc lá, bật lửa, post card, ảnh khiêu dâm... cho du khách. Ăn mặc thế này, tôi nghĩ, chúng tưởng tôi là người Đại Hàn, Singapore, hay Đài Loan... qua đây mua đàn bà về làm... vợ chăng? Nghe đâu giá vợ - gọi cho chính xác, giá một nô lệ t́nh dục - khoảng năm ngh́n đô cộng chi phí máy bay vu quy, bảo đảm vệ sinh, không aid, bán đứt với toàn bộ giấy tờ kết hôn và xuất cảnh chính thức.

"Chú ơi, chú..."

Con bé khều tay tôi. Mở mắt ra, chưa phản ứng th́ tai nghe:

"Em chào anh... Em đến cám ơn anh lại cho cháu tiền ăn quà sáng nay!"

Mùi nước hoa đâm thốc vào mũi khiến tôi ngửng lên. Kề mông ngồi xuống băng đá bên cạnh tôi, mẹ con bé giả lả:

"Nói thật, thấy anh thương con bé nhà em, em mừng lắm... Cái việc hôm nọ, anh bỏ qua cho em, thực tâm em chỉ muốn phục vụ anh mà thôi. - Giọng nửa đùa nửa thực, mẹ con bé vừa cười vừa nói - Anh muốn th́ em cho con bé nhà em là con nuôi anh! C̣n em, em già rồi, anh chẳng cần quan tâm đúng mức. Con bé nhà em sắp mười bẩy tuổi rồi, cái tuổi bẻ sừng trâu đấy..."

Thực không hiểu ư, tôi ngớ ra, nghếch mắt nh́n mẹ con bé, mồm há hốc. Mụ véo vào tay tôi:

"Ấy, em quư bác v́... bác thật thà. Này nhé... con nuôi bác, bác muốn làm ǵ th́ làm. Bắt ngồi, ngồi. Bắt đứng, đứng!"

Mụ hinh hích, nháy mắt:

"Rồi bắt nằm, phải nằm, sấp ngửa thế nào cũng được, muốn ǵ có nấy. Em không phải khuyến mại mà chân thành nói với bác là cháu nó "c̣n nguyên si", em phải t́m người xứng đáng cho nó. Thật t́nh, em bảo cháu, mẹ già sắp về hưu mất rồi, con phải cáng đáng cái cuộc sống chỉ có mẹ với con. - Im tiếng như lấy đà, mụ cao giọng, hất hàm nh́n con bé: - Con phải sửa soạn đi làm, lao động là vinh quang, phải không nào?"

Con bé cười, miệng toác ra, răng hở lợi, gật gật. Nh́n nó, tôi thấy thương. Nó chỉ độ mười bốn mười lăm là cùng, hiểu ǵ mà lắc với gật! Mẹ con bé đổi giọng, hạ xuống một ốc-ta, thầm th́:

"T́nh thật, đời con gái ai rồi cũng qua một lần... Như em, em không may. Lần trước chưa thân, em dối bác, bảo chồng em ở bên Đức. Thật ra, nó ở đây nhưng lang chạ với con mụ Giám đốc hơn nó hai giáp, bỏ bê mẹ con em gần chục năm nay. Em về quê ở Vĩnh Phú, thầy bu em đuổi, lại phải ôm con lên Hà Nội... Mà em th́ chẳng nghề chẳng nghiệp ǵ, anh bảo sống bằng cái ǵ đây..."

Th́nh ĺnh mẹ con bé nghẹn ngào, nước mắt ứa ra hoen vào lớp mascara kẻ mi chảy xuống. Không biết làm ǵ, tôi lúng túng đứng lên. Mẹ con bé nắm tay tôi lại, mặt căng cứng, nói qua kẽ răng:

"Em hiến nó cho anh, xin anh hai ngh́n đô, lấy vốn làm ăn lương thiện chứ chẳng thể kéo dài thế này măi. Giá này bọn đại gia ở đây có thể trả gấp đôi, nhưng em sợ cho con em, v́ lắm khi chúng nó đến ba bốn thằng... khổ cho con bé! Được không anh?"

Tôi giằng tay ra. Tôi vùng chạy, không rơ tại sao. Bất lực? Hay xấu hổ? Hay phản ứng cuối cùng trước khi có thể phạm tội? Cứ thế cắm đầu chạy, tai tôi nghe tiếng huưt c̣i. Rồi tiếng thét chát chúa:

"Bắt lấy nó!"

Bóng áo xanh rêu túa ra. Một người mặc thường phục chặn đầu tôi. Hắn cong ḿnh ṿng tay ôm lấy bụng, xoay thế nào mà tôi ngă bịch xuống đất, tay tức th́ bị khóa trái. Tôi kêu "bỏ tôi ra" th́ người đó quát "câm miệng". Công an ùa đến trong một chớp nhoáng. Người mặc thường phục, cũng là công an, giao tôi cho đồng đội. Chà, công an hữu hiệu thật. Lại có vơ, chắc vơ Tầu, bắt người ta dễ dàng. Tay bị bẻ quặt sau lưng, công an đẩy tôi vào một chiếc xe bít bùng nhanh chóng sịch tới. Về đến trụ sở công an quận Hoàn Kiếm, người trực là một trung úy đeo kính trắng hất hàm hỏi "cướp giật hả?". Tôi lắc đầu. Trong người tôi không có giấy tờ, hộ chiếu th́ khách sạn giữ. Thành khẩn khai báo lư lịch xong, tôi nghe ông ta lạnh lùng: "Tại sao anh lại chạy?". Chết, nói thế nào bây giờ? Tôi ngập ngừng t́m kế hoăn binh câu giờ:

"Nói ra th́... xấu hổ..."

Viên trung úy nh́n xuống, tay vân vê ria mép, chờ đợi.

"Thưa... tôi bị đau bụng, vội chạy về khách sạn để..."

Đưa tay ngăn tôi nói tiếp, viên trung úy chun mũi. Được thể, tôi xin cho vào toa-lét ngay. Thế là một công an mặt non choẹt dẫn tôi đi qua một cái hành lang, tay kè kè súng (tại sao, tôi không biết), mặt mũi khẩn trương. Trong toa-lét, tôi định thần, và phát hiện tôi chạy ngược chiều lối về khách sạn. A, giấu đầu hở đuôi, làm thế nào lấy vải thưa che mắt thánh đây?

*
*     *

28-02

Gơ xong "hai thằng chết tiệt, bay ở đâu, báo cho ta hiện ở Hội An hay ngay", tôi bấm nút gửi, đứng dậy thanh toán tiền. Vừa từ quán cà phê Internet cạnh chợ bước ra, tôi thoáng thấy thiếu phụ quản lư khách sạn. Người đàn bà đó trên dưới ba mươi, da đen gịn, và nếu bỏ đi cái nh́n lạnh căm của cô ta th́ phải công nhận nàng mặn mà quyến rũ. Đi xăm xăm về phía tôi, người đàn bà chợt nhận ra, ngượng ngùng cúi chào. Mỉm cười, tôi đáp lễ, quay người tiếp tục đi. H́nh ảnh ông bố chồng ôm con dâu tối qua khiến tôi lờm lợm, đầu lại hàng chục con sâu chúi xuống đào khoét mảnh đất đầy cảnh ngược đời này. Đi dăm bước, tôi nghe tiếng gọi giật giọng: "Chú ơi, khoan đi... Chờ chút, chú!"

Quay lại, người đàn bà tất tả chạy theo, mặt hớt hải. Tôi ngừng chân. Người đàn bà nh́n tôi, ánh mắt nay vài vỉ chứ không c̣n lạnh lẽo, miệng bấp búng: "Chú làm phước cho tuiđược nói đôi lời!". Bỏ chiếc giỏ xuống, cô tay chắp tay vái tôi.

"Thôi, chị ơi! Đừng làm vậy, người ta nh́n...", tôi nói vội, bước qua tránh cái vái giữa chợ. Tay chỉ quán giải khát trước mặt, tôi ngập ngừng "... Mời chị vô đây nói chuyện cho tiện!".

Người đàn bà ngồi xuống, mặt quay vào tường, dáo dác nh́n quanh sợ người đi chợ nhận ra ḿnh. Trôi sạch ánh căm hận, mắt cô ta nay sâu xuống buồn bă như nước sông Hàn xẻ dọc thị trấn. Cô ta đằng hắng, nhỏ nhẻ:

"Tui tên là Chót, Út-chót. Nhà tui năm anh chị em, có chị Út Năm và ba người anh trai. Thời mặt trận Quảng Trị, khi tui mới sanh được ba tháng, ngày là quân bên này, đêm là du kích bên kia. Ba tui và anh Hai bị bắn, tội là ác ôn có nợ máu với nhân dân. Kế đó chừng năm sau, anh Tư và chị Út Năm bị bom, chết mất xác. Giải phóng xong, gia đ́nh tui trông cậy vào anh Ba đă tuổi lao động, c̣n mạ con tui buôn qua bán lại lặt vặt sống qua ngày. Thời chiến tranh với Campuchia, mạ sợ anh Ba bị bắt đi nghĩa vụ, biểu "con à, mi là thằng con trai nối dơi tông đường, đi đâu được thời đi mà sống!". Anh Ba vượt biên, đến lần thứ ba th́ thoát. Ảnh được Canada nhận cho định cư, ban đầu ở Montreal, sau đi Toronto kiếm việc. Ảnh gửi tiền về giúp, mạ con tui có cái mà ăn, nhưng ở địa phương, bà con nói ra nói vô, công an tới làm khó dễ. Chồng tui, hơn tui một giáp, làm công tác an ninh huyện. Ảnh thuộc gia đ́nh cách mạng, từng nhảy núi, cha ảnh chỉ huy đội du kích Bầu Bính. Thấy tui, ảnh ưng con mắt, tối ngày qua lại gạ gẫm lấy tui về làm vợ. Phần tui, mới mười sáu, tui đâu có biết chi đâu, biểu má tui quyết định thế nào tui làm vậy. Khi báo tin cho anh Ba, ảnh nổi hung, biểu thằng cha sắp thành xui gia đó chính là thằng đă kết tội cha tui và anh Hai, quyết chống lại tới cùng. Ảnh đâu biết mạ con tui cơ cực thế nào, nhà cửa cha ông để lại bị khiếu kiện là cướp đoạt tài sản nhân dân, lời ong tiếng ve tới độ chẳng dám ra đường. Khi biết tui lấy chồng, anh Ba cắt nguồn viện trợ. Từ đó, thư viết ảnh không trả lời. Riết về sau, thư bị trả lại. Ảnh bặt tin, mạ tui và tui hổng biết ảnh ở đâu... Ít lâu sau, mạ tui chết, dặn "... Tau đi nhưng mi đă có chỗ yên thân, tau yên ḷng. Ráng t́m anh Ba, làm sao cho ảnh hiểu, cứ oán hận măi th́ biết khi nào cho xong. Biểu ảnh, mạ không giận ảnh đâu, ráng có vợ con là mạ vui ḷng rồi...".

Người đàn bà nghẹn lời, bưng mặt khóc một chập. Lát sau, cô ta tiếp:

"... Lấy chồng được hơn năm tôi sanh cháu. Chú thấy đó, nó dị dạng. Đem lên bệnh viện Tỉnh, bác sĩ chẩn là nó bị chất độc da cam. Chồng tui khóc ṛng hai ngày hai đêm, ôm tui kêu "Bây chừ làm sao? Anh thương em mà không làm chi được, em ơi!". Cha chồng tui rầu rĩ bảo con "Mi là đứa trai duy nhất, thế này th́ bất hiếu, vô hậu vi đại...". Tui nói với chồng "Dẫu sao th́ nó là máu mủ của ḿnh, ráng nuôi cho nó lớn lên, nó lấy vợ đẻ con th́ có cái chi mà sợ mất ḍng mất giống!". Ảnh nghe, lại khóc, cương quyết không ăn nằm với tui v́ sợ. Cha ảnh lên bệnh viện Tỉnh khám nghiệm, hớn hở nói ḿnh không bị chất độc. Ảnh biểu, cha sợ không người nối dơi th́ nay đi t́m một bà c̣n tuổi sanh đẻ đi, mạ chết từ lâu rồi mà. Cha ảnh trừng mắt: "Mi nói dễ vậy, tau c̣n lănh đạo nhân dân th́ phải giữ đạo đức cách mạng, đâu có thế được! - Chỉ tui đứng xớ rớ, cha ảnh biểu: Sẵn đây, tau cho mi thằng em, gột được cái tiếng nhà ḿnh vô phúc, mi bị nhiễm độc da cam. Sau, mi làm cha nó, giấy tờ khai sanh đàng hoàng...". Ảnh điếng người, lắc đầu. Từ đó ảnh canh tui như canh mồ canh mả, lắm bữa bỏ không đi làm trên huyện. Nhưng đâu cứ măi thế được. Ảnh tính mua một căn hộ đưa tui đi, chưa kịp th́ cha ảnh thừa cơ ảnh vắng nhà hăm tui. Thấy thân tui bầm dập thâm tím, anh hiểu ra, vào bếp t́m con dao phay chạy lên. Tui ôm chân ảnh tui khóc, án mạng thế này th́ chết hết. Cha ảnh bung cửa chạy lên cơ quan, tối không dám về. Đêm đó, ảnh ra ngoài, chẳng biết đi đâu. Sáng ra, công an xă tới báo ảnh treo cổ ở miếu Thần hoàng đầu thôn..."

Người đàn bà gục mặt xuống thổn thức, khi ngửng lên, lại nh́n với ánh mắt căm hận cố hữu:

"Sau đó, cha ảnh cứ thế, dọa nếu tôi không chịu mà đi tố cáo th́ ổng sẽ giết đứa con tật nguyền của tui... Thằng nhỏ nó biết, đêm đêm nó quặp chặt lấy tui. Ổng ṃ vô, là nó chửi ĐM mày, ông nội. Ổng đánh, nhưng nó không ngán. Khi ổng bị mất chức v́ cướp đất th́ ổng xây cái khách sạn mini, bề ngoài là cha chồng, nhưng... chú thấy đó, ổng làm tới như tối qua. Bây giờ, chú à... Xem hộ chiếu đăng kư ở khách sạn th́ chú là Việt kiều Canada. Tui nhờ chú giúp tui t́m anh Ba, giấy tờ tên... sanh năm... tại Quảng Trị, năm... c̣n ở Toronto. Liên lạc được ảnh, may ảnh thương mà cứu mẹ con tui khỏi cái cảnh khốn nạn này. Được không chú?"

Nh́n ánh mắt người đàn bà khẩn cầu, tôi gật đầu, nhưng biết là khó, vô cùng khó. C̣n nước c̣n tát, biết thế nào hơn được. Để vá lại từng mảnh đời rách nát. Để cuộc đời này bớt đi tiếng khóc.

Trời ơi, giá mà tôi t́m được cái vật quư hiếm Bảo Quốc Hộ Dân kia nhỉ!

*
*     *

29-02

Đây, đây rồi. Mở máy, tôi có tin nhắn của hai thằng chết tiệt:

"Hai ta đang ở Hà Nội, hẹn mi vào 8 giờ mỗi sáng ở phở Th́n cạnh Bờ Hồ, hỏi ai cũng biết. Vật quư hiếm ở Thăng Long đây, ra ngay, hai ta chờ. Tiểu-quỷ đêm qua lại mơ thấy thần nhân, dặn hiện thực nào mà chẳng huyền ảo, chỉ cần viết lên giấy tất chuyển tải nhục cảm, sờ được, ngửi được, nếm được... ha ha. Rậm-ria và Tiểu-quỷ".

Điện thoại cho hăng Vietnam Airlines, tôi đặt vé bay ra Hà Nội và phải đến ngay phi trường Đà Nẵng lấy chuyến bay chiều nay. Càng hay, tôi thanh toán tiền khách sạn, nh́n ông chủ, rồi nh́n cô quản lư. Thằng bé dị dạng đến nắm tay tôi, miệng bí bô gọi: "Chú, chú!". Ông chủ quát: "Đi chỗ khác chơi!". Nó nh́n lên, mắt xéo xẹo, mồm lẩm bẩm điều ǵ không rơ, nhưng tôi vẫn nghe "ĐM mày, ông nội!".

*
*     *

Số tôi may. Vị trung úy công an không để ư đến cái chi tiết chạy ngược hướng về khách sạn, nhưng kiểm tra đăng kư của khách sạn, xem xét hộ chiếu, và khi biết không có ai bị cướp giựt trưa hôm đó trên Bờ Hồ th́ cho tôi về. Tất cả, mất ba giờ. Ra khỏi trụ sở công an, trời đă nhá nhem. Trút được một gánh nặng, tôi hớn hở như kẻ nhặt được tiền rơi, cười một ḿnh khi tưởng tượng cảnh kể lại cho đám người quen rủ rê tôi tranh đấu cho dân chủ ở hải ngoại cái cuộc ở tù (chỉ ba giờ, nhưng tạm cứ lửng lơ) như một thành tích. Họ hẳn ao ước chứng cớ (được) tù tội hẳn hoi để có khả năng vươn lên lănh đạo phong trào.

Về đến khách sạn, tôi điện ngay cho Thụy. Hắn hỏi: "Nghe nói công an đưa anh về trụ sở, có việc ǵ vậy?". Dĩ nhiên, tôi kể hết, nhưng không nói chuyện bà mẹ định bán trinh con bé kiếm vốn làm ăn, và lặp lại lư do đau bụng, với những chi tiết rất thuyết phục. Thụy dặn tôi ở đây ăn uống phải cẩn thận, gà th́ gà cúm, heo th́ heo tai xanh... Thụy bảo đă liên lạc được với Trang, và nàng dặn Thụy đi t́m một người bạn tên Ban Mai, là người cũng đă từng gặp hắn, thằng anh trời đánh của tôi. Chính Thụy cũng chỉ mới gặp Ban Mai, chỉ biết cô ta công tác trong ty văn hóa tỉnh Ḥa B́nh, nhưng hứa sẽ t́m giúp số điện thoại.

Tôi ra ngoài ăn tối. Cô tiếp viên khách sạn chặn tôi ở cửa, th́ thầm:

"Lúc công an đến làm việc, em cứ sợ là anh bị bắt ở vườn hoa..."

Lắc đầu, tôi không nói ǵ thêm. Cô tiếp viên đoán: "Thế chắc anh bị đứa nào nó móc túi hay cướp giựt, phải không?". Tôi lại lắc. Tai vách mạch rừng, ngay với cô tiếp viên này cũng nên khai báo thành khẩn. Thế là tôi kể lại, ngắn gọn thôi, cái lư do tôi đă tŕnh bầy cho công an, và kết luận:

"Công an ta thật hữu hiệu, lại đối đăi rất lịch sự, không đánh đập nạt nộ ǵ, xử lư đúng nếp sống văn minh, theo hiến pháp và pháp luật".

Không hiểu sao, cô tiếp viên cười bẽn lẽn. C̣n tôi, tôi chợt giật ḿnh. Bây giờ tôi cũng nói dối được. Và vô tư, cứ như thật.

Tôi đi ăn phở. Nhớ lời Thụy, tôi không dám đến phở Th́n có tiếng là ngon, nhưng xập xệ b́nh dân. Tôi chọn phở 44, một quán phở nh́n ra hồ, có máy lạnh và bàn ghế hẳn hoi, dành cho những người có tiền như bọn du khách ngoại quốc và đám Việt kiều. Phở th́ chắc là ḅ, mà ḅ nước ta thông minh cần cù, chẳng phải như ḅ điên lở mồm long móng bị cấm ở Âu Châu đâu. Vừa húp nước phở, tôi vừa tự hỏi, lư do ǵ mà cô tiếp viên khách sạn cứ nhắc đến một cái vườn hoa, rơ là có ư ḍ hỏi xem tôi có ǵ dính líu đến đấy không. Thằng bé chơi tṛ điệp viên trong tôi thức giấc. Cộng hưởng với nỗi đớn hèn khiến tôi nói dối như thật, thằng bé đó đâm ra liều lĩnh, sống lại giấc mơ điệp viên thuở thiếu thời. Nó điều tra. Rất dễ, v́ ai cũng biết. Đó là vườn hoa Mai Xuân Thưởng.

Trưa hôm sau, len lỏi giữa những tán lá trụi nắng, tôi lần đến góc cái vườn hoa đó. Bạt chăng chắn gió che cho đám người kẻ ngồi kẻ nằm. Một bà cụ móm mém ngước lên nh́n, miệng mấp máy: "Ông hỏi ai?". Tôi đáp: "Thưa cụ cháu t́m anh cháu", mô tả h́nh dạng hắn, nhưng chẳng một ai nói ǵ. Bà cụ lại gặng: "Cậu ấy từ đâu đến? Ở đây th́ Bắc có, Nam có, Trung có. Tôi từ Thái B́nh. C̣n bà này, - tay chỉ một phụ nữ xồn xồn, cụ thều thào - đến từ Kiên Giang. Ông cụ đây th́ Đồng Tháp, ông kia từ Hà Tĩnh... Toàn người có tuổi cả. Hiện c̣n một cô người Thái B́nh, lại là một nhà ngoại cảm nên người ta c̣n e... Cô ấy bảo nhờ ơn trên, biết sớm muộn chúng tôi sẽ được cứu rỗi, oan khiên ǵ cũng giải được!". Tôi thầm nhủ, với cái khả năng siêu nhiên ấy, cô ta có thể giúp tôi t́m ra cái thằng anh trời đánh kia không? Hỏi cô ấy ở đâu th́ bà cụ bảo cứ đến khi mặt trời lặn cô ta mới ra đây, đầu đội khăn vàng, nh́n không lẫn được.

Tối nhá nhem, mây nặng trĩu chỉ chực đè xuống Hà Nội nóng như lên sốt. Điện cho Thụy, tôi xin được số Ban Mai ở Ḥa B́nh, nhưng là số cơ quan, tôi gọi không ai trả lời v́ quá giờ hành chính. Ăn qua loa, tôi quyết định quay lại vườn hoa đang đươm độc với những người dân oan mất nhà mất đất "khiếu kiện đông người", chủ ư t́m hỏi nhà ngoại cảm có khả năng đối thoại được với thần linh. Dĩ nhiên, tôi không dám nói với ai. Để lấy can đảm, tôi lại lấy tâm thế của một điệp viên nhị trùng đang bị bám, chơi tṛ đi ṿng vèo, khi taxi khi xe ôm, tưởng tượng ḿnh "cắt đuôi" địch. Đến gần vườn hoa, tôi tản bộ như một kẻ nhàn du, vào quán cháo giáp dăy nhà bỏ hoang. Dân oan giấu màn chiếu chăn mền ở đấy, mắt trước mắt sau, lúi húi xách về vườn hoa, lưng g̣ xuống tưởng có thể bé đi như con giun cái kiến. Đi theo họ, tôi bước vào một kịch trường kỳ dị, nh́n quanh quẩn. Dưới một gốc cây, nhà ngoại cảm tên Tiểu Hằng đầu quấn khăn vàng ngồi đấy, mô đất bên cạnh cắm một bó nhang đỏ lập loè trong gió. Tôi đến ngồi trước mặt cô, cô ngước lên, hỏi tôi muốn hỏi ǵ, người âm hay người dương. Thuật lại chuyện tôi đi t́m thằng anh chết tiệt với một thứ đầu đuôi nói ra khó ai tin, cô ta chỉ cười, bảo tôi đặt quẻ đi. Cô nhắm mắt trầm ngâm, th́ thào với những đấng thần linh c̣n phù trợ đám người trần mắt thịt, khoảng đâu mươi phút. Khi mở mắt nh́n tôi, mắt cô vô cảm, ánh mắt đến từ một thế giới khác, bí ẩn, dọa nạt. Tôi đợi, ḷng hồi hộp, tự hỏi bao nhiêu năm tưởng ḿnh duy lư mà tại sao nay đang ngồi chờ những lời phán từ một cơi siêu linh không kiểm chứng được. Lát sau, cô Hằng lên tiếng, ngắn gọn, nhưng quả quyết:

"Đi đâu nghe tiếng gào t́m Đào Hạ Trang th́ chính là hắn, kẻ hóa rồ nhận ḿnh là một người bạn triều Lư..."

*
*     *

Tôi là một kẻ chẳng ra ǵ. Vô cảm. Ích kỷ. Tôi ngơ vấn nạn của mọi người, chăm chăm hỏi nhà ngoại cảm chỉ một câu, ngẫm lại mới thấy ngớ ngẩn, là cái thằng anh chết tiệt của tôi ở đâu. Nó ở đâu th́ ở, việc ǵ đến tôi. Thật mà nói, tôi chưa bao giờ coi nó như một người bạn. Nó khác tôi, tất cả. Nó hăo huyễn, tôi thực tế. Nó may mắn có cha có mẹ. Tôi, một đứa con hoang. Nó tham vọng đổi đời. Tôi, quần quật với chỉ đời ḿnh cũng đă quá sức. Nó chỗ nào cũng có người yêu. Nhưng tôi, chỉ có độc một người vợ. Hắn làm thơ, c̣n tôi, tôi là anh chuyên viên kế toán, ngày ngày ghi chép những con số vô hồn, cộng cộng trừ trừ những bài toán sơ cấp giả h́nh làm dáng quan trọng. Hắn có những người bạn được thần nhân mách bảo cách Bảo Quốc Hộ Dân. Tôi chẳng quen biết ai, cô độc như một con sâu. Một con sâu róm v́ chẳng biết cười hiền hoà, lại lông lá dị kỳ tởm lợm. Ấy thế, tại v́ sao mà tôi lại chỉ hỏi được nhà ngoại cảm tên Hằng cái câu hỏi khốn nạn, và được biết có một thằng điên đi t́m Đào Hạ Trang. Lại một con đàn bà, chắc chắn nó phải có ǵ mới quyến rũ thằng kia đến độ đổ khùng đi réo tên để cả nước cùng biết. Không, cả nước th́ e hơi quá, nhưng lọt đến tai cư dân quanh đây hẳn là có thật.

Lẩn về khách sạn, tôi nằm dài, mở TV, chắc chắn thế nào cũng có tin về vụ "khiếu kiện đông người" ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng. Nhưng không, chỉ có h́nh ảnh thi hoa hậu Việt Nam duyên dáng, tin ta được ủng hộ gia nhập "đúp bờ vê tê u", tin Việt kiều "vinh danh" đóng góp với đất nước, tin cúm gà, tin heo tai xanh, ḅ long móng... đều được những cơ quan có chức năng giải quyết kịp thời. Tôi thiếp ngủ trong tiếng í éo rôm rả một phim Đài Loan, lại chuyện yêu nhau mà oái oăm chia tay v́ chàng cảm thấy trách nhiệm với hai đứa con riêng. Và nàng, vừa trẻ vừa đẹp, đi qua San Francisco để quên duyên t́nh lỡ dở. Nhưng thật bất ngờ, nàng gặp lại người yêu thời c̣n là sinh viên, nay đang làm giám đốc một công ty lớn bên Mỹ, mặc đồ bộ, đi xe Mercedes, đeo kính dâm, mồm nhai suynh-gôm...

Sáng dậy, tôi điện thoại ngay cho Ban Mai sau giờ hành chính. Sau khi tự giới thiệu và kể tôi đi t́m thằng chết tiệt, Ban Mai vui vẻ, giọng như chim:

"Anh ấy lên Mường Lát cách đây hai tuần, chính em đưa lại giới thiệu nường Phin. Trưa mai em có việc về Hà Nội, tối phải đi nghe hát xẩm. Nếu anh ṭ ṃ muốn đi xem nét văn hóa truyền thống dân tộc này, em xin mời, em sẽ cho anh thêm chi tiết..."

Th́ ra Ban Mai phải đi nghe hát xẩm v́ nàng chuyên trách phần văn hóa dân gian cho Ty Thông tin Văn hóa. Nhưng hát xẩm, theo cái kiến thức nhỏ bằng hạt đậu của tôi, là hát khi đi ăn mày, ê a con cá nó sống nhờ nước, tôi sống nhờ ông đi qua bà đi lại, ngửa nón đợi bố thí của những kẻ động ḷng. Chẳng lẽ đi ăn mày nay thành truyền thống? Tôi nghĩ quanh, bật cười về cái dớ dẩn của một anh dở ngô dở ngọng trước những t́nh tự dân tộc.

Trước khi gặp Ban Mai, tôi có cả một ngày, không biết phải làm ǵ cho hết. Ra Bờ Hồ, tôi sợ gặp lại con bé con, mẹ nó, và nhất là h́nh ảnh bà cụ bị xe chẹt chết. Vả lại, cái ḍng xe gắn máy rú rít nhả hơi xăng chạy ṿng ṿng chẳng có tác động ǵ khác là căng bựt cân năo đến một lúc th́ thần kinh nhăo ra vô cảm. Hỏi cô tiếp viên khách sạn, cô mỉm cười: "Thế anh đă đi thăm lăng Bác chưa? Đi sớm, chứ không th́ đông lắm đấy!". Tôi ngần ngừ: "Quanh lăng có cây xanh không?". Cô ta vui vẻ: "Muốn cây xanh th́ phải đến chỗ Bảo tàng, gần nhà sàn Bác Hồ và chùa Một Cột. Chỗ ấy du khách nhiều, đông vui lắm!".

*
*     *

Đến Bảo tàng, tôi theo chân ḍng người, xem những bức ảnh phóng lớn từ một lịch sử hoành tráng đầy dâu bể thời cận đại, có hang Pác Bó, chiến khu Việt Bắc, Đại tướng Giáp trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Bác Hồ cưỡi ngựa trong rừng, Bác Hồ và thiếu nhi, Bác Hồ tiếp các sắc tộc thiểu số... Rồi nhà sàn, cuốn sách mở ngửa của bác sĩ Spock về giáo dục trẻ em, cái bàn con con của một nhân vật vĩ đại nhưng giản dị. Và chùa Một Cột. Chùa nay được trùng tu lại, chắc khác với ngôi chùa cổ xây từ thời Lư, lớp sơn đỏ có thếp vàng c̣n mới toanh chói chang dưới nắng trưa gay gắt. T́m một bóng râm, tôi ngồi, đưa mắt nh́n quanh. Gốc cây ngay bên cạnh, một cụ già đeo kính đen thầy bói, tay ôm một cái thúng nhỏ trên đậy bằng mẹt, sờ soạng như mù. Cụ nghe tiếng sột soạt, quay về phía tôi, nói:

‘’ Mua giúp cho tôi thẻ hương nhé! Chùa này linh thiêng lắm, cầu được ước thấy!’’

‘’ Cám ơn cụ, cháu chẳng cầu ǵ cả!’’

‘’ Ông không cầu ǵ à? Quái lạ, đám quan quyền cầu giầu sang danh vọng,  lũ ăn mày cầu của bố thí hầu no bụng… Ông không có tiền cứ nói thật, tôi biếu nén hương vào lễ Thánh.’’

‘’ Cám ơn cụ, có cầu, cháu chỉ cầu những điu người làm được mà Thánh Thần th́ không!'’

‘’ Cái ǵ mà Thánh Thần không làm được!’’, cụ già hỏi, giọng có chút ngạc nhiên.

‘’ Chẳng hạn như khi đi xe máy quanh hồ Hoàn Kiếm, đừng đạp ga lao đi mà chẳng kể đến  chuyện gây tai nạn chết người!’’, tôi đáp ri chậm răi kể lại việc bà cụ qua đường bị xe đâm. Cụ già thở dài, ngước mắt nh́n lên, thủng thẳng :

    ‘’ Những chuyện nghịch lư ngược đời ở đây nhiều lắm, kể không hết đâu! Trông ông như người Sài G̣n…Sài G̣n th́ thế nào?’’

    ‘’  Cháu chưa đi Sài G̣n nhưng nghe nói nay cũng thế…’’

    ‘’ Ờ, cái xấu lây nhanh hơn hủi, người ta bây giờ cứ sống chết mặc bay. Thế ông ở đâu?’’

Nghe tôi đáp tôi từ Canada về, cụ già bật cười, miệng thốt ‘’ …th́ ra khúc ruột ngàn dặm, may nhỉ… ‘’. Cụ bưng thúng  đến, ngồi xổm, miệng th́ thào :

    ‘’Thế th́ ông phải coi hàng xịn mua làm kỷ niệm…Gặp khách tôi mới dám cho xem!’’

Tay giở cái mẹt đậy thúng, cụ ch́a vào mắt tôi. Trong thúng, toàn những huân chương. Cụ lục thúng t́m, rồi giơ lên, cao giọng:

    ‘’ Cái này, Huân chương Điện Biên, cổ nhất, hơn sáu mươi năm rồi. Đây là huân chương của anh bạn nối khố của tôi, người cùng làng, lại cùng đơn vị đi đánh đồi Béatrice. Tôi để ông giá rẻ,  ông giữ cho bạn bè quốc tế xem…’’

Không đáp, tôi hỏi, giọng không dấu được kinh ngạc:

    ‘’ Cụ lấy đâu ra mà nhiều huân chương đến thế này?’’

    ‘’ Ấy, chết hay chưa chết th́ con cháu cũng mang bán để lấy cái đút vào mồm, ông ạ! Nhà quê chúng tôi chẳng c̣n ǵ, ngoài đống huân chương và bảng Liệt Sĩ. Tôi mang lên nơi có du khách bán, lấy tiền mang về cho họ để có cái mà ăn. Thường th́ bán khó lắm, và mỗi lần bán được, tôi đều thắp hương khấn vái vong hồn bạn bè đồng ngũ…’’

Cổ tôi nghẹn lại. Nhổm dậy, tôi đi như chạy, chẳng hiu sao nước mt ứa ra. Lẩn dưới những tàn cây che nắng, đầu óc tôi chập chờn hư thực. Cứ thế, tôi bước, hoang mang không c̣n biết ḿnh ở đâu, và đang sống ở thời nào. Thời Lư, thời thằng anh chết tiệt của tôi quay về trong bức e-mail  có chiếu dời đô? Tiếng hát Đào Hạ Trang, mùi cứt trâu trên bờ sông Nhị, chuyện đi t́m vật quí hiếm Bảo Quốc Hộ Dân? Tất cả những rối rắm đó quậy lộn vào nhau thành thứ hiện thực rời từng mảng lềnh bềnh trong tâm thức. Tôi giụi mắt. Không được. Phải bám vào ngày hôm nay.

 T́m một bóng râm, tôi ngồi. Thời Lư, thời thằng anh chết tiệt của tôi quay về trong bức e-mail có chiếu dời đô, tiếng hát Đào Hạ Trang, mùi cứt trâu trên bờ sông Nhị, chuyện đi t́m vật quư hiếm Bảo Quốc Hộ Dân. Tất cả những rối rắm đó quậy lộn vào nhau thành thứ hiện thực rời từng mảng lềnh bềnh trong tâm thức. Tôi giụi mắt. Không được. Phải bám vào ngày hôm nay. Tối này, tôi sẽ gặp Ban Mai, hỏi ai là nường Phin, và phải t́m cho bằng được thằng chết tiệt nay bặt tin.

*
*     *

Đi dọc Hàng Đào khi phố vừa lên đèn, tôi chưa đến chợ Đồng Xuân đă nghe nhịp phách lẫn vào tiếng nhị văng vẳng. Người đông, đi phải lách, và trong cái đám chen chúc đủ thứ mùi tôi bỗng tḥ tay giữ chiếc ví trong túi quần, cụm từ ăn cắp chợ Đồng Xuân từ thời xa xưa rập ŕnh đe dọa. Đến dăy cửa hàng ăn uống giữa chợ, tiếng chào mời dưới ánh nê-ông nhợt nhạt vang lên tứ phía. Chỗ nào cũng đặc sản của hàng chục địa danh, mùi dầu mỡ mắm muối gia vị sực vào mũi. Cạnh đó, một sân khấu dàn dựng sơ sài với khoảng ba chục cái ghế nhựa đặt đúng hàng đúng lối ở ṿng trong. Ṿng ngoài, người xúm nhau đứng. Trẻ nít chạy ṿng ṿng. Kẻ cười kẻ nói. Dăm thanh niên chen vai thích cánh chen vào chiếm chỗ. Tiếng bà già càu nhàu. Tiếng gái nạ ḍng chua loét cất lên chửi. Rồi người can ngăn, yêu cầu nếp sống văn minh, đừng cậy khoẻ ức hiếp yếu, cậy trẻ bắt nạt già, phải có trước sau tôn ti trên dưới. Trong không khí nháo nhào, tiếng mi-crô rè rè cất lên, giới thiệu đêm văn hóa này do Trung tâm Phát triển Âm nhạc Việt Nam tổ chức phục vụ đồng bào. Theo lời dặn của Ban Mai, tôi hỏi một anh phụ trách trật tự. Lát sau, một người trạc đôi mươi ra, hồn nhiên chào rồi đưa tôi vào chỗ sau sân khấu, tay chỉ một người con gái. Chưa chắc có phải là Ban Mai không, tôi định hỏi nhưng nàng đưa một tay lên môi khẽ suỵt, tay kia chỉ ra sân khấu. Nàng cười bằng mắt, nhẹ nhàng: "Anh ra ngồi ghế ngoài sân xem cho thoải mái!".

Một cụ già khăn đóng áo dài, tay cầm giấy, trịnh trọng đọc. Cụ giải thích xưa vào thời phong kiến thực dân người mù hát xẩm xin ăn là do bức bách vật chất, nhưng nay nước ta kinh tế thị trường định hướng Xă hội Chủ nghĩa đă xóa đói giảm nghèo, hát xẩm được nâng cấp thành nghệ thuật đáp ứng một nhu cầu tâm linh quần chúng. Về làn điệu, xẩm có rất nhiều bài, nhưng có 8 bài đặc trưng là Xẩm chợ, Chênh bong, Riềm huê, Ba bực nhịp bằng, Phồn huê, Ḥ bốn mùa, Hát ai Xẩm thập ân... Người hát xẩm trước đây là những người mù. Họ phải học thuộc làn điệu, phải biết chơi đàn, chơi phách, nắm được hát đến chỗ nào th́ dạo đàn, chỗ nào được đánh phách vào, chỗ nào đàn chỉ có đệm mà không chêm giai điệu, tạo được những âm điệu đặc sắc do cảm nhận cuộc sống qua đôi tai. Khuyết tật giác quan của họ khiến mọi người dễ cảm thông. Đặc tính nổi bật trong nghệ thuật hát xẩm là tính hài hước, đả kích sâu cay, châm biếm, phê phán thói đời và tiếng oán than những nỗi buồn da diết, khổ đau của kiếp người.

Cụ dứt lời, chẳng thấy ai phản ứng ǵ, vài kẻ vỗ tay cho lịch sự. Thế là mọi người không ai nh́n ai cùng vỗ tay hồ hởi. Đám nghệ sĩ bậc thầy ra trước chào khán giả. Có cả nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú. Họ đứng tuổi, quần trắng áo the, đầu đội khăn xếp, tay ôm đàn ôm nhị, mắt đeo kính đen giả như mù cho đậm đà bản sắc. Có cả lớp trẻ, thường đă tốt nghiệp bộ môn nhạc truyền thống dạy ở Nhạc viện, trang phục rất chỉn chu, nhất là đám thanh nữ thướt tha trong những vạt áo tứ thân sặc sỡ che quanh giải yếm đào. Nhưng buổi tối tŕnh diễn hôm nay nhằm mục đích vinh danh cụ Hà Thị Cầu, nghệ nhân từ Ninh B́nh, người đă truyền dậy "nghề" cho đám hậu sinh. Nghệ sĩ trẻ Tuyết Hoa d́u cụ ra. Cụ ḷa, móm mém, đầu đội khăn mỏ quạ, cúi chào khán giả rồi vào. Thật lạ, không hiểu v́ sao tiếng vỗ tay ran dội như pháo. Cụ phải ra sân khấu thêm một lần, cũng vẫn chẳng cất lời, chỉ chắp tay vái khán giả. Sau khi đó, Ban Mai ra ngồi cạnh tôi, dịu dàng bảo:

"Sau buổi hát này, ta mới nói chuyện dài được..."

Hiểu ư, tôi ngẩng nh́n sân khấu, chỉ kịp nhận biết Ban Mai có một mái tóc thật dài, dài có lẽ chấm gót. Điều này hiếm. Vào thời buổi này, ai nấy háo hức Đổi Mới đến cả chân mày kẽ tóc, để tóc dài là hơi bị xưa.

Tiếng đàn bầu chẳng khác tiếng người nỉ non khóc, từng chặp nấc lên theo nhịp phách nấc nghẹn, đệm những lời thương thân oán phận, từ Tiễn anh khóa, đến Xẩm chợ... rồi Lỡ bước sang ngang... Nghệ sĩ tŕnh diễn ngồi hát, tay sử dụng một loại nhạc cụ, nhập vào hồn vía quá văng c̣n luẩn quất tựa những linh hồn lạc lơng một thời chưa hẳn khuất. Người nghe im lặng. Không c̣n tiếng rao hàng. Không cả tiếng trẻ con ḥ hét. Và họ vỗ tay như đoạn kết cho mỗi bài hát thường kể lại những lỡ làng dang dở. Sau, khán giả ḥ tên cụ Cầu.

Cụ lại ra, Tuyết Hoa vẫn ở bên. Cụ ngồi xuống, tay quơ cây đàn nhị, lẳng lặng so dây, bật khẽ một tiếng, rồi dặng hắng lấy giọng. Như một phép lạ, khi cụ cất tiếng hát, giọng thanh hẳn chứ không có chút ǵ mỏi mệt của một người ở tuổi trên dưới tám mươi. Cuối câu, cụ luyến láy tự nhiên như người nói, tiếng vang vang trong một phiên tối chợ:

Sáng trăng suông vằng vặc cái đêm rằm

Nửa đêm về sáng trăng nằm nơi ngọn tre

Anh có yêu em cho trọn một bề,

Để em thơ thẩn ngồi kề bên trăng.

Sự t́nh này ai thấu cho chăng?

Để em chỉ nguyện bóng trăng chịu sầu.

Tương tư nối một nhịp đôi ba cầu,

Bắc Nam đôi ngả, chịu sầu đôi nơi.

Con chim khôn chết mệt về mồi.

Con chim khôn. Là mẹ? Chết không phải v́ mồi, chết v́ lũ chim non đợi chim mẹ về mồi? Cụ Cầu hát xong, khán giả im như bị hớp hồn đến cả phút, lát sau mới cất tiếng hoan hô đến vỡ chợ. Cụ mỉm cười, nắm tay Tuyết Hoa, nét mặt rạng rỡ, ân cần: "Tôi hát cái ǵ cho vui nhé! Nẫy giờ, toàn những bài buồn, buồn quá. Muốn vui một tí, thời nào cũng phải kể chuyện ngược đời...". Tuyết Hoa so dây cây nhị. Cụ Cầu cầm phách gơ từng tràng lách cách. Th́nh ĺnh cụ cất lời, giọng dí dỏm:

Hỡi người trai trẻ kia ơi,

Muốn nghe lại đây

em kể bài ngược đời cho nghe...

Chuột kia cắn cổ con mèo,

Một đàn châu chấu đuổi theo đá gà.

Trạch chấu cắn cổ ba ba,

Một lũ đàn bà bóp vú đàn ông.

Người nằm xuống để lợn cạo lông.

Một chục quả hồng nuốt bà lăo tám mươi.

... Thớt kia chực nghiến con dao,

Một đàn cóc chực đớp sao trên giời.

... Dế mèn thức suốt đêm khuya,

Hát xẩm không tiền nên nghèo xác xơ...

*
*     *

Ban Mai cắn môi, quả quyết:

"Anh hỏi em có thấy ǵ lạ không, em nghĩ lại, không anh ạ. Anh ấy bản chất là người đam mê, chứ ngoài ra th́ b́nh thường như em hiểu. Duy có chuyện cái vật anh ấy gọi là Bảo Quốc Hộ Dân, nói ra chắc ít người tin. Nhưng có điều người đời tin hàng mấy chục năm, chịu cực chịu khổ, mất con mất cái, đổ xương đổ máu cho nó mà nay mở mắt nh́n ra th́ như vỡ một cơn mộng hoang. Vậy anh bảo, bây giờ ai dám tin ǵ? Buồn hơn nữa, ai dám tin ai? Anh ấy có lạ là ở chỗ anh ấy vẫn dám tin. Vào em chẳng hạn. Sau dăm câu chuyện, anh ấy kể cho em chuyến xuống núi Nùng với người dẫn đường. Vất vả lắm. Phải đấm hàng chục triệu làm tiền măi lộ, xuống th́ trong đường hầm toàn rắn với chuột lộn nhộn lao nhao. Đến gần chỗ thông ra sông, anh ấy bảo khi đó con đường hầm nước ngập đến bụng, toàn là rết chẳng biết ở đâu chui ra, con nào con nấy to bằng chiếc đũa, bám vào đầu vào tóc, chui xuống cổ xuống vai, lách vào bụng vào ngực. Đến gần đích, th́ dơi bay ra hàng đàn, cứ nhằm người lao đến cắn. Anh ấy bảo, chắc pháp thuật của Cao Biền, kẻ đă trấn yểm long mạch khiến nước ta cứ yên b́nh là kiệt dân khí... Theo đúng lời thần nhân, anh ấy t́m nửa ngày mới thấy cái chày đá cắm vào cối, nhưng ngược đời, cối ở trên chầy ở dưới, chặn đúng vào một mạch nước phun bọt lên. Đào nhấc được vật đó th́ có tiếng ph́ ph́ ngay bên tai. Anh ấy quay lại, eo ôi, một con rắn dưới cái chầy chui ra, có sáu con mắt, lè lưỡi to bằng bàn tay, xông lại. Đă được dặn cách chống, anh ấy niệm... câu ǵ như a la ba ha om nít ràng... mà nay em quên mất. Con rắn liền gục đầu xuống, theo lối ra sông trườn đi, và lúc quẫy đuôi, nó hóa thành rồng bay lên trời. Anh ấy bảo nay Hà Nội sẽ lại hóa thành Thăng Long, nếu giải được vật trấn yểm bằng cách giam nó vào núi Nà Mèo ở gần Mai Châu trên Ḥa B́nh. Anh ấy nhờ em đưa đường, nhưng em không phải người Mai Châu, em mới nhờ nường Phin vốn người Mường Lát cạnh đấy đưa anh ấy đi. Tính ra đến nay hai tuần rồi, nhưng em chẳng được tin tức ǵ. Trước khi đi Hà Nội, biết sẽ gặp anh, em có điện thoại cho nường Phin. Cô ấy cũng chưa về, anh ạ!"

"Nhưng nường Phin là ai?", tôi hỏi.

Ban Mai cười:

"Nhưng anh là ai đă chứ! Bây giờ cho em hỏi anh t́m anh ấy làm ǵ?"

H́nh như đây là lần đầu có người hỏi tôi là ai. H́nh như đây cũng là lần đầu tôi nói về tôi, nhưng tôi nói cả giờ th́ cũng cứ loanh quoanh lẩn quẩn những chuyện lung tung. Tôi liệu có thực biết tôi là ai không, ngoài những chuyện chán mớ đời như công ăn việc làm, vợ con, nhà cửa, xe cộ... Thú thực như vậy với Ban Mai, tôi im lặng, không biết nói ǵ hơn. Lát sau, tôi ngập ngừng xin Ban Mai đưa tôi đi t́m nường Phin và thằng anh chết tiệt chẳng biết đă giam được cái vật trấn yểm kia chưa. Chắc Ban Mai từ chối, tôi cúi đầu di chân xuống đất. Có lẽ v́ thương hại, Ban Mai cười hiền ḥa, bảo: "Cũng được, và thế là anh có thời giờ nói cho em biết anh là ai đấy nhé!"

BỐN

N

gười thanh niên ngửa mặt hú một tiếng thật dài. Tiếng hú rít gió khiến mặt hồ Dâm Đàm gợn sóng, chim chóc hoảng hốt đập cánh bay lên trời. Vị sư già trụ tŕ chùa Phổ Độ tham thiền nhập định liền chín tuần trăng giật ḿnh mở mắt. Sư buột miệng niệm A di đà Phật, nh́n tượng Mầu Ni thếp vàng, dùng phép Truyền âm nhĩ mật, miệng mím chặt, mắt nhắm nghiền, tay bắt quyết chữ Tâm. Tượng mấp máy môi, thanh âm nửa hư nửa thực "T́nh là bể khổ, chúng sinh nay quy về... Cái đó... là hết ư!". Đạo Hạnh ngộ ra, thỉnh một tiếng chuông, cúi đầu lĩnh ư.

Với tay lấy thiền trượng tùy thân thời giặc dă nhan nhản, vị sư già vận sức vào đan điền. Hít ba hơi nguyên khí hạo nhiên, chân bước theo phép Đào tẩu khinh công, bóng áo vàng xẹt đi như một chớp lửa. Thanh niên chưa hú hết hơi vị sư đă liệng một ṿng đáp xuống, miệng mỉm cười:

"Vô lượng thọ Phật. Kẻ xuất gia này xin chào thí chủ!".

Thanh niên cúi đầu đáp lễ, kín đáo tḥ tay vào nắm chắc giấy tờ và một cuộn tiền mặt, dè dặt: "Kính chào đại sư! Kính xin đại sư cho biết tính danh!"

Vị sư già đủng đỉnh: "Bần tăng họ Từ, Phương trượng chùa Phổ Độ. Nghe tiếng hú của thí chủ, bần tăng đoán thí chủ đang phẫn chí khổ tâm..."

Thanh niên mừng ra mặt, vội vă: "Chắc chùa ở quanh đây. Đệ tử dám hỏi một lời, xin đại sư giải đáp cho!"

Nhích nhẹ, Từ đă đến trước mặt thanh niên, đáp: "Chùa bần tăng ở khá xa, sau núi Tản. Nhưng thí chủ cứ hỏi...".

Thanh niên ngập ngừng:

"Dám thưa Phương trượng, đệ tử lấy Vietnam Airlines đáp xuống Nội Bài, đi được đâu mười dặm th́ hóa ra ḿnh đang trên xe trâu trên đường dời đô từ Hoa Lư đến đây. Đợi trên bờ tả ngạn sông Nhị, đệ tử có biết một thiếu nữ tên Đào Hạ Trang, người gốc Đông Hải, dặn đến Dâm Đàm t́m. Đệ tử đă hú ba ngày ba đêm, nhưng bặt vô âm tín. Đệ tử rập đầu kính thỉnh Phương trượng giúp cho...".

Từ nhăn mặt:

"Dây oan đây. Người cởi ra, kẻ buộc vào trong cái bể khổ này. Nhưng để bần tăng hỏi thí chủ một câu đă!"

Thanh niên ngước nh́n, nét mặt băn khoăn như khi nhập cảnh ở phi cảng.

"Dám hỏi, thí chủ từ đâu đến?"

Thanh niên đáp hệt như khi khai báo ở hải quan. Từ Phương trượng bấm đốt tay, lắc đầu:

"Gia Nă Đại, ở đâu mà bần tăng bấm không ra thế này?"

Điểm cây thiền trượng xuống đất, Từ bay lên, tay che mắt nh́n quanh. Khi hạ xuống nhẹ như một ngọn cỏ, Từ hỏi: "Thí chủ có lỡm bần tăng không đấy?". Thanh niên lượm một cành cây khô, vạch chữ X, thưa:

"Giả dụ ta đứng đây, nhỏ như con kiến, th́ Gia Nă Đại ở tít Bờ Hồ bên kia, và Dâm Đàm này trở thành Thái B́nh Dương, một trong tứ hải trên thế giới có năm châu này..."

Từ ngắt:

"... À, th́ ra thế. Phép Viễn Nhăn của bần tăng chỉ đến Cảng Hải Pḥng là hết! Tứ hải giai huynh đệ. Bốn phương vô sản đều là anh em, thí chủ cứ tin thế đi".

Thanh niên chưa hẳn yên ḷng, đang định đăi bôi một câu cho êm th́ Từ nhẩy thoắt lên chạc ba cây sung mọc ven hồ. Sợ rắn cắn, thanh niên lùi vào gốc cây, mắt nh́n xuống đám cỏ dại. Khinh thân nhẩy xuống, Từ ghé vào tai thanh niên th́ thào:

"Tổng Nhị cục đang tiến đến bao vây... Chúng dùng roi điện, búa tạ, lưỡi tầm sét cứ bạ nghe tiếng đồn nào cũng đến vây bủa. Ta phải đi thôi, ở lại th́ bần tăng mắc tội tiếp xúc với một khúc ruột ngàn dặm học phép Biễn Diến Ḅa H́nh đang bị Nội Mật viện cấm! Đi thôi!"

Thanh niên chưa kịp trả lời th́ người bốc lên trong tấm cà sa vàng xẹt đi mất tăm, chắc chắn c̣n nhanh hơn vận tốc siêu âm. Tai ù, mắt nhắm tịt, thanh niên vẫn đủ tỉnh táo tự nhủ, cái ǵ ở Đại Việt cũng ưu việt, đúng với lời đồn của rợ Đài Loan, rợ Singapore và rợ Kim ở Đại Hàn đang qua đây lấy giống tốt về trồng người.

*
*     *

Lạng một ṿng xem xét bằng thủ pháp Ó Cập Kiến, Từ Phương trượng kẹp thanh niên vào nách, yên tâm từ từ đáp xuống một vạt đất bằng phẳng trải gạch mầu gụ. Th́nh ĺnh, trống ầm ầm nổi lên. Trong không trung, tiếng gió xoáy u u dọa nạt. Từ quát, tay xoay ṿng, chéo áo cà sa găm hàng trăm mũi tiêu, mỗi mũi nhỏ bằng ba mũi kim khâu. Thật lạ, những mũi tiêu uốn éo chuyển động hệt sinh vật sống, đầu rướn cong ngúc ngắc. Thanh niên rú lên, giọng hoảng loạn. Nghe tiếng rú, những con trùng lớn dần, ngọ nguậy nh́n như sán lải. Từ chặc lưỡi:

"Thế này th́ gốc là Thảo trùng tiêu pháp của Đông Tà Hoàng Dược Sư trong Vơ Lâm ngũ bá đây!"

Chúm miệng nhổ nước bọt, Từ tiếp tục xoay ṿng, nước bọt bay toé những hạt li ti như mưa bụi. Thảo trùng lả tả rụng xuống, cong queo như bị đốt.

Ba tiếng chiêng đánh dóng dả, tiếng reo ḥ ầm ầm tứ phía. Một thiếu nữ mặt bịt bằng voan trắng, áo xường xám mầu lục, giơ tay lên. Đợi tiếng reo lắng bặt, nàng cất tiếng, giọng êm như mây bồng bềnh:

"Chẳng hiểu thế nào mà Sư quấy phá Tiện nữ thế này. Tiểu tử đây, để lại th́ xin bái biệt Sư trong t́nh thân hữu, c̣n không th́ Tiện nữ bảo thật, máu sẽ đổ trên thềm chùa Phổ Độ đến ba đời sau vẫn chưa khô..."

Từ cười ha hả, hắng giọng:

"Dám hỏi danh tính cô nương, tại sao bần tăng quấy phá, và lư do tại sao cô nương muốn giữ tiểu tử này?"

Thiếu nữ nhỏ nhẻ:

"Tiểu nữ là Hân Ly, vẫn cứ đi t́m Đồ Long đao. Tiểu tử đây có sứ mệnh truy lùng một vật Bảo Quốc Hộ Dân, tiểu nữ nghĩ chắc đó là thanh đao v́ nó tiểu nữ suưt oan mạng. Nếu không, th́ chí ít vật đó cũng phải là kiếm Ỷ Thiên... Nhưng c̣n một lư do khác, riêng tư hơn, tiểu nữ không tiện nói ra!"

Từ ngạc nhiên:

"Theo cái biết nông cạn chốn giang hồ của bần tăng th́ cô nương phải là người đầu triều Minh, tức là sau Tống, rồi Nguyên. Bần tăng hiểu là ta đang sống đời Tống, vậy khi ấy làm ǵ có Đồ Long đao và Ỷ Thiên kiếm mà cô nương t́m?" C̣n chuyện riêng tư, Từ dùng phép Truyền âm nhĩ mật, hỏi, là chuyện ǵ?

Hân Ly đưa tay lên chấm nước mắt, giọng run run:

"Bực cao tăng hỏi, Tiện nữ không dám giấu... Ấy là Tiện nữ vẫn trinh trắng, chẳng một ai đoái hoài v́ một bên mặt bị rạch ở đảo Long Sà, lúc nào cũng cứ phải lấy khăn che, nói lảng là ḿnh theo đạo Hồi. Thời gian th́ như vó câu qua cửa, Tiện nữ pḥng không gối chiếc, mùa xuân cứ chậm chạp như què. Tiện nữ lại nghe bên châu Mỹ người ta có kỹ thuật ghép da mặt, phục hồi và chỉnh trang được nhan sắc ngoại h́nh, quảng cáo trên rất nhiều báo chợ ở quận Cam. Tiểu tử đây nói được tiếng Anh, có thể bảo lănh cho Tiện nữ xin hộ chiếu xuất dương, làm thông ngôn cho Tiện nữ v́ nói thật, Tiện nữ rất kém ngoại ngữ. Trong khi chờ đợi giấy tờ xuất cảnh, biết đâu Tiện nữ lại chẳng t́m được đao Đồ Long hay kiếm Ỷ Thiên, một công đôi ba việc..."

Từ Phương trượng thở dài:

"... Sắc sắc, không không! Sếch sếch cũng không không cô nương ạ! C̣n như đao kiếm, quư báu ǵ th́ cũng chỉ đưa đến sát sinh mà thôi."

Lúc đó, thanh niên ghé vào tai Từ, th́ thào "...sau 11 - 09, nhập cảnh vào Mỹ khó lắm v́ chuyện chống khủng bố". Từ gật đầu, thủng thẳng:

"Cô nương khiến bần tăng mủi ḷng, xót xa cho thân gái dặm trường, đặng chẳng đừng phải kiếm cách lưu vong ḥng sửa mặt cho đúng gu nam tử. Nhưng xin hỏi, bần tăng trao tiểu tử đây cho cô nương th́ cô nương cho lại bần tăng cái ǵ?"

Hân Ly đáp ngay:

"Tiện nữ xin để lại toàn bộ âm binh pḥ Tiện nữ cho Phương trượng sai bảo. Xin nói ngay, ngày sinh thời Mao Chủ Xí, chính Lâm Bưu nguyên soái gạ đổi lấy toàn bộ lúa gạo trong kế hoạch năm năm mà Tiện nữ cũng không chịu đấy!"

Từ cười hềnh hệch, nhưng nhẹ nhàng:

"Ngay bần tăng th́ bần tăng cũng chẳng đổi thế. Ai chẳng biết v́ duy ư chí mà năng suất kém, sản phẩm nông nghiệp chẳng có là bao, lại không giá trị ǵ trên thị trường quốc tế!".

Chưa dứt lời, Từ bế thốc thanh niên, tay khoa thiền trượng, vù lên đỉnh cây rồi dùng phép Đào Tẩu công lướt đi, h́nh dáng chỉ c̣n là một vệt khói vàng nhạt. Hân Ly quát the thé:

"Không cho chúng nó thoát! Bắt lại cho ta!".

Âm binh ùa ra tám phương trời, tiếng binh khí chát chúa chạm vào thiền trượng nghe đinh tai nhức óc. Từ thoát ṿng vây chẳng mấy khó khăn. Khi Hân Ly đằng vân tới th́ nàng chỉ thấy một chấm vàng ở cuối trời, biết không hy vọng ǵ bắt lại được. Tức tối, Hân Ly quắc mắt quát âm binh:

"Ma chúng bay là đồ ăn hại. Lễ rằm tháng bảy này cấm trại, không cho lê la đi ăn cháo lá đa nữa! Bây giờ, vật chết tất cả sư săi rồi đốt chùa, nghe không!".

Chùa Phổ Độ cháy bừng bừng trong tiếng kêu khóc của đám sư săi đă bị âm binh đột nhập bắt trói vào giờ Tị. Từ Phương trượng ngoái nh́n, lẩm nhẩm:

"A di đà Phật, sau này ta sẽ xây dựng lại bằng mười cho mà xem!"

*
*     *

Khi thanh niên mở được mắt, chàng chỉ thấy một màn đêm đặc sệt. Giơ tay lên, chàng chạm vào vách đá ẩm ướt rêu phong. Khí lạnh thấm vào buốt đến xương. Chập choạng đứng lên men ra chỗ có chút ánh sáng hiu hắt, chàng lờ mờ thấy Từ Phương trượng ngồi xếp bằng tṛn, tay chắp trước ngực, mắt nhắm nghiền, huyệt Bách Hội đỉnh đầu bốc một lớp khói trắng. Ngồi xệp xuống nền đất ẩm thấp, thanh niên im lặng chờ.

Được dăm tuần hương, có tiếng thở ra. Rồi tiếng Phương trượng:

"... Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng... Tiểu tử thế mà khoẻ hơn ta! Chắc tuổi trẻ, khí lực c̣n nhiều, tốt! Ta cứu được mạng ngươi, chắc do duyên tiền định mà thôi".

Thanh niên rập đầu cảm tạ, và hỏi ngay:

"Bạch thầy, thầy tinh thông quán thế, nhưng tại hạ vẫn chưa được thầy chỉ giáo cho biết Đào Hạ Trang nay ở đâu. Lậy thầy ba lậy, tại hạ không thấy nàng th́ chết không nhắm mắt được, xin thầy làm phúc chỉ cho..."

Nói đến đấy, thanh niên ̣a lên khóc như cha chết. Từ bực ḿnh gắt:

"... Yên nào, hơi tí là khóc. Để ta ăn cái ǵ cho ấm bụng rồi ta quán tưởng t́m con ranh cho con. Có thực mới vực được đạo! Đi bắc cho ta nồi nước sôi. Nồi ta giấu sau Nhục bồ đoàn... Chỗ này!".

Theo ngón tay chỉ, thanh niên cúi xuống, lôi ra một cái nồi đất, nghẹn ngào không một lời. Từ lẩm bẩm "Cái t́nh là cái chi chi? Ta chịu! Không thể nào hiểu nổi đám chúng sanh này cứ như một bầy khỉ!".

Sau khi ăn một tô ḿ ăn liền giội nước sôi, Từ Phương trượng rứt chiếc lá bách soi trên ngọn bạch lạp, miệng khấn tên Đào Hạ Trang, rồi nhắm mắt thiền quán. Đâu dăm phút sau, Từ mở mắt nh́n thanh niên, nói:

"Quẻ Lữ, thế là đi rồi, hiện ở thôn Đào Xá..."

Thanh niên rập đầu, tức tưởi:

"Kẻ hậu sinh ngu tối, chẳng biết Đào Xá ở đâu, xin thầy chỉ đến nơi đến chốn, kiếp này không đền ơn được th́ xin đến kiếp sau..."

Từ nhỏ nhẹ:

"Thí chủ khỏi nghĩ chuyện ân huệ cho nhọc ḷng. Đào Xá lập từ Thuận Thiên năm thứ 16, do Đào thị, một ca nương nổi tiếng hát hay, khiến đám con hát nay đều gọi là Đào nương. Bần tăng không biết Hạ Trang đích xác là ai, nhưng chắc chắn nàng trú ở Đào Xá, thí chủ cứ t́m hỏi, hẳn sẽ biết".

Văng vẳng lại yêu nhau, cởi áo cho nhau... vang vọng như một tiếng gọi sâu thẳm. Thanh niên đứng lên vái một vái, thốt: "Muôn vàn cảm tạ thầy, nay xin xuống núi để...".

Từ ngắt:

"Không phải xuống núi mà là leo lên hang... Nhưng đừng đi vội thế. Bần tăng biết duyên nghiệp của thí chủ nặng lắm, mong giúp được thí chủ một chút trước khi bần tăng lên làm vua!"

Thanh niên nhảy thót lên:

"Thầy là người tu hành, sao lại lên ngôi vua được?".

Từ mỉm cười:

"Sao lại không? Trước khi bần tăng kể cho thí chủ nghe, để bần tăng hỏi một câu đă"

Thanh niên ngước lên chờ đợi. Từ đủng đỉnh:

"Năy, Hân Ly cô nương có nói là thí chủ đi t́m một vật Bảo Quốc Hộ Dân. Đó là vật ǵ vậy?"

Thanh niên kể chuyện ba người, gồm Rậm-ria, Tiểu-quỷ và chàng có thần nhân mách bảo, rủ nhau về t́m với mục đích làm sao để con dân Đại Việt đỡ khổ ải nhục nhằn sau hai cuộc chiến, nhưng nay vẫn chưa biết vật đó là ǵ và ở đâu.

Từ chép miệng:

"Hơi hâm một tí đấy, nhưng được cái tâm trong sáng! Không t́m, tất không thấy. Có t́m, may mà thấy th́ cứu được cả thiên hạ!"

Thanh niên quỳ xuống ôm chân Từ, giọng tha thiết:

"Kẻ ngu tối này đă thấy phép thần thông của thầy, xin thầy mách cho cái vật quư hiếm kia là ǵ?"

Khẽ nâng thanh niên lên, Từ niệm nam mô rồi nói, giọng như đinh đóng cột:

"Th́ là cái khiến đoạt được ngôi vua chứ ǵ nữa! Có quyền là có tiền. Quyền tuyệt đối, th́ tiền không thèm đếm, cưu mang ai chẳng được! Cũng v́ thế mà bần tăng sẽ lên ngôi trong mười lăm năm nữa!"

Thanh niên c̣n sững sờ th́ Từ chậm răi:

"Bần tăng thuộc hệ phái tu dấn thân, đă từng khuyên Ngô Tuấn thiến đi để gần gũi Lư Nhân Tông, tên đổi ra Lư Thường Kiệt, vào Thái Ninh năm thứ 4 được vua sai đi đánh Tống, cùng với Tông Đản chiếm châu Khâm, châu Liêm, châu Ung. Năm sau, Tống hợp quân với Chiêm và Chân Lạp sang xâm lấn nước ta, bần tăng lại cùng Lư tướng quân đón đánh giặc ở bờ sông Như Nguyệt. Ở đền hai vị tướng họ Trương trung nghĩa, chính bần tăng vận Truyền Thông thần công để Lư tướng quân phát thanh:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

nhằm động viên quân ta giữ sơn hà. Bần tăng biết vua Lư Nhân Tông không có con trai nối dơi, sẽ lấy cháu lập làm Vua. Sùng Hiền hầu là em Vua đang cầu con trai. Bần tăng dặn báo cho bần tăng khi Đào phu nhân lâm bồn, bần tăng sẽ trút xác nhập hồn vào thành Thái tử Dương Hoán kế vị Nhân Tông. Bần tăng lên ngôi Vua là vậy, và sẽ lấy hiệu là Thần Tông..."

Thanh niên hoảng hốt, van xin:

"Kẻ ngu tối này xin thầy nghĩ lại. Trước khi làm vua, ai cũng nghĩ ḿnh sẽ Bảo Quốc Hộ Dân. Nhưng thưa thầy, khi làm vua rồi th́ chuyện hộ dân lắm vị vua quên béng, đâm ra hại dân th́ nhiều. Vả lại, đi thêm mười thế kỷ, chuyện tách thần quyền ra khỏi thế quyền là trào lưu chung của loài người. Và rồi thế quyền cũng không tập trung vào một người, hay một nhóm người, mà phải dựa trên tính đồng thuận liên đới của mọi người trong một quy ước xă hội. Vậy thầy đă tu, tu cho trọn kiếp thanh cao, có phải thế mới là phương án tối ưu không?"

Từ lắc đầu, nhỏ nhẹ:

"Bần tăng cám ơn thí chủ đă chân thành khuyên ngăn, nhưng hai điều thí chủ nói th́ bần tăng chẳng hiểu điều ǵ, cho nên thôi, để bần tăng bói thêm một quẻ xem cát hung trước mắt thế nào..."

Nói xong, Từ nhắm mắt, người lặng vào một thế giới khác. Khi Từ mở mắt, vẻ trầm tĩnh cố hữu biến mất. Giọng ảo năo, Từ thốt:

"Thái sư Lê Văn Thịnh mưu đồ thoán nghịch, Nhân Tông mệnh hệ nào th́ làm sao bần tăng triển khai kế hoạch nhập hồn vào Dương Hoán c̣n chưa thụ thai? Cái đám họ Lê này đặt mồ đặt mả thế nào mà đời này qua đời kia hễ cứ nhăm nhe Tể tướng là lại nghĩ ngay đến chuyện chiếm lấy Lộc Đỉnh của thiên hạ. Thế này th́ bần tăng phải cầu thí chủ giúp một tay mới được!"

"Giúp thế nào?", thanh niên bỡ ngỡ hỏi.

Từ ghé vào tai, dặn như vầy, như vầy... đọc hồi sau sẽ rơ.

*
*     *

Rậm-ria và Tiểu-quỷ hiện sáng nào cũng ăn phở Th́n ven hồ Hoàn Kiếm đợi bạn, ba ngày sau th́ sốt ruột, lắm lúc văng tục không khác ǵ trẻ bụi đường Hà Nội. Bảnh mắt, Tiểu-quỷ cư ngụ thành Luân Đôn, nơi rượu đỏ ê hề nhất nh́ thế giới nên sớm nghiện chất cồn, đ̣i ngay một ly đế quốc lủi. Nâng lên miệng, Tiểu-quỷ nhơng nhẹo nhại thơ Quang Dũng "Uống đi cho đỏ mũi. Cho lên hương cuộc đời", tay vuốt mũi, miệng cười kh́ kh́. Rậm-ria húp cạn bát phở váng mỡ, nhếch ria phán:

"Nói cho bạn biết, phải bốn ngh́n năm mới làm được bát nước phở thế này đấy, tự hào đi! Này nhé, mùi th́ mùi hành thơm nhưng không hắc, nồng nhưng không gây, lại thoáng cái hương gừng gợi vị cay... Gợi thôi nhé, thế mới tài t́nh. Dân tộc ta là thế, tinh tế..."

Tiểu-quỷ ngắt:

"... và nghèo rớt mùng tơi, huynh ơi!"

Cười hinh hích, - Tiểu-quỷ tiếp - "nhưng được cái nghèo mà ham, cái ǵ cũng đ̣i là nhất, là đỉnh cao!"

Rậm-ria bực bội:

"Nghèo không phải là xấu, giầu không cứ là hay! Bạn phải hỏi, nghèo là v́ ǵ, và giàu th́ làm thế nào mà giàu. Và hăy can đảm đối mặt với sự thật, dẫu đau cắt ḷng".

Đưa tay lên vê ria, Rậm-ria búng tay gọi tính tiền phở, trầm giọng:

"Quái thật, sao hắn vẫn chưa tới. E-mail hắn dặn sẽ đi ngay, lẽ ra là đă đến từ hôm kia chứ!"

"Chắc lại có cái bóng hồng nào đó. Em biết tính hắn nên mới đặt là Lơ-mơ lăng tử. Và cứ thấy nhan sắc là hắn động ḷng, rồi đi đến đâu th́ đi, chết bỏ!"

"Nhưng chuyện chúng ta là chuyện đại sự... Thần nhân lại bảo chú là cả ba người chúng ta hợp lại th́ mới có cơ may.Đèo thêm một bóng hồng nào đó vào rồi nhỡ lỡ việc th́ sao!"

Người phục vụ, một cậu bé độ mười bốn mười lăm, đến tính tiền với Rậm-ria. Tay này vốn người Hà Nội, trước ở phố Hàng Lược, sau giải phóng th́ vào Nam, rồi vượt biên, nổi tiếng hải ngoại với một tập truyện khá hiện thực về cái thực trạng xă hội miền Bắc. Sau đó, Rậm-ria mở một tiệmăn ở Copenhagen bên Đan Mạch nhưng vừa đóng cửa v́ kinh tế Âu Châu đang tuột dốc. Làm ăn bên ngoài khó, Rậm-ria lần này tính kế hồi hương nhưng không nói ra cho ai biết ngoài Tiểu-quỷ. Rậm-ria tay đưa mấy tờ giấy 10.000đồng nhàu nát bẩn thỉu, mắt nh́n cậu bé, hỏi:

"Ông Th́n đâu, mấy ngày tao ra đây ăn mà không thấy. Tao là khách cũ, hai mươi năm mới quay lại đây. Mày nhắn ôngấy là phở vẫn cứ như xưa, ngon lắm..."

Cậu bé cười cười:

"Ông cháu về hưu từ sau Đổi Mới, bây giờ ốm nằm nhẹp ở nhà, mỗi lần ra quán là lại lầu nhầu chửi chúng cháu là phá gia cang, mất truyền thống, cứ kêu nước phở bỏ quá nhiều ḿ chính. Ông cháu có biết đâu là xương ḅ đắt, nấu th́ phải tăng giá, mà tăng là ế liền... Cháu sẽ nói với ông cháu là khách cũ vẫn khen ngon, để ông cháu yên ḷng!"

"Ừ, - Rậm-ria đằng hắng, - cứ nói thế cho tao. Bảo ông mày là Phở và Chả Gị thành món ăn quốc tế, nổi tiếng c̣n hơnĐiện Biên Phủ và chiến dịch Đại thắng mùa Xuân đấy!"

Tiểu-quỷ phá lên cười ằng ặc, đứng dậy bước khỏi quán nằm ngay đầu một cái ngơ hẹp đâm ra đường, nóng đến chẩy mỡ với ba nồi phở đặt trên than hồng, khách đông ngồi chen như ngồi lên ḷng nhau, húp nước x́ xà x́ xụpđồng tấu bản giao hưởng đầu ngày. Ra đến ngoài, Tiểu-quỷmóc máy:

"Huynh khéo thật, người Hà Nội có khác. Em ăn phở Th́n, thấy thua xa phở Ḥa ở Paris. C̣n so với phở Nguyễn Huệ ở quận Cam Cali th́ phở Th́n vừa ít bánh, vừa ít thịt, nhưngđược cái là người ăn phở hơn xa nơi khác ở chỗ đói, húp hết nước rồi mà láo liên như sắp liếm cả bát... Ô, đất ngàn năm văn vật ta ơi, đừng tuyệt vọng!"

"Này bạn, - Rậm-ria khoa tay như dọa - xin chớ mỉa mai cáiđất này! Bạn sinh sau đẻ muộn, lại yên ổn ở Sài G̣n nên nào biết 12 ngày đêm bom B52 cầy xuống đất mà không lay động được ḷng người Thăng Long. Nhưng thôi, chúng ta ḥa giải với nhau v́ công việc chung là phải t́m cho ra cái vật quư hiếm Bảo Quốc Hộ Dân ḱa!"

"Thế nước có chông chênh thế nào mới phải Bảo Quốc, dân c̣n lầm than ra sao nên mới lo chuyện Hộ Dân - Tiểu-quỷ trề môi - C̣n nếu cứ ca cẩm bài ca lạc quan tếu th́, ô hô ai tai, lại ru ngủ kiểu ta phở ngon nhất bốn ngàn năm lịch sử, ta đỉnh cao của lương tri thời đại, ta bách chiến bách thắng, đánh ngă nào là Đế Quốc, Thực Dân, rồi Bành Trướng... Nói vậy để huynh vui ḷng, đệ nói ngay, nhưng thật t́nh vẫn không khỏi xấu hổ...".

Đứng sựng lại, Rậm-ria ḱm nóng giận, giọng nghẹn như có ai tḥ tay bóp cổ:

"Chính tôi là người cảnh báo sự việc "con khỉ không đuôi" ngày c̣n thời bao cấp, bạn quên rồi ư? Giờ khác, ta có điều kiện hội nhập vào kinh tế toàn cầu, xuất khẩu lao động hầu huấn luyện tay nghề. Cứ xem con em của chúng ta th́ biết tôi không thể lầm. Mấy đứa cháu tôi, chúng học từ sáng đến tối, chăm chỉ, biết lo đến tương lai. So với con tôi sống bên Đan Mạch, tôi công nhận chúng hơn nhiều, và tương lai là ở chúng..."

Nói đến đó, Rậm-ria vùng vằng sang lề đường bên kia ven hồ. Tiếng xe Honda thắng gấp, bánh nghiến mặt đường ken két, rồi tiếng chửi: "ĐM mày, thằng dở người, định chết à!". Tiểu-quỷ theo chân, nhưng nh́n trước nh́n sau, mắt la mày lét. Khi hắn đặt chân lên hè con đường gạch lát quanh Bờ Hồ, Rậm-ria bảo, giọng vẫn cứ ấm ức:

"Tôi đi tiên phong cho bạn, bạn suưt vừa giết tôi đấy!"

*
*     *

Thanh niên hứa giúp nếu Từ Phương trượng nói rơ đầu đuôi, vái rồi khẳng khái:

"Cứ chuyện ǵ có t́nh có lư, lại khoa học, vừa đúng hướng tất yếu của lịch sử vừa thể tất được cả nhân nghĩa đạo Khổng th́ tại hạ đây sẵn ḷng".

Bấy giờ Từ mới kể. Khi nhập định bói cát hung, Từ dùng độn Tàng tâm liên lạc với Tiểu Hằng tiên cô hiện đang trụ ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng cứu giúp dân oan đang cùng nhau "khiếu kiện đông người". Tiểu Hằng, đóng vai nhà ngoại cảm để phù hợp với thời đại, đúng lúc ấy phải đối phó với truyền thống khủng bố, chỉ kịp gửi e-mail báo: "Hai đạo hắc bạch sẽ xuất đầu lộ diện phía tây hồ Dâm Đàm, lực lượng nghiêng ngửa, phần thắng vẫn là chuyện thiên cơ!". Rầu rĩ, Từ tự nhủ, có ta vào th́ ta cũng không thay đổi được cán cân lực lượng. Làm Ǵ? What is to be done? Que Faire? Что делать?Bỗng nhớ c̣n tiểu tử đa t́nh bên cạnh, ta chợt thấy cái duyên trời định.

"Trời định thế nào?", thanh niên thắc mắc.

Khi ấy, Từ chậm răi:

"Thí chủ đến với bần tăng là có xếp đặt cơ huyền như giải tŕnh điện toán vi tính. Giúp một tay, cán cân sẽ nghiêng về phần bạch, đám tà đạo chẳng thể nào bách hại được Lư Nhân Tông! Xin thí chủ giúp cho..."

Thanh niên vươn vai, giọng cương quyết:

"Cứu người, dĩ nhiên tại hạ đâu dám từ nan! Nhưng xin nói thật với Phương trượng: từ ấu thơ, tại hạ chuyên việc sách đèn, chân mềm tay yếu, cùng lắm sự nghiệp chỉ có chục bài thơ lục bát đăng điện báo hải ngoại, tại hạ làm ǵ được?"

Từ Phương trượng thốt lên "Thiện tai, thiện tai!", rồi mỉm cười: "Thí chủ chớ lo!". Ṿng tay ra sau lưng, Từ rút theo chiều sống lưng một thanh kiếm dài mười tấc, han rỉ, ngoại h́nh ng̣ng ngoèo. Ch́a trước mặt thanh niên, Từ nghiêm giọng:

"Quỳ xuống làm lễ bái sư, ta sẽ truyền cho Thanh Công kiếm pháp, lúc ấy th́ mi chẳng c̣n phải sợ ai trên chốn giang hồ! Đây là kiếm Thanh Công, xưa của Tào Tháo, Triệu Tử Long cướp được ở cầu Trường Bản, nhờ thế cứu đặng Ấu Chúa A Đẩu mang về cho Lưu Huyền Đức, mi không biết à?"

Lẽ th́ phải quỳ xuống, nhưng thanh niên lùi ba bước, ṿng tay thưa:

"Bạch thầy, kẻ ngu tối này từng đă phát thệ ḥa b́nh rồi tham gia phong trào phản chiến ở Berkeley chống chiến tranh, không thể dùng kiếm đổ máu được! Vả lại, kẻ ngu tối này tự nghĩ không có cái cơ duyên xuất gia đầu Phật, ḷng c̣n tơ tưởng Đào Hạ Trang, nay xin kiếu để đi t́m nàng ở Đào Xá..."

Nói xong, thanh niên ba chân bốn cẳng quay ḿnh chạy. Từ Phương trượng chỉ khẽ nhấc ḿnh, thân đă rơi xuống chặn ngay cửa hang, từ tốn:

"Đi đâu mà vội mà vàng? Nếu không muốn tu chùa th́ c̣n phương án Cư sĩ, tu tại gia, muốn vợ con vẫn được Phật phê chuẩn đăng kư! Chê kiếm gây đổ máu, th́ c̣n thứ khí giới hiền lành như côn, như bổng. Xưa, các vị tổ chùa Thiếu Lâm cũng đă thu thập bí kíp vơ công thiên hạ, thập bát ban vơ nghệ đều tinh thông, kể cả phép Đả Cẩu Bổng của lăo ăn mày Hồng Thất Công. Thí chủ không dùng kiếm th́ ta dậy cho dùng bổng, gọn, nhẹ, lại không bị Viện Nội Mật xếp vào tội tàng trữ vũ khí... Tính danh thí chủ là ǵ, ta chưa biết!"

"Bằng hữu gọi kẻ ngu tối này là Lơ-mơ lăng tử..."

"Không được, đệ tử nhà Phật tên phải nghiêm chỉnh hơn... Để ta nghĩ xem! Nhưng trước khi bái sư mi c̣n điều ǵ muốn hỏi không?"

Thanh niên lúng búng:

"Bạch thầy, kẻ ngu tối này như vào một cơn mộng du. Bắt đầu là xuống máy bay th́ c̣n kỷ XXI, thoắt một cái, quay lại thời Lư Thái Tổ dời đô 10 kỷ trước từ Hoa Lư về Đại La. Thành này nay gọi là Thăng Long bởi lẽ các v́ vua từ Thái Tổ, qua Thái Tông, Thánh Tông, vị nào cũng thấy rồng lộn, khi th́ ngồi thuyền vượt sông Nhị, khi th́ cưỡi ngựa thị sát trên đê Yên Phụ, cả đêm lẫn ngày, năm này qua năm nọ, không hề mệt mỏi. Đến lúc kẻ ngu tối này đi t́m Hạ Trang th́ th́nh ĺnh đến thời Nhân Tông, gọi Thái Tổ bằng cụ. Nay thầy ban kiếm, lại kiếm Thanh Công có từ loạn Tam Quốc bên Tầu... Đùng một cú, thầy e-mail cho nhà ngoại cảm tên Hằng trong vụ "khiếu kiện đông người" th́ ta lại rất hiện đại..."

Cười lên ha hả, Từ Phương trượng đáp:

"Tiểu tử thắc mắc thế, kể cũng đúng! Ta đồ vậy là mi có căn duyên, học với ta thành đạt chắc nhanh thôi. Vấn đề mi đặt ra là cơ bản đấy. Đó là câu hỏi Thời gian là ǵ? Hà hà, trả lời th́ ắt có kẻ đă thử trả lời rồi, và thậm chí đoạt giải Nobel Vật lư pháp. Nghe ta lập ngôn đây: Thời gian có là do vật chất chuyển động. Năng lượng cấu thành chuyển động, cho nên thời gian là năng lượng, mà năng lượng chẳng qua cũng là một dạng của vật chất. Đấy, mi thấy cái lẽ huyền nhiệm tuần hoàn chưa? Năng lượng th́ luôn được bảo tồn, cho nên thời gian cũng vậy. Cái ta gọi là trước, là sau đều là chuyện bề mặt của thứ thời gian thẳng tắp do sinh tử gây ấn tượng. Thật ra, không có ǵ trước, không có ǵ sau, tất cả chuyển dịch tuần hoàn. Tức là, từ khởi duyên mà đi, không có ǵ... Cho nên khi mi bảo "th́ ta lại rất hiện đại" là chẳng có cơ sở. Nếu mi muốn, ta sẽ đưa mi đến thời hậu hiện đại như trong văn chương chẳng hạn. Nhưng ta bảo trước, ở đoạn này th́ gập ghềnh, gẫy khúc, hỗn mang, đột biến nhiều đến nỗi độc giả tẩu hỏa nhập ma, tác giả th́ chết, chỉ c̣n độc văn bản trên giấy vụn hoặc trên màn h́nh phù du..."

Thanh niên quỳ xuống rập đầu:

"Thầy đă giải đáp cho kẻ này cái nghi vấn đó, vậy nay chỉ c̣n một điều bất cập...". Nh́n Từ Phương trượng đang ngước mắt hấp háy ngó ngang, thanh niên thở dài, tiếp: "... số là cứu ai th́ cứu, chứ cứu vua lắm khi lại thành họa cho chúng sinh..."

Đập tay xuống Nhục bồ đoàn, Từ chặn, nghiêm khắc:

"Dù xây chín bậc phù đồ, cũng không bằng làm phúc cứu cho một người... Vua th́ cũng là người, cứu là cứu một người mà thôi!"

Nghe đến đó, thanh niên ngộ ra lẽ từ bi bao la, liền sụp xuống, đầu đập vào nền đá lát hang, miệng rên rỉ:

"V́ cứu lấy một con người, dẫu hắn là vua, đệ tử nay xin lậy ba lậy bái sư, ḷng nhủ ḷng, một miếng cũng là thầy, nửa miếng cũng là thầy. Dám mong Sư phụ truyền cho phép Đả Cẩu, và xin cho đệ tử được phép tu tại gia, đúng phương án Cư sĩ, không kiêng khem ǵ cả..."

Từ Phương trượng hài ḷng, ánh mắt nhân từ nh́n thanh niên:

"Khen cho tiểu tử ngộ được lẽ cơ huyền, hiểu ra căn cơ bản thể của chuyển động là tuần hoàn. Để tránh hỗn mang, một chuyển động ṿng với chỉ một tâm điểm là ổn định tối ưu. Vậy ta ban cho tiểu tử pháp danh Nhất Tâm! Từ nay, bỏ cái tên cà chớn đầy bụi là Lơ-mơ lăng tử đi!"

Thanh niên lại rập đầu bái tạ.

Quả như mong đợi của Từ Phương trượng, Nhất Tâm học một hiểu mười, tinh tiến mau vô cùng, nhất là khi luyện phép Lăng Ba Vi Bộ của nước Đại Lư, chạy nhanh, tránh né thật vô song trên chốn giang hồ. Đến giai đoạn học bổng pháp, Từ Phương trượng bẻ một gốc tre già, vuốt đến đâu th́ thân thẳng ra, uốn lượn như loại Hắc Thiên Trúc chỉ thấy ở nước Liêu thời Đông Châu. Nhất Tâm xin học đúng ba chiêu pháp, sợ học nhiều, cậy có vơ mà động tâm quyền lực th́ thường chỉ gây sát sinh. Từ Phương trượng bước đầu truyền cho Nhất Tâm chiêu thức Đả Dă cẩu bổng, chuyên đánh chó dân dă, chó hoang, loại chó Ta nhiều kinh nghiệm đời, thường đói, biết nhu biết cương, lẩn tránh tài t́nh. Chiêu thức thứ hai là Đả Thị cẩu bổng, dùng để trị chó giữ nhà trong thành phố. Loại này thường là chó Tây Dương, giống từ nước Đức bên Âu Châu, chỉ đám nhà giầu từ trung lưu cấp cao trở lên mới đủ tiền mua. Thị cẩu thường gầm gừ nhe nanh, có cái thuật nhảy lên cắn cổ người như hổ báo, lại nói ngoại ngữ nên lắm khi cần phiên dịch mới ra lệnh được, v́ thế không thật đáng kinh. Chiêu thức thứ ba là Đả Quyền cẩu bổng, dùng đánh chó nhà quyền quư. Loại này đủ thứ, có chó Ta, chó Tây, chó Tầu, chó Nhật. Chúng được chọn lựa rất kỹ, phân loại ra chó kiểng, chó săn, chó canh ma, chó kề mệnh phụ để giải sầu khi đức lang quân đi công tác dài ngày, vv... Chống mỗi loại, là phải theo đúng chiêu thức, khi mạnh khi yếu, lúc hoành tráng bung ra, lúc ẩn thân co cụm, học khá lâu mà Nhất Tâm vẫn c̣n quờ quạng, nhất là khi đối phó với chó canh ma. Loại này không sủa. Chúng thường liên hợp với đám cảnh vệ có điện thoại cầm tay để liên lạc với Trung ương đài chủ. Đám cảnh vệ thường được huấn luyện nghiệp vụ theo phương pháp ngậm máu phun người, chất độc ngấm có thể đến ba đời sau c̣n tác động trên lục phủ ngũ tạng của nạn nhân.

Sau dăm ngày khổ luyện, đầu choáng tai ù, ḿnh xuất hạn dầm dề nhưng vẫn không nhuần nhuyễn, Nhất Tâm nản chí th́ Từ Phương trượng an ủi, bảo loại chó canh ma chỉ loanh quanh ở Thủ Đô nên bất tất phải cực ḷng, hễ gặp th́ dùng phép Lăng Ba Vi Bộ để toàn thân. C̣n muốn thắng chúng, chắc phải đánh theo Liên Hiệp đa phong trào với các phái như Côn Luân, Nhân Quyền, Tung Sơn, Dân Chủ, Đại Ngôn. Và bởi mănh hổ nan địch quần cẩu, phải niệm chú đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết mới mong đắc thủ.

Nhất Tâm cúi đầu lĩnh ư.

*
*     *

Lại nói về Rậm-ria và Tiểu-quỷ loanh quanh trên 36 phố phường chờ Lơ-mơ lăng tử. Hai chàng hơi bị buồn, liền nhắc những chuyện t́nh nghĩa. Cách đây gần một thập niên, Tiểu-quỷ rủ Lơ-mơ sang Copenhagen thăm Rậm-ria. Buổi trưa, khi tiệm ăn hết khách, ba người ra vườn sau bù khú. Rậm-ria nghiêm trang:

"Chẳng phải lúc nào cũng có cái duyên hội ngộ này, nhớ tích kết nghĩa vườn đào của Lưu-Quan-Trương, sao nay ta không uống một chén thề, thề rằng sao đổi vật dời, ta vinh nhục có nhau, như anh em ruột thịt?"

Tiểu-quỷ cảm động, nước mắt rưng rưng, cầm ly lên ực ngay rồi rót thêm một ly cho ḿnh, thốt: "Sẵn sàng!". Ôm vai Tiểu-quỷ, Rậm-ria quay nh́n Lơ-mơ:

"C̣n ông anh, ông phải là Lưu Bị mới được!"

Lơ-mơ nguây nguẩy:

"Kết nghĩa th́ number one rồi, nhưng vườn không cây, chỉ cóđộc một chậu quất làm kiểng... Và Lưu Bị th́ kẻ hèn này chẳng dám nhận..."

"Th́ kết nghĩa vườn quất, trượng phu ai đi câu nệ chuyện lặt vặt! Nhưng tại sao huynh chê chức Lưu Bị?"

"Lư do... có tính bản chất. Lơ-mơ hắng giọng- Hai vị huynhđài c̣n nhớ, khi Triệu Tử Long bế được ấu chúa A Đẩu về trao tận tay cho Lưu Bị th́ hắn đối xử ra sao không? Hắnquăng đứa con c̣n ẵm ngửa xuống đất, kêu v́ mi mà ta suưt mất một chiến tướng rồi ôm lấy Tử Long khóc mùi.Đệ cho thế là hoặc Bị giả dối làm màn biểu diễn ân nghĩa chủ tướng trước ba quân, hoặc hắn chẳng có chút t́nh ǵ ngay với đứa con hắn đẻ ra. Vậy th́ đệ không cam tâm làm Lưu Bị đâu!"

Rậm-ria thở dài nhưng Tiểu-quỷ nhẩy quẫng lên vỗ vai Lơ-mơ:

"Nếu huynh chê Lưu Bị th́ đệ cũng chẳng hợp ǵ với Quan và Trương. Vân Trường th́ pḥ nhị tẩu mà không lăn tăn, hẳn khác tạng đệ. C̣n Trương Phi th́ đen thùi lùi, lại nóng nẩy hay làm càn. Phần đệ, huynh nh́n xem. Đệ trắng trẻo thế này - Tiểu-quỷ uốn éo đứng lên - lại cơ trí hơn hắn nhiều. Nếu hai vị đồng ư, cho đệ làm Triệu Tử Long đi, oách hơn hai tên kia nhiều!"

Rậm-ria gật:

"Muốn làm ai th́ làm, quan trọng là nội dung. Và nội dung là chuyện kết nghĩa với nhau. Nào, nâng ly!"

Tiểu-quỷ vui vẻ, nhắc nào, nào, và hào hứng:

"Ba anh em ta phải làm một cái ǵ chung với nhau mới được! Nh́n hai vị huynh đài ngơ ngác, Tiểu-quỷ cười hà hà, đề nghị - ta viết chung một tiểu thuyết chẳng hạn. Văn chương mà chỉ thuần truyện ngắn th́ "đoản" lắm. Nhị vị huynhđài thấy thế nào?"

Lơ-mơ giật ḿnh, khép chân lại thủ thế, tự nghĩ ḿnh mới có chục bài thơ lục bát, hổ thẹn thầm nhủ chớ đánh đu với tinh. Rậm-ria cười cười hỏi, nhưng viết ǵ cơ chứ? Tiểu-quỷ vỗ vào đầu b́nh bịch, kêu toáng lên:

"Cái viết th́ trong này rồi. Ta lấy tít là Bạn Triều Lư. Đệ nghĩ cả năm nay mới được hai câu đầu vào truyện. Nghe đây: Mặt hồ Dâm Đàm chao nghiêng khi chim báo băo đập cánh trên đầu rừng cây cơm nguội gập ḿnh trong gió đầu đông se sắt lạnh hơi đồng. Lúc ấy, đoàn di tản từ Hoa Lư về Thăng Long dừng lại trên bờ sông Nhị, ngơ ngác nh́n về phương Nam, luyến nhớ quê cha đến cất chân không được, tayđưa lên chùi những giọt lệ ṛng ṛng chảy trên má trên môi..."

Dĩ nhiên, tiểu thuyết ấy chưa sinh thành để đánh động văn hóa Giao Chỉ, gần đây lạm phát thơ và truyện chớp, rất phù hợp với xu thế nghe-nh́n, ăn fastfood, uống coca. Lư do th́ nhiều, kể ra làm ǵ, lực bất ṭng tâm là chuyện b́nh thườngđối với lớp đặc tuyển một dân tộc thông minh, cần cù và hiếu học. Chỗ nào cũng vậy, ấy cái nước ḿnh nó thế, từĐông sang Tây, từ Nam chí Bắc!

Đợi đến ngày thứ năm, cả hai sốt ruột, phải uống bia liên tục. Ngà ngà, Rậm-ria nh́n Tiểu- quỷ, hỏi:

"Thần nhân có mách bảo thêm điều ǵ trong mơ nữa không? Hay là chuyện mơ mộng lại là chuyện nhà văn đi t́m hứng?"

Nghe đến đấy, vốn mơ ước làm chuyện lớn, Tiểu-quỷ nghiến răng nhẫn nhục nh́n ra ḍng xe máy chạy ṿng ṿng quanh Bờ Hồ. Quả thật thời gian sau này Tiểu-quỷ than mất phong độ, loay hoay t́m đường Đổi mới, đang âm mưu thành trưởng môn phái Z. Phải nói ngay, mười năm trước, khi Tiểu-quỷ xuất hiện th́ giang hồ nổi sóng, hải ngoại kêu nếu trong nước có ông truyện ngắn Hua Tát với thủ pháp hiện thực trần trụi th́ ở ngoài ta có Tiểu-quỷ, nhà văn trẻ dùng thủ pháp hiện thực huyền ảo, nh́n ra cái chết sau quá khứ dập vùi v́ pháo thuyền trên ḍng Dương Tử. Văn phái Z chủ trương đổi D và cả GI thành Z, ziải phóng chị em, tranh đấu cho nữ quyền, đ̣i hỏi bạch hóa zâm zục, zia ziết, ziậm ziật. Một số nhà văn gốc Bắc nói ngọng R thành D, tuyên bố thực sự cách tân, đ̣i biến cả R sang Z, chẳng hạn zun zẩy, zùng zợn, vv... Miền Nam thành đồng, cũng nói ngọng, đi vô thành đi zô, đề nghị đổi V thành ZZ, thí zụ, đi về thành đi zzề, vẩn vơ thành zzẩn zzơ. Tiểu-quỷ yêu cầu trật tự, ra nghị quyết bỏ ZZ, chủ yếu zùng đúng ba tiêuchí, đứng hàng đầu là Zâm Zục, sau mới đến Zùng Zợn, và chót cùng là Zạo Zực. Lư zo đưa ra, zăn chương miền Bắc có truyền thống nên thủ cựu phải lên hàng đầu, c̣n miền Nam, đứng sau, bù lại được hai tiêu chí đổi R thành Z, v́ tiền nhân dặn miền Nam "đi sau nhưng về trước".

Thấy Tiểu-quỷ im lặng, Rậm-ria cười cười:

"Sao tôi hỏi mà bạn không đáp, khinh nhau thế! Rậm-ria mỉa - Thần nhân mách bảo trong mơ cũng huyền ảo lắm đấy chứ! Nhưng đâu cứ phải đợi Trăm năm cô đơn của châu Mỹ Latin! Tây du kư, rồi Liêu trai chí dị mà không huyền ảo à? Nhà văn đâu cứ phải học ngoại ngữ rồi đi bắt chước như khỉ đâu..."

Trúng chưởng, Tiểu-quỷ hộc một đống máu bầm, người cong xuống, mắt đỏ lừ ngước lên, trả miếng:

"Nhà văn cũng không cứ phải thật dốt, và viết lách như pha mắm muối, làm măi một món Tự lực văn đoàn! Cuối cùng,đóng cửa tiệm v́ thế th́... ăn măi phải chán!"

*
*     *

Thuyền ngự ra đến giữa hồ. Lư Nhân Tông ngửng mặt nh́n lên trời, thầm khấn: "Kính lạy Hoàng Thiên, kẻ xác phàm mắt thịt này đă xây 21 chùa, dựng 16 tháp, đổi hoàng hậu 6 lần, ăn nằm trước sau với 105 thị tần cung nữ, tha chém cho hơn 300 tên đầu giặc đuôi cướp làm phúc, thế mà sao không có lấy một mụn con. Nay xin phát thệ xuống tóc nếu ước nguyện nối ḍng họ Lư này được chứng giám...". Trời bỗng sáng rực lên từ phương Bắc. Một chiếc thuyền câu vùn vụt lao tới khiến Thái sư Lê Văn Thịnh đi thuyền sau quát thủ hạ đề pḥng, binh khí rút ra, tiếng loẻng xoẻng nghe rợn người. Chiếc thuyền câu đảo một ṿng. Trên thuyền có ba người. Một người cúi sụp xuống, miệng thưa: "Muôn tâu Thánh Thượng, kẻ tiện dân t́nh cờ biết đấng Cửu Trùng hạ giá nên đến lạy chào, kính chúc Thánh Thượng an khang!". Nhân Tông chưa đáp th́ Lê Thái sư quát:

"... Không có giấy tờ đi lại mà đến tất là mang ḷng tà ám, không cho chúng nó thoát, bắt lại!".

Nheo mắt nh́n xuống thuyền câu, Nhân Tông giơ tay chặn lại, giọng khoan ḥa:

"Ngừng lại! Ai như Từ Đạo Hạnh, phải không?".

Lúc ấy Từ Phương trượng ngửng lên, miệng hô: "Thánh Thượng vạn, vạn tuế!". Lê Thái sư phất tay cho đám thủ hạ thu binh khí, giọng thân mật:

"Th́ ra là Từ đạo lăo. Từ ngày chia tay trên bến Như Nguyệt, xa mặt nhưng chẳng cách ḷng, đệ luôn nhắc huynh với Thánh Thượng, nào ngờ hôm nay lại có cái duyên kỳ ngộ này!"

Từ thầm nhủ, khi ấy Lê mới chỉ là một trung úy Viện Nội Mật chuyên lo an ninh một bến sông quèn, nhưng sau hắn luồn lách thế nào mà Lư tướng quân từng b́nh Chiêm phá Tống phải về hưu non để hắn tiếm cái chức Thái sư, quần thần từ đó chỉ c̣n là lũ h́nh nhân không tim không óc. Rạp đầu xuống, Từ bấm bụng, thốt:

"Thiện tai, thiện tai. Bần tăng kính chào quan Thái sư. Vô lượng thọ Phật..."

Lê đáp lễ, hỏi: "Những ai cùng đi với Từ lăo đạo đấy?". Từ đáp: "Bẩm Thái sư, đây là Mục Thận và Nhất Tâm, đều là đệ tử tục gia của bần tăng!". Cả hai thấy Từ nháy mắt, liền rập đầu lạy.

Th́nh ĺnh một ṿng sáng xuất hiện từ phương Bắc, xoay như lốc trên mặt hồ khiến sóng nổi nhấp nhô. Lê Thái sư tái mặt quay hỏi viên phụ chính, nhưng hắn bảo việc lạ này đột xuất chứ không nằm trong kế hoạch. Chính ngọ, tiếng reo ḥ nổi lên. Xa xa, ba chiến thuyền buồm sơn đen lao tới. Chiếc đầu, chăng phướn đỏ, góc trái vẽ một chùm sao, bên dưới là h́nh chiếc búa tạ vắt chéo một cái câu liêm, hai loại khí giới có tính quần chúng ở những vùng có nhiều thợ rèn và cư dân đậm đà truyền thống văn minh lúa nước. Chiếc thuyền ở chính diện nổi trống. Một người to lớn, bệ vệ, má trái có nốt ruồi to bằng đồng chinh, sừng sững hiện ra ở đầu mũi, đằng sau là một biểu ngữ viết chữ vàng: "Chủ Xí Sống Măi Với Chúng Ta". Trên thuyền, đội Hồng Vệ trang phục đỏ tuyền phất cờ, hô: Tinh Tú lăo tiên muôn năm. Thuyền bên phải, đội Hắc Vệ quần áo đen ḥ: Tinh Tú lăo tiên muôn năm. Rồi thuyền bên trái, đội Bạch Vệ quần áo trắng, cũng gào lên Tinh Tú lăo tiên muôn năm. Từ Phương trượng vốn đi lại vơ lâm lâu năm nhận ngay ra là Đại Chưởng Môn họ Đinh ở Nam Hải đảo, sử dụng một cây đinh ba, vơ nghệ thượng thừa, lại dùng Hồng Thư pháp và Tiêu Dao tán, hai loại kịch độc khiến khách giang hồ chỉ nghe mà hồn xiêu phách lạc. Pháp Hồng Thư là pháp hớp hồn, kẻ bị độc mất khả năng tư duy, bảo ǵ làm nấy bất kể sống chết. C̣n Tiêu Dao tán là một thứ bột vô hương vô ảnh, ai hít vào th́ chỉ một phút sau người nhũn ra, công lực tiêu tán. Khi đó phải dùng Hồng Thư mới có thể giải độc Tiêu Dao, nhưng thế là bị hớp hồn, tất vong thân, thành công cụ của quyền lực họ Đinh.

Đợi tiếng ḥ reo lắng xuống, Đinh lăo tiên cất tiếng hỏi: "Thằng nào xưng đế ở An Nam quận?". Lúc ấy, Lê Thái sư run giọng quát:

"Hỗn láo! Thấy Vua mà mất dậy thế à? Mi chưa bao giờ nghe Nam quốc sơn hà Nam đế cư ư?"

Đinh cười hà hà, phất tay th́ những mũi câu liêm từ ba chiến thuyền phóng ra móc vào thuyền ngự của Nhân Tông, thuyền Lê Thái sư và thuyền Từ Phương trượng. Đinh lăo ra lệnh:

"T́m một rẻo đất cao để ta hỏi cái bọn Nam man này, t́m cho ra ngọn ngành cớ sự!"

Thế là thuyền lại vùn vụt rẽ nước, cái nọ kéo cái kia, hướng phía Đông lướt đi như bay.

Đám vệ quân Hồng, Hắc, Bạch vây quanh, vua tôi Đại Việt biết lâm vào thế nên ngoại giao, tính kế t́m cách trao đổi hai bên cùng có lợi. Đinh lăo tiên chỉ Lê Thái sư, hỏi:

"Mi là thằng xưng Đế?"

Nh́n Nhân Tông mặt xám ngoét, Lê đáp:

"Không! Nhưng hiện tại hạ điều khiển được triều đ́nh nước này, các hạ muốn th́ tại hạ lo, ngàn vàng cũng chẳng đáng là bao!"

Bật cười ha hả, Đinh lăo trề môi:

"Mi định đút lót ta à? Ừ, hiện ta cần cái đồng bằng sông Nhị cắm dùi, ở đảo măi cũng chán... Hà hà, chỉ phơi nắng với tắm biển và đợi khách du lịch đi tua, ngán lắm!".

Từ Phương trượng khi đó gầm lên rồi cất tiếng:

"Hỡi Đinh lăo ma, vua tôi ta sa vào tay ngươi nhưng c̣n ngươi, rồi ngươi không lọt được lưới trời. Tiệt nhiên định mệnh tại thiên thư, cho nên cái hạng đức mỏng như ngươilàm ǵ mà với tới được ngôi Thiên Tử... Đẻ ra ngươi, chỉ là loài cóc..."

Giơ đinh ba lên trời, Đinh thét một tiếng lộng óc, hô hoán "Con cóc là cậu ông Trời...", tay th́nh ĺnh phát chưởng đập vào đầu Từ. Nghe tiếng gió ào ào, Từ vung thiền trượng, dùng thủ pháp tá lực, lách qua một bên, áo cà sa phồng gió căng như một cánh buồm. Đinh gầm gừ:

"Khá khen cho thằng trọc, vơ công mi cũng vào loại khá đấy. Ta hỏi, mi là đồ đệ chùa Thiếu Lâm hay Tung Sơn?".

Chưa dứt lời, bất ngờ Đinh chỉa đinh ba ra đánh ngón Sát Ngư thủy phục, thường sử dụng đâm cá hồi trên biển khi chúng cỡn lên sóng vào mùa đẻ trứng. Từ lùi một bước, rồi tiến ba bước, tay x̣e ra dùng Cầm Nă thủ bắt ba mũi đinh ba. Cười nhạt, Đinh hô "Biến!" th́ ba mũi đinh ba thành ba con rắn hổ mang cong cổ, thở ph́ ph́, lưỡi thụt ra thụt vào, nhe răng nhắm cổ tay Từ mổ. Không kịp ứng phó, Từ buột miệng than, mệnh ta tuyệt rồi chăng...

NĂM

T

iếng than của Từ Phương trượng chưa dứt, một ánh quang xanh biếc lóe lên chém xuống như sét đánh. Ba tiếng choeng choeng rền rĩ, Đinh lăo thảng thốt rú:

"Ta mất cha nó ba cái đầu đinh ba rồi!"

Ngay cạnh Từ Phương trượng, một tráng sĩ mặt bịt bằng vải đen, chỉ cặp mắt sáng quắc lộ ra, tay thu kiếm bỏ vào vỏ trong một sát na, thủ pháp nhanh hơn ánh sáng. Đinh lăo vứt cây đinh ba xuống đất, nh́n hổ khẩu ḿnh toạc ra, thầm sợ ḱnh lực của kẻ vừa xuất hiện. Lấy lại b́nh tĩnh, Đinh lăo rút cây nhuyễn tiên giắt lưng, giọng xuống một ốc-ta, khen:

"Hảo kiếm pháp, hảo kiếm pháp... Danh tính tại hạ là ǵ? Cớ sao lại dây vào chuyện tanh hôi chốn giang hồ?"

"Ta là Độc Cô Cầu Bại núi Tung Sơn đây. Tay chỉ Từ Phương trượng, tráng sĩ tiếp - thấy vị này đă nương cửa Phật mà mi c̣n hà hiếp nên ta phải ra tay cứu. Có phải mi chính là Đinh Xuân Đông, truyền thừa của Đinh Xuân Thu trưởng môn phái Tinh Tú không?"

"Đúng thế. Sư phụ ta ĺa dương thế này ba năm nay..."

"Ta lại nghe mi là kẻ ám toán Sư phụ mi bằng Tiêu Dao tán mà mi học mót được Đệ Tứ ác là Cùng Hung Cực Ác, đúng không?"

Đinh chột dạ. Tội ǵ chứ tội phản sư diệt tổ là tội không ai, kể cả chính lẫn tà, trong giang hồ khoan thứ. Nuốt nước bọt, Đinh lấy giọng khoan thai:

"Bọn mồm mắm tôm trong vơ lâm th́ thiếu ǵ. Các hạ nghe chúng th́ là ăn lúa giống đấy. Chuyện ta được sư phụ truyền chức chưởng môn, thiên hạ ai chẳng biết. Phải không?"

Tức th́ ba đội Hồng, Hắc và Bạch vệ đồng thanh:

"Phải rồi! Tinh Tú Đinh lăo tiên muôn năm!"

Tráng sĩ đưa tay lên miệng huưt gió. Một con ngựa bạch xông ra, trên lưng ngựa một đống bầy nhầy cọ quậy. Ngựa hí lên tung vó, đống bầy nhầy rơi xuống đất nghe đến bịch, chửi:

"Bá ngọ mày Bạch Thần mă, tao mà chết th́ chó nó cắt cỏ cung phụng mày!"

Tráng sĩ thu hai tay vào bụng, tạo ra hấp lực kéo đống bầy nhầy tới gần, rồi ṿng tay đẩy tới. Bầy-nhầy đến trước mặt Đinh lăo, ngẩng lên rồi hoảng hốt thối lui ba bước, định chạy. Tráng sĩ vận ḱnh lực dùng phép Cách Không Lưu Vũ giữ Bầy-nhầy lại, hất hàm:

"Lăo ma, ngươi chưa nhận ra người này là ai à? Đây chính là AQ, sư đệ ngươi, chẳng lẽ có mươi năm mà ngươi đă quên sạch nghĩa sư môn sao?"

Khi ấy AQ mới nh́n ra Đinh lăo ma, lồng lên:

"A, ra là thằng phản thầy diệt tổ này. Mi hạ thủ cho ta thân tàn ma dại, mất hết khí lực đến cắt cỏ cho ngựa ăn cũng chẳng nên thân! Ta định chết th́ gặp Chí Phèo làng Vũ Đại, dậy ta phép Vạ Thực Cấu Diện mà cào mặt ăn vạ. Ta học cả tháng nhưng không thành đại công, thôi phép trả thù trong tưởng tượng, tính nhịn đói để qua thế giới bên kia diện đoàn tụ với Lệnh sư th́ gặp được tráng sĩ đây. Nghe xong chuyện, tráng sĩ hứa giúp ta đi trả thù cho Lệnh sư bị ngươi ám hại..."

Đinh lăo quát: "Im miệng! Đừng nói bậy...". Th́nh ĺnh một tay vận mười thành công lực xuất chưởng đánh thẳng vào huyệt Bách Hội của AQ, tay kia Đinh quật nhuyễn tiên vào thanh kiếm Độc Cô Cầu Bại vừa rút ra. Nh́n thế công bất ngờ này, Từ Phương trượng chỉ kịp đảo ḿnh nhắm cặp gị họ Đinh quét thiền trượng theo thế Trảm Sà Thủ khiến hắn phải nhẩy lên cao tám trượng, thu nhuyễn tiên lại, miệng chửi: "Hai đánh một chẳng chột cũng què, không biết xấu!"

Đầu AQ vỡ vụn, óc pḥi ra trắng hếu, chân tay vẫn tiếp tục co giựt thấy mà kinh. Độc Cô Cầu Bại lửa giận phừng phừng, quát: "Giết người để nhẹm tiếng, tội ác của mi chất chồng, ta không thể bỏ qua được! Ác giả ác báo! Coi kiếm của ta đây..."

Bay lên như chim ưng, Độc Cô uốn ḿnh lộn ṿng, kiếm khí phát thành tiếng x́ x́, nhắm Đỉnh đầu của Đinh lăo chụp xuống một cái lưới làm bằng ánh quang sắc tía. Đinh lăo rú lên, chân điểm xuống đất nhưng thân chưa cất lên th́ lại phải hạ xuống, cây nhuyễn tiên lượn trên đầu chỉ mong thủ, mỗi lúc một chậm chạp, phần thua coi như trước mắt. Trong khi Đinh lăo lùi dần, đám vệ quân nhao nhao: "Đă bảo mà, Đinh chưởng môn thần công cái thế, tiểu tử không chịu quỳ xuống th́ chỉ có tán mạng. Tinh Tú muôn năm, muôn năm...".

Đánh được ba khắc, th́nh ĺnh Đinh lăo lăn ra đất, tay áo phát một luồng ḱnh lực lạnh ngắt. Độc Cô cười ha hả, rút khăn bịt mặt ra phẩy liên tiếp về phía đám vệ quân của phái Tinh Tú, phẩy đến đâu th́ chúng nhũn người ngồi xệp xuống hoặc ngă bổ chửng ra, kêu khóc váng lên. Độc Cô quát:

"Lăo ma thu Tiêu Dao tán lại đi, đừng giết đệ tử như vậy nữa". Đinh lăo tái mặt rút tay áo, lại nghe Độc Cô cười, bảo: "Cái phép đánh bằng Tiêu Dao độc tán vô ảnh vô hương bây giờ người ta dậy cách chống ngay trong những lớp bổ túc văn hoá cấp 3, hay ho ǵ mà thi thố. Coi đây!"

Vừa nói, Độc Cô ném kiếm lên trời, lưỡi kiếm không rơi thẳng mà lại đảo một ṿng rồi ng̣ng ngoèo như rắn vây bọc chụp xuống. Đinh lăo cảm thấy một áp lực nặng như núi ập lên đầu, vận công đẩy lên, hai chân lún sâu vào đất, cứ một, rồi hai, rồi ba tấc như sắp bị chôn sống. Lăo thét lên, mồm thổi một cục đờm mầu xanh vào mặt Độc Cô, mùi thối bốc lên khiến ai nấy bịt mũi. Bị đánh ám khí bất ngờ, Độc Cô buộc phải thu kiếm, nhẩy sang một bên tránh. Lúc bấy giờ, Đinh lăo đă vận dụng gần hết công lực, thở hổn hển, giơ tay như xin thua.

Chợt có tiếng trẻ khóc ré lên, rồi tiếng ru the thé: "Con ơi con ngủ đi con. Để mẹ đuổi bọn lon ton làm hề..."

Từ Phương trượng tái mặt, lẩm nhẩm: "Thế là Nhị ác họ Diệp tái xuất giang hồ. Phen này không biết cát hung ra sao..."

*
*    *

Thiếu phụ trang phục trắng toát, ngoại h́nh rất chuẩn theo tiêu chí những cuộc thi hoa hậu, chỉ lạ là mặt một nửa trẻ măng như độ trăng tṛn, nửa kia da lại nhăn nheo như một lăo bà tuổi thất thập. Ghé răng cắn cổ đứa trẻ hút máu, Diệp Nhị nương nhắm mắt, miệng loe loét đỏ, hút xong một ngụm rồi dỗ:

"Con mẹ ngoan, v́ cái bọn chó heo này mẹ mới phải thế. Sau, nghỉ dăm bữa nửa tháng th́ con sẽ hồi sức thôi..."

Đứa bé không c̣n sức khóc, lả trong tay Diệp như một chiếc lá. Hút máu là bước sửa soạn Huyết Công tuyệt kỹ, gốc gác từ bên xứ Ba La Tư, chưởng âm hàn đánh ra có thể khiến máu địch thủ đông lại tức khắc, tác dụng chẳng thua ǵ Cửu Âm Chân Kinh chưởng pháp nổi tiếng vơ lâm. Diệp Nhị nương đứng thứ nh́ trong tứ ác. Đệ nhất ác là Thái tử Đoàn Diên Khánh nước Đại Lư, vơ công quái dị, hai chân bị liệt nên di chuyển bằng tay nhưng c̣n nhanh hơn beo hổ. Đệ tam ác, tên Nam Hải Ngạc Thần, công lực c̣n đứng trên Tinh Tú Đinh lăo chưởng môn một mức, học được cả Hàm Mô công của Tây độc Âu Dương Phong lẫn phép Sư Tử hống của Tạ Tốn Đại Hiệp, oai lực xô núi đẩy biển. Đệ tứ ác, nhân vật chỉ nhắc đến tên là phụ nữ nhà nhà đóng cửa. Y cần cái ấy một ngày đến bẩy bận, không được th́ cương cứng đến phát khùng, lư do là hệ điều tiết hóc-môn trục trặc bẩm sinh. Y có chữa chạy với Hoa Đà, vị danh y này cũng bó tay, đề nghị cắt bỏ nhưng bệnh nhân không chịu. Thường, tứ ác đi đâu có nhau, trừ Đệ tứ ác thường xuyên tạm vắng v́ lư do bệnh lư.

Diệp Nhị nương vẫy Đinh lăo, mắng: "Thấy cô nương mà không đến lạy chào th́ ta nọc ra đánh cho biết thế nào là lễ độ, nghe chưa!" Thật lạ, Đinh líu ríu cúi đầu vái ba vái. Quay sang Độc Cô Cầu Bại, kẻ chỉ mong có người đánh bại ḿnh, Diệp cao giọng:

"Mi quả thật lớn lối, vơ nghệ chỉ thế mà ngông nghênh tự cho ḿnh một cái tên thật... là cao ngạo. Rút kiếm ra ta chỉ điểm vơ công cho!"

Thoáng một cái, Diệp Nhị nương lạng ḿnh đến bên Độc Cô, tay đưa ra tát yêu, miệng nở một nụ cười duyên dáng. Độc Cô cúi đầu, cảm thấy má ḿnh lạnh ngắt, biết âm ḱnh của đối phương vào hạng nhất nh́ giang hồ. Rùng ḿnh, tay phải hoành kiếm, tay trái bấm vào huyệt Dương Hoa điều khiển thân nhiệt, Độc Cô lùi ba bước. Th́nh ĺnh, một tiếng khoan hoà cất lên, âm lượng nhỏ nhưng xoáy vào tai, nghe như tiếng muỗi:

"Thí chủ ngừng tay ngay, chớ manh động!"

Mọi người ngửng lên nh́n. Một nhà sư áo nâu đến tự lúc nào mà không ai hay, đứng trên mô đất cao, tay lần tràng, mắt nhắm nghiền, lông mi bạc thếch rủ xuống như hai con rết. Độc Cô Cầu Bại reo lên:

"Huyền Từ Vô Thượng Sư, thật duyên hạnh cho tiểu tử được diện kiến, xin nhận một lậy này".

Mở mắt nh́n, Huyền bước sang một bước tránh cái lậy, từ tốn: "Đại hiệp khách khí làm ǵ!". Đảo nh́n một lượt, Huyền Từ vái Lư Nhân Tông, giọng cung kính:

"Ngài là Vua nước Nam, xin cẩn trọng giữ ḿnh, nuôi rắn trong tay áo th́ nguy lắm!"

Nói xong Đại sư nh́n vào mắt Thái sư Lê Văn Thịnh, chặc lưỡi ngửa mặt nói trống không: "Cầm tinh con cọp mà ḷng dạ con heo, tiếc thay, tiếc thay!".

Khi đó, Diên Khánh và Nam Hải Ngạc Thần khinh công đáp xuống. Diệp Nhị nương ré lên:

"Đại ca, tam đệ... Lại cái thằng thầy chùa này đến phá bĩnh..."

Chưa dứt lời, hai người y phục mầu chàm cũng từ trên mây rơi xuống như hai chiếc lá. Một người râu quai nón nói sang sảng:

"Côn Luân nhị hiệp kính chào Huyền Từ Đại Sư và Độc Cô Cầu Bại đại hiệp! Thế này th́ bên tà có bốn, bên chính cũng bốn, giao đấu thế nào xin Đại Sư chỉ giáo..."

Nhị hiệp núi Côn Luân danh trấn giang hồ hai chục năm nay, chuyên dùng đao, thường đánh theo phép xa luân chiến, trận mạc kể hàng trăm mà chưa lần nào thua, nổi tiếng là chính trực và cơ trí. Huyền Từ và Độc Cô đáp lễ. Lúc bấy giờ, Nam Hải Ngạc Thần người cao tám trượng, mặt mũi sần sùi, bắp tay bắp chân cuồn cuộn như sắt nguội, cười lên ha hả:

"Vậy là hai vị núi Côn Luân quên mất thằng đầu trọc tay xách thiền trượng kia ư. Nó lại mang theo hai thằng đệ tử, tay chân múa máy cũng có vẻ là con nhà vơ. Bốn chống bốn là thế ư?"

Từ Phương trượng đáp, giọng b́nh thản:

"Vậy th́ đám Hồng Vệ, Hắc Vệ, Bạch Vệ của Tinh Tú lăo ma sờ sờ ra đấy mà thí chủ không tính ư?"

Diệp Nhị nương ngắt, khích bác:

"Chuyện nước Nam chúng bay, không có người nước Nam lo mà lại phải cầu xin người phương Bắc chúng ta ra tay hộ, không biết nhục à?"

Xách thiền trượng lên, Từ tính nhẩy ra nhưng Huyền Từ nắm áo giật lại. Nam Hải Ngạc Thần vênh vang ra đứng giữa vạt đất bằng, miệng nhếch lên kiêu ngạo, quát:

"An Nam chúng bay chỉ là thỏ cáo hay sao? Đứa nào giỏi ra đây!"

Từ lại định nhẩy ra nhưng Huyền Từ vẫn nắm lại, nói nhỏ vào tai: "Sư đệ nghe ta. Mi mệnh mộc, nó mệnh hỏa nên mi ra là chết cháy, không được!".

Diệp Nhị nương khinh khỉnh:

"Thế mà rao Nam quốc sơn hà Nam đế cư, thật một lũ mặt dầy!"

Không nhịn nhục được nữa, bất ngờ Nhất Tâm xông ra. Từ vội vàng thưa với Huyền Từ:

"Bẩm Sư huynh, Nhất Tâm mới học vơ công có bốn buổi, chỉ biết đúng ba miếng Đả Cẩu và ngón vơ Lăng Ba, chống thế nào được?"

Nheo mắt, Huyền Từ ngắm Nhất Tâm. Ṿng tay áo cà sa, Huyền Từ dùng ḱnh lực kéo Nhất Tâm về phía ḿnh, miệng nói lớn: "Thí chủ đánh trận đầu, để ta nhắn nhủ đôi lời...". Khi Nhất Tâm đến cạnh, Huyền Từ th́ thào vào tai.

Ngoảnh lại nh́n Thái tử Diên Khánh, Huyền Từ từ tốn:

"Thái tử và ta không nên động thủ, cứ để bọn trẻ nó vần nhau cho vui. Hai ta làm trọng tài, ai đánh mà chạy khỏi cái ṿng tṛn hai ta vạch ra là thua, chỉ cần đánh một trận để bớt hao tổn chân khí. Thái tử nghĩ thế nào?"

Diên Khánh biết động thủ th́ tất Huyền Từ là địch thủ, phần thắng chẳng thể chắc được. Về phần Diệp Nhị nương, chắc chắn Côn Luân nhị hiệp ứng chiến, cũng không biết cơ sự sẽ ra sao. C̣n Tinh Tú lăo ma, qua vài ngón thử tài vừa rồi hẳn dưới tay Độc Cô Cầu Bại một mức, thua không tránh được. Nh́n Nhất Tâm, Diên Khánh tự nhủ, thằng bé con này dẫu có học vơ từ lúc lọt ḷng th́ cũng chỉ một cái đập của Ngạc Thần là thừa sức đưa nó về đoàn tụ gia đ́nh với ông bà ông vải. Không nói không rằng, Diên Khánh tót lên không, tay chống một cây thiết cương, quay người xoay đi, mặt đất cầy lên nửa ṿng tṛn bán kính đúng năm thước. Huyền Từ, miệng nói "Đa tạ, đa tạ", tay phất lên, ḱnh lực cắm xuống mặt đất vẽ tiếp nửa ṿng tṛn c̣n lại. Từ Phương trượng mặt tái ngoét, nắm tay dặn Nhất Tâm, đánh không được th́ chạy ṿng, rồi dùng phép Đả Thị Cẩu chứ đừng phân tâm đánh ngón khác. Huyền Từ giọng độ lượng, nói nhỏ: "Thí chủ mệnh Thủy, ắt dập được Hỏa, nhưng tập trung vào phép chạy..."

Nam Hải Ngạc Thần chân dậm xuống đất thành những vết sâu cả tấc, tay vung ngang đầu, hét tướng lên:

"Dặn ḍ ǵ mà lâu thế hả thằng nhăi ranh miệng c̣n hơi sữa. Ông nội mày chờ, ra đây lậy, ông tha cho".

Nhất Tâm run lên như cầy sấy, không ḱm được nỗi kinh khiếp khiến răng đánh vào nhau nghe lập cập. Huyền Từ phất chưởng đẩy. Nhất Tâm chân không chạm đất, bay là là ra, tay cầm bổng Đả Cẩu không chặt. Vừa đặt chân xuống, Ngạc Thần tức th́ bay lại phóng Phi Hoàn Quỷ Cước ra một lúc tám thế đá vây bủa đối phương, bụi cát bốc lên mờ mịt. Huyền Từ quát:

"Chó cắn, chạy đi!"

Nhập tâm phép Lăng Ba Vi Bộ, Nhất Tâm bước ba bộ bên trái, tiến tới bốn bộ, rồi quay sang bước bảy bước bên phải theo phép tính của Phục Hi. Ngạc Thần thét lên rồi chuyển bộ pháp dùng Cầm Nă chiêu dương pháp tóm lấy ngực Nhất Tâm. Thoắt một cái, Nhất Tâm lạng sang phải, Ngạc Thần lấy chân ngáng, nhưng Tâm đă ṿng đến trước mặt song v́ hăi quá nên nhắm nghiền mắt lại. Cứ thế, một đánh một chạy cho đến khi Huyền Từ quát, đánh chó cứ đánh vào đuôi th́ Nhất Tâm phạng một phạng, Ngạc Thần rú lên, nhưng lại thấy ḱnh lực gần như không có ǵ. Nhẩy ra xa, Ngạc Thần hỏi:

"Cớ sao mi lại phủi bụi chứ không thực sự đánh ta?"

Bất ngờ, Nhất Tâm c̣n ấm ứ chưa trả lời th́ Huyền Từ thốt:

"Bần tăng dặn tiểu tử rằng thiện căn ở tại ḷng ta, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài, tha người th́ được tha, đánh người th́ rồi có ngày người đánh, ân oán sẽ chập chùng!"

Bỗng Ngạc Thần như chợt nhớ lại điều ǵ, thất thanh:

"Có phải các hạ dùng phép Lăng Ba Vi Bộ không?"

Nhất Tâm vừa gật th́ Ngạc Thần quỳ xuống:

"Nếu các hạ là Đoàn Dự th́ cho đệ tử lạy một lạy cho đúng nghĩa thầy tṛ. C̣n nếu như các hạ là đệ tử Đoàn Dự th́ ta là anh em huynh đệ đồng môn, lẽ ǵ lại đi đánh lẫn nhau!"

Nói xong Ngạc Thần tung ḿnh lên cao chạy biến đi như một vệt khói.

*
*    *

Sự việc đến đây đă rơ, trừ chi tiết sau. Biết Nhân Tông có thể bị ám hại, Từ Phương trượng cầu cứu với sư huynh là Huyền Từ Vô Thượng Sư. Phần Lê Văn Thịnh, Thái sư đă liên lạc với Tinh Tú lăo ma, thúc cho vị chưởng môn họ Đinh tập kích thuyền ngự trên hồ Dâm Đàm. Tinh Tú lăo ma bàn với Nam Hải Ngạc Thần, toan tính chiếm Đại Việt làm kế lâu dài v́ địa thế nằm trên đường giao lưu nối Trung Quốc với khối Đông Nam Á và Ấn Độ nên khá chiến lược trong phát triển kinh tế toàn cầu. Nhưng sức cô, Ngạc Thần thỉnh Đoàn Diên Khánh nước Đại Lư vốn sát Đại Việt hiện vẫn c̣n lang bang chưa đoạt lại ngôi vương bị anh em Đoàn Chính Thuần tiếm mất. Qua Tiểu Hằng, Từ báo rằng đám tà đạo khá đông, Huyền Từ tức tốc mời Côn Luân nhị hiệp. Hai vị này đang luận vơ công với Độc Cô Cầu Bại, nhân tiện liền rủ cùng đi hành hiệp. Để đối phó với đám vệ quân Tinh Tú, Từ đă gọi đệ tử là Mục Thận, có phép La Vơng thần công, quăng lưới một lúc bắt được hàng trăm con cá hồi, thị trường tiêu thụ chính là Phù Tang hải quốc có tục ăn cá sống sashimi. C̣n sở dĩ Từ dạy vơ cho Nhất Tâm là v́ đă định giao cho Nhất Tâm nhiệm vụ hộ giá, chứ có ngờ đâu v́ tự ái dân tộc mà Nhất Tâm xông ra đối đầu với Nam Hải Ngạc Thần danh chấn vơ lâm. May, v́ thanh niên ngờ nghệch này chẳng biết đối phương là ai. Và nhất là v́ chàng dùng phép Vi Ba Lăng Bộ th́ Ngạc Thần cứ ngỡ chàng là Đoàn Dự mà hắn buộc phải bái làm thầy như truyện kể trong Lục Mạch Thần Kiếm của đại văn hào Kim Dung.

Lại nói sau khi Ngạc Thần chạy th́ Diên Khánh chẳng nói chẳng rằng cũng vọt ḿnh lên ngọn cây, để lại một tiếng cười gằn. Diệp Nhị nương phi thân bám sau, biết nay không làm ǵ được. Chỉ c̣n Tinh Tú lăo ma, hắn bần thần nh́n Lê Văn Thịnh, vẫy tay chào trước khi ḥ đệ tử lên thuyền. Thịnh lơ đi nhưng Thần Tông đă thấy rơ đầu mối vụ việc phục kích này, lạnh lùng ra lệnh chèo về. Ra đến giữa hồ, trời bỗng mù mây, gió ù ù thốc khiến đàn quạ đập cánh bay lên nháo nhác. Biết việc đă bại lộ, Thịnh làm liều, rút đoản kiếm nhẩy qua thuyền Vua. Bất th́nh ĺnh, ai nấy thấy một con cọp lông vàng giơ móng vuốt vồ Thần Tông. Nhất Tâm vội xoay bổng điểm vào mơm cọp theo chiêu thức Đả Dă cẩu, miệng la oai oái. Từ Phương trượng chưa kịp hành động th́ Mục Thận quăng lưới. Cọp vùng vẫy, nhưng không sao gỡ ra được, thở kḥ khè mặc cho Nhất Tâm cứ nhè đít mà đánh đến cả trăm hèo. Lát sau, có tiếng người thốt lên: "Thôi, đừng đánh nữa, tôi đau quá rồi!". Trong lưới cá, Thái sư Lê Văn Thịnh nằm chèo queo, tay ôm mặt, tay ôm đít. Chuyện này được ghi trong Đại Việt Sử kư toàn thư, nói rơ Vua tha tội chết cho Thịnh, đánh xuống làm thứ dân, đầy lên trại Thao Giang. C̣n Mục Thận th́ được Vua ban cho đất Tây Hồ làm thực ấp. Sử thần Ngô Sĩ Liên đời sau bàn: Kẻ làm tôi (phạm tội) thí quân cướp ngôi mà được miễn tội chết, thế là sai trong việc h́nh, lỗi ở Vua tin sùng đạo Phật.

Nay nói về Từ Phương trượng và Nhất Tâm. Về đến Kinh, Vua hỏi muốn thưởng ǵ th́ Từ quỳ xuống xin cho xây một ngôi chùa lấy tên là Phật Tích, đời đời ghi đức giáo hoá lẽ sắc - không của đức Thích Ca Mầu Ni. Về phần Nhất Tâm, chàng chỉ xin đưa chàng đi Đào Xá. Vua thấy lạ gặng hỏi nhưng chàng đỏ mặt lên cười bẽn lẽn.

Từ Phương trượng tiễn Nhất Tâm đến Gia Lâm th́ dừng chân, nói:

"Vui duyên mới chớ quên nhiệm vụ nhé!"

Nhất Tâm ngạc nhiên hỏi: "Nhiệm vụ ǵ, thưa Sư phụ?". Từ nhắc:

"Th́ đi t́m cái vật Bảo Quốc Hộ Dân ấy, quên rồi à!"

Nhất Tâm ứa nước mắt, ôm lấy chân thầy. Đỡ đệ tử lên, Từ th́ thào:

"Có thể vật ấy ở đáy núi Nùng, nơi thông ra sông Nhị. Nó mang h́nh dạng cái chày thọc vào cối, tức là Nơn-Nường trong truyền thống phồn thực. Ta nghe thời Bắc thuộc Cao Biền chôn vật đó để trấn yểm dân khí An Nam, khiến trong đất nước này người người tham lam, nhà nhà gian dối, ai nấy lo no cơm ấm cật cho ḿnh chứ chẳng thèm biết đến người khác, đời đời kiếp kiếp căi cọ tranh giành đánh đấm lẫn nhau. Lấy được Nơn-Nường, con tế trời đất rồi khiến cho âm thuận dương ḥa, diệt mầm làm con dân Đại Việt không mở mày mở mặt ra được! Nhưng muốn âm thuận dương ḥa th́ phải đến núi Nà Mèo gần Mường Lát ở Ḥa B́nh - Từ ghé vào tai Nhất Tâm  -... và làm thế này, thế này..."

Nhất Tâm lĩnh ư thầy, lậy tạ rồi nhẩy lên con ngựa trắng Vua ban, ra roi chạy về phương Nam.

*
*     *

Tiểu-quỷ không dằn được nữa, nói thẳng:

"Tưởng anh v́ cái vật Bảo Quốc Hộ Dân, rủ đi ḍ hỏi, nhưng suốt thời gian về đây anh chạy qua Bát Tràng xem cái khả năng xuất đồ gốm bán sang Âu Châu, lại rằng ḍ hỏi th́ có thể rầy rà mang tội danh gián điệp..."

Rậm-ria tái mặt, nhưng b́nh tĩnh đáp:

"Bạn biết không, bây giờ khác thời cấm chợ ngăn sông, ta đă mở ra hội nhập với cả thế giới. Thế th́, xuất khẩu lấy ngoại tệ là cần lắm chứ. Với lại tôi t́m gốm Bát Tràng v́ đó là sản phẩm truyền thống, chắc chắn sẽ làm vẻ vang cho văn hóa ta, đâu phải chuyện thường!"

"Tiệm ăn đóng cửa, anh kẹt không biết xoay xở thế nào nên mới vẽ chuyện ra chứ đừng nói kiểu vẹt là làm giầu tức yêu nước, đúng theo khẩu hiệu dân giầu nước mạnh. Về đây, anh thấy anh em họ hàng ai cũng bán nhà trong phố cổ lấy cả năm ba trăm cây vàng, anh mới tiếc, anh nghĩ anh xưa vượt biên là một lầm lẫn... Bây giờ, cái ǵ trong nước cũng tốt, cũng đẹp. Cha mẹ th́ tảo tần găm hầu bao đợi ngày Việt Nam lên sàn thị trường chứng khoán, con em th́ họcđến mụ người ra, ngày không dưới 10 giờ, học trường rồi đi học bổ túc, để hướng tới tương lai... Anh có biết hôm qua vụ nổ ở Hồ Tây là do dân oan "khiếu kiện đông người" không? Hiện nay, mỗi năm như vậy trung b́nh có 200.000 vụ đ̣i nhà đ̣i đất, đ̣i cả năm mười năm mà chính quyền lơ đi trong khi một ngàn năm trước, Lư Thái Tông cho phép người khiếu kiện có quyền gơ mơ vào thẳng cung Vua, và xử th́ chỉ trong 10 ngày là giải quyết! Xă hội công b́nh sống theo nếp sống văn minh ở đâu?"

Rậm-ria bị Tiểu-quỷ dập pháo liên tục, ngạc nhiên nhưng lấy vẻ mặt nghiêm và buồn, chép miệng:

"Thời kỳ quá độ, chỗ nào chẳng vậy! Chuyện ba chúng ta vềđây, làm sao tôi quên được, nhưng phải chờ Lơ-mơ có mặt, mà hắn th́ thế là 5 ngày nay trốn biệt chẳng hiểu ở đâu! C̣n chuyện phê phán xă hội, bạn cứ chờ, chúng ta sẽ làm cho ra lẽ..."

Một chiếc Honda ghé vào lề. Người ngồi trên vẫy Rậm-ria, ới:

"Doanh nhân yêu nước ơi! Lên ngồi sau ngay, ta đi, trễ giờ đến nơi rồi!"

Nhẩy lên xe, Rậm-ria hẹn về ăn trưa. Tiểu-quỷ trề môi:

"Chắc đàn anh lại sang Bát Tràng làm cái việc vẻ vang cho văn hoá ta chứ ǵ!"

*
*    *

Nhất Tâm cắm một bó nhang, vái ba vái, rồi phủ phục trước nấm mộ trên cắm một cái bia đá khắc chữ ngoằn ngoèo. Trăng bán khai thuở nguyên sơ lấp ló e thẹn sau những đám mây bạc lởn vởn vờn quanh chọc ghẹo. Không ḱm được, chàng nức nở buột miệng:

"Ta đến đây nhưng nàng nay đâu? Gào tên nàng đến rách họng ở Dâm Đàm, rồi trải qua một cuộc phân tranh chính-tà khiến mạng ta tưởng đă đến chỗ tuyệt, ta mới biết nàng ở Đào Xá. Nhưng, thật đau đớn cho ta, nấm mồ này là nơi nàng vùi xác tục để hồn phiêu diêu về chốn Niết Bàn... Đào Hạ Trang nàng hỡi, mối t́nh này thác xuống tuyền đài cũng chẳng thể nào tan..."

Nhất Tâm đập đầu vào thành mộ, máu toé ra có ṿi. Thiếu nữ quỳ đằng sau nhẩy xổ lại lôi áo, miệng hốt hoảng:

"Công tử, chớ liều ḿnh, mệnh hệ có thế nào là liên lụy đến cả làng Tiện nữ!"

Đó là Đào Nhí, người gặp Nhất Tâm chiều hôm nay. Nghe Nhất Tâm hớn hở hỏi: "Cho tôi hỏi cô Đào Hạ Trang, người làng bảo nhà ở đây!", Đào Nhí ngạc nhiên: "Dạ đúng, nhưng bà cô tổ ḍng họ Đào chúng tôi đă mất từ đầu triều Lư Thái Tông rồi!". Nhất Tâm tưởng ḿnh bị lỡm, cười: "Cô nương đùa? Tôi mới được đức Vua Lư Nhân Tông, cháu gọi Thái Tông bằng ông, cho con ngựa trắng này hôm qua để đi đến đây...". Đào Nhí, mặt nghiêm trang, ṿng tay ngắt: "Công tử chê chúng tôi là người cầy sâu cuốc bẫm, nhưng dẫu ngu hèn đến đâu chúng tôi cũng biết năm nay là năm Nhâm Tư, Thiên Thuận năm thứ năm tức năm 1132 sau Công nguyên. Ngày sinh nhật vua Lư Thần Tông được 17 tuổi, Vua vừa ban chiếu báo rồng vàng từ điện Vĩnh Quang bay ra cung Lệ Quang, miễn sưu thuế cho toàn dân một năm...". Nhớ đến lời Từ Phương trượng báo sẽ trút xác để nhập vào Dương Hoán lên làm Vua, Nhất Tâm vội vă: "Có phải Thần Tông kế vị Nhân Tông không, thưa cô nương...". Nh́n Đào Nhí gật đầu, Nhất Tâm tính nhẩm rồi thốt: "Ta đi từ sáng, chiều đến đây nhưng thế mà lại mất đến trên 17 năm...". Thất thanh kêu: "Thế Đào Hạ Trang đâu?". Nh́n Đào Nhí lắc đầu, Nhất Tâm ngă vật xuống đất, nằm hôn mê cho đến đêm. Khi tỉnh dậy, Đào Nhí báo bà cô tổ họ Đào nổi tiếng ca ngâm từ thời Lư Thái Tổ đă quy tiên được 133 năm rồi. Nước mắt đầm đ́a, Nhất Tâm khẩn khoản xin Đào Nhí đưa ḿnh ra viếng mộ. Không ngờ người đàn ông đa t́nh này liều ḿnh đập đầu quyên sinh, Đào Nhí lấy lá nhai ra đắp vào trán rách toạc một đường, nắm quần Nhất Tâm, giọng run run: "Công tử chớ dại, Tiện nữ xin lấy thân này đền duyên cho bà cô tổ, chứ nói dại công tử chết th́... th́...". Bất chợt, có tiếng cười, rồi tiếng hát lảnh lót vẳng lại từ trăm năm trước:

Yêu nhau, cởi yếm í à cho nhau

Về nhà dối cha dối mẹ, dối rằng ơ à qua cầu mà gió bay, í a...

*
*    *

Rậm-ria và Tiểu-quỷ nhẩy nhổm lên reo khi Lơ-mơ lăng tử tḥ mặt vào quán phở Th́n. Kéo Lơ-mơ ngồi xuống, Tiểu-quỷ ngạc nhiên hỏi:

"Ủa, ăn mặc thế này? Anh làm thầy chùa từ khi nào vậy?"

Dựa cây Đả Cầu bổng vào chân bàn, Lơ-mơ nhỏ giọng:

"Từ thời Lư, chuyện ngàn năm nay, t́m chỗ vắng vẻ tôi sẽ từ từ thuật lại cho các bạn, thề không giấu diếm ǵ cả. Vả lại...". Lơ-mơ nh́n khách ăn phở xung quanh, im bặt.

Ba người kéo nhau ra ngồi trên ghế đá bắc dưới cây đại thụ rễ sần sùi trườn lên khỏi mặt đất cạnh đền Ngọc Sơn.Tiểu-quỷ vừa châm thuốc, hút chưa được một hơi th́ tiếng xe b́nh bịch chí ít cũng c 300 phân khối đập vào màng nhĩ chói chang. Có tiếng cười ngạo nghễ: "Ba anh giai đi bụi...".

Lời chưa dứt, xe đă vọt qua, đen trùi trũi như một con ngựa không cương hóa dại lồng lên. Rậm-ria lắc đầu:

"Dân Hà Nội nay giầu, ăn chơi cũng hạng nhất!"

Quay đi ngoảnh lại, chàng kỵ mă cưỡi chiếc xe đă sáp lại:

"Một ṿng Bờ Hồ, mất đúng 3 phút 26 giây, anh giai nghĩ thế nào? Thi quốc tế được chứ?"

Tiểu-quỷ ngắm thanh niên thân cao mười thước, vai ngang tám tấc, tay dài như tay vượn, mặt vuông vắn chữ điền, nhếch miệng cười thiện cảm, ỏn ẻn:

"Quá được! Nhanh hơn cả công an giao thông. Con xích thố này mua đâu mà giống tốt thế?"

"Khá khen kẻ mắt xanh nh́n ra ngựa quư. Mượn của Vân Trường làm dăm ba phi vụ, nhưng nếu anh giai muốn, thương lượng thuận mua vừa bán th́ cũng có thể để cho anh giai dùng..."

Rậm-ria chen vào:

"Phi vụ ǵ mà cần ngựa tốt thế này?"

"Chẳng nói giấu ǵ ba anh, kẻ hèn này kinh doanh với thương hiệu "Ân Trả Oán Đền", tiền trao th́ bảo đảm giao hàng trong ba ngày. Bảng giá như sau. Chém chân hoặc tay phải: 300.000$, Chân hoặc tay trái: 200.000$. Thanh toán phần xác, bằng dao: 2.000.000$, bằng súng: 1.500.000$. Tạt acid (vào mặt để đánh ghen): 1.000.000$... Công ty có giá khuyến mại vào dịp Tết, Giáng sinh và ngày lễ Độc lập... Các anh có cần dịch vụ nào không?"

Trời bỗng tối sầm xuống. Thanh niên một tay che mắt, tay kia chỉ lên không, mồm nói:

"Anh giai xem gấu đang gặm mặt trời ḱa!"

Quả thế, một chớm đen như mơm chó lấn vào ṿng sáng khiến mặt trời lẹm đi, lát sau chỉ c̣n là một lưỡi liềm có viền sáng như lửa bắt quanh. Bóng tối ngay giữa ban ngày khiến chim chóc chíu chít nháo nhác, gà hoảng hốt o e, chó tru lên từng hồi tựa chừng hóa dại. Thế gian ch́m vào một chậu mực tím khổng lồ. Tiếng ngựa hí. Tiếng quát: "Chẩu, chẩu". Ba người níu vào nhau. Lơ-mơ bảo: "Đừng buông tay ra, kẻo lạc!".

Gấu ăn no, nhả dần con mồi. Mặt trời ló dạng, thiên nhiên như lột xác nhưng lơ ngơ như một đứa bé dở người đang lớn. Tiểu-quỷ chợt rú lên: "Tháp gươm biến đâu mất rồi?". Rậm-ria ngoảnh lại, hoảng hốt: "Cái đồng hồ trên nóc BưuĐiện cũng không c̣n...". Lúc bấy giờ, Lơ-mơ sống lại cảm giác ngày chàng vào Hà Nội, xe chở khách của Vietnam Airlines hóa thành xe trâu trên con đường dời đô từ Hoa Lư về theo chiếu chỉ của Lư Thái Tổ. Nh́n quanh, đám phụ nữ đều mặc yếm trắng váy thâm chứ không c̣n điệuđàng quần xệ áo thun môi đỏ má hồng. Đám đàn ông kẻđóng khố người cởi trần ḿnh mẩy xăm h́nh rồng rắn chứ chẳng hoành tráng vét-tông cà-vát mặc dầu trời nóng xấp xỉ 30 độ C. Lơ-mơ thốt:

"Chưa biết năm nay là năm nào, nhưng chắc chắn chúng ta đă quay về triều Lư!"

Nhẩn nha, Lơ-mơ thuật lại chuyện đi t́m Đào Hạ Trang, bái Từ Đạo Hạnh làm thầy, đụng độ với Nam Hải Ngạc Thần, cứu giá Lư Nhân Tông và cuối cùng, khóc trên mộ Đào Hạ Trang đă ra người thiên cổ, rồi từ chối ước nguyện xe duyên của Đào Nhí, cô bé gọi Hạ Trang bằng cố tổ. Nhỏ nhẹ, Lơ-mơ chắp tay vái bạn:

"Xin hai vị huynh đài từ nay gọi tại hạ là Nhất Tâm, pháp danh do Sư phụ ban cho đệ!"

Chưa biết Rậm-ria và Tiểu-quỷ đáp thế nào th́ vó ngựa cồm cộp đập trên đá lát, và tiếng ồm ồm: "Nỉ hảo, nỉ hảo!". Đó là thanh niên ba người gặp trước Nhật Thực, cưỡi xích thốchạy ngang, vừa ra roi vừa thét:

"Mại zô, mại zô dịch vụ Ân Đền Oán Trả. Chính Tổng giámđốc là Triệu Tử Long đi khuếch mại, mua một cho một, bảođảm không vừa ḷng sẽ hoàn trả tiền. Mại zô..."

Về chuyện đi t́m vật quư hiếm Bảo Quốc Hộ Dân, Nhất Tâm không giấu giếm, kể ngọn ngành cho bạn nghe. Rậm-ria trầm ngâm:

"Xuống đáy núi Nùng chỗ thông ra sông Nhị th́ phải nhờ ông chú ḿnh trong chiến tranh chống Mỹ nguyên phụ trách hệ thống địa đạo trong nội thành để bảo vệ những yếu nhân khi bị bom. Nói, chắc ông cụ sẽ giúp, nhưng chắc chắn ít nhiều cũng phải có tí thù lao. Đất nước ta c̣n nghèo, nhất là những người trót về hưu! Đồng ư như vậy nhé."

Dĩ nhiên. Ba người bạn triều Lư ngoéo tay nhau, cách kư hợp đồng mười kỷ trước thời hiện đại.

*
*     *

Chuyện không thể ngờ nổi khiến Nhất Tâm choáng váng ngă ngồi xuống đất. Rậm-ria đỡ Nhất Tâm lên, giọng hậm hực:

"Tiểu-quỷ thuê Triệu Tử Long đến dậy cho tôi một bài học, bạn ạ! Nhưng tôi chạy được! Bây giờ, tôi nâng giá để Triệu Tử Long dậy lại cho Tiểu-quỷ cũng bài học ấy..."

Thấy Rậm-ria c̣n đủ cả chân tay, mặt mũi nguyên vẹn chưa bị a-xít tàn phá, Nhất Tâm yên ḷng, can:

"Không thế được! Hưu chiến để bàn bạc. Chúng ta đă kết nghĩa vườn quất năm nào, thề sinh tử có nhau, một thằng chết th́ hai thằng kia chết theo. Phần tôi, chưa t́m ra vật quư hiếm th́ tôi c̣n muốn sống, bạn hiểu chứ!"

Nói xong, Nhất Tâm đi t́m Tử Long, đề nghị:

"Tôi trả ngài giá gấp ba, nếu như ngài để cho chúng tôi b́nh yên, tránh được nội chiến!"

Tử Long cười, không nói yes, không nói no, chỉ buông thơng "để xem!". Trước cái thế lơ lửng con cá vàng kiểu gươm treo trên cổ nền Ḥa B́nh đang bị đe doạ, Nhất Tâm quyết định t́m hỏi Tiểu-quỷ cho ra lẽ.

"Hiền đệ, sao mà đến cơ sự này?"

"Đệ không muốn trả cái giá 3 triệu cho ông chú Rậm-ria làm hướng đạo xuống đáy núi Nùng, chê đắt th́ Rậm-ria bảo đệ không có ḷng với những công thần chống Mỹ cứu nước, tính toán như một thằng tài phiệt rẻ tiền kiểu lũ tư sản mại bản miền Nam trước 75... Đệ đáp, tư sản thế c̣n hơn bọn lợi dụng nhân công trong nước làm đồ mỹ nghệ như gốm Bát Tràng bán đổ bán tháo cho Tây phương, giá trả cho người lao động chỉ 2 đến 3% giá bán lẻ bên Âu Châu. Rậm-ria bảo thế cũng c̣n hơn bọn thầu khoán ở Sài G̣n thời Thiệu-Kỳ ăn cắp để có tiền gửi con đi học trường Tây như đệ... Huynh bảo, chửi đến cha đệ mà đệ không phản ứng th́ đệ là cái giống ǵ?"

Đợi Tiểu-quỷ dằn xúc động xong, Nhất Tâm dịu dàng:

"Thế Tiểu-quỷ phản ứng thế nào?"

Nuốt nước bọt, Tiểu-quỷ nói một thôi:

"Đệ bảo, thứ nhất Rậm-ria về đây là đi kiếm mối làm ăn, và làm th́ phải móc nối với những kẻ có thế lực, có tiền, chứ cái quán ăn ở Copenhagen chẳng đáng một đồng chinh. Để "sửa soạn tâm lư thuận lợi", Rậm-ria nay nói ngược tất cả những điều đă nói cái thời "con khỉ không đuôi", huyễn tưởng nào là tương lai qua lớp trẻ hiếu học mà thật ra học chỉ v́ cha mẹ ham bằng cấp, học thật th́ ít, cái học thuộc ḷng sau này biến ḿnh thành vẹt th́ nhiều. Thứ hai, nói đến ăn cắp th́ thời Thiệu-Kỳ có, nhưng so với thời "đúp bờ vê tê u" này th́ hơi bị lép, và nay chẳng chỉ ăn cắp mà c̣n ăn cướp, rút ruột đến 40% ngân sách những công tŕnh phải vay quốc tế thế này th́ chẳng khác ǵ bán nước v́ con cháu sẽ nợ đời đời kiếp kiếp, đành bán đất, bán trôn nuôi miệng. Thứ ba, Rậm-ria cứ cho ḿnh là nhà văn, nhưng thật mà nói, 15 năm qua chẳng viết được một cái ǵ đáng viết. Đồng thời, Rậm-ria ấm ức với cái nghề "nhà bếp", chê bai dè bỉu mọi người, mở mồm là giọng điệu làm cha thiên hạ bắt chước kẻ Rậm-ria tâm phục, một nhà văn hiếm đẻ, bế tắc, uống rượu, làm dáng quên ḿnh..."

Nhất Tâm giơ tay ngăn, miệng nói "thôi, thôi!" nhưng Tiểu-quỷ tiếp:

"Để đáp đệ, Rậm-ria đi và độ hai mươi phút sau th́ công an đến t́m đệ "làm việc". Huynh biết về việc ǵ không? Họ hỏi cái vật quư hiếm ta đi t́m là vật ǵ, huynh là ai, vân vân và vân vân?"

Nhất Tâm rùng ḿnh. Cục diện bây giờ khác rồi. Tiểu-quỷ thở dài:

"Đệ nghĩ đệ thôi cái việc đi t́m..."

Nhất Tâm thấy ḿnh bỗng thật cô đơn. Không, không thế được! Dẫu một ḿnh, chàng tự nhủ, sống chết ra sao th́ cũng bất cần, ta phải t́m cho bằng được cái vật Bảo Quốc Hộ Dân, t́m như t́m ư nghĩa chính đời ḿnh. Vả lại, cơ may đến thế, bỏ lỡ th́ có ai thay ta mà làm cái việc sinh tử này. Cố ḱm tiếng thở dài, chàng nói nhỏ:

"Dẫu ǵ th́ cũng chớ hợp đồng với Triệu Tử Long. Biết đâu nó lừa, trúng kế là thân bại danh liệt. Rậm-ria cũng liên lạc rồi điều đ́nh với Tử Long dậy cho đệ một bài học. Chuyện mỗi ngày một rách, cũng chỉ v́... Phần ta, ta đi dàn xếp với Rậm-ria cho êm thắm... Ta hẹn đệ mai ở đây!"

Đúng hẹn, Nhất Tâm cùng Rậm-ria đến Thủy Tạ, nơi bán nước giải khát ven hồ trông sang bên kia là đền Ngọc Sơn. Tiểu-quỷ đă có mặt, đang uống bia với hai người con gái. Một tên Đài Trang, trán dô, răng khấp khểnh, mắt ma quái, dáng cao cao, người ḿnh dong. Tiểu-quỷ giới thiệu đây một thành viên của Văn phái 3Z đang độ tiếng nổi như cồn. Người kia, tên Ban Mai, tóc dài, mặt trái xoan, mũi thanh thanh, miệng lúc nào cũng như đang cười. Chuyện tṛ một lát, Ban Mai đứng dậy nói:

"Chúng em biết các anh bận việc, xin phép đi trước, hy vọng có dịp gặp lại". Đúng lúc đó th́ Thụy, một người bạn của Đài Trang, xuất hiện. Anh ta cũng chào rồi cùng đi với Trang và Mai, hẹn ba người bạn triều Lư nếu rảnh tối đến ăn ḅ tùng xẻo trên đường Cổ Ngư sát Hồ Tây.

Bây giờ, chỉ c̣n ba người. Nhất Tâm xin phép nói trước, tóm tắt sự việc và kết luận: "Chúng ta về đây với những nỗi niềm bức xúc, mỗi người một khác, nhưng chẳng ai thật sự vui được! Vậy th́, nghĩ đến mối thâm ḱnh kết nghĩa, tạm chia tay nhau, kư hiệp định ḥa b́nh, ngưng gửi quân hay khí giới nhằm chiếm thế thượng phong nhưng thật mà nói, chỉ có lợi cho Triệu Tử Long mà thôi. C̣n chuyện Bảo Quốc Hộ Dân, thôi cứ để đó. Chuyện này bây giờ lộ rồi, cục diện đă đổi, sẽ phức tạp hơn nhiều..."

Cả Rậm-ria và Tiểu-quỷ đều gật đầu. Nhất Tâm vui vẻ:

"Để kỷ niệm cuộc hàn huyên không đổ vỡ, xin mừng chúng ta một chai rượu t́nh..."

Đi ra quầy, Nhất Tâm gọi một chai Napoleon VSOP và xin 3 cái ly pha lê. Đến lúc quay lại bàn, Nhất Tâm nghe từ xa tiếng Tiểu-quỷ và Rậm-ria nổi lên như đánh nhịp cho nhau:

Tao bế tắc

Mày bế tắc

Nó bế tắc

Chúng ta bế tắc

Các anh bế tắc

Chúng nó bế tắc

Nh́n mặt Tiểu-quỷ xanh lè, mũi đỏ hẳn lên v́ xúc động, mắt đục ngầu. Nh́n mặt Rậm-ria tái ngắt, gân xanh thái dương co giật, ria quặp xuống. Nh́n ḿnh thoáng qua trong bức gương choán nửa bức tường, cô đơn, hụt hẫng, Nhất Tâm ứa nước mắt. Khi đến cạnh hai người bạn nay như hai h́nh nhân chỉ biết chia nhau một động từ, Nhất Tâm nghẹn ngào:

"Cả thế gian này bế tắc!".

SÁU

ñ

ến bến xe, tôi nh́n quanh t́m Ban Mai. Mặc dầu trước khi lên đường, tôi đă cẩn thận dùng điện thoại cầm tay gọi, nhưng từ ngày về nước, tôi cũng đă quen với những cái hẹn lệch mươi lăm phút, chuyện rất thường. Xách chiếc ba-lô mới tậu hôm qua ở Hàng Da trong vỏn vẹn hai bộ quần áo, tôi lách giữa hàng chục chiếc xe hàng, loại bốn chục ghế, đến ngồi quầy giải khát, gọi một ly cà-phê. Và đợi.

Nửa tiếng sau, Ban Mai đi Honda tới. Thấy tôi, nàng cười.

"Nường Phin vẫn chưa về, anh ạ! Mai ta đi sớm, tối anh phải ngủ lại đây. B́nh thường, anh có thể thuê khách sạn trong thị xă, không ba bốn sao như Hà Nội nhưng cũng đạt tiêu chuẩn. C̣n nếu anh muốn biết người Mường sống thế nào th́ em chở đến nhà Mế Kha ở bản Mỗ, nhà sàn, nhưng sạch sẽ..."

Tôi đáp, Ban Mai lại cười:

"Nhưng đừng chê người Mường chúng em không được văn minh như người Kinh nhé!"

Chúng tôi ăn trưa tại một quán ăn ven sông Đà. Tay chỉ về phía chiếc cầu bắc ngang đằng xa, Ban Mai bảo tít cao trên kia là đập thủy điện, rồi trề môi tiếp:

"Niềm tự hào của tỉnh Ḥa B́nh này đấy! Điện nay vào cả những bản vùng sâu..."

Cơm nước xong, Ban Mai đèo tôi về nhà Mế. Sau khúc đường liên tỉnh, xe qua Cầu Khuây rồi vào một con đường nhỏ gập ghềnh ổ gà ổ trâu bên cạnh là vách và vực. Ban Mai hồn nhiên:

"Ôm ṿng bụng em, ngồi sau mà ngă xuống là rách việc đấy!"

Nh́n bờ dốc bổ xuống những tàn cây cạnh đường, tôi biết Ban Mai không nói đùa, ṿng tay làm theo lời nàng. "Đừng ôm chặt, - Ban Mai dặn, - mỗi lúc em nghiêng người th́ nghiêng theo em để giữ cho xe thăng bằng nhé ".

Xe thăng bằng, nhưng tôi th́ không! Tóc Ban Mai bay ngược vào mặt tôi, mơn trớn. Mùi hoi nồng thơm như sữa thoảng vào đánh động khứu giác, thứ mùi lâu lâu một lần tôi ngửi được từ những người đàn bà không quen biết, khi trên đường, khi trong xe buưt, mê-trô... Mỗi lần như vậy, tôi thường bâng quơ nghĩ nếu c̣n có thể đi chọn một người đàn bà làm bạn chăn gối trăm năm, tôi sẽ nhắm mắt chọn theo mùi, chắc chắn không thể nào lầm lẫn được. Eo ôi, trăm năm! Không cần, chỉ phút này, với cái hương nồng ngát diệu kỳ đánh thức những nhục cảm chẳng giấy bút nào nói lên được! Áp mặt vào giải tóc bay ngược vuốt ve, tôi nhắm mắt, nghe tiếng gió thổi bên tai, bỗng dưng ḷng nhẹ như những sợi mây đỉnh non trôi hiền ḥa.

*
*     *

Bản Mỗ có khoảng hai chục nhà sàn mái lẫn trong những lùm cây xanh ngắt dưới nắng trong veo. Ban Mai leo lên bậc cầu thang gỗ, miệng gọi Mế. Xách ba-lô, tôi theo sau, đề pḥng dăm con chó ở đâu ùa ra sủa. Một bà cụ lưng c̣ng tóc bạc chậm chạp tḥ ra khung cửa. Ban Mai ríu rít như chim. Bà cụ cười, miệng không c̣n răng, một tay kéo Ban Mai vào, tay kia vẫy tôi. Nhà tối om om. Ban Mai ra chống một cánh cửa sổ lên. Ánh nắng lùa vào quết lên những vệt khói bếp một mầu lung linh sáng. Mế hỏi, nhưng tôi không hiểu ǵ. Ban Mai đáp. Mế lắc tay tôi, giọng thân mật, vừa nói vừa cười, tay chỉ xuống một chiếc chiếu trải trên sàn nhà ghép bằng gỗ lâu ngày lên nước bóng loáng. Tôi ngồi, chân xếp tṛn, mắt nh́n chiếc điếu cầy, b́nh nước chè, hộp diêm và dăm cái đóm trong lon sữa ḅ han rỉ. Mế vỗ vỗ vai tôi, miệng lại nói. Ban Mai bảo, con trai Mế đi rẫy, chiều mới về, biết tiếng Kinh chứ không như Mế. Tôi cười, nhờ Ban Mai cám ơn Mế. Đưa tay làm dấu lắc qua lắc lại, tôi hiểu Mế bảo, chẳng có ǵ đáng bận tâm.

Nhà năm gian, sát cầu thang là gian gốc, ngay phía ngoài một cây cột bề thế gọi là cột chộ đặt khám thờ tổ tiên. Gần đó là cửa voóng, sát sàn, nơi đưa quan tài ra khi có tang ma. Cột chộ và cửa voóng là nơi linh thiêng, không được dựa người t́ tay vào. Phía bên kia vách, đối diện với cột chộ là một cây cột nhỏ hơn, dưới chân đặt cum lúa tuốt hết hạt, trên treo một chiếc giỏ thủng, cạnh là thanh tre đầu tước xơ cho bông lên. Ban Mai chúm chím, tay chỉ vào giỏ, nói:

"Đây là nường, đàn bà..."

Ngần ngừ, tay chạm vào thanh tre, Ban Mai tiếp:

"C̣n đây là nơn, chỉ đàn ông!"

Bên cạnh cửa sổ Ban Mai vừa chống lên, Mế xếp vào cái bếp đun nước tiếp khách một loại cỏ tên là cỏ mật, nhóm lửa, mùi thoang thoảng thơm dịu. Đến gian giữa, nơi để bếp chính, xung quanh lúa phơi khô xếp vào một cái quây như cái bồ thủng đáy đan bằng nứa. Khuôn bếp được làm bằng loại gỗ đặc biệt cứng, có đường viền xung quanh, đáy lót bằng bẹ chuối rải bùn lên cỏ  mật phơi khô để vào bếp đốt lấy tro rồi mới bắc kiềng nấu nướng. Giọng tự hào, Ban Mai cao tiếng:

"Người Mường chúng em dùng con xỏ tre, con then gỗ, đinh kèo để đóng thay cho đinh sắt. Chúng em dùng lạt mây, giang hoặc tre bánh tẻ để buộc níu các ngoàm đẽo hoặc cột kèo. Khung nhà sàn được dựng hoàn toàn bằng cách ghép mộng, đục đẽo mà thành. Đ̣n tay, gọi là tôn thảy, được đặt dọc mái nhà. Đ̣n tay cái có miếng tre kẹp chặt vào đầu cột cái gọi là cái khoá kèo. Mái nhà lợp bằng lá cọ  hoặc bằng cỏ gianh. Những cây nứa ngộ vàng óng, loại nứa to và dày, được  chọn kỹ để pha nan kẹp lá kiểu như cái gắp dùng để kẹp cá nướng. Cứ như thế, những kẹp lá cọ được đưa lên mái buộc thẳng vào rui mè. Đây là cách lợp mái nhà theo truyền thống c̣n tồn tại cho đến ngày nay...".

Mế đến gần, nói để Ban Mai dịch lại:

"Việc dựng nhà của người Mường đ̣i hỏi nhiều sức lực nên có tục giúp đỡ nhau. Người giúp gỗ, người giúp lạt, người giúp công, giúp sức. Trước kia, để nhận được sự giúp đỡ của dân làng, gia đ́nh làm nhà phải chuẩn bị một lễ nhỏ mang đến nhà Lang, chủ quản Mường, để nhờ Lang báo cho mọi người trong bản làng biết. Mỗi gia đ́nh sẽ cử một người đến giúp. Người ta phân công những việc cụ thể cho mỗi thành viên đảm nhận như xẻ gỗ, đan nứa, pha tre, đan gianh, kết cọ, lợp mái... Theo tục này, bản Mỗ đây có lệ khi một người làm nhà th́ tuỳ vào khả năng mà người cùng bản giúp gỗ, lạt, nứa, lá, và mỗi nhà góp ba đến năm cân gạo nếp, hai chai rượu, một con gà...".

Th́nh ĺnh, Ban Mai cất tiếng hát nhỏ. Không hiểu, tôi xin Ban Mai dịch lại. Nàng cười bảo đây là huyền thoại làm nhà người Mường chúng em trong Te Tất Te Đác, rồi đọc:

Bốn chân tôi làm nên cột cái. Nh́n sườn dài, sườn cụt mà xếp làm rui. Nh́n qua đuôi làm chái. Nh́n lại mặt mà làm cửa thang cửa sổ. Nh́n vào xương sống làm đ̣n nóc dài dài.Muốn làm mái th́ trông vào mai. Vào rừng mà lấy tranh, lấy nứa làm vách. Lấy chạc vớt mà buộc kèo...

Thấy tôi ngây người mặt ngơ ngác, Ban Mai giải thích xưa người Mường c̣n ở hang ở hốc, có Tá Cần bắt được một con rùa đen, định thịt th́ rùa van nài đổi sinh mạng ḿnh bằng cách dạy làm nhà. V́ thế, phải nh́n bốn chân làm cột, nh́n mai rùa làm mái, nh́n xương sống làm đ̣n nóc... Mế rót cho tôi chén nước. Tôi cười, ngây ngô. C̣n Ban Mai, nàng đứng dậy nói với Mế, rồi quay sang tôi, bảo phải về cơ quan có chút việc, dặn Mế sẽ đi chợ để làm cơm thết khách đến từ thế giới bên kia. Chưa kịp hỏi thế giới bên kia là thế giới nào th́ Ban Mai đă nhảy tót xuống chân thang, vù đi như một cơn gió hoang giữa cánh rừng lùi dần trước tiếng nổ máy của chiếc Honda đang lồng lên nhả khói.

*
*     *

Xin phép Mế ngả ḿnh nằm, tôi thiếp đi lúc nào chẳng biết, đầu óc lát sau bỗng chập chùng những thực hư đan vào nhau thành vạt lưới chụp xuống mê hoặc. Hắn - thằng anh chết tiệt - cắm cổ chạy, sau một người đàn bà áo quần tơi tả đuổi theo. Tôi chắc là người đàn bà đó là nường Phin. Cô cất tiếng, nhưng tôi không hiểu. Phải chăng có Ban Mai, tôi sẽ hỏi. Vừa nghĩ thế, Ban Mai hiện ra, tóc lại phần phật bay. Tôi hít cho đầy lồng ngực, nhấm nháp cái mùi hương hoi nồng ám ảnh, nhắm mắt th́ Ban Mai lay. Mở mắt, trước mặt tôi là cái giỏ thủng lỗ, tiếng cười hồn nhiên rồi ai đó nói, giọng khiêu khích, anh quên mất cái nường của anh ư? Tôi tḥ tay xuống phần dưới cơ thể, nắm chắc khúc tre đầu bông lên, tay kia giữ rịt cái nường, và cứ thế, tôi như con thuyền nghiêng ngả cḥng chành chết đắm giữa ḷng sông sâu thẳm. Khi đó, không gian chuyển đỏ, nóng lên, thằng anh chết tiệt vẫn chạy, nhưng nường Phin đứng lại, thân thể trần truồng. Cô im lặng, hai tay đưa lên trời, rồi khuỵu chân quỳ xuống. Ban Mai ở đâu đến đỡ nường Phin dựa vào ḿnh, miệng mơn man áp vào cổ, vào ngực. Tay cầm cái nường vuốt ve, mắt khép hờ, môi run lên, người nường Phin cong gập như có ai đó thúc vào bụng dưới. Tôi vùng khỏi con thuyền đang đắm, nh́n nhưng không c̣n thấy thằng chết tiệt. Cũng chẳng c̣n nường Phin. Chỉ có Ban Mai, bây giờ đứng lên, ḿnh trần, đầu vú nở nang căng cứng rỉ ra những giọt sữa trắng. Tôi đến áp miệng bú, như một đứa sơ sinh, lịm dần cho đến khi có tiếng đóng cửa.

Choàng dậy, tôi nh́n ra cửa sổ, thấy bóng Mế khuất trên đường ṃn. Nắng hầm hập trên mái gianh. Dưới sàn, đám gia súc im ĺm. Nhánh sông cạnh bản gần cạn nước, phơi ḿnh như ăn vạ, đá cuội lổn nhổn trơ trẽn khỏa thân. Đâu đây có tiếng trẻ cười đùa đạp nước lơm bơm. Cố đứng lên, tôi vịn tay vào vách đi xuống cầu thang. Tít phía bên kia, dăm đứa bé tạt nước vào nhau trong một cái vũng, cạnh là một cái kè chèn đá tảng. Con chó đang nằm thè lưỡi dưới gầm sàn nhổm dậy. Nó sủa nhỏ một tiếng, đến gần tôi, mũi chúi vào chân hít hít, đuôi ngoe nguẩy. Tḥ tay vuốt xuôi sống lưng chó, nó kêu hinh hích, không c̣n đe dọa như lúc tôi mới tới.

Tôi men con đường ṃn, đầu vẫn lởn vởn cơn mê giữa ban ngày, đi về phía vũng nước trẻ con đang tắm. Đi ngang một dăy nhà sàn lổn nhổn cao thấp, tôi khẽ cúi chào khi bắt gặp ánh mắt ṭ ṃ nh́n từ những cánh cửa khép hờ, nhận một nụ cười hay một cái vẫy tay thân thiện. Xuống con dốc, tôi đến bên bờ nước. Bọn trẻ con, tất cả năm đứa, ù té xô ra xa. Chúng nh́n tôi, cười nói với nhau, tay chỉ trỏ, đứa nọ đẩy đứa kia. Rồi một đứa hỏi:

"Chú ở đâu tới?"

Cười cầu thân, tôi đáp "Hà Nội". Cả bọn rú lên "Hà Nội, Hà Nội". Một đứa khác chêm vào:

"Hà Nội xa lắm cơ, phải đi xe ô tô mới tới được!"

Tôi hơi ngạc nhiên, thầm nghĩ chỉ hơn trăm cây số, chưa đến ba giờ xe hơi, có đâu mà xa xôi diệu vợi ǵ. Không chắc bọn trẻ con hiểu, tôi vẫn hỏi: "Các cháu có cháu nào đi Hà Nội chưa?". Chúng đồng thanh: "Chưa!". Th́ ra chúng đều hiểu tiếng Kinh.

"Sao không đi học, các cháu?", tôi ṭ ṃ.

Chúng đáp đi học chỉ đi buổi sáng, trưa về làm việc nhà, làm xong mới đi tắm. Quệt mồ hôi từ trán nhiễu xuống má, tôi ngước nh́n trời, kêu "Nóng quá!". Bọn trẻ nhao nhao:

"Xuống tắm đi. Nước mới, mát lắm!".

"Sao nước lại mới?"

Đứa bé gái chỉ tay lên tảng đá trên cao, nước ứa ra chảy thành ḍng đổ xuống vũng, miệng lanh chanh: "Nước nguồn đó! Xuống tắm đi!". Ngần ngại, tôi nh́n quanh. Rồi tôi cởi hết, trừ chiếc x́-líp. Bọn trẻ cười ran lên: "Quần con gái chúng mày ơi!". Ngượng ngùng, tôi dầm ḿnh xuống, tay tạt nước vào chúng. Chúng tạt lại, vừa tạt vừa la thét những thổ âm tôi không hiểu.

Tôi ngụp đầu xuống. Ḷng nước mầu xanh rêu, mát và dịu. Chao ôi, từ cái nóng thiêu đốt trên bờ, dầm ḿnh vào nước sao mà tuyệt diệu đến thế này. Cuộn ḿnh như một cái bào thai, nước bao bọc khiến tôi bồng bềnh, không trí nhớ, không ư thức, chỉ thuần những nhục cảm đến từ mỗi một tế bào tạo ra cái tôi, sự sống tự sơ nguyên chưa bao giờ vẩn đục ô nhiễm. Rồi tôi lớn lên, tay vung chân đạp, ngửng đầu nh́n bọt nước trắng xoá, cười và hả miệng hát những âm thanh không cần ngữ nghĩa, hệt những đứa trẻ lên mười đang vây quanh tôi, cũng cười, cũng hát, cũng vung tay té nước, những giọt nước lấp lánh mặt trời bay cao rồi rơi về nguồn cội. Cứ thế, tôi quay lại tôi, cái tôi thầm lặng của bản năng, thứ bản năng vùi dưới sâu lớp lang những vết trầm tích của thời gian từ khởi thủy. Và cái tôi hư tưởng là đứa con rơi họ Bạch nơi chân núi Tản bỗng nhiên có thực, như ḍng nước nguồn từ rừng đổ xuống cho tôi tắm mát nơi đây. Quay nh́n đám trẻ con, tôi nói lớn:

"Tôi là người Mường!"

Chúng ré lên cười:

"Người Mường mà ở Hà Nội à! Về đây đi!"

Vung tay, tôi quả quyết:

"Về chứ, sao lại không!"

Trời dịu nắng. Tôi vẫn nô đùa, cho đến khi đứa bé gái cất tiếng: "Trâu về rồi!" và bước lên bờ. Bọn trẻ làm theo, tuột quần, vắt ráo nước rồi phơi trên tảng đá, tồng ngồng vẩy người cho khô. Tôi đứng dậy, nhưng không biết làm ǵ. Thằng bé trai, giọng tự nhiên, bảo:

"Cởi quần ra phơi chứ chú!"

Chết chưa. Tôi ngần này tuổi đầu, ai lại khỏa thân với năm đứa bé, nh́n thấy người ta nghĩ thế nào. Trong tâm tưởng, tôi nghĩ tới những vụ lạm dụng t́nh dục thiếu nhi nay đầy rẫy trên báo chí phương Tây. Nghe đâu các vị cha cố làm bậy mà Giáo Hội bên Mỹ sạt nghiệp v́ phải bồi thường nạn nhân đến gần trăm triệu đô-la! Tôi nh́n đám trẻ, ngần ngại, lóng ngóng. Chao ôi, có phải tôi cũng đă bị nhiễm cơn độc văn minh đến độ tôi nay nghi ngờ chính tôi không?

*
*    *

Khi lên thang vào nhà Mế, anh con trai đi rẫy đă về, đứng lên cười với tôi. Mế đă loay hoay bếp nước, nh́n tôi nói một thôi với con. Anh ta vồn vă:

"Ai chứ khách của Ban Mai cũng là khách nhà, anh tự nhiên nhé".

Tôi ngạc nhiên thấy anh nói tiếng Kinh sơi, hỏi th́ anh đáp:

"Em tốt nghiệp trường trung cấp Chính trị, mới xin hưu năm ngoái!"

Nh́n anh, xấp xỉ trên dưới ba mươi, tôi ngỡ ngàng: "Anh trẻ thế, sao lại về hưu?". Anh lại cười:

"Phức tạp lắm... Sau bốn năm công tác cán bộ văn hóa, em được đề cử làm phó Chủ tịch xă. Chỉ năm đầu thôi, nhức đầu, khổ lắm! Khổ quá nên phải xin thôi đấy anh ạ!"

"Khổ thế nào?"

"Tỉnh có kế hoạch làm du lịch anh ạ! Bản Mường sẽ hấp dẫn khách nên Tỉnh đề nghị hai phương án. Thứ nhất, rời người bản Mỗ đến một vùng khác, bồi hoàn tiền đất, giúp canh tác ruộng nơi sẽ định cư. Thứ nh́, vận động người bản tham gia dịch vụ du lịch, mọi nhà sẽ hợp đồng cho khách thuê một phần chỗ ăn chỗ ở, đồng thời phát triển thủ công nghệ để phục vụ "nhu cầu lưu niệm"... Vừa là người địa phương, lại phó Chủ tịch, nên em được lănh đạo Tỉnh giao phó công tác dân vận. Nhưng chính quyền ai nói th́ cứ nói, người Mường chỉ nghe Lang Tao hoặc Pộ Mo, người Kinh gọi là Lang Đạo và thầy Mo, hai kẻ mang trách nhiệm phần sống và phần hồn từ thuở khai thiên lập địa. Bỏ đất tổ đi, không ai muốn. Bản Mỗ tính đến nay đă bốn trăm năm tuổi, từ ngày di từ Mường Thàng về, hồn vía tổ tiên ở đây, rời đi th́ bỏ cho ai? C̣n tham gia kinh doanh dịch vụ, người Mường bảo, thế th́ c̣n ǵ là gia đ́nh tông tộc. Khách Tây khách Mỹ vào nhà ăn nằm, làm sao người Mường giữ được bàn thờ ḍng giống cho khỏi nhiễm ô trọc từ bốn phương thế giới? Em phản ánh dư luận, nhưng lănh đạo bảo sẽ có phản ứng mạnh, không để bất cứ thiểu số nào cản trở phát triển của đất nước trong tiến tŕnh hội nhập với bên ngoài. Họ đưa công an vào vây bản, xua máy kéo đến tính bốc dỡ nhà người Mường. Thanh niên trong bản tuy chỉ giáo mác gậy gộc mà đ̣i chết cũng giữ bản, t́nh h́nh căng ghê lắm. Em th́ cứ như con bung xung, chịu bêu riếu điều tiếng cả hai bên, nên phẫn quá, em treo cổ nhưng lại có người cứu được! Sau đó, em xin về đi rẫy, công việc chính quyền trị dân em chẳng đủ khả năng, làm ǵ cũng áy náy anh ạ! Cái ḷng ḿnh nó thế, lănh đạo bảo yếu đuối, chưa thông sách lược, chỉ được tiếng hiếu với dân mà không đủ trung với Đảng..."

Anh con trai chưa dứt lời th́ Ban Mai về. Nghe tiếng đực tiếng cái, Ban Mai nguưt, nói mát: "Lại cái chuyện "nội bộ" ấy, nói măi...". Anh cười bẽn lẽn, không đáp. Ban Mai hỏi tôi làm ǵ trưa nay, cười rồi chặc miệng:

"Thế là anh thân với bản Mỗ nhà em rồi. Thường không ai để người lạ vào tắm vũng đâu!"

Nói xong, nàng sà vào bếp với Mệ, giọng líu lo, không quên nhờ anh con trai tiếp khách hộ. Lát sau, đám trẻ con thập tḥ dưới chân nhà sàn, miệng ơi ới gọi. Ban Mai tḥ cổ ra đáp, nh́n tôi bảo: "Khách của anh!". Đầu cầu thang, đứa bé gái nhe hàm răng sún cười chúm chím, tay ch́a cho tôi một bó hoa mầu tím. Khi tôi áp bó hoa vào mũi ngửi, cả đám ré lên cười. Tôi hỏi: "Hoa ǵ đấy các cháu?" th́ Ban Mai không biết lúc nào đă đến cạnh tôi, nhanh nhảu trả lời: "Hoa sim rừng. Hoa không hương, chỉ sắc!". Nhanh như hoẵng, nàng vào lấy gói kẹo suynh-gôm ra phát cho mấy đứa bé, tay béo má chúng, giọng dịu dàng nhưng có chớm chút buồn bă khó hiểu. Tôi tặng lại Ban Mai bó hoa. Nhớ mùi hương tôi ngửi được khi ngồi sau Ban Mai trên Honda, và liên tưởng đến h́nh ảnh Ban Mai trong giấc mê muội trưa nay, tôi không nghĩ rằng hoa cứ có sắc là không hương. Và có hương, không sắc.

Bưng thức ăn để trên chiếc chiếu giải trên sàn, chơ cơm nếp bên cạnh, Mế tay vẫy, miệng cười, nói một tràng. Chỉ chỗ cho tôi ngồi, Ban Mai khoan thai đơm cơm vào bát. Anh con trai so đũa, vui vẻ: "Chắc anh đă ăn cơm Mường rồi?". Tôi lắc đầu. Anh tiếp tôi, chỉ vào một đĩa, bảo:

"Gà rừng rán, thịt dai nhưng ngọt hơn thịt gà nuôi. C̣n đây là rau đắng cảy và măng nứa. Rau th́ ăn với nước chấm..."

Tôi ngạc nhiên nh́n cái tô trên rắc vừng. Ban Mai nhẹ nhàng:

"Mế quư khách lắm mới làm nước chấm này. Ruột cá xay ra ướp gia vị như tiêu, quế, hồi... rồi đun nhỏ lửa. Sau th́ trộn với khế ngọt. Anh chấm đắng cảy vào, ban đầu ăn thấy đắng nhưng chỉ chút sau hết đắng mà trở thành bùi, ngon lắm!"

Vừa nói, Ban Mai vừa gắp rau chấm cho tôi, mắt cười có đuôi, miệng mời cơm mọi người. Quả thật là ngon vô cùng. Tôi xuưt xoa trầm trồ. Ánh mắt Mế sáng hẳn lên, miệng lại nói những điều tôi cố nhưng chẳng đoán ra. Tiếng Mường có khá nhiều từ ngữ người Kinh cũng dùng, nhưng phát âm gẫy gọn chứ không lơ lớ như ở đây. Hỏi, Ban Mai đáp người Mường không có chữ viết, hiện phiên âm kiểu tiếng Việt, nhưng không sử dụng hết tất cả những kư âm sắc, huyền, hỏi, ngă nặng... Nàng buột miệng đọc hai câu vần điệu kiểu thơ lục bát. Thấy tôi ngớ ra, anh con trai vỗ đùi đọc tiếp, rồi ề à:

"Truyện Kiều trong ngôn ngữ Mường đấy, anh có nghe ra không? Em không nhớ hết, nhưng bà ngoại của Ban Mai thuộc ḷng..."

Quay sang Ban Mai, anh hỏi:

"Có định đưa khách về Mường Thàng không? Năm nay hạn, từ ngày làm lễ Khụng Mua rước vía lúa về đâm lỗ rồi tra giống, trời không cho một giọt nước! Tháng này tṛn trăng, Pộ Mo báo sẽ làm lễ hội cầu mưa đấy!"

Mỉm cười, Ban Mai khẽ lắc, nh́n tôi:

"Chỉ sợ anh không có thời gian... Lên núi t́m nường Phin và ông anh của anh th́ thực chưa biết là ở đâu. Núi cao, ngóc ngách không phải ít!"

Anh con trai hỏi, Ban Mai đáp, chắc kể chuyện tôi đi t́m thằng anh chết tiệt nghe nói đi về núi Nà Mèo. Không hiểu sao, tôi th́nh ĺnh dửng dưng. T́m ra, khác chi? Nào tôi có tin ǵ vào cái chuyện trấn yểm của Cao Biền hơn ngàn năm trước! Vào thời đại này, chỉ cái thằng chết tiệt kia mới vừa dùng Internet liên lạc với tôi, lại vừa có thể tin những chuyện như long mạch phong thủy xác định tương lai một dân tộc. Một loại tâm thần. Giống như đám bạn bè hắn, đứa nhà thơ nhà văn nào cũng tự cho ḿnh những nhiệm vụ cứu nhân độ thế! Nhưng cứu được ai bằng hoang tưởng?

*
*     *

Gió hây hẩy nhưng trời vẫn nóng, mồ hôi ứa ra, nhờn nhẫy. Rủ tôi ra ngoài, Ban Mai bảo, đi một ṿng cho mát. Bước theo Ban Mai, tôi tự nhiên cảm thấy một niềm vui. Nó không tên, lăng đăng tựa đám mây che vầng trăng chưa tṛn hẳn trên cao. Con đường quanh bản dưới vầng sáng xanh mướt kỳ ảo lạ thường. Bên bờ nước, ễnh ương ộp oạp gióng một rồi lặng đi, bất th́nh ĺnh cùng nhau cất tiếng như một dàn đồng ca. Ánh đèn vàng vọt trong những căn nhà sàn đổ ra lối đi, vẽ ngoằn ngoèo những vệt sáng vàng và đen như da hổ. Nhớ nỗi buồn phảng phất trên khuôn mặt Ban Mai khi nàng cho bọn trẻ kẹo, tôi hỏi tại sao. Ban Mai cười gượng:

"Em nhớ con em. Nó tên là cu Tít!"

Không đợi tôi nói thêm, Ban Mai tiếp:

"Bố cu Tít lấy vợ mới rồi, em phải gửi nó cho cụ ngoại nuôi".

Im lặng, tôi ngửng lên nh́n trăng qua ṿm cây xum xuê, lát sau đánh bạo hỏi chuyện riêng của Ban Mai.

"Em quen anh ấy khi học trên Hà Nội, lấy nhau và năm sau đẻ cu Tít. Em thấy nuôi cháu ở Hà Đông quá vất vả, lại phụ thuộc và phiền phức gia đ́nh anh ấy. Chúng em cùng chạy chọt xin về Ḥa B́nh công tác, nhưng được vài tháng th́ anh ấy bảo không chịu được không khí tỉnh lỵ, đ̣i quay lại cơ quan cũ, dỗ em bảo đi đi về về chẳng có ǵ bất tiện xa xôi... Cứ thế được hơn nửa năm, một hôm anh ấy nói bây giờ không c̣n cô đơn... Và chuyện chúng em dang dở v́ - Ban Mai bật cười - vấn đề địa-văn hóa! Anh ấy bảo cô bạn yêu cầu anh ấy ly dị! Em chỉ c̣n biết đọc Kiều, bằng tiếng Mường, những phường trên bộc trong dâu, th́ con người ấy ai cầu làm chi, không đ̣i hỏi ǵ nhưng đặt điều kiện phải để em nuôi cu Tít. Đấy, chuyện đời em đơn giản chỉ có vậy".

Ban Mai hồn nhiên, nh́n tôi:

"C̣n anh, chuyện gia đ́nh vợ con thế nào?"

Như một phản ứng tự động, tôi đáp:

"Cũng thường thôi, như mọi người, tôi có hai cháu... Học hành cũng được!"

Ban Mai cười, mắt ḍ hỏi, nói: "Thế anh là người hạnh phúc rồi!" và đợi tôi đáp. Tôi gật. Nhưng rồi tôi lại lắc, biết ḿnh không mấy thành thực. Lảng chuyện, tôi giả như vô tư, tḥng một câu: "... mà biết thế nào là hạnh phúc!".Nói xong, tôi xấu hổ v́ sự lươn lẹo tránh né của ḿnh.

Ban Mai dừng chân, khẩn khoản:

"Mai ta lên đường. Em định ghé về nhà bà ngoại, thăm bà và cu Tít, ta sẽ chậm đến Nà Mèo hai, ba ngày. Nếu anh vội, về đến Mường, em sẽ nhờ một người khác đưa anh đi t́m nường Phin và ông anh của anh! C̣n anh ở lại th́ đúng là một dịp hi hữu để anh biết thế nào là lễ cầu mưa, rất đặc biệt..."

Ngắt lời Ban Mai, tôi vội vàng:

"... C̣n ǵ bằng! Sớm muộn đôi ba ngày, chẳng hề chi"

Chợt nhớ câu tôi hỏi nhưng Ban Mai chưa đáp, tôi lại nhắc:

"Nhưng nường Phin là ai thế?"

*
*     *

Đó là một người đàn bà đă thành huyền thoại. Truyện kể có ba nường Phin. Phin của Mường K’loi là thế giới của Trời, Phin của Mường Mól’ là thế giới của người, và Phin của Mường Ma dưới Pưa Tịn, nơi loài Khú và loài Pú Kia ẩn náu, thi thoảng lên tác quái chốn dương gian. Ban Mai chúm môi kể, ngày nường Phin mới lên chín, Mường Lát bị bom tan hoang, gia đ́nh cô năm người chết hết, nhưng không biết thế nào mà cô sống, người chỉ xây xát, nhưng ù tai đến chẳng nghe được ǵ trong ba năm, ai cũng tưởng cô điếc. Đùng một cái, cô bỗng nghe được đủ thứ tiếng trên mặt đất. Cô bảo, có con chim trĩ đâu đây. Thoáng sau, thật thế, chim bay ngang kêu ríu rít như chào cô. Con trâu nhà ai đó đi lạc nhờ cô t́m, cô ra cánh rừng, tay chỉ, nó đang khịt khịt bên kia ḱa. Thật thế, con trâu nghếch mơm đủng đỉnh gặm cỏ, vẫy đuôi đợi cô. Cô báo, máy bay Mỹ. Đúng vậy, khi th́ Con Ma, lúc th́ Thần Sấm xuất hiện ở chân trời. Dân Mường đồn cô từ Mường K’Loi ông Trời phái xuống chống Mỹ cứu nước. Cứu nước thế nào chẳng biết, nhưng cô báo động cứu được dân Ḥa B́nh vào những năm miền Bắc bị đánh bom liên miên. Tiếng lành đồn đến cả những vị lănh đạo ở xa, sợ Mỹ bom Hà Nội, nên trưng dụng cô về thủ đô. Cô mới mười lăm, được mặc quân phục các chiến sĩ pḥng không, có nhiệm vụ hợp tác với bộ phận ra-đa báo trước những trận không tạc. Năm 1972, cô tham gia trận Điện Biên Phủ trên không ở Hà Nội, nghe nói c̣n nhanh nhậy hơn cả máy móc tân tiến của Liên Xô giúp ta phát hiện máy bay Mỹ, có thể báo ngay khi chúng c̣n cách đất liền cả trăm cây số. Sau hiệp định Paris, cô được phong anh hùng. Chuyên gia Liên Xô đặt yêu cầu đưa cô qua Moskva để làm việc với Viện Nghiên cứu về những hiện tượng siêu nhiên. Chuyện hợp tác quốc tế này khựng lại khiến "ta" khó ăn khó nói với "bạn" v́ bụng nường Phin cứ to dần. Bụng không thể to nếu chẳng có đồng lơa. Thủ phạm là một chiến sĩ pḥng không cũng được phong tặng Dũng sĩ diệt Mỹ. Vừa là sĩ quan, vừa là người Kinh, và lại đă có một vợ hai con, anh dũng sĩ bị ghép tội lợi dụng hủ hoá cán bộ gái người "dân tộc", thiếu đạo đức cách mạng, và làm xấu quan hệ quốc tế song phương với "nước anh em" Xă hội Chủ nghĩa. Dũng sĩ bị khai trừ Đảng, phải giải ngũ, và cấm không được bỏ vợ. Phần nường Phin, cô khai thủ trưởng bảo ǵ cô làm nấy, tin là ḿnh đang cống hiến cho đất nước, phục vụ "tốt", và không biết thế là không đúng chính sách. Để cô sinh đẻ xong, Nhà nước quyết định trả nường Phin về với núi rừng Ḥa B́nh. Nay chẳng c̣n máy bay Mỹ đánh phá, cô lại là một người thiếu nữ đang xuân vừa đẹp vừa rất "hồn nhiên" nên để ở lại thủ đô e chừng rách mất việc nước.

Về bản quán, nường Phin mất dần cái khả năng kỳ diệu nghe thấy mọi làn sóng vi động của âm thanh. Tuổi chưa đầy hai mươi, dân không ra dân mà lính cũng chẳng phải lính, cô không có một nguồn thu nhập nào ngoài cái tiêu chuẩn lương thực chết đói cho thường dân thời bao cấp. Cuộc sống thời hết "giặc lái" đâm thế mà khó, nhất là cô côi cút, nay chỉ c̣n một bà d́ tuổi cũng đă cao. Bà góa bụa, hai đứa con trai đều hiến ḿnh cho sự nghiệp bảo vệ đất nước, một ở Khe Sanh, một ở đâu đó trong miền Tây Nam Bộ. Bà thui thủi, nay có đứa cháu gái ẵm con về ở cùng, vui lắm, miệng cứ xuưt xoa cám ơn K’loi đă lập lại ḥa b́nh cho Mường Pưa, tức mường bằng, tầng dành cho người. Nhưng dẫu vốn hồn nhiên, đời sống người Mường cũng chẳng phải không một chút phức tạp nào. Nường Phin đẹp, nhưng từ ngày mất tước anh hùng, cô đâm sợ quan hệ với đàn ông. Chính thái độ xa lánh của cô lại tạo ra một thứ ma lực, đàn ông cả Kinh lẫn Mường lân la nhưng không một ai đến gần cô được. Sau, có chuyện tạo ra sóng gió dư luận với đồng chí ủy viên Huyện phụ trách Thương binh Xă hội. Thỉnh thoảng bị những cơn nhức đầu hành hạ, nường Phin cho rằng ḿnh bị bom Mỹ chấn thương, lên xin Ủy ban thuốc men chữa chạy. Đồng chí ủy viên lật tra danh sách và bảo cô chưa gia nhập Quân đội Nhân dân bao giờ, không thể xếp vào thương binh được. Nh́n nường Phin, ông nháy mắt: "Ta có cách của ta, tôi sẽ phấn đấu cho, nhưng Phin cũng phải làm sao cho xứng đáng với nhân dân!". Dĩ nhiên, nường Phin gật. Bẵng đi ít lâu, có liên lạc về bản báo cô lên huyện nhận thuốc. Vào buổi trưa sau giờ hành chính, đồng chí ủy viên tiếp, tay đưa cô một đống viên Xuyên Tâm Liên trị bá bệnh, dặn mỗi ngày phải uống trưa chiều tối mỗi lần hai chục viên. Phin đưa tay lấy thuốc th́ đồng chí ủy viên nắm lấy, hỏi: "Thế th́ Phin cho tôi cái ǵ nào?". Hoảng sợ, Phin giật tay ra nhưng đồng chí ủy viên lồng lên nhẩy vào vồ cô như cọp vồ nai, tay quơ lên thứ móng vuốt Phin từng thấy trong những ngày phục vụ Pḥng không ở Hà Nội. Tung cửa chạy ra bên ngoài, Phin đi thẳng về bản. Hôm sau, công an huyện đến gọi Phin lên làm việc, điều tra tố giác của đồng chí ủy viên sự việc cô định hủ hóa cán bộ, đổi dăm phút "vui vẻ trái phép" lấy một ngh́n hai trăm viên thuốc Xuyên Tâm, chắc để bán "chợ đen" với ư đồ phục hồi giai cấp tư bản. Bộ máy sách động quần chúng vận hành tuyệt diệu đến độ chỉ tháng sau, cả Kinh lẫn Mường đều đồn đại là nường Phin đánh phá cán bộ Đảng với cái khí giới đă chôn vùi sự nghiệp của một Dũng sĩ chống Mỹ. Và thế là cô bị quần chúng cô lập, đành cùng d́ làm những việc thủ công như dệt áo, làm cạp váy k’ôốc wắc’, hoặc đan giỏ, rá và óp pu phụ nữ thường đeo bên hông làm dáng.

Bị người Mường Pưa ruồng rẫy, tất nhiên nường Phin phải đến từ Pưa Tịn, nơi chứa chấp Mường Ma. Ngay ở đây nường Phin này cũng chia hai nhánh, nhánh Ma và nhánh Khú. Trong nhánh Ma, nường Phin mang h́nh dạng conngười, nhưng đi ngược, đầu ở dưới, chân trên mặt đất, hệt như những cái bóng. Thế giới Ma xưa thông thương với thế giới Mól’ qua cái rôông nối hai mường cao thấp, nhưng nay đă bị bít v́ khác tục lệ, một vấn đề hội nhập văn hóa như ta nói ngày nay. Người đồn, nhất là đàn ông, ban đêm nường Phin xoạc chân nằm ngả ra giao hoan với những kẻ qua đường, nhưng là người th́ xuất tinh đến kiệt rồi chết thành ma. Chưa thấy ai gặp tai nạn này, có lẽ lời đồn kiềm chế được ẩn ức của những thanh niên háo sắc đến mức liều thân. C̣n nường Phin thành Khú th́ nguyên nhân là do Đổi Mới. Trước thời kỳ này, dân ăn bo bo, cây, củ mà cũng chẳng đủ no. Khổ nhất là đám con gái Mường đi Thanh niên xung phong, cũng chẳng dân chẳng lính, không biết làm ǵ để sống. Nường Phin lấy sáng kiến tập hợp đám đó lại lập Hợp tác xă, truyền nghề thủ công may đan, mang lên bán ở Hà Nội. Ban đầu, công việc èo uột, nhưng chỉ một năm sau, có đồng ra đồng vào, mức sinh hoạt của xă viên nâng cao đến mức người ta phát ghen. Thế là khó khăn bắt đầu, nhưng khi đó "phá rào" đồng nghĩa với dũng cảm và sáng tạo, chẳng ai làm ǵ được. Nhưng họ đồn. Rằng nường Phin là Khú, một con rắn hai đầu sống dưới Thủy Cung, không đực không cái. Với đám gái xă viên của hợp tác xă, con rắn đêm nào cũng ăn nằm, hút âm tinh xuất ra khi cực khoái, phà vào sản phẩm thủ công tạo sức hấp dẫn thị trường có định hướng Xă hội Chủ nghĩa. Họ yêu cầu Ủy ban Huyện can thiệp, cho rằng cạnh tranh như thế bất chính và không tuân thủ đạo đức truyền thống. Vô chứng cớ, Huyện đặt vấn đề với Tỉnh. Cấp này không giải quyết được, đành đưa lên Trung ương. Chính Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định tiếp tục sự nghiệp Đổi Mới, tất cả những luận điệu chống lại dựa trên mê tín dị đoan, tức không khoa học, đều là hành động chống Đảng và Nhà nước.

"Thế là tiếng đồn có ít đi, nhưng đâu cần v́ nường Phin thành con rắn hai đầu mất rồi. Ban Mai cười, tiếp. - Sau thành công kinh tế này, nường Phin thúc đẩy phát huy âm nhạc và nhảy múa truyền thống người Mường, ban đầu là để quảng cáo cạp váy với hoa văn, nhưng rồi từ từ lan qua địa hạt du lịch và văn hóa. Hiện cô tổ chức được một đội múa và một ban nhạc với đủ cồng, chiêng, phèng, sáo, khèn, nhị... Cô vẫn đẹp, vẫn độc thân, và nay thích quan hệ với những nhà văn nhà thơ. Khi em nói với cô về người anh của anh sẽ đi núi Nà Mèo với bộ Nơn-Nường từng đă trấn yểm long mạch Giao Chỉ từ thời Cao Biền, cô nhận lời ngay, bảo giải phóng thật sự là phải thoát khỏi cái ách phương Bắc".

Tôi lẳng lặng nghe Ban Mai kể chuyện nường Phin, ḷng tràn ngập thương cảm một mảnh đời sóng gió từ thơ dại. Không biết v́ lẽ ǵ, đầu tôi chập chờn giấc mê mụ trưa nay, h́nh ảnh Ban Mai áp mặt xuống mơn man ngực một nường Phin tôi chưa từng biết mặt lại mơ hồ vướng vất. Nh́n Ban Mai, tôi buột miệng: "Em thân với nường Phin lắm hẳn...". Bật cười thấy trong câu hỏi có thoáng ghen tuông hờn giận, Ban Mai tinh quái gật, rồi bảo "Ai biết mà lại không thân với nường Phin th́ phải là Khú, anh giai ạ!".

*
*     *

Đêm hôm đó, tôi nằm nghe anh con trai Mế ngáy, ngắm trăng chờ sáng trong gian bên dành cho đàn ông. Cạnh bếp là gian đàn bà, Ban Mai chuyện tṛ ǵ với Mế đến khuya, thỉnh thoảng lại rúc rích cười. Câu Ban Mai nói, thế anh là người hạnh phúc rồi, lại vang lên như tra hỏi. Tôi có công việc đúng nghiệp vụ chuyên môn. Ăn, tôi đủ. Mặc, cũng đủ. Con hai đứa, chẳng thể bảo là hư, học măi rồi cũng tốt nghiệp đại học, và rồi chúng sẽ có công ăn việc làm trong một thế giới văn minh phát triển. Vợ tôi, không xấu không đẹp, không khôn không dại, chẳng đ̣i hỏi ǵ, sống hiền lành yên phận. Tóm lại, sau một thời ấu thơ có chút mùi tủi nhục côi cút, đời sống tôi an b́nh đều đặn trôi như bốn mùa một năm. Ai cũng bảo tôi thế là hạnh phúc.

Nhưng tại sao khi nói với Ban Mai, tôi lại bảo biết thế nào là hạnh phúc? Thế c̣n Ban Mai? Tôi tự trách, sao tôi không đủ quan tâm để hỏi câu Ban Mai hỏi tôi, em có hạnh phúc không? Dang dở như Ban Mai, chắc nàng sẽ bảo không! Có phải v́ sợ phải nghe thế nên tôi không can đảm hỏi chăng?

Đêm cứ dài ra với những tồn nghi lẩm cẩm không có giải đáp. May mà gà gáy sáng, một con, rồi sau đó, tiếng gà cất lên từ đầu đến cuối bản. Chúng tôi lục đục uống nước chè, ăn vội nắm xôi, lên đường đi về Mường Thàng khi nắng vừa le lói sau những cḥm cọ đâm nghiêng. Ban Mai ngồi lên Honda, bảo sẽ đi hai giờ xe, sau phải cuốc bộ chừng một giờ. Nàng hớn hở: "Anh gặp bà em với cu Tít, chắc vui lắm!". Không rơ vui thế nào, tôi gục gặc, nhớ ḿnh chẳng mang ǵ quà cáp, nhắc Ban Mai. "Ôi giào, đừng vẽ chuyện. Ḿnh đi đột xuất mà anh!", Ban Mai tươi cười, rồ máy.

Đường núi ngoằn ngoèo, vẫn cứ vách và vực, vẫn những sợi tóc ngược gió bay vào ve vuốt, vẫn một mùi hoi nồng khơi gợi. Khi nắng sắp chớm đỉnh cây, chúng tôi đến một bản Mường thưa thớt chừng chục nóc nhà. Gửi xe ở một nhà quen, Ban Mai dẫn tôi men theo con đường dốc ôm ṿng những nương ruộng nằm lưng chừng một dăy đồi. Lát sau, chúng tôi băng ngang một con suối, vào khu rừng cây cối râm rạp nhưng cằn cỗi. Chỉ tay về phía trước, nàng bảo:

"Sau kia là ta đến nơi... Hạn hán nên rừng không có vắt chứ mưa th́ đi đầu trần thế này chẳng được!"

Bước sau Ban Mai, tôi len lỏi, thầm nhủ chắc chắn sẽ lạc nếu phải đi một ḿnh. Quanh co măi, cây cối thưa dần, Ban Mai tíu tít: "Sắp đến rồi! Chưa ǵ em đă nghe tiếng cu Tít gọi!". Nàng ngước lên, cặp mắt mở to, lóng lánh như sắp khóc. Ra đến b́a rừng, Ban Mai đi như chạy. Khói bếp xanh ngắt ở đâu bay lơ lửng. Lưng đồi bên kia, những mái nhà sàn thấp thoáng. Ban Mai miệng giục, chân thoăn thoắt, mặc tôi tuột lại phía sau. Chúng tôi băng ngang chân những nương lúa vàng vọt. Ban Mai vẫy những người làm rẫy, áo chàm bạc thếch dưới ánh nắng gay gắt, miệng reo những câu tôi không rơ nghĩa. Con đường vào bản hiện ra, cũng ngoằn ngoèo như đường vào bản Mỗ, nhưng xơ xác vắng vẻ hơn. Đây, vùng sâu và xa, có nhắc th́ xă hội đang ồn ào hiện đại hóa ngoài kia cũng sẽ quên liền, làm sao b́ được với những nơi gần đô thị được.

Chạy thẳng vào một căn nhà ch́a ra trong đám cây cỏ thiếu nước xác xơ, Ban Mai cất tiếng réo gọi. Cửa mở. Một cụ bà tóc bạc trắng tḥ đầu khỏi tấm liếp đóng hờ. Ban Mai lên thang trong khi cu Tít ra cửa, nhẩy cẫng lên, gọi mẹ. Khom người, Ban Mai đưa hai tay ra, thằng bé lao vào ḷng chúi đầu áp mặt, bẽn lẽn nh́n tôi cười. Cụ bà ngước lên, ánh mắt ḍ hỏi, tay mở rộng cửa ra dấu mời vào.

*
*     *

Sau cơm trưa, cu Tít đ̣i mẹ đưa ra băi trống cạnh một con thác cạn nước, nơi Mường sẽ làm lễ cầu mưa đêm trăng tṛn. Nó bẻm mép, mắt đen nháy, chạy nhẩy như một con hoẵng. Vắng nhà lâu ngày, Ban Mai chiều con, miễn cho nó giấc ngủ trưa như lệ thường. Không muốn mẹ con Ban Mai mất những phút tư riêng, tôi xin ở lại, lấy cớ mệt. Cụ bà dặn Ban Mai ǵ đó, rồi rót nước mời tôi. Không ngờ cụ nói tiếng Kinh thật là sơi, hỏi tôi mới biết cụ và cụ ông đă sống một thời gian ở Hà Nội đầu những năm 60, khi cả hai giúp Viện Dân tộc học trong những nghiên cứu về dân tộc Mường. Cụ bà vào gian cạnh lôi ra hàng chục cạp váy sặc sỡ trên thêu những hoa văn tinh tế. Cụ nhắc ông Từ Chi, một nhà nghiên cứu trở thành bạn của cụ ông, bảo người Kinh th́ chỉ có ông ấy mới thực sự hiểu người Mường. Hàng năm, ông ta lên ở trên này có khi cả tháng, lặn lội khắp nơi sưu tầm những truyện cổ truyền khẩu mai một dần trong trí nhớ một tập thể ngày càng mất đi nguồn cội. Nhớ lời kể cụ thuộc Kiều bản tiếng Mường, tôi xin nghe. Mắt sáng lên, cụ bảo chính cụ ông và ông Từ Chi đă cùng nhau làm công việc dịch Kiều. Nhắm mắt trầm tư, lát sau cụ đọc một đoạn, tay gơ nhẹ xuống mặt sàn nhịp cho những câu lục bát vần điệu luyến láy không phải chỉ dân tộc Kinh mới có. Cụ lặp đi lặp lại, bằng tiếng Mường, bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao. Th́nh ĺnh, cụ bảo nay chẳng phải thế, làm ǵ c̣n có nơi nào cho thanh cao mà ḥng. Đầy trời đầy đất, chỗ nào cũng gió, cũng cát, cũng bụi.

Nâng những mảnh hoa văn Mường lên, tôi đột nhiên biết ḿnh đă từng nh́n như thế từ một quá khứ hun hút vô định, mặc nước mắt bỗng ứa ra chảy thành vệt. Cụ bà ngạc nhiên, hỏi cớ sự. Như trong mơ, tôi kể tôi côi cút, tôi lớn lên và tồn tại thế nào với cái huyễn tưởng ḿnh họ Bạch gốc Mường vùng Cao Lạng. Cụ bà hấp háy nh́n tôi, buông thơng:

"... th́ nghĩ ḿnh thế nào, ḿnh là thế ấy, cứ sống như vậy chứ bận tâm làm ǵ!"

Đứng lên, tôi bước lại xem bẩy chiếc cồng to nhỏ khác nhau treo trên tường, tay vuốt ve những dấu trạm trổ trên mặt cồng sắc lạnh. Cụ bà đến gần, bảo:

"Cồng này cổ lắm, từ đời nào chẳng biết. Có cái đánh để rước tổ tiên về, cái để gọi hồn người mới chết, cái báo con trâu đi lạc... Nhớ đừng úp mặt cồng xuống, úp là chết. Chỉ cồng sống mới gọi được người chết về!"

Kề tai vào, tay chạm nhẹ, tôi nghe tiếng ngân nga văng vẳng như tiếng gọi từ cơi tít mù tiềm thức, lung linh đong đưa theo vệt nắng chiếu qua song cửa. Bất giác, tôi mỉm cười, ḷng nhẹ tênh tênh.

Chiều hôm đó, trong bữa cơm không biết cụ bà nói ǵ với Ban Mai mà nàng reo lên:

"Thế em gọi anh bằng Bạch công tử nhé! Người Mường nhà em ăn cốt tươi, chơi cốt thật, anh ạ!"

Cu Tít ôm con mèo đen chuyện tṛ như nói với người, thỉnh thoảng lại khúc khích cười. Nó bắt mẹ đút cho ăn, rồi vào ôm mới chịu đi ngủ. Khêu bấc đèn dầu cho to lên, Ban Mai đưa con vào gian nhà bên trái. Cụ bà hơi mệt, cũng đi nằm. Một ḿnh, tôi ngắm ánh trăng trên những tàu lá cọ chập chờn lay trong gió, thiếp đi lúc nào chẳng biết, giật ḿnh khi Ban Mai đến lay tôi, dịu dàng bảo:

"Anh nằm cho khoẻ, mai lễ cầu mưa kéo cho đến hết đêm mới xong".

Nửa mê nửa tỉnh, tôi nắm lấy tay Ban Mai. Nàng để yên, một lúc sau mới nhẹ nhàng rút ra, mắt đọng mầu xanh của ánh trăng huyền diệu. C̣n tôi, tôi bỗng thấy ḷng ḿnh êm đềm như ḍng suối lượn quanh Ban Mai. Dẫu trong một ngày hạn, ḍng suối có thể cạn, nhưng hy vọng hồi sinh th́ không.

Đêm mai, tôi sẽ thức trắng và cầu mưa, như mọi người.

BẢY

K

hi mặt trời leo lên đỉnh cây ven rừng, người ở những bản xa đă về tụ tập ở Mường Thàng, nơi Pộ Mo sẽ làm lễ cầu mưa. Họ tươi tắn chào hỏi nhau. Những cụ già tay chống gậy, răng đen, nhai trầu, mép đỏ quết nhếch lên như cười. Những cô con gái, đầu quấn khăn trắng, trong là áo báng mầu đen cao đến cổ, đầu váy nổi lên giữa hai vạt áo pắn ngắn ngang lưng. Áo pắn xẻ đôi, kín đáo khoe một vạt hoa văn sặc sỡ quấn quanh phần dưới ngực, thêu bằng chỉ ngũ sắc những chú hươu sao và những con cá chép lượn lờ cạnh nhau. Những chàng trai, quần ống rộng, khăn thắt bụng, áo lụa vàng phanh ngực, cổ choàng khăn tím than, lưng giắt dao quắm, có kẻ khoác áo chùng đen dài đến gối. Họ thỉnh thoảng cất giọng ḥ lên trêu đám con gái. Đám này chúi vào nhau, cười ríu rít như những con chim rừng vừa rỉa cánh vừa liếp chiếp kêu trên những tàn cây khô nắng.

Cụ bà vịn tay tôi, gặp ai cũng nói một câu, miệng cười móm mém. Ban Mai bảo: "Bà ngoại giới thiệu anh là khách đấy, Bạch công tử ạ!". Thằng cu Tít choi choi như một con hoẵng, í ới gọi bạn rồi chạy biến đi. Vào khoảnh giữa một vạt đất được dọn sạch, cồng và chiêng treo quanh một chiếc trống mầu mun đỏ. Ban Mai th́ thào:

"Trống đồng đấy, cổ lắm, cổ đến chẳng ai biết tuổi, chỉ mang ra làm lễ trong những chuyện sống mái của Mường. Lần trước là khi Mỹ dội bom, lâu lắm rồi..."

Chúng tôi bước đến chào Pộ Mo. Đó là một cụ già tóc bạc phơ, cổ cuốn khăn vàng, tṛng mắt đục nhưng căng ra như trợn lên. Nghe cụ bà nói, Pộ gật gù, đáp. Ban Mai dịch:

"Pộ bảo họ Bạch th́ là họ quan lang, c̣n Pộ vốn ḍng Âu, họ Bùi, làm phụ đạo cho quan hàng chục đời rồi".

Pộ khom người, nắm lấy tay tôi, lắc lắc. Phải nói thật, tôi ngượng đến chín người, chẳng lẽ lại nói cái họ Bạch của tôi chỉ là do tôi hoang tưởng. Nhưng chẳng biết Pộ nói ǵ mà dăm cụ ông cao tuổi đến chào tôi, nét mặt thân mật, cười vồn vă. Giữa trưa, đám thanh niên giong một con trâu đến buộc vào cái cột đóng cạnh dàn chiêng trống. Tiếng hàng chục cái khèn nổi lên. Rồi tiếng cồng âm vang chuyển hồn người vào rừng núi. Con trâu đủng đỉnh nghếch mơm nh́n trời, đuôi phe phẩy đuổi ruồi muỗi, chân lâu lâu lại cào vào mặt đất trơ trụi cỏ. Ba chàng thanh niên cầm những chiếc dùi bọc vải ra đứng quanh chiếc trống cổ. Pộ Mo ôm một bó nhang đi quanh, tay vẽ những ṿng ngoằn nghoèo, nhang gặp gió cháy đỏ, chói lên, rồi lại tàn. Cứ thế. Tiếng trống lúc một dồn dập, điểm vào là cồng, chiêng, và tiếng khèn rền rĩ. Đi ṿng cả giờ đồng hồ, Pộ lúc một chậm, gần như sắp kiệt sức. Con trâu bỗng thở ph́ ph́, dăi trắng xoá chảy ṛng ṛng. Gió ơi, gió lên. Gió ơi, gió. Gió đến, thổi để thế gian này c̣n hy vọng. Ban Mai ứa nước mắt, kêu nho nhỏ, thanh âm ḥa vào tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng cồng. Gần như mụ mẫm, tôi nắm chặt lấy tay Ban Mai, và không hiểu động lực nào thôi thúc, tôi gào lên một thứ ngôn ngữ tôi không hiểu, không biết, nguồn cội đến từ bản năng một con thú cùng đường. Khi đó, tôi mơ hồ cảm thấy gió, gió lên, gió phần phật. Tiếng người thất thanh. Mừng rỡ. Gió thốc vào, xoay một ṿng, mát rượi. Pộ giơ bó nhang lên trời, mắt trừng trừng nh́n, hô ba tiếng. Bó nhang phừng phực bốc lửa, cháy có ngọn. Dân Mường ồ lên, rồi im lặng. Tiếng chiêng trống bằn bặt. Khi không có ǵ ngoài tiếng gió, Pộ Mo cất giọng, run run, kéo những thanh âm dài ra tưởng không bao giờ đứt đoạn.

*
*     *

Ban Mai th́ thào vào tai tôi:

"Pộ hát tang ca roóng mo "Tẹ Tat-Tẹ Đạc; Con chu-kẹo lọi; Toọc-moong", người Kinh gọi cho gọn là Đẻ Đất - Đẻ Nước. Trong những dịp lễ hội lớn, người Mường nghe Pộ hát để tưởng nhớ đến ba tầng bốn thế giới gốc gác của ḿnh. Phần đầu, là truyền thuyết sinh thành... Thuở trời tách khỏi đất, vũ trụ mới ra đời, Mường Trời được đặt dưới sự cai quản của Bua K’loi, người Kinh gọi là vua Trời. Vua có Thần Sét phụ tá, nàng A Tăng giúp việc. Dưới đất, tức Mường Pưa, có ba anh em là Tá Tài, Tá Cần và nàng Yạ Kịt. Người anh cả Tá Tài chưa kịp hoàn thiện được Mường Pưa th́ xảy ra một trận Đại Hồng Thủy. Chỉ c̣n Tá Cần và Yạ Kịt, cặp trai gái này không cưỡng lại nổi bản năng, gian díu ăn nằm như vợ chồng. Vua Trời giận lắm, kết họ tội loạn luân, phái Thần Sét và nàng A Tăng xuống với nhiệm vụ là đánh sét giết hai đứa dâm loạn. Nàng A Tăng lội suối đi trước, Thần Sét theo sau, và Thần thấy cái đẹp của thân thể A Tăng nhịp nhàng theo độ uốn lượn núi đồi. Cái đẹp ấy khiến Thần thở dài, trầm ngâm, ḷng day dứt. Qua bên kia bờ suối, thấy Thần buồn bă, nàng A Tăng hỏi. Thần thực t́nh nói ḷng ḿnh, và kêu, chẳng lẽ v́ cái đẹp mà phải tội chết sao. A Tăng hiểu, và đồng ư tha chết cho cặp nhân t́nh, sét đánh chỉ đánh vào cây xoan đầu bản và bậu khung cửa sổ. Vua Trời bị lừa, không toàn năng như Thượng Đế. Và Thần Sét, rất người, chối cái trách vụ làm thần. C̣n nàng A Tăng, nàng đúng là một người đàn bà, dẫu trên trời hay dưới đất cũng vậy!"

Nh́n Ban Mai, tôi định nói Ban Mai ơi, em chính là A Tăng của anh, nhưng kịp mím môi, chỉ bảo:

"Tôi cũng như Thần Sét..."

Ngửng lên, tôi thấy Ban Mai cười với ánh mắt tinh quái hồ nghi. Tôi đỏ mặt im lặng, giả lắng tai nghe. Phần sau Đẻ Đất - Đẻ Nước, là lễ gọi hồn. Chẳng hiểu ǵ, tôi chỉ nghe tiếng rầu rĩ năo ruột:

Pa hôn pải plái on tứa, on kai, no t́ vên kung pô kung mê, ăn kơm ăn ka.

Pö úi kïët bö ta la no poâ, thên hoâ ùn no úă no pö úi. Pô ơi kết bô ta la no p̣, thân ḥ ăn no ở no pô ơi!(1)

Rồi lễ đâm trâu. Hàng chục thanh niên quây quanh con trâu với những cọc tre già vót nhọn. Tiếng chiêng tiếng cồng lại nổi lên. Hàng ngoài, thanh thiếu nữ Mường xếp ṿng tṛn, miệng hát, tay vung lên đánh nhịp, rồi nắm lấy nhau nhẩy cứ ba bước một, xoay quanh, tụ vào rồi tản ra. Khi bóng chiều lừ lừ nhuộm đỏ đầu những tàn cây, trai gái mang củi đến chất làm thành một chiếc tháp cao quá đầu. Pộ Mo giơ tay đợi mọi người im lặng, cất tiếng ê a, giọng nhừa nhựa quánh sệt. Các vị phụ lăo cao niên đứng dậy, và khi đó, tiếng rung chuông th́nh ĺnh cất lên. Đám thanh niên hú dài, đồng loạt lao những ngọn tre vót nhọn vào ḿnh con trâu. Máu phọt lên có ṿi. Con trâu đau đớn nhẩy lồng lên, sợi thừng buộc nó tŕ xuống. Nó oằn ḿnh xoay tṛn, hồng hộc rống rít, chân đạp cồm cộp xuống đất. Một người trung niên trần trùng trục ở đâu nhô ra, hai tay cầm một ngọn thương sáng loang loáng. Nhắm lưng trâu đâm, ông ta cong người nhấn mũi thương xuống, bắp thịt vai nổi cuồn cuộn. Con trâu khuỵu chân phủ phục, thở ph́ ph́, dăi rớt pḥi ra trắng mơm. Bất th́nh ĺnh, ông ta rút ngọn thương ra, máu ̣ng ọc chảy, và hai thanh niên nhẩy vào đưa nồi ra hứng. Người ta mổ trâu làm thịt. Các bà lăng xăng bắc những cái nồi to cỡ những chiếc thấu đặt lên củi đă cháy thành than. Các ông khoa dao, tay thoăn thoắt mổ bụng, lạng thịt đùi thịt vai. Trẻ con la hét ỏm tỏi, đuổi nhau chạy khắp nơi. Cứ thế, cho đến khi ánh dương lụi dần, ráng hồng phớt lên đỉnh những tàn cây chồi lung lay trong gió, chim chóc xào xạc bay về tổ.

Sau ba tiếng trống đồng ầm ́, dàn khèn lại cất lên. Và lại chiêng, lại cồng. Và tiếng người đồng thanh lập đi lập lại:

Ăn za khoê nói za lứa

Tê co kwi sa ma đượi(1)

Ở Mường Pưa, nơi Thần Sét thôi là thần, nơi nàng A Tăng động ḷng trần, và vua K’loi, trước t́nh yêu giữa những con người, cũng mất hết quyền năng. Khi đó, vua chỉ c̣n tha thứ, khiến cho mưa thuận gió ḥa để lúa gạo ê hề cho những con người có thể sống để yêu nhau. Người gọi vía lúa tiếng vang lên chuyển qua vách núi, từ đời này đến đời kia, cứ như thế vượt mọi mốc thời gian, làm chứng cho sự huyền diệu vô cùng đă sinh thành ra sự sống:

Plái ló ơi vên tun vên nhà ma ở(1)!

Plái ló ơi vên tun vên nhà ma ở!

Plái ló ơi vên tun vên nhà ma ở!

Quanh đống lửa cháy có ngọn, những ṿ rượu cần được mang ra để la liệt trên mặt đất. Đám trẻ tiếp tục nhẩy múa theo tiếng cồng đánh lên đệm cho dàn sáo và nhị xâu chuỗi những thanh âm thành lời van xin của rừng, của núi, của nương ruộng khô cằn nứt nẻ những vệt chân ó. Trăng ló ra khỏi đám mây trắng rám bạc trải lên thế gian một màu xanh trong suốt. Tiếng ḥ tiếng hát vang lừng. Sau lễ, đến hội. Từng đám năm sáu người quây quanh một ṿ rượu cần, đĩa thịt trâu luộc, bát canh măng rừng, nồi rau đồ có cà rừng, hoa chuối, hoa đu đủ, lá sắn củ... và một nồi cơm nếp. Ban Mai ch́a cho tôi ống trúc cắm vào ṿ rượu. Tôi uống. Rượu mát, không nồng, thấm vào những tế bào lưỡi, trôi xuống cổ ngọt ngào. Ban Mai đùa: "Bạch công tử thấy rượu Mường nhà em thế nào?". Tôi khen ngon, bảo uống cứ như uống nước ngọt, chẳng thấy hơi men, làm sao say được! Ban Mai chỉ cười. Khi rượu cạn, người ta đổ tiếp nước suối vào ṿ. Ban Mai bảo:

"Anh áp tai vào nghe rượu hát".

Quả thế, có tiếng bọt vỡ lục bục trong ṿ. Rồi tiếng rượu reo, âm vang li ti vẳng lại nghe xa tít tắp.

Lửa nổ tí tách bắt có ngọn lem lém. Trống chiêng tiếp tục bập bùng. Trăng đă lên gần đỉnh đầu soi cho dăm con vạc ăn sương bay ngang, tiếng kêu như thúc giục đêm về. Những ṿ rượu cần vơi rồi đầy, men rượu bốc đến tầng mây cao nhất mắt c̣n nh́n thấy được. Bọn con trai túm tụm lại, cười cợt, cất tiếng hát:

Thương noồng em hoỡi

Thương hoỡi ũn à

Chớ để quả c̣n bên anh

Nó rơi xuống đất mà mất xống đẹp áo chùng

Chớ để quả c̣n anh tung

Nó rơi xuống đất mà mất tênh xanh áo pắn...

Bọn con gái rúc rích, rồi đồng thanh véo von:

Thương noồng anh hoỡi

Thương hoỡi anh à

Mất xống mặc ḷng mất xống

Lột áo mặc ḷng lột áo

Cứ chơi lục lạo trong ṿng ngực em

Chớ đem vóc ngọc ḿnh ngà chưng ra

mà hổ chúng bạn...

Bọn con trai kéo tôi đứng lên. Chập choạng, tôi nhẩy theo bước chân chúng, chúi người ngă khi nào chẳng biết, nhưng lại lồm cồm ḅ dậy, miệng cũng í á... thương noồng em hoỡi. Với tay lấy ống, tôi lại hút rượu nuốt ừng ực, rượu ngọt, tôi cứ thế, cứ thế như chưa bao giờ là tôi thế cả. Gỡ phăng mọi sợi dây vô h́nh trói tôi vào một cái tôi không thật, cái tôi sống ở hải ngoại với một thứ công ăn việc làm đ̣i hỏi quần áo trịnh trọng cà-vạt vét-tông, tôi cởi áo ra quăng lên trời, hét... thương hoỡi ún à, tay chỉ chiếc sơ-mi rơi, miệng ngu ngơ kêu nó rơi xuống đất. Cùng mấy đứa con gái, Ban Mai nhập bọn, nắm tay tôi nhẩy ṿng ṿng. Đứa con gái sau lưng tôi chỉ độ mười sáu. Nó cũng say, ngửa mặt cười, miệng lộ một chiếc răng nanh bít bạc, lóng lánh mê hoặc. Một tay ôm eo Ban Mai, tay kia tôi quàng ngang lưng nó. Cúi xuống, nó cắn vào tay tôi, nhay nhay, mềm ướt. Chớ để quả c̣n rơi xuống đất, ún à... Hăy lục lạo trong ṿng ngực em, ún à... Dưới ánh lửa hồng, những giọtmồhôi trên mép Ban Mai lóng lánh. Chao ôi, tôi lại khát, áp môi vào nhưng Ban Mai khẽ đẩy tôi ra. Chớ đem vócngọc... chưng ra... Đứa con gái ngă chúi vào bụi bờ. Tôi cũng ngă, kéo Ban Mai ngă theo. Không biết nằm đè lên ai, tai tôi nghe quanh đây tiếng rên của đàn bà trong ngọn triều khoái lạc đang nhấn ch́m thế giới vào một giấc mơ địa đàng nguyên thủy. Ôi, cái địa đàng này con người có thể tạo ra được ngay bây giờ đấy chứ. Tạo được, khi người ta rộng lượng đến với nhau. Cho nhau. Không dè sẻn giữ ǵn riêng tư chỉ v́ ḿnh. Không kẹp chân khép háng thóp bụng ghim mớ ước lệ đạo đức vào làm lá chắn ngăn khả năng đến được sự thăng hoa tột cùng của phận người qua nhục cảm thân xác. Tôi tan ra. Tôi ḥa vào tiếng thở gấp, tiếng kêu trời. Tôi dập dềnh lên xuống như cơn triều dâng rồi rút trong một khoảng thời gian không đi đâu không đến đâu, mọi hẹn ḥ với tương lai rỗng tuênh vô nghĩa. Tôi tưới vào con người cứ nấc lên mỗi lần tôi thúc vào cống hiến như tôi tưới vào cuộc sống này tất cả sinh lực, như trời đổ mưa, mưa độ lượng, mưa chan hoà, mưa hối hả cho nhân gian này tươi xanh trở lại.

*
*    *

Tỉnh dậy, tôi cố gắng mở mắt. Trời mầu mực nhạt, trăng đă xế về cuối cḥm cây đung đưa trong tầm mắt. Chỉ c̣n tiếng củi thi thoảng tí tách, nhả một làn khói mỏng trắng đục lửng lơ. Gió lặng. Không khí khô ran, và cứ chốc chốc, tiếng khèn đơn côi đâu đó vẳng lại than văn. Gom mảng ư thức bập bềnh trôi không định hướng, tôi cố t́m một tụ điểm. Nhưng chẳng có ǵ khác trí nhớ những phút hoan lạc đọng lại khi chỉ độc thân xác mới thật tồn tại. Tôi phổng mũi. Cái mùi tôi hít thở trong giây phút vừa qua có phải là mùi tôi ngửi thấy khi ngồi sau Ban Mai trên chiếc Honda? Tôi lắng tai. Giọng người đàn bà hai tay bíu chặt vào người tôi nói mà tôi không hiểu nói ǵ có phải là giọng Ban Mai? Loay hoay, tôi như lạc đường, quẩn quanh trên những lối ṿng vèo trôn ốc của một màng nhện giăng đầy mê lộ. Ngồi lên, tôi đưa mắt nh́n quanh. Bên đống củi nay nhấp nháy thoi thóp, Ban Mai ngồi, cạnh là Pộ Mo, im ĺm như hai bức tượng bằng vôi, trắng xóa, mông lung. Miệng khô ran, tôi lết đến. Pộ Mo nh́n tôi, ánh mắt mệt nhọc, rồi ngước lên trời. Ban Mai rót cho tôi một bát nước như nước vối, đen ś. Tôi vục miệng vào uống một hơi. Rồi tôi lại nằm vật ra, bên cạnh đống than hồng đang từ từ tắt lịm, mở mắt nh́n vào bầu trời vẫn chẳng một gợn mây, không một cơn gió. Tôi băn khoăn, đă bao nhiêu lễ cầu mưa của con người, và bao nhiêu lần trời cho mưa để cứu lấy những vạt lúa chết khô v́ thiếu nước? Như một đứa trẻ con, tôi hỏi Ban Mai. Nàng không đáp, chỉ cười buồn, quay lại nói một câu với Pộ Mo vẫn cứ lặng lẽ nh́n lên trời.

Tiếng ho khan sau lưng. Quay lại, cụ bà đang khom lưng đi tới, tay ôm một bọc to. Cụ đến cạnh Pộ Mo, th́ thào vào tai, rồi vỗ nhè nhẹ vào vai tôi. Khi đó, Pộ xoay người đối diện với Ban Mai, nh́n vào mắt nàng, cất giọng đều đều nói như cầu kinh. Pộ nói rất lâu, đôi khi nói nói lại như dặn ḍ. Chỉ thấy nàng gật đầu, nét mặt nghiêm trang. Tôi chong mắt lên nh́n. Dưới ánh trăng xanh nhớt, tôi bỗng thấy tất cả quay về thời mà trí nhớ chưa có, vô thủy vô chung, tất cả trở thành vô cùng bé nhỏ, con người hầu như bất lực trước định nghiệp huyền bí, lơ ngơ đến thảm thương với những huyễn vọng và ảo tưởng. Lúc này, chẳng hiểu sao tôi lại nhớ thằng anh chết tiệt, cái nó gọi là vật Bảo Quốc Hộ Dân, liên tưởng chuyện Cao Biền trấn yểm long mạch đất Giao Châu, ngọn núi Nà Mèo và cái chày cái cối tượng h́nh cho Nơn với Nường. Trên trời, trăng nhạt nḥa. Đằng xa, sao mai nhấp nháy. Xung quanh, những cặp gái trai ôm nhau trên bờ dưới bụi ngủ vùi. Vẫn cứ một tiếng khèn xa đưa, ai oán, ŕ rầm than văn.

Pộ Mo đứng lên. Cụ bà, rồi Ban Mai cũng đứng lên. Nàng quay sang tôi, dịu dàng:

"Ta đi! Anh ơi...".

Ban Mai ôm cái bọc cụ bà trao, lẳng lặng lên đường. Tôi bước theo.

Nhưng không phải con đường về bản.

*
*    *

Chúng tôi lên đèo xuống dốc hai lần th́ Ban Mai bảo, sắp đến nơi rồi. Đầu óc c̣n mụ mẫm, tôi buột miệng:

"Đây đâu phải núi Nà Mèo! Đâu đă đến Mai Châu đâu!"

Ban Mai quay nh́n tôi, giọng nghiêm trang:

"Pộ Mo bảo ta làm một việc trước cho dân Mường đă... Làm mà thành, ta sẽ đi Nà Mèo, Bua K’lời muốn thế!"

Nói xong, Ban Mai quay ngoắt người, tiếp tục trèo lên một con dốc chênh vênh. Khi đó, nắng hoe vàng nhuộm đầu những tàn cây trong cánh rừng phía dưới. Cái nóng chưa hừng hực, nhưng chẳng phải không đe dọa, mồ hôi chưa ǵ đă dầm dề nhơm nhớp rịn ra trên lưng, trên gáy. Lên đỉnh, con dốc hẹp dần, cuối cùng chỉ một người đi lọt. Ban Mai đến gỡ một lớp lá cọ, sau là cánh cửa bện bằng mây dầy ba bốn tầng. Mở cái then gỗ chặn ngang, nàng lách ḿnh vào.

Ánh đèn pin chóa lên. Ban Mai gọi, tôi theo vào trong khi nàng đang đánh diêm châm lửa vào đống củi khô chụm lại để trên nền đá. Ban Mai dịu dàng:

"Em đốt lửa cho khô, hang thường ẩm ướt, ngay cả trong mùa hè!"

Lát sau, cái hang quăng chục mét vuông hiện rơ trong ánh lửa chập chờn. Không biết từ khi nào ai đă để sẵn củi lửa, trải rơm trong một góc hang, và cắm những ngọn bạch lạp trên ghềnh thạch nhũ trắng như pha lê vắt ngang. Tiếng róc rách vẳng lại từ một cái khe lấp sau tảng đá mầu xám chắn cuối hang trầm bổng chẳng khác tấu khúc của một nhạc công tài t́nh. Quẳng cho tôi cái chổi, Ban Mai bảo tôi quét hang cho sạch. Nửa nghiêm trang nửa cười cợt, nàng bảo:

"Khéo phải ở đây một tuần, nên giữ nếp sống văn minh đậm đà bản sắc chứ!"

Phần tôi, tôi ngạc nhiên, nhưng hân hoan. Ví ḿnh như Lưu Nguyễn nhập Thiên thai, tôi cợt nhả:

"... một tuần chứ cả đời tôi cũng sẵn sàng".

Nàng trề môi không đáp, mở cái bọc ra, xếp lên ổ rơm một cái chăn mầu ngà và những trang phục sặc sỡ. Hỏi, Ban Mai bảo:

"Đây là quần áo hành lễ cầu ḷng K’loi...".

Chỉ vào cái chăn, nàng tiếp, đàn bà Mường mỗi người chỉ có một cái chăn này khi lấy chồng. Lúc là thiếu nữ, ai cũng mất cả năm tự ḿnh dệt vải, hái g̣n, đánh bông nhồi chăn, rồi thêu thùa những áng hoa văn. Cái chăn này của bà ngoại, bà quư lắm. Thế mà hôm nay bà mang cho em để em lên đây làm lễ với anh, lễ xong th́ anh mang về nhé!"

"Nhưng lễ cầu ḷng K’loi là lễ ǵ?", tôi hỏi.

Bảo tôi đừng vội, Ban Mai đốt trầm, mùi tỏa ra thơm ngát không gian. Nàng châm lửa vào một bó đuốc rồi kéo tôi lách người theo khe đá dẫn đến ngách hang sau. Vào trong, giữa là một hồ nước, khói bốc lờ mờ. Tiếng róc rách phát ra từ nguồn nước trên đỉnh hang tí tách nhỏ giọt xuống triền đá ven hồ. Cuối ngách hang, một thân cây mục vắt ngang. Cây sần sùi, có lẽ xưa là thân một cây đại thụ chết v́ không có đủ đất để nẩy mầm sinh sôi. Cẩn thận ḍ dẫm, Ban Mai tiến lại, giơ bó đuốc lên soi dưới thân cây mục. Nàng reo lên:

"Có, có... Anh ơi lại xem!"

Thật lạ lùng, những cái nấm to bằng hai bàn tay chụm lại mầu đỏ hỏn như da trẻ sơ sinh mọc dưới thân cây mục. Cắm đuốc, Ban Mai quỳ xuống, miệng đọc một tràng tiếng Mường. Khi nàng đứng lên, tôi thấy mặt nàng chan ḥa nước mắt.

Ban Mai ra hang ngoài, mang trang phục vào. Nàng nghiêm trang, mắt nh́n tôi dịu dàng. Chân bước theo, tôi đi như một kẻ mộng du. Bên cạnh hồ nước ở hang sau, Ban Mai lẳng lặng trút hết quần áo ra. Ngọn đuốc cắm trên đất vẫn cháy, hắt lên thành đá những cái bóng chập chờn hư thực. Sững người, tôi chong mắt nh́n Ban Mai lơa lồ như một khối đá trắng đang vén tóc khỏa chân vào nước. Nguồn nước nóng, khói trên mặt hồ tỏa ra như sương khói, và người đàn bà trước mắt tôi như sắp biến đi. Có cái ǵ đó thật mong manh. Có cái ǵ đó ngậm ngùi khôn tả. Trần truồng, tôi trầm ḿnh vào làn nước nóng, nước ôm lấy tôi như một bào thai c̣n trong bụng mẹ. Tôi nghe mơ hồ nghe tiếng Ban Mai:

"Plái ló ơi vên tun vên nhà ma ở! Lúa ơi, về ở nhà ở đụn. Trổ mầm, lúa cần nước. Bua K’loi ơi, xin hăy làm mưa. Lạy trời mưa xuống. Lấy nước tôi uống, lấy nương tôi cầy... Đừng bỏ đói chúng tôi..."

Không dằn được, tôi hỏi lại nàng câu nàng chưa đáp.

"Chuyện Bua K’loi tha thứ Tạ Cần và Yạ Kịt là cái gốc của lễ cầu mưa. Con gái con trai Mường ăn nằm với nhau đêm qua là để xin Bua làm mưa, như Bua đă từng tha thứ Tạ Cần và Yạ Kịt. Nhưng anh thấy đó, Bua K’loi không động ḷng thương. Dân gian Mường có câu "không cứ bắc lên nấu là thành chơ xôi, không phải bắc lên ninh là thành đôi lứa". Pộ Mo không c̣n cách ǵ khác hơn là sai chúng ta lênđây làm lễ cầu ḷng K’loi..."

*
*     *

Ban Mai bảo sau khi tạo thiên lập địa, thế giới Mường Pưa chia đôi. Chuyện rằng:

"... Nàng Hươu Sao gặp chàng Cá Chép. Kẻ trên bờ, người dưới nước, nhưng chính sự kỳ bí huyền nhiệm của cuộc tồn sinh đă đẩy họ vào ṿng tay nhau. Hươu Sao đăm chiêu"... Ở hai cơi, ta làm sao yêu nhau trọn đời?". Cá Chép quyết liệt "Chứ sao không? Ḷng hai ta sẽ làm động cả vũ trụ vật thể lẫn phi vật thể! Nếu Trời - Đất có lương tri, th́ rồi mai đây mọi cơi thế gian chỉ là một cơi hai ta khai sinh ra, gọi là Cơi T́nh. Đó là cơi vĩnh hằng, em tin anh đi". Nàng Hươu khép mi, thả ḿnh ngụp lặn trong ḷng tin vào hạnh phúc, để mặc chàng phủ lên thân xác những vết xước nhục cảm đánh dấu niềm hoan lạc lứa đôi. Cơi người nhân lên theo sự nẩy mầm của những chồi xuân. Nàng Hươu hạ sinh trăm con. Chàng Cá vui mừng, xin vợ cho con về biển. Nhưng là Hươu, nàng làm sao bơi lội như loài cá. Nhưng là Cá, làm sao chàng lên rừng sinh sống với cỏ cây. Mâu thuẫn. Vũ trụ giằng co giữa âm và dương, lưỡng nghi tạo ra những đối cực khiến thiên nhiên áp đặt đến độ không c̣n cách ǵ khác là nàng Hươu Sao và chàng Cá Chép buộc phải chia tay. Nàng Hươu mang trăm con lên núi. Cơi T́nh chỉ c̣n là hoài tưởng. Bua K’loi nổi giận, quát: "Mới thử thách xem cái Cơi T́nh bền vững thế nào th́ chưa ǵ chúng nó đă chẳng dám sống chết có nhau. Cái chúng nó gọi là t́nh chỉ là hiện tượng cơi vật, chưa thăng hoa thành hồn trong cơi phi vật thể!". Bua ra oai trừng phạt khiến hạn hán triền miên. Cây rừng không xanh, lúa chẳng kết hạt. Trăm đứa con theo mẹ vật vă đói khát khóc kêu, nhưng ḷng Bua K’loi chẳng động. Nàng Hươu đành cầu cứu chàng Cá. Phải tự cứu, con đành chia đôi. Và chàng Cá mang năm mươi đứa con về biển, thành người Kinh. Đám năm mươi đứa c̣n lại ở với Nàng Hươu, thành người Mường của rừng của núi".

"... nhưng lễ thế nào cho K’loi động ḷng?",  tôi bồn chồn không nhịn được, ngắt ngang.

Ban Mai đứng lên, dịu dàng:

"Lễ làm sao phục hồi được Cơi T́nh bỏ ngỏ, anh ạ!"

Nh́n bức tượng ngồn ngộn ấy không có lấy một mảnh vải che, tôi sững sờ, thầm nhủ nếu Ban Mai là nàng Hươu th́ tôi nguyện làm chàng Cá đến độ sống chết bất cần. Lấy khăn lau nước đọng trên thân thể nàng, tôi thành khẩn nói, tay tôi run lên như khi chăm chút một cổ vật quư hiếm.

Ban Mai hỏi, giọng hoài nghi:

"Có thật sống chết bất cần không?".

*
*     *

Ra hang ngoài, Ban Mai thắp những ngọn bạch lạp, nàng mặc yếm tơ ngà, quàng tênh xanh, váy chùng mầu đen láng mượt, eo cuốn xà tích ṿng cung mầu trắng khiến những hoa văn trên bụng nổi lên như chạm trổ. Tóc giắt trâm bạc, cổ tay đeo trằm, nàng xơa tóc hong khô, tóc mượt mà chảy thành thác xuống hai bờ vai.

Đợi tôi choàng lên người tấm áo bằng lụa vàng, cuốn cạp giữ chiếc quần ống loe làm bằng vải chàm màu tím than, Ban Mai đội khăn trắng lên đầu, mở phên cửa mây, lách ra ngoài. Nàng căng mắt nh́n xuống phía dưới, tay chỉ: "Bản em đằng kia, giờ này chắc cu Tít con em đang nghịch với lũ gà con...". Nàng quay mặt, mắt ươn ướt, buột miệng "Em thương nó lắm!". Lát sau, nàng mím môi bảo:

"Anh nh́n rừng nh́n núi đi, đóng cửa hang là chỉ khi K’loi động ḷng làm mưa th́ mới mở đấy!"

Tôi đưa mắt, nhưng chỉ thấy h́nh ảnh Ban Mai nơn nà trong hồ nước hang sau, tai nghe nàng th́ thào: "Thanh tẩy cho sạch bụi rồi đấy anh...".

Ban Mai lấy từ cái bọc ra hai đôi đũa và một con dao gỗ. Không nói không rằng, nàng vào hang sau, lần đến thân gỗ mục, cẩn thận nậy từng cái nấm ra để vào đĩa cũng làm bằng gỗ. Nàng th́ thào:

"Nấm này Pộ Mo gọi là linh chi, kị kim khí. Ăn vào, con người vượt được hai phần ba đoạn đường đi t́m hạnh phúc "

Sững ra, tôi liên tưởng đến chính câu tôi hỏi mới dăm ngày trước, hạnh phúc là ǵ? Không biết, th́ làm sao t́m đây? Nhưng không hiểu sao tôi trân trọng đỡ lấy cái đĩa gỗ Ban Mai đưa, nâng nó lên ngang đầu, ḍ dẫm bước từng bước ra hang ngoài. Ban Mai đun nước sao một loại lá rừng tôi không biết tên. Nước sóng sánh xanh biếc, uống vào miệng ngọt lự, hương thơm lừng lên mũi.

Chúng tôi xếp chân ngồi bằng tṛn, trước mặt là đĩa nấm đỏ hon hỏn, ở giữa mỗi cái là một chấm vàng to bằng đầu đũa, xung quanh vô số những chấm nhỏ mầu tím lợt. Lúc ấy, tôi mới hỏi, ăn vào vượt được hai phần ba đoạn đường đi t́m hạnh phúc là thế nào. Không đáp, Ban Mai hỏi lại:

"Khi năy anh có nói sống chết bất cần, nhưng thật thế không?"

Sống lưng tôi bỗng lạnh đi, và tự nhiên tôi sợ. Như đoán được, Ban Mai tiếp, giọng nghiêm trang:

"Pộ Mo nói, nấm này ăn vào giải thoát con người khỏi bản năng chiếm hữu. Sự chiếm hữu đến từ nỗi sợ. Cơ ngơi tài sản, danh vọng, quyền lực đều là v́ sợ mà ra. Người ta sợ đủ thứ, nhưng rút lại đều là sợ tương lai cuộc sống. Sợ nó bấp bênh nên đi chiếm hữu để tự bảo tồn. Và v́ ai cũng chiếm hữu mong trấn an cho ḿnh, đâm ra cái sợ nhân thêm lên, là sự sợ lẫn nhau. Càng sợ, càng thèm thuồng chiếm hữu, và cứ thế, con người chẳng những không giải quyết được ǵ mà c̣n làm cho sự sống mỗi lúc một bất an. Họ tham sống, quên mất cái hữu hạn trăm năm của chính ḿnh, trở thành nô lệ của một niềm hoang tưởng. Tương lai nào, với ai, rồi cũng đào sâu chôn chặt. Có kẻ tin rằng chiếm hữu bây giờ khiến tương lai con em họ sẽ khác đi. Nhưng dẫu truyền giống, cứ nghĩ xem, rồi đời nào th́ cũng vậy, cũng sẽ phải chạm mặt với cùng một vấn đề..."

Ban Mai nâng một cái nấm lên ngang miệng, cười:

"Hiểu ra sự chết, và đừng sợ quy luật thời gian, bắt đầu bằng từ bỏ chiếm hữu. Lúc đó, sống và chết không là hai, mà là một. Ăn nấm này vào, ta diệt được cái bản năng chiếm hữu... Và từ đó, ta đoạt lại tự do. Sống chết đă bất cần, anh có dám ăn không?"

Không biết ḿnh có bất cần hay không, nhưng ở cái thế này, tôi cầm lên một cái nấm, giữ vẻ b́nh thản bỏ vào mồm. Mỉm cười, Ban Mai làm theo. Vị của nấm đắng chát khiến tôi nhăn mặt. Từ tốn, Ban Mai mỉm cười đưa tôi bát nước. Uống vào, vị chát tan ra, trở thành ngọt dịu. Nuốt xong, tôi lại lấy thêm một cái nấm khác, hỏi:

"Đoạt lại tự do là thế nào?"

"Không chiếm hữu, không có ǵ ràng buộc, ḿnh không xác định bằng những ǵ ḿnh có như tiền tài, cương vị... Khi đó th́ ḿnh tự do để thể hiện cái ḿnh là, để c̣n lên đường. Chiếm hữu sẽ ràng buộc những bước khởi hành như dây rợ. Muốn đi về phía trước, phải chặt dây để giải phóng ḿnh... Pộ lại dặn, cái ḿnh là không chỉ là ḿnh. Đặt chân lên điều ta ngộ ra đó là bắt đầu bước vào một phần ba c̣n lại trên con đường t́m hạnh phúc..."

"Nhưng hạnh phúc là ǵ?"

Vừa nói xong, mắt tôi hoa lên. Sắc mầu trong hang bỗng chuyển động, hàng bạch lạp cắm trên ghềnh đá chao ngang nhẩy múa chẳng khác ǵ đám trai gái Mường trong đêm hội cầu mưa. Nhắm mắt lại, tôi định thần nhưng bằng ấy sắc mầu nay bay lượn trong tiếng bổng trầm của một dàn đại ḥa tấu. Mở mắt ra, Ban Mai trước mặt tôi vẫn đấy. Tóc nàng nay bạc trắng, rủ xuống ổ rơm vàng óng lên. Ban Mai cười, mắt lóng lánh, th́nh ĺnh nh́n thành nàng Hươu Sao. Đưa tay ve vuốt, ôi mượt mà như nhung. Xúc giác tôi bén nhậy gấp hàng trăm hàng ngàn lần lúc b́nh thường, cho tôi cái cảm giác ngụp lặn vào da thịt nàng Hươu, cảm giác choáng ngợp đến độ tôi chỉ có thể tan biến ra thành không khí.

*
*     *

Tiếng chí choé của lũ vượn khiến tôi tỉnh giấc. Khí lạnh trong hang làm tôi chần chừ trong chiếc chăn bông ấm áp. Quơ tay, Ban Mai không c̣n nằm bên cạnh, nhưng mùi hương người nàng vẫn đâu đây váng vất. Dụi mắt ngồi lên, tôi vẫn c̣n như cứ lênh đênh giữa hư thực trong bóng đêm, đưa mắt xung quanh t́m. Ban Mai từ hang sau đi ra, tay cầm ngọn bạch lạp cháy dở. Ánh lạp hắt lên mặt nàng những khoảng sáng tối chẳng khác ǵ một bức tranh Gauguin vẽ những người đàn bà đảo Tahiti tôi đă xem trong một viện bảo tàng bên Pháp. Thấy tôi đă dậy, nàng cười: "Anh ngủ ngon quá, em không dám đánh thức!". Rót nước cho tôi, nàng ngồi xuống bên cạnh, lưng dựa vào vách đá.

Định thần một lúc lâu, tôi nói về những cái tôi thấy, tôi nghe, tôi ngửi, tôi sờ... sau khi ăn nấm. Ban Mai bảo nàng ban đầu cũng thế, nhưng nàng thấy những cái tôi không thấy, nghe những cái tôi không nghe... Như vậy, nàng kết luận, mỗi người sống những ảo giác riêng trước cùng một thực tại. Nàng nhắc lời Pộ Mo:

"Thực tại mắt thấy tai nghe ở bên ngoài là thế giới hiện tượng. Cái phần trong con người mới là lơi, Mo gọi là hồn, phi vật thể. Nấm ăn vào sẽ đổi cái lơi cho những kẻ có căn duyên!"

Tôi hỏi, Ban Mai lắc đầu đáp rằng đây cũng là lần đầu nàng ăn nấm như tôi. "Cái ǵ gọi là phần hồn?" - tôi thốt lên, giọng hoài nghi châm biếm. Lẳng lặng một lúc, Ban Mai ngập ngừng:

"Có thể nó thế này... Khi em nh́n anh ngủ, em chợt thấy ḷng động một niềm xót thương vô hạn, mặc dầu riêng anh có ǵ đâu mà phải thương xót... Em hiểu đó là niềm xót thương đó trùm lên tất cả thế giới và nhân sinh, trong đó có anh...". Nghe Ban Mai nói, tôi chợt nhớ đến câu "Yêu em ḷng chợt từ bi, bất ngờ" trong một bài hát tôi lẩm nhẩm hát đihátlại thời tôi c̣n giữ được tin yêu và hy vọng. Buồn bă nhận ra sự chai sạn đă cóc cách bám vào đời, tôi nh́n sâu vào mắt Ban Mai, nước mắt ứa ra, lập lại như khẩn cầu:

"Nhưng hạnh phúc là ǵ?"

Tôi chợt nghĩ đến thằng anh chết tiệt. Ai cũng bảo là hắn bất thường, nhưng mặc dầu thế, tôi thấy hắn chưa bao giờ tuyệt vọng, lúc nào cũng lao về phía trước, hành động để mang đến một cái ǵ, kể cả những niềm hoang tưởng, chẳng phải riêng tư cho ḿnh mà cho mọi người. Ngẫm lại, hắn huyên thuyên đủ chuyện, nhưng khi nói về hạnh phúc th́ hầu như chỉ có hạnh phúc của cả xă hội hắn mới thực sự quan tâm. Phần tôi, xưa nay sống như một quán tính, có lẽ tôi tránh tra vấn ḿnh khi không cần thiết, nhưng chẳng hiểu thế nào mà lần này hai chữ hạnh phúc ám ảnh đến hớp hồn. Ban Mai ṿng tay ôm đầu tôi vào, nhẹ nhàng vuốt tóc, bao bọc như kén bọc lấy tôi, con tằm đợi giờ mong hóa bướm. Không biết bao lâu sau, tôi nghe nàng th́ thào:

"Ta phải đi đoạn đầu đă. Một phần ba c̣n lại, khi nào đến, ta sẽ lên đường. Với nhau!"

*
*    *

Ngày hôm sau, tiếp tục ăn nấm và uống nước, tôi khám phá ra những tác động lạ lùng. Với ư chí, bộ năo tôi đánh thức được trí nhớ của mọi giác quan. Tôi nhắm mắt, muốn mầu nào tức mắt thấy mầu ấy. Đi xa hơn một mức, tôi mường tượng những bức tranh đă coi, nào là Monet, rồi Van Gogh, và chúng hiển hiện trong vơng mạc như có đấy. Tôi vốn nghe nhạc cổ điển mỗi lần lái xe đi làm. Và khi tôi muốn nghe Bach, lát sau tiếng đại hồ cầm âm trầm nổi lên, tai tôi nghe tấu khúc cho ba vĩ cầm cung rê thứ, âm thanh réo rắt chạy đuổi nhau. Mở mắt ra, trước mặt tôi vẫn Ban Mai bất động, môi khẽ nhếch lên như sắp cười.

Nói cho Ban Mai nghe về cái khả năng lạ kỳ tôi lần đầu chứng nghiệm, nàng không tỏ ra ngạc nhiên. Nàng thủ thỉ:

"Em khác, em nghe tiếng muôn loài, từ tiếng con trâu khụt khịt đến tiếng voi gầm, sói hú. C̣n nh́n, trời chỗ nào cũng đầy những cánh chim âu bay liệng hiền ḥa... Chẳng cần anh nói nhưng không biết tại sao em vẫn linh cảm đoán trước được. Có lẽ chúng ta đang nhập vào bước khởi đi của cuộc ḥa đồng. Pộ Mo dặn, khi đó phải buông thả như mây gió trên trời cao, như sóng triều trong biển cả..."

*
*    *

Tối đó, dưới ánh bạch lạp, Ban Mai rực rỡ sức sống. Ngồi trước mặt nàng, tôi nhắm mắt, tưởng tượng nàng đến bên tôi, nói yêu tôi như chưa từng yêu ai. Tôi cũng thế, yêu lúc nào cũng là lần đầu, trinh nguyên, toàn vẹn. Ban Mai mỉm cười, cởi yếm, kéo chiếc váy chùng xuống quá gối, tay gỡ trâm bạc cài đầu, tóc lại như thác đổ xuống, uốn lượn theo những đợt sóng ngọc ngà. Tôi mở ḷng tôi như đại dương, mở ṿng tay rộng ngang bầu trời, chờ Ban Mai khỏa lấp mọi trống vắng. Nàng như nhung như lụa áp vào, tôi như sắt như đồng cương cứng. Tôi, Tá Cần và nàng, Yạ Kịt, yêu nhau để đánh động ḷng K’loi, sinh sôi mọi mầm sống, trên cạn là muông thú, dưới nước là tôm cá, khiến Mường Pưa dưới đây sẽ trở thành địa đàng.

Chưa bao giờ, chưa bao giờ tôi đến cực lạc như vậy. Mở mắt, Ban Mai vẫn ngồi trước mặt, môi nàng run run, miệng hé mở, mắt khép hờ, áo quần trên thân thể y nguyên vẫn thế. Nàng nói, giọng nhẹ như tiếng mây rơi đầu đỉnh núi: "Anh ơi, vừa rồi em hạnh phúc vô cùng!". Phần dưới cơ thể tôi ướt nhờm nhợp, chứng cớ một niềm hoan lạc mà không cần đến chiếm hữu chung đụng thể xác.

Chúng tôi vào hang sau, ngâm ḿnh trong nước hồ ấm áp, ḷng hân hoan như con trẻ ngày mồng một Tết.

*
*     *

Sáng ra, Ban Mai nghiêm trang:

"Hôm nay là ngày thứ ba, ngày anh phải lấy một quyết định không đảo ngược được. Ăn nấm linh chi hai ngày xin Bua K’loi động ḷng làm mưa mà được th́ ta về. Nhưng nếu sau,cứ tiếp tục ăn th́ đến ngày thứ bẩy ta cùng chết với nhau, trừ khi trời mưa, Pộ Mo sẽ lên đây cho ta uống thuốc phục hồi sự sống. V́ thế, em từng hỏi anh, có thật anh sống chết bất cần không? Nếu anh không sẵn sàng, xin anh cứ theo lối cũ mà về..."

Hốt hoảng, tôi chặn ngang: "Thế c̣n em?"

Ban Mai b́nh thản:

"Em xin Bua động ḷng để cứu nương cho người Mường, cứu suối cho tôm cá, cứu rừng cho muôn thú. Nếu không cứu được, chỉ c̣n sự chết ngự trị, em sống một ḿnh làm ǵ? Nhưng anh th́ khác..."

Th́nh ĺnh tôi nhớ đến hai đứa con tôi. Và người vợ, không xấu không đẹp, không thông minh nhưng cũng chẳng đần độn. Con tôi nay đă lớn khôn, chúng nào có cần tôi như khi thơ dại. Phần vợ tôi, nàng chưa hẳn già nên có thể vá víu đi thêm một bước, với ai th́ cũng như tôi, sáng đi tối về, kiếm cơm t́m áo. Bờ bên kia Thái B́nh Dương bỗng tít tắp xa hơn cái giới hạn địa lư đo đạc trên bản đồ. Cũng như Ban Mai, tôi tự hỏi, tôi sống một ḿnh làm ǵ? Đặc biệt đối với tôi, một kẻ con đă lớn, vợ không dại, nghĩa là chẳng mấy cần tới ḿnh.

Tôi chợt nghĩ tới chuyện chàng Cá Chép và nàng Hươu Sao. Chuyện nhắc nhở truyền thuyết Âu Cơ và Lạc Long Quân của người Kinh, mẹ đẻ trăm trứng rồi cũng chia ra đôi ngả, bỏ bùa bỏ ngải làm phân liệt cả một dân tộc hàng mấy trăm năm. Thế th́ chẳng lẽ tôi cũng lại tạo ra cái Cơi Vô T́nh, tiếp tục huyền thoại chia đôi kẻ trên rừng người dưới biển, để Bua K’loi lại nổi giận trừng phạt như Bua đă từng làm ở một quá khứ mịt mùng? Th́nh ĺnh, tôi nghĩ đến cái vật Bảo Quốc Hộ Dân và thằng anh chết tiệt khiến tôi về đây rồi lên cái hang kỳ lạ này. Phải mưa th́ mới có lúa, có gạo. Lúc này mưa cho lúa nẩy mầm th́ đúng là hộ dân, ít ra cũng là dân Mường Thàng.

Ban Mai bưng ra một đĩa nấm. Lần này, nàng chọn những cái chỉ nhỏ bằng ḷng bàn tay, tṛn trĩnh hơn, mầu hồng lợt, mặt trên nổi những cái chấm vàng tươi. Đột nhiên, tôi nhớ cái câu bất hủ, not life but love in death, xưa tôi thấy hơi sến nhưng nay bỗng sâu sắc đến như hiển nhiên. Tḥ tay, tôi bốc một cái bỏ vào mồm. Nấm này không chát, vị bùi, trôi tuột vào cổ họng chẳng cần chiêu nước. Ban Mai nói:

"Ăn nấm này, bản năng chiếm hữu sẽ không c̣n. Hai ngày trước, ta trải nghiệm thế giới vật thể chỉ là ảo giác có thể tạo từ thế giới phi vật thể. Lần này, hai thế giới sẽ chỉ là một, có và không đồng nhất. Con người được giải phóng khỏi mọi sự ràng buộc vật chất, không u mê đắm ḿnh vào chiếm đoạt để có. Họ trở thành tự do, ngộ ra cái ḿnh là, và đó là điều kiện cần để đạt đến hạnh phúc!"

"Nhưng hạnh phúc là ǵ?", tôi lặp lại câu từng hỏi.

Không đợi Ban Mai đáp, tôi nói cho nàng nghe về cái hạnh phúc của thằng anh chết tiệt. Cống hiến tha nhân ḥng t́m đến thứ hạnh phúc chung như cái chuyện đi t́m vật Bảo Quốc Hộ Dân phải chăng cũng là hạnh phúc của cá nhân, thứ hạnh phúc chỉ thể hiện được qua hành động đi t́m? Và đi t́m cái chung, khắc t́m cả cái riêng, chung và riêng như hai mặt một đồng xu bổ sung chứ không loại trừ nhau.

Nh́n sâu vào mắt tôi, Ban Mai khẽ lắc, dịu dàng:

"Hạnh phúc là một trạng thái của phần hồn một con người tự do. Thế cho nên hạnh phúc cũng như con người, nhiều vô số kể, mỗi người t́m và ngộ ra hạnh phúc của ḿnh. PộMo dậy, hạnh phúc là tỉnh thức ở ngay hiện tại cuộc sống. Hạnh phúc không là tụ điểm tuyệt cùng mà luôn luôn là bước khởi đi để tiếp tục sự sống trong tương lai. Chỉ ở nghĩa này, nó mới trùng hợp với hành động đi t́m..."

"Em trải nghiệm trạng thái đó chưa?", tôi ngắt.

Ban Mai ngẫm nghĩ, rồi hạ giọng:

"Một lần, đầu mùa mưa, em vào hái măng trong rừng. Khi đó, trên mặt đất đầy sâu róm đến đúng độ nở ra từ trên cây lả tả rơi xuống. Mấy đứa gái cùng đi t́m măng bỏ chạy về, chân dẫm lên những con sâu nhỏ bằng đầu ngón tay út, xác sâu bị đạp nhẹp rải khắp lối ṃn dẫn từ rừng ra bản. Ban đầu, em cũng kinh hăi, nhưng không biết động lực nào khiến em không hốt hoảng chạy. Em ngồi xuống quan sát từng con sâu, lông lá sắc mầu, oằn èo khó nhọc trườn đi, vật lộn t́m chỗ sống c̣n. Chính cái sự sống ấy khiến em cảm động, và lúc đó, em chắp tay lạy K’loi hăy cứu lấy những con sâu nhỏ bé vô tội này. Em cảm nhận được sự huyền diệu bao bọc thế gian, và em ḥa đồng vào thế gian như một giọt nước trong sông hiền ḥa chảy ra biển rộng. Thế là em rón rén đi thế nào tránh đạp vào sâu, đến tối mịt mới về đến bản, nhưng ḷng rào rạt một niềm yêu thương, yêu từ con sâu đến ḥn đá ven đường, yêu cơn gió tạt ngang, đám mây lững lờ tít tắp... Đấy, hạnh phúc với em lúc ấy như đại dương, c̣n em, là một giọt nước. Là giọt nước, em chỉ có thể cảm được đại dương bao la... Khi hạnh phúc, có lẽ ta chẳng cần nói về hạnh phúc. Giọt nước làm sao tách khỏi để nh́n ra đại dương là ǵ?"

Tôi nhắm mắt tưởng ra cảnh một Ban Mai trinh nguyên ngồi nh́n sự sống và chắp tay cầu K’loi cứu rỗi lấy những sinh vật bé nhỏ. Phải chăng hạnh phúc là lúc tâm hồn giao ḥa giao cảm với sự sống muôn loài muôn vật ở th́ hiện tại? Hỏi, Ban Mai gật đầu, giọng xa vắng:

"Anh tưởng tượng trong một thế giới người người vô cảm, dửng dưng trước sự sống chung quanh, quay lưng lại với muôn loài trong đó có đồng loại của ḿnh, th́ liệu anh có hạnh phúc được không? Cái hiện giết con người bây giờ là sự dửng dưng với nhau! So với sói, với khỉ... thế th́ c̣n kém. Nhất là trong khoảng sinh tồn thật ra rất hữu hạn, đến rồi đi..."

Tôi buột miệng:

"Thế th́... hạnh phúc cũng chỉ là một thoáng phù du thôi sao?"

Ban Mai bật cười:

"Em học hành chẳng bao nhiêu, nhưng biết ǵ em nói đấy, anh đừng cười em. Chính v́ cái ǵ cũng rồi phù du nên mới phải triệt tiêu bản năng chiếm hữu bằng sự tỉnh thức. Không giữ ǵ cho ḿnh nên ta vượt thoát được tất, kể cả quy luật thời gian hiển h́nh ra sinh tử. Vượt được thời gian, sát na ngay bây giờ hay ba tỉ năm sau khi trái đất này trở thành một khối băng miên viễn, th́ rồi như nhau. Phù du và vĩnh cửu cũng đến thế, bận tâm mà làm ǵ!"

*
*     *

Chúng tôi sống với nấm và nước lá rừng sao lên uống. Đó là những ngày an b́nh tôi chưa bao giờ biết để tận hưởng. Trạng thái hạnh phúc đồng nghĩa với t́nh yêu chan hoà. Yêu tất cả. Từ tiếng chim ngoài hang ríu rít đến tiếng chân chồn chạy trên cỏ khô. Từ tiếng vượn đầu cành đến tiếng vạc ăn đêm xào xạc. Hiện thực trở thành phép lạ, nó hiển hiện qua từng cái ta nghe, ta nh́n, ta ngửi. Nhưng nó đến từ tỉnh thức, khác hẳn với những ảo giác hai ngày đầu. Mở cửa hang, chúng tôi nh́n nắng nhuộm vàng rừng cây cuối tầm mắt. Cái đẹp rực rỡ của thiên nhiên làm chúng tôi quên cả cầu cho K’loi động ḷng làm mưa. Ban Mai bảo, hạnh phúc là cái phải tập. Mở ḷng trải rộng ra đón nhận ngoại giới, ḷng từ bi trào lên trong nội tâm, và trạng thái ḥa đồng thành một với thế giới bỗng trở thành tự nhiên như nước từ nguồn, đă chảy ra th́ rồi sẽ về biển.

Đến khi tối mắt, đêm chập choạng lần về. Chúng tôi ôm nhau dưới cái chăn t́nh nghĩa cụ bà cho. Không thoáng gợn một chút đ̣i hỏi thân xác. Không sở hữu chiếm đoạt. V́ chúng tôi sinh thành từ trinh nguyên, không hành xử bằng bản năng chúng tôi đă thay thế bằng sự tỉnh thức. Trăng bên ngoài nay khuyết, chỉ c̣n một nửa. Ban Mai dập những ngọn bạch lạp. Ánh trăng hắt qua cánh cửa những vệt sáng lung linh trên nền hang mang cái hoang sơ vào phần hồn chúng tôi, nhẹ hơn gió, dao động với hơi thở phập phồng của vũ trụ.

Th́nh ĺnh, sấm động.

Sấm ầm ́ chuyển tiếng gầm gừ qua những thung lũng khô cằn. Gió lên, phần phật. Ban Mai mỉm cười, giọng b́nh thản:

"Bua L’loi động ḷng chăng! Hai đứa ta không hành xử như nàng Hươu và chàng Cá, Bua trách thế nào được!"

Tôi gật đầu, một niềm vui dâng lên trong ḷng. Mở cửa, Ban Mai bước ra cửa hang. Tôi theo sau. Tiếng sấm dồn dập, chớp xanh lè nháng lên chập chờn, rừng núi chao nghiêng, sét bất chợt soẹt lửa xé dọc bầu trời thành hai trong một tiếng nổ kinh thiên động địa.

Mưa ập xuống, ào ào như thác đổ. Để mặc cho mưa quật vào mặt, hai đứa chúng tôi hứng những giọt nước K’loi cho, thân thể ướt đầm, niềm hạnh phúc đan vào những giọt mưa kết chuỗi thành những sợi pha lê buộc trời vào đất, buộc đất vào số phận con người.

Hạnh phúc, trong cơn mưa này, là điều có thật.

*
*    *

Pộ Mo lên tận hang cho chúng tôi uống thuốc khắc phục tác động của nấm linh chi. Chân tay bải hoải nhưng đầu óc vô cùng tỉnh táo, chúng tôi lên vơng để tráng đinh vơng về bản lễ Tạ ơn K’loi. Vừa đến nhà sàn nơi Pộ làm lễ, cu Tít chạy xổ ra, miệng tíu tít: "Bà ngoại đă về, mẹ ơi!". Một người đàn bà trung niên bước xuống thang. Ban Mai kêu Mế ơi, ôm lấy bà. Mừng ra mặt, bà líu la líu lo tiếng Mường. Cụ bà lúc ấy ra đứng cửa, gọi: "Phin ơi, d́u con gái vào nhà đă!". Tôi hiểu cụ bà chính là d́ nường Phin, và Ban Mai là đứa con sinh từ ân ái với một chàng chiến sĩ pḥng không thời Hà Nội bị bom Mỹ.

Nường Phin kể:

"... vừa đặt Nơn và Nường trên dưới đúng phép âm dương nơi nước nhỏ giọt xuống một cái hồ có thân cây gỗ mục vắt ngang trong cái hang ở đỉnh Nà Mèo th́ trời nổi sấm động, sét đánh toạc không trung thành hai mảnh, và mưa xối xuống như thác đổ. Theo lời thần nhân, thế đúng là đă giải được trấn yểm đất nước này rồi!"

Tôi nh́n Ban Mai. Không nói nhưng chúng tôi đều biết nơi đó chính là cái hang chúng tôi trú ngụ năm ngày nay để làm lễ động ḷng Bua K’loi. Chẳng cần hỏi thằng anh chết tiệt của tôi nay ở đâu, v́ nó và tôi có khác chi nhau, ḷng tôi bâng khuâng, linh cảm một nỗi ngậm ngùi tự nhiên ùa tới chiếm ngự.

Tối hôm đó, khi mọi người đă ngủ yên, tôi mở liếp cửa ra ngồi ở cầu thang bắc lên nhà sàn của cụ bà. Không c̣n trăng, trời chi chít sao xếp theo những ṿng xoáy trôn ốc trên cao. Mùi đất ẩm sau cả một ngày mưa bốc lên, khí lạnh len vào thấm buốt da thịt. Trầm tư về niềm hạnh phúc tôi vừa trải nghiệm khi sống-chết đồng nhất thể, phù du không khác chi vĩnh cửu, tôi nghe loáng thoáng lời Ban Mai:

"... hạnh phúc là tỉnh thức ở ngay hiện tại cuộc sống. Hạnh phúc không là tụ điểm tuyệt cùng mà luôn luôn là bước khởi đi để tiếp tục sự sống trong tương lai"

Giải được vật trấn yểm rồi, nay tôi bước tới là bước tới tương lai nào đây? Chẳng lẽ quay về sống cái đời sống tôi đă ngộ ra mọi sự nhàm chán của những con tính kế toán, bên thu bên chi, chỗ này khấu hao, chỗ kia là nợ bất khả hồi, tất cả để thành một kết toán làm đẹp ḷng những người có cổ phiếu. Chẳng lẽ tiếp tục ba cọc ba đồng, cuối tháng tính toán trả tiền phone, tiền Internet, tiền nợ xe, nợ nhà, nợ cạc Visa... Cứ ngồi như thế, tôi sực tỉnh khi ai đó choàng lên vai tôi chiếc chăn c̣n ngát mùi da thịt Ban Mai.

Quay lại, tôi không biết đó là nường Phin hay Ban Mai khuất trong bóng tối. Thu hết can đảm, tôi vội nói:

"Cho anh ở lại Mường. Đây là nơi cuối cùng anh muốn đặt chân lên thế gian này!"

Mơ hồ, một tiếng cười khan. Rồi chỉ có tiếng giun dế cất lên như phụ họa.

"Thế th́ làm sao hạnh phúc có thể là bước khởi đi? Nơi cuối cùng là nơi dưới ba thước đất vùi sâu chôn chặt. Nơi đó không là thế gian Mường Pưa mà là âm gian, Mường Pưa Tịn..."

"Hay là... hay là... em đi với anh, ta vượt đại dương t́m một chân trời mới!"

Lại tiếng cười khan. Lại tiếng giun dế ồ lên, bỡn cợt.

"Chân trời mới lúc nào cũng ở trong em, bất tất phải là vật thể. Em đă đến đó với anh rồi cơ mà! Anh quên niềm hạnh phúc chúng ta tưởng chia nhau mà hóa ra nhân thành hai trong hang à? Khi ta phục hồi Cơi T́nh làm động ḷng K’loi, chẳng phải trời đă mưa sao? Và trời c̣n đang mưa, để mai này cây cối lại xanh tươi, nương lúa sẽ kết trái đâm mầm, chim muông bay lượn, hươu nai nhẩy nhót, những con sâu róm cũng tái sinh như sự nhiệm mầu của cuộc sống muôn loài khởi đi từ nguyên sơ, tiến hóa không ngừng..."

"Nhưng c̣n anh! Anh sẽ ra sao?"

Không đáp câu tôi hỏi, vẫn tiếng th́ thào:

"Chàng Cá ơi, ở trên rừng sẽ có một ngày anh nhớ những kinh kỳ, những thành phố chộn rộn ngựa xe. C̣n em, là Hươu, ở kinh kỳ rồi em sẽ tương tư núi rừng nương rẫy, thèm hít thở không khí chưa vẩn bụi xăng, ước ao sống mà không sợ. Anh c̣n nhớ con người chiếm hữu v́ sợ chứ? Sợ tương lai bấp bênh, rồi càng chiếm hữu, càng sợ, và đâm ra sợ đồng loại cũng ch́m đắm vào nỗi u mê chiếm hữu như ḿnh! Vượt đại dương với anh, cả hai chúng ta sẽ lặp lại lỗi lầm trong huyền thoại, phải chia đôi trăm đứa con, cắt làm hai chính ḿnh ra chỉ v́ cái ảo tưởng nghịch lư là để có nhau. Đă bảo thôi chiếm hữu, chàng Cá của em lại nhân danh t́nh yêu đ̣i sở hữu em, con Hươu Sao này à?"

Tôi im lặng.

"Em nhắc nhé: hăy trải rộng ra đón nhận ngoại giới, ḷng từ bi chiếm ngự nội tâm, và trạng thái giao cảm giao ḥa thành một với thế giới muôn loài muôn vật sẽ trở thành tự nhiên như nước từ nguồn, đă chảy ra th́ rồi sẽ về biển. Thế là em đă vượt đại dương với anh rồi đấy!"

Tôi im lặng.

Hai tay ôm lấy vai tôi, người đàn bà sau lưng thủ thỉ:

"Anh mang chăn t́nh chăn nghĩa này về, khi đắp lên người th́ đừng quên những phút giây hạnh phúc ở Mường này. C̣n em, nhớ anh, em sẽ hát. Hát thế này anh nhé:

Cánh diều v́ ai mọc cánh lên mây

Con người v́ ai ngậm ngải lên non

Con nước v́ ai lên trời xuống biển

Năm nay mưa ít

Mà vườn nhăn chưa hoa

Để con ong ngơ ngẩn ra vào(1).

*
*     *

Tôi về Hà Nội. Trên chuyến xe khách đi từ thị xă Ḥa B́nh, có một cuộc rước dâu kỳ lạ. Gia đ́nh hai họ trên xe, cô dâu mặt che voan trắng, đầu kết hoa vải, áo váy rất made in HongKong. E thẹn nép vào vai chú rể mặc âu phục h́nh như quá rộng v́ chắc là đi thuê, nút thắt cà-vạt chẳng khác ǵ nút một sợi dây tḥng lọng treo cổ, mặt đỏ gay, cứ mủm ma mủm mỉm cười ruồi. Lạ một cái là ai cũng cầm trong tay những cái túi ni-lon. Anh lơ xe thỉnh thoảng nhắc, giọng đùa cợt: "Vui duyên mới chớ quên là đừng nôn ra xe đấy nhé!". Thấy tôi nh́n, một thanh niên rót rượu ra chiếc ly nhỏ, đưa tôi, vui vẻ: "Chú uống mừng cho đôi trẻ!". Không hiểu sao tôi cảm động, cám ơn bằng cách thắt lại nút cà-vạt cho chú rể. Ông cụ thân sinh ra cô dâu ồm ồm: "Tưởng ǵ chứ thắt nút kiểu củ ấu bảo th́ tớ cũng làm được!". Cả xe lăn ra cười cho đến khi có tiếng kêu ơi ới. Tài xế đạp phanh thắng lại, tiếng c̣i xe inh lên tứ phía, chắc nhà chú rể ở đâu đây quanh quẩn. Xe ngừng, tôi vẫy chào, ḷng bỗng rưng rưng như chia tay người thân.

Về lại khách sạn BK, tôi xin pḥng 403. Vẫn cô bé tiếp viên ngày trước, đon đả: "Đi chơi có vui không chú?". Mới mấy bữa mà cô đă quên từng gọi tôi bằng anh, tôi đâu có già đi với vận tốc ánh sáng. Khẽ gật, tôi lên pḥng, nằm vật xuống giường. Ngủ thiếp đi, khi tỉnh giấc tôi mất dăm phút mới biết ḿnh không c̣n ở Mường Thàng. Ngoài cửa sổ, tháp gươm vẫn đó. Xa xa, đằng sau đồng hồ Bưu Điện là những lô nhà cao tầng lổn nhổn cḥi lên trời như những cuộng rau muống dại mọc được đến đâu là cứ mọc.

Tôi gọi ra Vietnam Airlines lấy chỗ cho chuyến bay về Montreal. Thu xếp xong, tôi điện thoại chào từ giă nhà thơ già trên phố Lư Quốc Sư. Ông ta hỏi: "T́m được cái vật quư hiếm đó rồi chứ?". Tôi đáp, ông ta cười, giọng vẫn trẻ như ở tuổi đôi mươi: "Phải thế chứ!". Người cuối cùng tôi muốn cám ơn trước khi lên đường là Thụy. Anh ta bảo: "Cái ông bạn có ria mép ấy đi t́m anh, ông ấy ngay đây, đang hồ hởi lắm v́ trúng hợp đồng với ḷ gốm Bát Tràng cho độc quyền xuất khẩu sang Âu Châu...". Chưa dứt lời, Rậm-ria giằng điện thoại, giọng oang oang: "Cứ ở khách sạn, tôi đến gặp bạn ngay!"

Nửa tiếng sau, chúng tôi lên sân thượng khách sạn. Hà Nội mới được tắm gội sau cơn mưa kéo liền hai ngày, đỡ khô xám, cây ven hồ Hoàn Kiếm tươi xanh như trẻ lại. Rậm-ria lấy giọng bí mật, nói rất nghiêm trọng:

"Cái việc ấy xong rồi chứ?"

Tôi gật, mặc dầu chẳng thật biết việc ǵ. Rậm-ria tiếp, mắt nh́n ra sau như sợ người nghe trộm:

"Thảo nào, không thấy Triệu Tử Long cưỡi xích thố 300 phân khối đi rao dịch vụ chém mướn nữa. Thế là ta giải được vật thằng Cao Biền trấn yểm cái tinh hoa Giao Chỉ rồi. Công đầu là của bạn đấy, xin chúc mừng!"

"Không! Không có ǵ gọi là của tôi cả!", tôi buột miệng khẳng định.

Rậm-ria ngạc nhiên, nhưng tôi không nói chi thêm. Kể chuyện Bua K’loi động ḷng v́ Ban Mai và tôi đă bất chấp sống chết để phục hồi Cơi T́nh bỏ ngỏ từ ngày nàng Hươu Sao và chàng Cá Chép chia tay thật chẳng ích ǵ cho một thương gia vừa trúng mối. V́ phục hồi Cơi T́nh là triệt tiêu mọi chiếm hữu, cứu cánh của một nền kinh tế thị trường đang hội nhập vào cái thế giới vận động bằng những mặt hàng sinh ra lợi nhuận. Và không chiếm hữu là đoạt lại tự do cho phép ḿnh là chứ không đơn thuần ḿnh là cái ḿnh có, điều kiện đi nốt một phần ba con đường t́m hạnh phúc, th́ không thể nào len được vào tâm thức của kẻ sắp sửa nhân danh văn hóa đi bán lao động rẻ mạt một đất nước nghèo đói chênh vênh giữa thực - giả, đúng - sai. Thấy tôi im lặng, Rậm-ria vỗ vai, tươi cười hỏi một câu cho có chứ chẳng đợi trả lời:

"Thế c̣n nàng Đào Hạ Trang thời Lư, bạn có t́m thấy nàng không?"

Lần này, tôi quả quyết: "Có chứ..." trước khuôn mặt sửng sốt của Rậm-ria. Trong đầu tôi, h́nh ảnh Ban Mai rực rỡ với trang phục lễ hội, trâm bạc cài tóc, cạp váy thêu hoa văn, bụng quấn xà tích, tay đeo ṿng hiện ra, miệng th́ thầm dặn ḍ, hạnh phúc là hoà đồng vào muôn loài với ḷng từ bi yêu thương vạn vật, trong đó có con người.

Chia tay Rậm-ria, tôi quên chẳng hỏi tin Tiểu-quỷ. Nhưng tôi chắc, hỏi cũng vô ích, ngoài chuyện chia động từ bế tắc tôi đă từng biết. Xuống đường, tôi đi đến đầu phố Lư Quốc Sư. Trước sân mặt tiền Nhà Thờ, tôi gặp lại con bé con cứ sáng sáng chờ tôi xin tiền. Nó bán vé số, hồn nhiên kéo tôi đến trước một mẹt hàng bày nhang đèn vàng mă sát ngôi chùa cạnh đó. Nó nói, giọng hănh diện:

"Mẹ cháu nay kinh doanh! Như người ta..."

Người bán hàng giở nón nh́n lên, thốt:

"À, anh..."

Đó là người đàn bà từng mang con ra định bán trinh cho tôi, mặt mũi không ḷe loẹt phấn son như trước. Lúng túng, bà ta nói:

"Em thôi buôn son bán phấn rồi, bây giờ bán nhang đèn cúng Phật cầu phúc cầu đức. Làm lại cuộc đời mà anh!"

Tôi bật cười, ḷng bỗng dâng lên một nỗi yêu thương, có lẽ chẳng khác ǵ ḷng Ban Mai khi nàng rón rén tránh đạp lên những con sâu róm. Con bé sáp lại:

"Chú mua cho cháu một tập vé số nhé..."

Móc túi, có đồng nào tôi đưa hết cho nó. Cười cười, nó bảo chú cho nhiều thế này, lấy hết đống vé số này cũng c̣n thừa. Nói xong, nó ch́a cả bị vé ra cho tôi. Cầm lấy, tôi trao lại cho mẹ nó.

Ngày mai, thế nào rồi cũng sẽ khác. Đừng sợ.

ND
10-06-2007
4-11-2007

Trăng nguyên sơ

Nam Dao

 

Nhà xuẤt bẢn Lao ĐỘng

175 Giảng Vơ, Hà Nội

Trung tâm VHNN Đông Tây

N11A, phố Trần Quư Kiên, Cầu Giấy, Hà Nội

 

Chịu trách nhiệm xuất bản: Lê Huy Ḥa

Chịu trách nhiệm bản thảo: Trần Dũng

Biên tập: Đoàn Tử Huyến

Vẽ b́a: Văn Sáng

Sửa bản in: Ḥa B́nh

Tổng đại lư phát hành:

Nhà sách Đông Tây

62 Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội

 ĐT/Fax: (04) 7733041

 

In  1000 cuốn  khổ 14,5 x 20,5 tại Trung Tâm In     và Đo vẽ Bản Đồ. Số ĐKKHXB: 46-2008/CXB/37-106/LĐ ngày 04 tháng 01 năm 2008

Quyết định xuất bản số: 176 QĐLK/LĐ ngàỷ tháng 7 năm 2008

In xong và nộp lưu chiểu Quư I I I năm  2008



(1)Ba hö́n baăy vña con trai, con gaái, úă àêu tḥ vḯ cuâng böë, cuâng meå, ùn cúm, ùn caá.

    Böë úi chïët boă töi laâm sao vêåy, thên ṃnh ùn àêu úă àêu, böë úi!

(1)Ùn ra khoái, noái ra lûăa. Àïí cho quyă xa ma súå.

(1)Vña luáa úi, vḯ àuån vḯ nhaâ maâ úă!

(1) Thú Buâi Thơ Tuyïët Mai, Mûúâng Trong, Nxb. Höåi nhaâ vùn, Haâ Nöåi, 2006.