CHÙM THƠ SALVATORE QUASIMODO (Nobel Văn Chương 1959)
Nhà thơ nước Ư Salvatore Quasimodo (1901 -1968) là một trong những tiếng thơ trữ t́nh hàng đầu của thơ thế giới trong thế kỷ 20. Ông từng là đầu đàn của thi phái Mật Ngôn (Hermetic) bắt nguồn từ thơ Tượng Trưng Pháp (Mallarmé), chủ trương tinh lọc ngôn ngữ và dùng h́nh tượng thể hiện thẳng cảm xúc tránh chữ nghĩa hoa ḥe rườm rà. Trong Thế Chiến Hai, ông bị Mussolini cầm tù v́ các hoạt động chống phát-xít. Kinh nghiệm lịch sử đó là bước ngoặt trong sự nghiệp văn học của Salvatore Quasimodo, ông
trở thành tiếng nói chứng nhân cho những năm tháng tăm tối đầy bạo lực và tuyệt vọng của nước Ư. Khi ông mất năm 1968, nền thơ Ư và Âu châu mất đi một nhà thơ của lương tâm, một tiếng nói trầm thống từng trực diện bi kịch của một thời đại.
CHÂN PHƯƠNG tuyển dịch
VÀ ĐỘT NHIÊN CHIỀU ĐẾN
Mỗi người đều đơn chiếc trên quả tim trái đất
bị một tia mặt trời đâm xuyên:
và đột nhiên chiều đến.
TẤM GƯƠNG
Nh́n ḱa! thân cây
mới nhú mầm:
sắc xanh lục tươi hơn cỏ,
bổ dưỡng cho tim:
ngỡ đă chết rồi gốc cây
nghiêng ḿnh trên rănh dốc.
Mọi thứ đối với tôi như phép mầu;
tôi là khối nước của mây
phản chiếu khoảng trời hôm nay
quá biếc xanh dưới cống mương,
và sắc xanh lục xé toạt vỏ cây kia,
mới đêm qua c̣n trốn biệt.
MÙA ĐÔNG XA XƯA
Thèm đôi tay em rực sáng
trước ngọn lửa lập ḷe;
hương thơm gỗ sồi, mấy đóa hồng
và nỗi chết.
Mùa đông xa xưa.
Bầy chim bới t́m hạt
bất ngờ hóa tuyết.
Từ ngữ cũng vậy:
một chút mặt trời;
thoáng vinh quang ánh lên,
rồi sương khói; với cây cối,
khí trời, và đôi ta, buổi sớm.
VÀ EM MẶC ÁO TRẮNG
Đầu cúi xuống em nh́n tôi
trong chiếc áo trắng,
và từ sợi vải buột lơi bên vai trái
một trái vú nở bung.
Tôi không kham nổi
thứ ánh sáng lung linh
phủ lên đôi tay em trần trụi.
Tôi lại thấy em. Những chữ em nói
nhanh, khô gọn,
nâng tinh thần tôi lên
dưới gánh nặng cuộc đời
chỉ là tṛ xiếc đối với tôi.
Thăm thẳm con đường
gió luồn theo
những đêm tháng Ba kia,
và đánh thức chúng ta
y như lần đầu
xa lạ.
TÔI LẠI NGHE TIẾNG BIỂN
Đă nhiều đêm rồi tôi nghe lại âm thanh của biển
dâng lên hạ xuống khẽ khàng trên những bờ cát phẳng
Từ thời gian vọng lên một lời nói
giấu kín trong tim óc; cùng tiếng hải âu
kêu không ngừng nghỉ, có thể là
lũ chim cắt bị tháng Tư
rù quyến quay lại ruộng đồng.
Trước kia có một thời
em từng gần tôi với lời nói ấy;
ước ǵ giờ đây chút hoài niệm về tôi
có thể vọng đến em
tựa biển kia trong tăm tối th́ thầm.
CHỮ
Em cười nhạo tôi, kẻ tự hành xác v́ chữ,
kéo mấy thân cây du uốn căng quanh tôi,
các hàng dậu trời xanh và những ngọn đồi
cùng tiếng nói của sông suối lắt lay,
phí hoài tuổi trẻ của ḿnh
cho màu sắc với mây trời
ngập trong ánh sáng.
Tôi sành em. Bơ vơ trong em
sắc đẹp nâng đôi vú em lên,
vun tṛn hai mông và mềm mại
tỏa khắp chỗ kín ngượng ngùng,
nương theo các h́nh dáng hài ḥa
tuôn xuống mười vỏ ốc của chân em tuyệt mỹ.
Nhưng khoan đă; nếu tôi chiếm đoạt em,
Em cũng hóa thành chữ của tôi, và sầu muộn.
Tuyển dịch từ QUASIMODO, Selected Poems, bản Anh ngữ của Jack Bevan, Penguins Books, 1965.