Khi gặp nhau bên West Coast tháng 3 năm rồi, Paul Hoover kư tặng tôi tập thơ mới nhất DESOLATION: SOUVENIR (Omnidawn Publishing, California, 2012). Thi tập gồm hai phần: phần đầu là các bài thơ; phần hai là các suy nghiệm giàu tính triết học của chính nhà thơ dưới cái tên THE WINDOWS với câu nhập đề mượn của họa sĩ Ư Giorgio di Chirico : “Một ghế bành có thực tựa vào một cửa sổ có thực”. Lần lượt tôi sẽ dịch trọn phần hai của tập thơ này sang tiếng Việt để giới thiệu một phần tư tưởng của Paul Hoover. 

 

CHÂN  PHƯƠNG

 

 

   CÁC  CỬA  SỔ                                                                                                                  Paul Hoover

 

 

Thế giới gồm toàn hành động.

Hiện thực là thực hiện; kết quả của những hành động là các thế giới.

Hiện thực là bất cứ cái ǵ hiện hữu.

Chó giả thiết bị con mèo thật rượt.

Sự vật là khả thể trước khi hiện hữu.

Bằng cách nào một tai nạn thành ra sự vật?

Tai nạn xảy ra khi hành động trật ch́a.

Nếu trong câu nói xảy ra tai nạn, c̣n tin vào ư nghĩa được chăng?

Có ánh nh́n xa vời  trên gương mặt của khả tính.

Nó sẽ không bao giờ hiện hữu đúng nghĩa hay trở thành sự kiện.

Chẳng bao giờ hành động cũng là hành động.

Bạn thích cái nào, sự vật hay trạng thái của nó ?

Cái phần thiếu hụt về thời gian-  các vật thể sẽ bù lại bằng không gian.

Một vật thể là hiện thực đang ngóng chờ hành động sắp tới.

Nó có thể chờ một thời gian dài.

Thời gian tươi mới nhờ các vật thể cho dù chúng hư hoại dần.

Bạn không thể t́m được một ví dụ cho thấy thời gian già đi.

Mỗi giây, thời gian mỗi mới.

Vậy mà trong chúng ta có những người cảm thấy chán ngấy.

Những ǵ tôi tưởng tượng được đều khả dĩ.

Nhưng có thể không thực.

Khả tính là một cội nguồn của vui thú.

Các đồ chơi của chúng ta đă bày ra.

Nhưng nhiều lúc chúng ta không làm ǵ được.

Không hành động là phí phạm khả tính.

Hành động là phí phạm điều bất khả.

Sự vật có bản lề, chúng xoay cả hai chiều.

Bởi vậy các cánh cửa có phép lạ.

Các giáo sĩ của bức tường.

V́ sao ta bảo các ư tưởng có phương hướng?

“Tôi đang suy nghĩ theo chiều hướng ấy.”

Một xâu ư tưởng cũng giống một màn rượt đuổi.

Ư tưởng này xô ư tưởng kia rơi ra ngoài lề.

Công việc của thời gian là làm hoài không được nghỉ.

Vật thể chỉ hữu dụng trong một hạn kỳ.

Một lúc nào đó chúng sẽ tàn phai.

Chúng là đám nhân công kiên tŕ trong các vườn nho của không gian.

Ta không thể tưởng tượng một cái ǵ, nếu trước đó ta chưa thấy nó.

Ví dụ, một cây thông.

Nếu chưa từng thấy chiếc thuyền, bạn sẽ miêu tả nó thế nào?

Nói ra là làm cho thấy được.

Lần đầu nh́n thấy một điều ǵ cần có óc tưởng tượng.

Bạn đang t́m hiểu về khả tính của nó.

Sau đó nó trở nên có thực.

Con cá đuối lượn qua vùng nước cạn.

Đàn chim cánh buồm đậu vách đá.

Bạn có thấy điều tôi muốn nói?

Nói ra điều bạn thấy c̣n khó hơn.

Một trái lê khả dĩ trên cái đĩa khả dĩ.

Một bầy cá khả dĩ.

Tại sao ta nói “các vật thể có thời hạn”?

Gọi thử tên một vật thể hiện diện ngoài thời gian.

Có lần tôi tặng một chục đóa hồng có thời hạn.

Vật thể cố nhiên chiếm dụng không gian.

Đôi t́nh nhân quần nhau trên giường để cùng chiếm một không gian và thời khắc.

Không có tự do cho sự vật được định danh.

Chúng mắc kẹt không thoát ra khỏi chúng.

Ví dụ, bạn không thể đặt tên khác cho một vật.

Như thế sẽ làm biến dạng thế gian.

Bạn gọi “cây kéo” bằng tên khác thử xem?

Cái áo đầm màu đỏ mang một lịch sử.

Một thế giới lớn lên quanh nó, nó là thần thánh trong thế giới ấy.

Muốn biết một vật thể, bạn phải thấy được tương lai của nó.

Nhiều thứ vật thể nằm trong miệng ta như trẻ con.

Chúng có mùi vi tṛn hay vuông, mềm hoặc cứng.

Ta nh́n thấy bằng miệng.

Bạn  chẳng thể biết một vật nếu không biết tên gọi của nó.

Tên đổi, vật cũng đổi.

Phía trước nó , một thế giới mới mở ra.

Hỡi những từ mang ư nghĩa nông nghiệp bị lăng quên!

Chuồng cu với lưỡi cày.

Tên gọi khiến sự vật có thực.

Kể cả điều tưởng tượng.

Nobodaddy. Uncle Sam.

Vật thể nhiều thứ có tính riêng tư.

Chúng trốn biệt dù nằm trước mắt ta.

Đời sống riêng tư của chúng hiển nhiên chẳng liên can ǵ với ta.

Những vật thể bên cửa sổ nh́n ngắm ta.

Những vật thể bất khả, không bao giờ hiện ra cho thấy.

Chúng ta đặt tên một vật khi nó hoạt động giống như vật nó mang tên.

Nó có nhịp điệu và hệ thống riêng của nó.

Có vài hệ thống trong suốt.

Chẳng hạn, các đồng hồ.

Mọi người đều biết cái ǵ diễn ra bên trong chúng.

Sự trong suốt là một cách cải trang của thế gian.

Ta không thể biết được trọn vẹn về bất cứ thứ ǵ.

Hoặc chỉ biết được một ít về mọi thứ.

Đầu óc chỉ có thể xử lư mỗi lúc một việc.

Mở đầu, phần giữa, kết cục.

Bạn có thể gọi tên một đứa bạn thứ tư thời niên thiếu?

Chúng ta không phải là những sinh linh vô giới hạn.

Cũng chẳng có vật thể vô giới hạn.

Vô biên chỉ là một ư niệm để mang vũ trụ đến gần.

Nhưng vũ trụ bất cần và vung văi các quan tâm của nó.

 

(c̣n tiếp)