NoiChien

Nội chiến ? Ta cần một cách tiếp cận lịch sử mới

 

Năm 1992, tôi có đăng một bài về vần đề nay. Từ đó tới nay, nó vẫn ám ảnh tôi. Càng ám ảnh sau 6 tháng thăm người Việt ở Mỹ. Lại ám ảnh qua một cuộc thảo luận với bạn.

Tính khách quan của Lịch sử

Lịch sử khách quan gồm toàn bộ những sự kiện khách quan về một vấn đề. Nó là lịch sử chết, vì thế mà nó có thể khách quan, ta có thể vận dụng những phương pháp khoa học để thẩm định : sự kiện đó đã xẩy ra nơi nào, ở thời điểm nào, ra sao ? Nơithời điểm ở đây là không gian và thời gian của vật lý cổ điển, sao ở đây là sự kiện vật lý. Chúng ta dễ dàng nhất trí với nhau về lịch sử khách quan. Đó là kích thước khoa học duy nhất của môn sử học.

Tính phi nhân bản của lịch sử khách quan

Tự chúng, mớ bòng bong sự kiện khách quan kia không có ý nghĩa (sens, có thể hiểu được) hay giá trị (valeur, tốt xấu, v.v.) gì cả. Chúng là chúng, chấm hết. Lịch sử chết là lịch sử phi nhân tính. Lịch sử chỉ bắt đầu có ý nghĩa, có giá trị qua tầm nhìn của một con người đang sống. Qua đó, nó trở thành lịch sử sống. Lịch sử sống có ý nghĩa, có giá trị vì người sống có quá khứ, không chỉ của riêng mình, của cả nhân loại, và có tương lai. Nó cần "hiểu" quá khứ kia để khẳng định chỗ đứng hôm nay và ngày mai của nó trong thế giới chung của nó và của đồng loại, và để hành động thực hiện điều ấy. Tóm lại, dù muốn dù không, con người phải gánh lịch sử để làm lịch sử chính vì nó là người và mọi hành động của nó đều có kiến thức (dù ít hay nhiều, dù sai hay đúng), có suy nghĩ (dù nông cạn hay sâu sắc, "có lý" hay "phi lý").

Kiến thức, phương pháp suy luận, văn hoá

Để có thể "hiểu" được mớ bòng bong sự kiện khách quan kia con người phải "nối" chúng lại theo một lôgíc nào đó. Trên cơ sở sự "hiểu biết" đó, nó lại phải đánh giá toàn bộ tức là lồng một giá tri nhân bản nào đó vào sự "hiểu biết" kia để lựa chọn thái độ và hành động của mình. Như thế, lịch sử sống có ba kích thước thống nhất với nhau :

1.   Kiến thức, trong nghĩa rộng nhất. Gồm kiến thức khoa học (trong nghĩa trên) và những thứ kiến thức khác, kể cả những thông tin phi khoa học.

2.   Phương pháp suy luận. Thông thường, ta dùng lôgíc hình thức (vì đó là loại lôgíc cơ bản, có khi duy nhất, ta học được ở trường) để thiết lập những quan hệ nhân quả giữa những sự kiện khách quan khiến cho ta thấy dễ hiểu. Các trường phái "duy vật" đều làm như vậy. Nhưng sau này người ta không ngại vận dụng cả psychanalyse để hiểu. Món này thịnh hành ở Pháp từ mấy chục năm nay (François Furet), đặc biệt trong lĩnh vực lý luận văn học (lịch sử cũng thuộc văn học). Đủ thấy vấn đề có thể linh tinh đến thế nào.

Ứng dụng loại lôgíc này để tiếp cận lịch sử có điều kẹt : đối tượng của nó, tuy có kích thước vật thể (objet), không đơn thuần là vật thể : nó là hành động của con người. Ngoài tính chất vật chất của nó (sự kiện khách quan, preuve matérielle des faits), hành động của con người luôn luôn có thêm nhục cảm, động cơ (kích thước sinh vật, sensation, intention) và tình cảm, giá trị (kích thước văn hoá, sentiment, valeur). Hai kích thước cuối không thể thẩm định một cách khách quan được. Do đó, xưa nay chưa ai có thể dùng loại lôgíc ấy mà giải quyết được một cách thoả đáng những quan hệ nhục cảm hay tinh thần của con người. Khốn nỗi, lịch sử chẳng là gì khác hơn toàn bộ quan hệ của con người với thế giới xuyên qua quan hệ giữa người với người. Để được việc và để… nên lời ! Không nên lời thì làm quái gì có Lịch sử.

3.   Văn hoá.

Nhà sử gia "khoa học" có thể không cần đánh giá những sự kiện lịch sử. Đó là quan điểm thống trị môn khoa học lịch sử trong khá lâu : khách quan, khách quan và khách quan. Không đánh giá (porter un jugement de valeur) những sự kiện lịch sử. Điều đó không ngăn cản, trên cơ sở cùng những kiến thức khách quan, những sử gia khoa học của chúng ta suy diễn ra những lý giải rất khác nhau về những sự kiện lịch sử. Tại sao ?

Người đời thường trong cuộc sống của mình không thể không đánh giá khi tiếp cận lịch sử vì lý do đơn giản : bản thân mình là lịch sử sống và mình phải xử lý nó để tiếp tục sống. Thí dụ : không đáng nghĩ tới nữa, dẹp qua, lo chuyện khác. Đương nhiên, ta đánh giá lịch sử trên cơ sở một hệ giá trị của một nền văn minh. Một cách thô thiển, tới nay đã từng có những nền văn minh bộ lạc, bộ tộc, dân tộc, chủng tộc. Tôi tạm bỏ qua những hệ giá trị của những tôn giáo hay triết lý lớn lấy kích thước nhân loại làm nền tảng.

Hiện nay, phổ cập nhất là những hệ giá trị của các nền văn minh dân tộc. Cuộc tranh luận về nội chiến hay không có ý nghĩa trong môi trường suy luận đó. Mọi người có vẻ đồng ý rằng Trịnh Nguyễn phân tranh nội chiến. Đối với hệ giá trị của ta ngày nay, điều đó hiển nhiên. Vì nó "hiển nhiên", ta tưởng nó là sự thật của muôn đời ! Có chắc thế không ? Các đương sự làm nên khúc lịch sử đó có thấy vậy không ? Chúa Nguyễn và chúa Trịnh có coi nhau là anh em đâu mà nghĩ tới nội chiến hay không nội chiến ? Nói chi tới tình anh em, Nguyễn Ánh mà còn chút tình người thì đâu nỡ lấy sọ Nguyễn Huệ làm bô đi tiểu. Quan tướng của những lãnh chúa ấy lấy đạo trung thần làm đầu liệu có thấy đó là nội chiến chăng ? Còn dân đen Đàng Trong Đàng Ngoài ? Họ tự thấy là dân nhà Lê, nhà Nguyễn, nhà Trịnh hay là dân Ziao Chỉ ? Chúa Nguyễn, chúa Trịnh, Quang Trung, Gia Long để lại cho tôi lịch sử chết. Vĩnh viễn chết, trong nghĩa này : không còn khả năng tạo tương lai. Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Ích (?), Hồ Xuân Hương, vài vị khác, công thần hay không của các vua chúa nọ để lại cho tôi lịch sử sống của một kiếp người. Sao tôi thèm gặp, không chỉ trong hư cấu, một người đàn bà như Hồ Xuân Hương quá ? Chắc nàng sẽ thấy tôi lạc hậu vô cùng !

Chúng ta dễ dàng nhất trí với nhau về những sự kiện lịch sử khách quan vì chúng là lịch sử chết. Và điều ấy phù hợp với chúng ta ? Từ nội chiến khiến ta ray rứt vì nó biểu hiện lịch sử sống. Nó bao hàm sự lựa chọn giá trị và phương pháp suy luận của ta, nó "định nghĩa" ta trong tư cách làm người. Nếu sự lựa chọn đó thuần cá nhân như thích ăn ngọt hay ăn mặn thì nó phù hợp với lục phủ ngũ tạng của ta, chẳng phiền hà ai, thế thôi, không có ý nghĩa giá trị gì cả vì ý nghĩa và giá trị, về bản chất, là quan hệ giữa người với người, giữa một con người với cả một cộng đồng người bao hàm cả quá khứ và tương lai riêng và chung của mọi người. Để cho sự lựa chọn đó có ý nghĩa, có giá trị, nó phải là sự lựa chọn cho mọi người ! Vì thế mà có nhu cầu thảo luận, tranh luận với người khác ý mình. Vì thế mà đã tranh luận, thảo luận là gay gắt. Một sự "thỏa hiệp" nửa mùa chẳng có thể vừa lòng ai. Vì thế mà cuộc thảo luận ấy không thể kết luận nhanh chóng được. Bình thường người ta lịch sự kết thúc nó như sau : anh nghĩ vậy, tôi nghĩ vậy nhưng mọi chuyện cũng tương đối thôi. Điều ấy có nghĩa : chúng ta chẳng còn gì để nói với nhau nữa, anh đi đường anh, tôi đi đường tôi, tình nghĩa đối ta có thế thôi. Kết quả "hiển nhiên" là : lần sau chúng ta gặp lại nhau trong một môi trường khác thích hợp hơn để "giải quyết" vấn đề, "mần" liền, khỏi tranh luận lôi thôi, mất thời giờ.

Chúng ta cần một cách tiếp cận lịch sử mới

Trong thế kỷ 18 ở Pháp đã hình thành một hệ giá trị mới lấy con người "phổ cập" (universel), cá thể, tự dobình đẳng, điền thêm anh em (fraternité) cho bớt rừng xanh, làm nền tảng và lấy phương pháp lý luận khoa học làm phương pháp suy luận. Những giá trị ấy, phương pháp suy luận ấy đã thâm nhập vào và trở thành những nét khá đậm của nhiều nền văn hoá. Những nét thôi, vì môi trường suy luận chung của thời đại này vẫn là văn hoá dân tộc. Nhiều người tán thành hệ giá trị ấy. Nhưng mỗi khi đụng chuyện cụ thể, những giá trị ấy có thói biến mất, bay lên trời, ít nhất đối với những người ít bình đẳng hơn trong những người bình đẳng, ít tự do hơn những người tự do. Và họ chiếm đại đa số nhân loại. Hệ giá trị này có hai nhược điểm.

1.   Con người tự do bình đẳng ở đây là con người trừu tượng, không có trong thực tế. Không có suy luận nào khiến ta thống nhất được giá trị lý tưởng ấy với thực tế. Và cũng chẳng thấy con đường thiết thực nào giúp cho thực tế ngày càng gần lý tưởng, ở mức nhân loại (universel mà !)

2.   Đã cá thể thì khác biệt, đã khác biệt làm sao bình đẳng được ? Ở Pháp, mỗi lần đụng tới vấn đề này ta lại được nghe các nhà tư tưởng tiến bộ lao nhao lên những câu kiểu L'égalité dans la différence, Bình đẳng trong sự khác biệt, nghe rất sướng tai nhưng đằng sau chẳng có suy luận gì ra hồn cả.

Hình thái sâu sắc nhất của hệ giá trị kia được phát triển trong triết lý của Marx, con đẻ chân chính nhất của chủ nghĩa tư bản. Đại khái, Marx giải quyết bế tắc của chủ nghĩa nhân bản tư sản như sau :

1.   Con người là toàn bộ những quan hệ xã hội của nó. Những quan hệ xã hội đó đương nhiên gồm có những quan hệ xã hội hôm nay, nhưng cũng gồm cả những quan hệ xã hội hôm qua vì chính chúng đã sản sinh ra những quan hệ xã hội hôm nay và, ít nhất là trong một tương lai gần, những quan hệ xã hội của ngày mai sẽ sinh ra từ những quan hệ xã hội hôm nay. Với tư cách ấy, mọi người "như nhau", bình đẳng với nhau, không trong nghĩa bằng nhau (égalité) trong vật lý hay trong luật pháp mà trong nghĩa đồng nhất với nhau (identité của Hegel, Marx, Trần Đức Thảo). Không nhớ trong quyển sách hay bài nào TĐT có viết ý : mình bằng mình vì mình bằng mọi người. Trong câu cuối của Les mots, Sartre viết chính xác hơn : tout un homme fait de tous les hommes, qui les vaut tous et que vaut n'importe qui (một con người trọn vẹn, hình thành bằng cả nhân loại, ngang giá với mọi người và bất cứ ai cũng ngang giá với mình). Trong tư cách ấy, con người là sản phẩm của chính mình. Tóm lại, mọi người cùng bản chất (essence). Vì thế, một đòi hỏi muôn đời của con người là được trở thành chính mình (tìm lại được bản chất của chính mình) và được hoà đồng (fusionner) với người khác. Như trong tình yêu ấy mà. Hoặc như trong théorie des groupes en fusion (Sartre, Critique de la raison dialectique) tuy ít sướng hơn.

2.   Bản chất của con người không là một cái gì có thực, tự tại trong thế giới tự nhiên chính vì nó là sản phẩm của con người, là kết quả của một quá trình "sản xuất người" cụ thể, thể hiện qua những hình thái xã hội khác nhau trong lịch sử. Đặc điểm lớn nhất của những quá trình ấy, của những hình thái xã hội ấy là : vì con người còn lệ thuộc thiên niên để tồn tại, vì phương tiện và trí tuệ của nó thấp kém, nó phải dùng chính con người làm công cụ để chiếm hữu thiên nhiên, phát triển sản xuất, kiến thức khoa học kỹ thuật và văn hoá. Qua đó, con người đánh mất bản chất của mình, đánh mất chính mình. Khái niệm aliénation (tha hoá) của Marx, nội dung ngược với khái niệm alénation của Hegel, không dính dáng gì với khái niệm aliénation của Freud. Do đó, bản chất (essence)thực-thể (existence) của nó mâu thuẫn với nhau. Do đó, Marx gọi toàn bộ quá trình ấy là thời tiền sử của nhân loại. Lúc nào lực lượng sản xuất phát triển tới mức loài người hết lệ thuộc thiên nhiên thì lúc ấy mới có đủ điều kiện vật chất (tôi không nói một cách máy móc là có luôn tư tưởng thích ứng nhe) đề thành lập những quan hệ xã hội mới, khác hẳn, cho phép con người tìm lại được bản chất thật của mình ngay trong thực-thể của mình. Lúc đó, con người mới có điều kiện vật chất để sống vừa bình đẳng với nhau (như trong xã hội cộng sản nguyên thủy) vừa có cá tính đầy đủ của những cá nhân tự do (khác xã hội cộng sản nguyên thủy), lúc đó tiền sử của nhân loại mới chấm dứt.

Mở rộng đề tài, thêm quan hệ giữa người với thế giới tự nhiên, có quan hệ giữa người với người trong tư cách là một thực-thể tự nhiên và trong tư cách là người (sản phẩm của con người, của chính mình), Marx cũng có những luận điểm lý thú.

Trong toàn bộ những quan hệ xã hội cũng như những quan hệ giữa con người với tự-nhiên, quan hệ cơ bản nhất là quan hệ nam-nữ vì đó là quan hệ tái tạo con người. Do đó, Marx nhận định : chỉ cần xem vị trí của phụ nữ trong một xã hội thì biết độ nhân của xã hội ấy. Các chàng lãng tử sống tại Pháp và Tây Âu hẳn đã từng nếm mùi phong trào giải phóng phụ nữ ở đó. Có ba trường phái lớn dựa vào ba hệ tư tưởng lớn : Freud (ở Pháp : Mouvement des femmes, cánh Antoinette Fouque), Sartre-Beauvoir, và Marx.

Triết lý của Marx giải quyết mâu thuẫn giữa bản chất (essence)thực-thể (existence) như thế. Tôi tóm tắt như sau, với ngôn ngữ què quặt Phúlăngsa : L'aliénation humaine s'achève quand son essence sociale se reconnaît dans son existence individuelle, quand son essence humaine se reconnaît dans son existence naturelle (Sự tha hoá của con người chấm dứt khi bản chất xã hội của nó tự nhận diện trong thực thể cá biệt của nó, khi bản chất người của nó tự nhận diện trong thực thể tự nhiên của nó.)

Ở đây, tôi không bàn suy luận của chàng trong vấn đề này đúng sai thế nào. Tôi chưa có khả năng làm chuyện ấy. Nhưng tôi nghĩ chúng ta cần dựa vào và vượt những hệ giá trị và suy luận kiểu ấy thì mới có thể tiếp cận lịch sử của thế kỷ 20, của chính ta của mọi người một cách nhân đạo. Nếu chúng ta không đóng góp được một tí gì để góp phần xây dựng một sử quan kiểu ấy, tôi mong thế hệ gánh vác "di sản" khốn nạn của tôi và của những người khắc khoải kiểu tôi sẽ mau chóng làm được.

01-2004