TIẾC THƯƠNG LUCIEN STRYK
Trong ḍng thơ Thiền Âu-Mỹ , Lucien Stryk là một gương mặt hàng đầu. Trong gần sáu mươi năm sáng tác, dịch thuật, và giảng dạy về Văn học Á Đông ở Mỹ, ông có thể sánh vai với các đỉnh cao như Kerouac, Ginsberg, Snyder… trong sự nghiệp tập thể của các ng̣i bút đă xây nên nhịp cầu văn hóa Đông Tây về thi ca và tư tưởng. Ông đă biên soạn và dịch nhiều tuyển tập thơ văn và kinh tạng Thiền Tông; quen thuộc nhất với độc giả có lẽ là thi tập The Penguin Book of Zen Poetry (1981) do ông tuyển dịch chung với giáo sư Takashi Ikemoto. Những suy nghiệm về thơ và Thiền tông được ông tập hợp trong quyển Encounter with Zen;Writing on Poetry and Zen (1982). Các bài thơ đặc sắc của ông nằm trong thi tuyển Selected Poems in năm 1976.
Sinh năm 1924 ở Ba Lan, Lucien Stryk theo cha mẹ làm di dân qua Mỹ vào thời niên thiếu. Từng đi lính trong Thế Chiến Hai với tập thơ Whitman trong ba lô, ông chiến đấu trên trận tuyến phía Nam Thái B́nh Dương. Kinh nghiệm chạm trán với cái chết vô nghĩa và bạo lực kinh hoàng của bom đạn đă để lại chấn thương sâu mà nhà thơ chúng ta phải mất nhiều năm tháng để vượt qua. Cuộc đụng độ đầy máu lửa với quân đội Thiên Hoàng đă khơi lên óc hiếu kỳ khiến ông chịu khó t́m hiểu về văn hóa Nhật và thi ca- tư tưởng Á Đông, đặc biệt các ḍng văn học Thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản. Thời gian quán định và suy nghiệm sau chiến tranh đă giúp ông đối mặt được hố vực trong tâm hồn ḿnh để bắt đầu viết những bài thơ về quá khứ chết chóc. Mặt khác, quá tŕnh học hỏi và dịch thuật văn thơ Thiền đă ảnh hưởng đậm nét trong thi pháp của Lucien Stryk, tiêu biểu là tập thơ ZEN Poems (1980) và những bài thơ ông viết về những sự vật hay nơi chốn b́nh dị vào giai đoạn cuối đời. Ông đă bỏ công thu thập để giới thiệu nền thơ MidWest (vùng b́nh nguyên nằm giữa nước Mỹ) trong hai thi tuyển Heartland I, II. Ngoài ra ông cũng có cảm t́nh nhiều với Paris và văn thơ Pháp, qua sự giảng dạy của triết gia Bachelard lúc ông du học ở Sorbonne.
Để tôn vinh nhà thơ - dịch giả, năm 2009 Hội Dịch Giả Hoa Kỳ đă thành lập giải thưởng dịch thuật dành riêng cho văn học Á châu mang tên Lucien Stryk Prize. Ông vừa qua đời ngày 24 tháng Giêng ở Luân Đôn, hưởng dương 88 tuổi. Mấy ḍng ngắn gọn với các bài thơ dịch theo sau là bó hoa của một độc giả Á Đông đưa tiễn một hồn thơ cao quư vào dịp giỗ ông 100 ngày sắp đến.
CHÂN PHƯƠNG
CÁI HỐ
Đă hai mươi năm, tôi vẫn nhớ
Mùi xú uế bốc hơi dưới nắng,
Cái hố ấy cách xa ít nhất cả trăm thước
Khoảng vũng vịnh nơi bọn này gài đặt súng ống.
Núi với non bị bắn phá nát tan.
Hiển nhiên băi biển chúng tôi đă chiếm.
Xú khí vẫn dội ngược về.
Tôi nghĩ đến mớ thùng rác
Đằng sau các tiệm cơm tàu
Gần nhà, khêu gợi lạ lùng trong
một đêm hè, gợi ư nghĩa cho
một cuộc sống khác. Dị biệt là ở đó.
Khi ba đứa bọn này, trẻ nhất trong
Nhóm lính, được phát mấy cây sào
Kèm mệnh lệnh phải moi mấy xác lên
Không th́ đi theo tử thi luôn, chúng tôi
Cảm thấy chọc cười kiểu đó thật là thảm năo.
Và được mấy tay thiện xạ cột ḿnh trên cây
Dạy cho điệu múa vừa chạy vừa nhảy.
THƯ GỬI JEAN-PAUL BAUDOT, MÙA GIÁNG SINH
Bạn ơi, hôm nay ngày nắng đẹp,
tuyết lấp lánh khắp nơi, tôi lại nhớ bạn,
bao nhiêu năm rồi, thời niên thiếu
tham gia Kháng Chiến bị quân Nazi vây hăm
trong hang sâu với mười lăm mạng khác
để sống sót bạn trở thành kẻ ăn thịt người.
Được lính Mỹ giải cứu, mùi thịt của đồng chí chết
c̣n hôi tanh trong miệng, bạn đă nhào vô đống tuyết
trên vùng Haute Savoie và nuốt tối đa để nôn tháo hết ra,
cách nào đó cố làm lại cuộc đời. Từ ấy mỗi bận đông về,
khi nhớ lại bạn vẫn liên tiếp ói mửa nhiều ngày.
Từ khi nghe bạn thuật câu chuyện ở Mabillon,
mỗi lần đông đến tôi lại thấy bạn nằm sải tay chân
trên vũng tuyết đầu mùa ,mặt úp vào mùi xú uế.
Jean-Paul ơi, một lần nữa tôi viết lá thư cho dù
bạn chẳng trả lời, bởi v́ tôi phải viết:
ngày nay người ta c̣n làm những việc ghê tởm hơn.
Cầu mong bạn, và tất cả chúng ta, được b́nh yên,
trước khi mùa tuyết quay về.
ỚN LẠNH
Cây cối bùng trận pháo hoa,
sắc nóng mùa thu nhạt mất.
Chuyển động của chiếc lá cuối
đáp xuống bờ ao cạnh mảnh lông chim
đứa nhóc lượm đá ném con thiên nga
cặp cánh đập tóe nước
trong cuộc chơi nghịch đuổi.
Chú sóc xin chực mấy miếng ngon, mang chôn
các mẩu thức ăn vào thửa đất riêng
trước khi tiếng gió róc rách như suối
của một đêm rét căm ṃ đến.
Tôi quay về, buồn ngủ khật khờ,
bày chuyện với chiếc lá và đóa hoa héo,
qua khỏi bông hồng hấp hối, tôi nh́n thẳng
vào tṛng mắt lạnh của mặt trời mùa đông
dẫm lên cỏ gai, bồ công anh,
và gương mặt cuối cùng trên quả đất.
Thức giấc vừa run ớn lạnh, nghe
qua âm thanh rè rè bản tin buổi sáng
rỉ máu con số tử vong.
SUY TƯỞNG
Phải mất ba phần tư thế kỷ
tôi mới hiểu ra
đôi mắt nhà thơ
chẳng cần chớp nháy
như phản chiếu từ những
bức tường thủy tinh và thép,
không chừng tôi bà con
với se sẻ nhiều hơn
là với một chú chim sặc sỡ,
ḥa nhập với đá với trời,
nghe sấm động lan ṿng
từ cái lưỡi trái chuông tṛn chín,
và b́nh an hiển hiện rơ nhất
vào một ngày thiếu nắng.
Tôi biết rằng trần gian này
cần tên hề của vua già
để chỉ ra thực chất của nó,
tṛ nghịch của tay kim thuật đơn độc,
vầng thái dương kia.
PHƯƠNG NAM
Rảo bộ đêm đêm, tôi luôn luôn quay về địa điểm
xa hơn xưởng đồ hộp và mấy ruộng bắp
nơi ngôi nhà nông trại nh́n về phương Nam giữa đám cây cao
tôi mơ tưởng sống đời ḿnh ở đó, mọi sự diễn ra
trong gian pḥng tầng trên: đọc sách dưới nắng trời, chuyện tṛ
với người bạn bên cốc rượu, các bài thơ dài viết nửa đêm
chan ḥa ánh trăng sao. Và chẳng có ǵ được cứu vớt
dù ở đâu bất kể. Khi đă măn nguyện với cuộc đời ấy,
tôi h́nh dung một con đường xuống phương Nam
xuyên qua ruộng bắp với lúa ḿ đến tận vịnh Mễ Tây Cơ!
Mỗi đêm tôi rảo bước để thực tập cho cuộc lữ hành đó.
CHÂN PHƯƠNG tuyển dịch.