DỊCH THƠ  EMILY  DICKINSON  - Phần Hai

 

 

 

Thăm nhà Emily Dickinson

 

Emily Dickinson (1830-1886), nữ thi hào đầu đàn của thơ Mỹ  là một huyền thoại hiếm trong cơi thi ca vốn không thiếu các tính cách ngoại lệ . Thuộc một gia đ́nh quyền thế (có ḍng họ từ thời Pilgrim, ông với cha làm luật sư ở Amherst – Massachusetts, và đă góp công lập nên Amherst College), bà sống độc thân suốt đời trong trang phục màu trắng như một nữ tu, hầu như chỉ đọc Thánh Kinh với Shakespeare và sáng tác khoảng 1.800 bài thơ bỏ trong ngăn kéo không cần đăng báo hay in thành sách. Chịu ảnh hưởng của văn hóa Thanh giáo Tin Lành (Puritanism), tạo hóa vạn vật đối với E.D. là những biểu hiện phong phú của tâm linh. Với óc liên tưởng thông minh pha trộn nụ cười vừa dí dỏm vừa kiêu kỳ, sáng tác của nữ thi sĩ giàu ẩn dụ và suy tư; buộc người đọc phải vùi đầu vào các bài thơ cô đọng đồng thời thách thức cao độ. Gần nửa thế kỷ sau ngày bà mất, giới yêu thơ và học thuật mới biết đến toàn bộ thi nghiệp để t́m hiểu  vũ trụ ư tượng khép kín bên cạnh mỹ  học khắt khe của E.D.; và có lẽ hôm nay bà là nữ thi hào được các học giả quan tâm khảo cứu nhiều nhất. Trong văn học sử Hoa Kỳ vào giai đoạn nền móng, bên cạnh điệp trùng rừng núi của Walt Whitman là đỉnh cô phong mang tên Emily Dickinson. Riêng đối với những ai coi thơ là tôn giáo, bà c̣n là Thần Nữ canh giữ Đền Thiêng. “I dwell in Possibility – a fairer House than Prose –“  ( Ngôi nhà tôi xinh đẹp hơn văn xuôi - tên nó là KHẢ TÍNH!).

CHÂN PHƯƠNG

 

 

I.

If I can stop one heart from breaking,

I shall not live in vain;

If I can ease one life the aching,

Or cool one pain,

Or help one fainting robin

Unto his nest again,

I shall not live in vain.

Nếu tôi chặn được con tim đang tan nát,

Tôi đã không phí phạm cuộc đời ;

Nếu làm vơi đi nỗi khổ hận một kiếp người,

Hoặc xoa dịu được một cơn đau,

Hay đặt trở vào tổ

Chú ức đỏ vừa té ngất ngư,

Tôi đã không sống như loài vô tích sự.

(C.P. và D.L. dịch)

II.

THE MOUNTAIN sat upon the plain

In his eternal chair,

His observation omnifold,

His inquest everywhere.

The seasons prayed around his knees,

Like children round a sire:

Grandfather of the days is he,

Of dawn the ancestor.

Ngồi trên chiếc ghế vĩnh hằng,

Đồng bằng trải ra phía dưới,

Núi quan sát mọi thứ,

Núi điều tra khắp nơi.

Mùa màng khấn quanh chân núi,

Tựa trẻ con vây kín nhà vua :

Đêm ngày gọi núi bằng Ông,

Núi là Cụ Tổ của rạng đông.

 

III.

Pain has an element of blank;

It cannot recollect

When it began, or if there were

A day when it was not.

It has no future but itself,

Its infinite realms contain

Its past, enlightened to perceive

New periods of pain.

 *

Trong cấu tạo nỗi đau

Có một phần xóa trắng;

Khiến nó chẳng nhớ nổi

Giây phút nó khởi đầu,

Hoặc từng có một ngày

Nó thoát được đớn đau.

Tương lai nỗi đau là chính nó,

Vùng đất vô biên trùm dĩ văng,

Và nhờ kinh nghiệm tháng năm xưa

Cảm thấy trước những lần đau mới.

 

IV.

The Soul selects her own Society --

Then -- shuts the Door --

To her divine Majority --

Present no more --

Unmoved -- she notes the Chariots -- pausing --

At her low Gate --

Unmoved -- an Emperor be kneeling

Upon her Mat --

I've known her -- from an ample nation --

Choose One --

Then -- close the Valves of her attention --

Like Stone –

*

Chọn xong bạn đồng hành -

Hồn mạnh tay đóng cửa -

Ngôi tuyệt đối thiêng liêng –

Chẳng ai trông thấy nữa –

Xa giá có dừng nơi cổng nhỏ –

Vương đế có quì trên thảm sân –

Hồn mở mắt dửng dưng

Nhìn mà không xúc động –

Tôi từng biết một Tâm Hồn như thế –

Giữa bao thiên hạ lựa một người –

Rồi cài then khóa hết giác quan –

Biến thành Đá nằm im một khối –

 

V.

If you were coming in the fall,

I'd brush the summer by

With half a smile and half a spurn,

As housewives do a fly.

If I could see you in a year,

I'd wind the months in balls,

And put them each in separate drawers,

Until their time befalls.

If only centuries delayed,

I'd count them on my hand,

Subtracting till my fingers dropped

Into Van Diemens* land.

If certain, when this life was out,

That yours and mine should be,

I'd toss it yonder like a rind,

And taste eternity.

But now, all ignorant of the length

Of time's uncertain wing,

It goads me, like the goblin bee,

That will not state its sting.

*

Nếu người đến vào mùa thu,

Tôi sẽ phủi hất mùa hè đi,

Với nửa nụ cười và nửa bĩu môi,

Như mấy bà nội trợ đuổi ruồi.

Nếu tôi sẽ gặp người năm tới,

Mười hai tháng tôi cuộn làm quả bóng,

Cất chúng vào từng ngăn tủ riêng,

Rồi bỏ quên cho đến ngày mãn hạn.

Nếu người chỉ muộn vài thế kỷ,

Tôi sẽ đếm chúng với bàn tay,

Trừ dần đi mấy ngón tay tôi,

Rụng từng chiếc về miền Nam Cực*.

Nếu biết chắc lúc kiếp này kết thúc,

Người với tôi được sống chung đôi,

Như vỏ trái cây tôi vứt bỏ cuộc đời,

Để nếm vị vĩnh hằng trên lưỡi.

Nhưng giờ đây, vì không biết hoàn toàn

Độ ngắn dài của chiếc cánh thời gian,

Ngày tháng chích tôi như con ong quái,

Châm nọc vào mà chẳng báo ta hay.

*Van Diemen khám phá đảo Tasmania gần Nam cực.

VI.

When roses cease to bloom, Sir,

and violets are done -

When bumblebees in solemn flight

Have passed beyond the sun -

The hand that paused to gather

Upon this summer's day

Will idle lie, in Auburn* -

Then take my flower, pray!

*

Khi hồng thôi khoe sắc, người ơi,

Cùng các bông tím dại rụng rơi -

Khi nghiêm túc từng bầy ong nghệ

Bay qua bên kia bóng mặt trời -

Đang hái hoa bỗng nhiên dừng lại

Giữa ngày hè, nhớ lúc tàn thu*

Nơi nghĩa trang bàn tay sẽ ngủ -

Bởi vậy, người ơi,

Xin đừng từ chối đóa hoa tôi !

C.P. và D.L. dịch

* Auburn = Nghĩa trang đẹp và sang nhất ở Boston là Mount Auburn. Theo tôi, nhà thơ đã có dụng ý khi bỏ đi chữ Mount khiến độc giả có thể liên tưởng xa hơn một địa danh cụ thể. Tóm lại, với dân Mỹ quen biết Boston thì nghĩa đen của Auburn là nghĩa trang; đối với người đọc thơ có trình độ, ngoài nghĩa đen Auburn còn nghĩa bóng của sắc thu vàng úa = mùa thu hấp hối khi mùa hè đã bay xa !

VII.

Wild nights! Wild nights!

Were I with thee,

Wild nights should be

Our luxury! *

Futile the winds

To a heart in port,

Done with the compass,

Done with the chart.

Rowing in Eden!

Ah! the sea!

Might I but moor

To-night in thee !

* LUXURY = ý trong bài thơ này là đam mê sắc dục, lạc thú xác thịt... Bản dịch Pháp của Melançon dùng chữ cổ điển chính xác LUXURE.

Đêm cuồng ! Đêm ngây !

Nếu được gần anh,

Thân xác chúng ta

Sẽ là đêm điên dại !

Có sá gì gió giông

Khi tim về đến cảng,

La bàn đâu cần nữa,

Hải đồ hóa dư thừa.

Chèo thuyền giữa Địa Đàng !

Ôi mênh mông biển rộng !

Ước chi anh là bến

Cho thuyền em đỗ qua đêm !

*

Folles nuits —folles nuits!

Si j'étais avec toi

De folles nuits seraient

Notre luxure!

Futiles —les vents—

Pour un coeur au port—

Plus de boussole—

Plus de carte!

Ramant dans l'Eden—

Oh! La mer!

Si je pouvais amarrer —ce soir—

En toi!

Charlotte Melançon dịch.

 

VIII.

HEART, we will forget him!

You and I, to-night!

You may forget the warmth he gave,

I will forget the light.

When you have done, pray tell me,

That I my thoughts may dim;

Haste! lest while you’re lagging,

I may remember him!

*

Tim hỡi, đêm nay !

Mi với ta sẽ quên người !

Mi quên đi hơi ấm người trao,

Ta thì quên ánh sáng.

Khi mi đã quên hết, xin cho ta biết,

Để ta tắt dần các ý tưởng trong ta;

Gấp lên ! Bởi nếu mi còn chậm trễ

Trong ký ức ta, người có thể quay về !

 

PHỤ ĐÍNH

Giới thiệu bài thơ đầu tay còn sót do Emily Dickinson viết lúc 19 tuổi, tuy chưa chuyên nghiệp nhưng đã báo hiệu năng khiếu ngôn ngữ của mộ̀t nhà thơ tương lai -

qua bản dịch Việt ngữ của DIỆU LAM và CHÂN PHƯƠNG;

AWAKE YE MUSES NINE, SING ME A STRAIN DIVINE,

Dậy đi nào, chín vị nữ thần nghệ thuật ơi !

Hát cho tôi nghe một giai điệu thần tiên.

Hãy tháo rời tơ sợi trang nghiêm,

Rồi cột giúp tôi món quà t́nh ái.

Trái Đất được tạo ra cho những kẻ yêu nhau,

Nàng trinh nữ và gã trai tơ nông nổi,

Cho tiếng thở dài, lời thầm th́, và hợp nhất lứa đôi,

Trên đất liền, biển khơi, và khí quyển,

Vạn vật biết tỏ t́nh quyến luyến.

Chúa đã tạo trên cõi trần tươi đẹp,

Không vật ǵ đơn chiếc, ngoại trừ mi,

Cô dâu, rồi chú rể, số hai và số một.

Tạo mặt trời, mặt trăng, Adam với hôn phối Eva.

Cuộc đời đă làm chứng cho nguyên lý ấy,

Ai tuân theo sẽ tìm được hạnh phúc,

Kẻ không vâng lời Chúa - trên cây chết sẽ bị treo.

Người cao t́m kẻ thấp, vĩ nhân kiếm người thường,

Trên địa cầu này chẳng có ai t́m mà không gặp;

Đóa hoa đă phải ḷng con ong ve văn,

Mời trăm vị khách lá bày đám cưới vui vầy;

Gió tán yêu cây cành khiến các nhánh phải lòng,

Người cha hiền lo kiếm vợ cho con.

Trên bãi biển, bão ngâm nhỏ giai điệu sầu thương.

Sóng mở mắt trầm tư ngóng chờ măi bóng trăng.

Tâm hồn họ gặp nhau, họ long trọng thề nguyền.

Bão ngưng hát khúc ai bi, sóng cũng hết u sầu.

Con ḍi rúc vào xác chết, tử thần sẽ bắt cô dâu .

Đêm với ngày kết hôn, b́nh minh cưới hoàng hôn;

Trái đất là thiếu nữ hân hoan, trời cao là hiệp sĩ chung tình,

Cô nàng khá diêm dúa, bày đặt kiện tụng hoài công.

Nay đến lúc thi hành, phút xướng tên trong danh sách,

Gọi mi ra trước quan tòa để dẫn dắt linh hồn, 

Mi là kẻ đơn độc, cô quạnh, lạnh lùng,

Thiếu bạn đồng hành tốt, mi hái những thứ ḿnh gieo.

Từng phút kéo lê thê, không được hưởng những giờ yên lặng,

Cứ mãi tư lự buồn rầu, mượn gào than thay tiếng hát.

Đấy kìa Sarah, Eliza và Emeline kiều nữ,

Và Harriet, Susan, cùng nàng có mái tóc quăn kia !

Mắt mi bị lòa bởi muộn phiền, vẫn có thể thấy tuy nhiên

đang thực sự ngồi trên cây sáu cô nàng xinh đẹp;

Hăy cẩn thận đến gần cây, rồi can đảm leo lên,

Và chụp bắt cô gái mi yêu, chớ thắc mắc không gian hay thời khắc !

Bế nàng đến cánh rừng xanh, xây cho nàng một khuê pḥng,

Nữ trang, chim, hay hoa hồng – muốn thứ gì hãy chìu nàng -

Mang ra ống sáo, kèn đồng, rồi vỗ thêm nhịp trống -

Và chúc thế gian một Ngày Mai tươi sáng,

Xong bước về ngôi nhà rực rỡ vinh quang.

 

Feb.-Mar.- 2014

Nhà gia đ́nh Emily Dickinson