ĐÔI  LỜI  VỀ  FRANCOISE  HÀN

 

 

    Francoise Hàn không viết văn như Linda Lê và Kim Lefebvre nên hầu như không được độc giả và giới văn nghệ VN quan tâm đến. Điều này phần nào cũng nói lên sự thất thế lâu nay của thơ ca trước các thể loại văn xuôi. Ra đời năm 1928 tại Paris, nhà thơ mang hai ḍng máu (mẹ Pháp cha Việt) này trưởng thành trong thế chiến và thời hậu chiến, rồi hoạt động trong ngành công tác xă hội ở Pháp. Tập thơ đầu tay của bà, Cité des Hommes, do nhà Seghers xuất bản năm 1956 in đậm các hoài băo xă hội với ưu tư thời thế. Trong các tập thơ tiếp theo  bà thiên về nội tâm, suy nghiệm về cuộc đời và nghệ  thuật. Sự chuyển biến này phần nào chịu ảnh hưởng thời đại: từ những năm 60 tư tưởng và mỹ học trong thơ Pháp, đặc biệt các nhóm phái và tạp chí ở Paris, quay lưng với dư vang  và ám ảnh thời chiến để đối chất các vấn đề cốt lơi của thơ dưới bóng Heidegger, chủ nghĩa hiện sinh và cấu trúc luận. Một số từ ngữ, ư tượng trong thơ bà như toile, page, écriture, signe, phrase, mots, images, texte, fragments…nói lên mối thao thức về khả tính của bút mực trong việc giao phối ngôn từ với các kinh nghiệm tâm linh và thẩm mỹ:

 

 

                       chúng chẳng là ǵ khác hơn

                       mớ chữ trên trang giấy

                       những bước chúng ta sải dài trong tuyết?

 

                       có chiếu thấu chúng chăng

                        một tia nắng xiên khoai

                       soi sáng cả trong ngoài

                       qua một câu duy nhất

 

                       khiến những h́nh ảnh rối mù

                       của hiện tại trở nên minh bạch…

 

                                                              Le désordre autour…

 

    Nhưng Á châu và thế sự VN, Đông dương, Trung Hoa đôi lúc lại hằn lên thương tích. Trong thi phẩm Le Réel le plus proche (1981) người đọc chợt nghe …tiếng trống trận rền vang/ và một hành tinh chưa già lắm/ ră bèng không phải tại hao ṃn/ mà v́ những đánh đấm cuồng điên,…Nhà thơ mang một phần máu Việt này có thể nào không chia sẻ những mơ ước , những buồn vui của quê cha nhiều bất hạnh như bài thơ đậm chất biểu tượng Rouge Sombre (xem bản dịch bên dưới) đă bộc lộ: ư nghĩa vừa cô đọng vừa đa tầng của màu Đỏ Quạch không khỏi gợi lên trong tâm tư người đọc VN những liên tưởng về cách mạng, hy sinh, chết chóc, chiến tranh, hoặc những khao khát bị thui chột…

 

    Francoise Hàn đứng vào hàng ngũ càng ngày càng đông những người nghệ sĩ của đối thoại văn hóa Đông Tây. Thế giới thơ của bà là nơi ḥa điệu trang nhă giữa ngôn từ Pháp trau chuốt và tư tưởng phương Đông, càng về sau càng ít lời nhưng đậm chất tâm linh và bàng bạc hương vị Phật-Lăo. Có những câu đọc lên nghe như kinh tạng hoặc niệm chú của đạo sĩ, thiền sư. Chẳng hạn,

 

                       De l’ouvert

                       On ne parle pas

 

                       Les peintres chinois

                       Devant l’ouvert

                       Tracent d’un pinceau léger

                       Une calligraphie

                       …

                                                    Notes en Marge

 

   (Đoạn thơ ngắn gọn này không dễ dịch, dù được viết với những chữ trong sáng giản dị! L’ouvert là khoảng không mở rộng trước mắt, cũng là ư tượng của khải thị. V́ vậy phải mượn ngọn bút lông nhẹ và thư pháp của họa gia may ra mới phác thảo được điều bất khả đạo bất khả danh=de l’ouvert on ne parle pas.)

 

    Dù tiếng Pháp mẹ đẻ là sở trường vừa là công cụ nghệ thuật bà trọn đời rèn luyện, giữa các tiếng thơ phong phú, phức tạp và đa âm của Pháp ngữ hôm nay,  Francoise Hàn đă cất lên giọng điệu thâm trầm như một khúc hồ cầm kín đáo song tấu cùng tiếng địch văng vẳng cơi xa. Bài giới thiệu ngắn kèm theo mấy bài thơ dịch từ nguyên tác sau đây hi vọng gây được chút hiếu kỳ trong giới độc giả VN, và năm 2008 sắp tới sẽ có thêm những công tŕnh dịch thuật và biên khảo để mừng nữ thi sĩ thượng thọ bát tuần.   

 

CHÂN  PHƯƠNG

 

 

 

FRANCOISE  HÀN

 

BẠN  ĐỒNG  HÀNH

 

Thế giới được cân bằng

nhờ anh có mặt

 

gạch thẳng đứng tí teo

giữa đất và mây

 

ứng đối với trống không

mà vai anh đỡ lấy

trống không soi sáng cho anh

 

 

khoảng cách quanh anh

mang màu sắc khác

có lẽ mùa thu đó chăng

đang gom góp các âm vọng cuộc đời

chạy lê trên mặt đất

 

trong khi trống trận rền vang

và một hành tinh không già lắm

ră bèng chẳng phải tại hao ṃn

mà v́ những đánh đấm cuồng điên

 

em có sai trái chăng

khi cơn mưa lá

với những hạt mầm bay tung

làm em say mê thích thú

 

 

HỖN  LOẠN  VÂY  QUANH…

 

hỗn loạn vây quanh chúng

ngày mai quên lăng trùm lên

 

chúng chẳng là ǵ khác hơn

mớ chữ trên trang giấy

những bước chúng ta sải dài trong tuyết?

 

có chiếu thấu chúng chăng

một tia nắng xiên khoai

soi sáng cả trong ngoài

qua một câu duy nhất

khiến những h́nh ảnh của hiện tại

rối mù trở nên minh bạch

 

một chút nghĩa lư

một ngọn lửa nhựa thông

cho hai lữ khách tội t́nh

 

 

ĐỎ  QUẠCH…

 

Đỏ quạch

dấu vết chiếc cánh bay qua

bầu trời tan hoang

 

 

từ vực ánh sáng

mở hoát dưới bước chân ḿnh

tôi đến với anh

 

kẻ từng là thiếu niên của ngọn đồi

khi đau thương lăn xuống

từ ḥn đá này sang ḥn đá khác

trong lúc không ngừng chào đời

từ bọt sóng những thế giới mới

 

đây ḱa anh lại hiện ra nơi con đường sương khói

và con chim đến từ các đỉnh cao

vẽ trên vịnh biển một đường bay rộng thoáng

 

nhưng tṛ bịp của nét chữ

hay rốt cuộc là tín hiệu

 

khi không c̣n đủ thời giờ và vải bố

trong xưởng họa bị đánh cướp

cho những ǵ chúng ta khao khát

 

 

T̀M  CÁCH  NÓI  LÊN…

 

t́m cách nói lên

sự vắng mặt    phần giờ khắc

bị bôi xóa

trang giấy nhợt nhạt bỏ đi

 

rời khỏi                                                                                                  những nứt rạn của nó

chẳng màng

xếp lại các mảnh vụn

 

giữa đầu nguồn với hạ lưu

lơ lửng khoảng không

 

chốn trung gian của truyện

ghi chép trên tan vỡ

một nét cá biệt của khoảng không

 

 

NHƯ  MỘT  MÙA  HÈ  KHÔNG  CHẤM  DỨT

 

Cho Chinh

 

 

tuổi tác kiên nhẫn đến nắm tay chúng ta

lặp lại những chữ trước đây ḿnh không hiểu

đưa chúng ta đến trước ánh le lói thuở nào

nay rực sáng hơn    làm rơ nét các đường viền

và điều ǵ ḿnh không c̣n trải nghiệm được

từ đây chúng ta đọc nó

 

                                                 bài thơ

chúng ta đă viết ra như những kẻ mù

rồi thiêu rụi các trang    nó đây này

nó thức giấc trước ngọn lửa   vụt lớn lên

khi chúng ta tưởng bắt được một ư nghĩa

nó c̣n phơi mở thêm

một đường nếp rung rinh     chân trời nhượng bộ

nơi ngưỡng không gian của chúng ta

sa mù trong đó ḿnh đă đi lâu thật lâu

đang rút về các chân núi b́nh yên dưới ánh xế chiều

có lẽ chúng là sự thật của các huyền thoại về ḿnh

đă nở nụ đơm hoa trần thế

 

                                                 các con đường

chúng ta từng vạch lối trong may rủi

chẳng c̣n lưu lại ǵ nơi kư ức

bụi bám bước chân lại hiện rơ ràng

trên đất sét c̣n tươi

ta nhận ra bao vết tích

 

                                                đến được

các vùng ranh giới của xứ sở từng là chúng ta

nơi lũ chim thiên di c̣ng bay ngang bay dọc

trên niềm bí ẩn đổ vỡ của những mùa chồi

trên đầu gối gió

 

                       sẽ không bao giờ

chúng ta t́m về  được trọn vẹn với  chính ḿnh

 

 

Francoise Hàn đă cho ra mắt nhiều thi phẩm: Cité des Hommes(1956) ,Le Temps et la Toile(1977) ,Le Réel le plus proche(1981) ,Hors saisons(1988), Même nos cicatrices (1993) , Cherchant  à dire l’absence(1994) , Profondeur du Champ de Vol(1994) , L’Unité ou la Déchirure(1999). Bà có mặt trong thi tuyển quan trọng Anthologie de la poésie francaise du XXe siècle , Gallimard,2000. Những ai không đọc được tiếng Pháp

có thể t́m thi tuyển do Michael Bishop chọn dịch, Women’s Poetry in France, 1965-1995, Wake Forest University Press, 1997.