Năm nay 84 tuổi, George Steiner là một văn gia-học giả tiếp nối truyền thống của những hommes de lettres từ thời Âu châu Phục Hưng. Sinh ra và lớn lên tại Paris, ông học và lấy bằng Tú Tài Pháp trước khi làm di dân Do Thái sang Mỹ, nơi ông được đào tạo tại hai đại học Chicago và Harvard trước khi đi vào sự nghiệp giảng dạy và trước tác tại Oxford, Princeton, Harvard, và viện đại học Genève ở Thụy Sĩ.
Luận án tiến sĩ về tiểu thuyết Nga so sánh Tolstoy hay Dostoievsky của George Steiner đă trở thành sách bỏ túi quen thuộc trong giới sinh viên ngành Văn, cũng như chuyên khảo After Babel về dịch thuật của ông. Am tường ngôn ngữ với văn học Pháp, Đức, Anh cùng văn hóa cổ đại Hi-La, ông là một trong ít tiếng nói có uy tín quốc tế về số phận của các môn học nhân văn trước sức áp đảo của thời đại văn minh kỹ thuật khi lá cờ khoa học trở thành thống soái. Kinh nghiệm bản thân với chính sách tuyên truyền lừa bịp thời Nazi- Hitler giúp ông rèn luyện một ư thức phê phán khắt khe đối với các lạm dụng ngôn ngữ v́ ngôn ngữ theo Steiner là “tinh hoa của nhân tính” (quintessence of our humanity). Nhiều năm chung đụng với trường phái phân tích triết học Anh (analytical philosophy) ở Oxford khiến ông cảnh giác trước tính chất hạn hẹp khô khan của óc duy lư thực nghiệm, cần được bổ túc bằng chủ nghĩa nhân đạo không tưởng và các suy nghiệm siêu h́nh của văn minh Do Thái.
Cũng như Todorov vài năm vừa qua trong cuốn La Littérature en Péril, hoặc Susan Sontag và Hans M. Enzensberger trước đó đă báo động về sự vận dụng thái quá của lư luận và các khái niệm trừu tượng (một phần vay mượn từ các khoa học chính xác) trong nghiên cứu- phê b́nh văn học và mỹ thuật, George Steiner kêu gọi chúng ta - những người yêu quí văn chương – chú tâm đến sự hiện diện của các tác phẩm, đọc thẳng tác giả không qua sự trung gian lắm lời của lư luận.Có lẽ tập hợp các bài giảng trong cuốn Real Presences (University of Chicago,1989) là lời phản biện sâu sắc nhất của ông chống lại tật đa ngôn của minh giải luận cộng thêm sự lạm phát của đủ thứ diễn ngôn cùng kư hiệu, một dạng bệnh lư của ngă tính hiện đại. Tóm lại, George Steiner đề xướng một thứ thần học của văn chương, nâng tính nhân văn của sáng tác phẩm lên mức siêu phàm và yêu cầu ở người đọc sự chiêm nghiệm tôn nghiêm trước chân lư do ngôn từ truyền đạt.
CHÂN PHƯƠNG giới thiệu và trích dịch.
TOẠ ĐÀM VỚI GEORGE STEINER
Nicolas WEILL ghi chép trong mục Văn Hóa và Ư Tưởng (Culture&Idées) trên nhật báo Le MONDE, ngày thứ Bảy (18-5-2013).
Ta đang chứng kiến sự lui bước của Âu châu như một ư niệm. Ông có thấy lo âu trước sự thoái trào này?
Đương nhiên, nhưng sự bi quan ở tôi có chừng mực. Bởi lẽ Âu châu như ta nh́n thấy vào năm 2013 này cũng là một phép lạ. Chúng ta ngồi bên nhau tṛ chuyện giữa Cambridge, sau khi hai trận thế chiến phá nát lục địa; rồi vụ diệt chủng Do Thái; bốn vạn lính Anh quốc đă bỏ mạng vào buổi sáng đầu tiên trong trận Passchendaele năm 1917 ! (...) Ta có quyền nghĩ rằng Âu châu lúc đó đă tiêu vong. Các nền văn minh lớn khác đă tắt lụn, và Paul Valéry từ năm 1919 đă tiên đoán ngày tàn của văn minh chúng ta.
Dù sao th́ cảnh quan sinh hoạt của trí tuệ phương Tây cũng đă chuyển biến rất nhiều.
Chiếm ưu thế hiện nay là các ngành khoa học chứ chẳng phải những bộ môn nhân văn. Khi đến Princeton (New Jersey-USA), tôi cư ngụ trong “ngôi nhà” của Einstein; sau đó ở Cambridge (Anh quốc) tôi đă chọn lối sống giữa các bậc vương hầu của khoa học. Các ngành khoa học là mũi véc tơ lớn của tương lai. Cho dù ta thấp kém trong lĩnh vực này, ta cũng như thể được hội nhập vào một ê kíp đang vươn lên, như trên thang điện tự xoay.
Một trong các nỗi buồn to tát của tôi là khoảng cách ngày càng lớn giữa sự hiểu biết về khoa học chính xác của kẻ ngoại đạo với chính những người thật sự nắm được tri thức này. Như Galilée từng khẳng định, không những thiên nhiên “ nói bằng ngôn ngữ toán học” mà c̣n nói bằng toán học cao cấp,và thiên hạ không c̣n khả năng với tới. Bản thân tôi, tôi chỉ có thể phóng dịch được những ǵ giới khoa học khảo sát bằng những ẩn dụ - chốn trú náu cuối cùng của sự dốt nát. (…)
Có phải khoa học đă lấn lướt nhân tính, thắng luôn chủ nghĩa nhân đạo?
Có thể. Nhưng đồng thời Heidegger – tên khổng lồ hung tợn ấy – đă có lư khi cho rằng các ngành khoa học rất mực tầm phào (extrêmement triviales). Khoa học chỉ đưa ra những giải đáp. Nhận xét này tuyệt diệu, không tha thứ được và làm rối trí một cách sâu xa, bởi v́ nó chính xác khi cho rằng các bước tiến của khoa học không thay đổi được thân phận rốt ráo của chúng ta, cho dù ngành y học đă biến mối quan hệ giữa cái chết với chúng ta một cách triệt để. Hôm nay khi gần đến phút cuối đời, tôi bám víu vào một câu nói đùa … quen thuộc trong các nhóm người yiddish ở Brooklyn, New York: “Có một đấng chúa trời hay không? – Có chứ, nhưng đấng ấy chưa sinh ra”. Mấy chữ “pas encore…” ấy trao cho tôi một sức mạnh nội tâm nào đó.
Trong quyển “Thi ca của Tư tưởng” (Gallimard,2011), ông đă cho thấy là mọi lư thuyết, dù trừu tượng đến đâu, vẫn phụ thuộc vào nhạc điệu và tiết nhịp của nó. Đây có phải là một cách thu hẹp vực sâu chia cách công việc lư thuyết của nhà phê b́nh với một tác phẩm văn chương?
Trọn đời tôi vẫn cảm thấy có một vực sâu giữa người sáng tạo với người diễn giải - dù là kẻ tài t́nh nhất. Lời b́nh phẩm dù xuất thần nhất cũng là thứ kư sinh (parasitaire) so với điều bí ẩn của sáng tạo. Một bí ẩn chúng ta không tài nào thấu hiểu, cho dù đă đặt mọi kỳ vọng vào các lư giải tâm lư học hay năo bộ học. Cái ǵ đă kích động cái nhíp c̣ của tuyệt đối (le déclic de l’absolu) ở người nam và người nữ khiến họ sáng tạo nên những nhân vật sinh động hơn chính chúng ta: Phèdre, Falstaff, Hamlet, Bérénice? Và bên cạnh các nhân vật ấy chúng ta chỉ là những bản sao mờ nhạt? Cái ǵ đă lấy hư cấu làm đầy hiện thực? Cái ǵ khiến những bức tranh phong cảnh của một đại họa gia trở nên thích mắt và thuyết phục hơn nhiếp ảnh đối với người xem? ( dù tôi vẫn khâm phục môn nhiếp ảnh). Cái ǵ khiến cho Claude Lévi-Strauss có lư khi ông nói: “Sự phát minh ra giai điệu, bí ẩn tột cùng của các khoa học nhân văn” ? (…)
Ông không nghĩ rằng quá tŕnh sáng tạo cũng phụ thuộc vào công chúng hoặc các nhà phê b́nh khi tác phẩm được tiếp nhận?
Không. Tác phẩm không cần ai cả. Walter Benjamin từng viết rằng một tác phẩm có thể nằm ngủ năm trăm năm trước khi t́m được một độc giả: tác phẩm vẫn tươi trẻ măi măi. Vậy th́ ta không thể giả thiết là sự tiếp nhận đă tạo nên tác phẩm. Như nhạc của Vivaldi đấy, hiện giờ là cái nền âm thanh của đời sống thường ngày.Trong một thời gian dài trước đây, bói không đâu ra một bản nhạc hay một kư âm của Vivaldi! Đến thế kỷ 20 người ta mới khai quật ông lên từ đáy lăng quên. Tôi cho rằng chúng ta đă có duyên may đón nhận được tác phẩm chứ không phải ngược lại.
Đương nhiên là có những bút kư phê b́nh đă trở thành kinh điển. Nhưng thiên hạ có c̣n đọc Contre Sainte-Beuve của Proust chăng nếu quyển sách này không do chính tay Proust viết ra? Cho nên ta phải khiêm tốn một cách thận trọng trước sự khác biệt ấy. Tôi nói riêng điều này với những ai dám bảo là sự giải cấu hay bàn luận về một tác phẩm cũng quan trọng ngang với bản thân tác phẩm : Me-sừ Steiner ngày đêm gần như không thể thiếu Racine, nhưng Racine th́ hoàn toàn chẳng cần ǵ đến Me-sừ Steiner. Quên mất sự phân biệt này chỉ trong một giây là phản bội , c’est cela la vraie trahison des clercs (đó là sự phản trắc thật sự của đám thư lại).
Các kỹ thuật như Internet có cải tiến khái niệm tác giả (notion d’auteur) không?
Internet thay đổi vị thế của tác phẩm ở chỗ nào? Có xuất hiện trở lại chăng sự sáng tạo tập thể? Ta sẽ quay về với tính nặc danh? Nói cho cùng, Hô-me là kẻ nặc danh. Và ta gần như chẳng biết ǵ cả về Shakespeare, vậy mà me-sừ nhỏ người ở Stratford-upon-Avon kia hiểu biết nhiều hơn chúng ta về hầu hết mọi thứ. Rất có thể là thời kỳ của những ngă tính vĩ đại (grand “ego”, grand “moi”) đă khép lại. Chung qui nó rất ngắn ngủi. Beethoven có ư thức ḿnh là Beethoven. Nhưng tôi không nghĩ rằng Shakespeare có được mảy may ư thức về sự kiện ông ta là Shakespeare.
H́nh như cách nh́n về sáng tạo văn học của ông dựa vào sự phân biệt giữa tác phẩm nghiêm túc và tác phẩm giải khuây. Khi hai loại này nhập lại - như đôi lúc trong điện ảnh, ta có thể bớt bi quan về tương lai của tác phẩm nghệ thuật chăng?
Tôi xin nhận tội khi đă không hiểu rằng điện ảnh có thể là h́nh thái quan trọng nhất trong nền mỹ học hiện đại. Cha tôi là loại trí thức cựu học, thời lycée trường Pháp cho đến những năm đại học tôi đă theo các môn truyền thống. Cũng như tôi không thể hiểu ban nhạc Beatles đă gây ra một cuộc cách mạng toàn cầu về mặt nào. Tôi từng nói về phép lạ của sáng tạo, nhưng ta cũng thấy phép lạ của loại sách ăn khách (best-seller). Do đâu mà Harry Potter - sản phẩm thuần túy của khí quyển, từ vựng và ngữ pháp các trường công lập ở nước Anh - lại có sức thu hút đến như thế? Dĩ nhiên là có liên hệ với lối truyện đại trường thiên (les grandes sagas), nhưng bấy nhiêu đó chưa đủ. Tôi không nhận ra yếu tố khoa học giả tưởng trong ḷng huyền thoại về Vua Arthur và bị mấy con tôi chê trách về điểm này. Tương tự như vậy, tôi từng yêu thích vô cùng các bậc thầy của nhạc jazz thời tôi c̣n là sinh viên ở Chicago, thế rồi xuất hiện heavy rock(nhạc rock cường điêu ồn ào), art conceptuel (nghệ thuật ư niệm), và tôi chịu thua. Con người có một cuốn lịch nội tâm, và đến lúc nào đó trong ta là tháng Chạp. Ta không thể yêu mọi thứ và hiểu được tất cả. Không nên cố sức ḷe đời, như môn xă hội học thẩm mỹ bên Pháp thường làm ra vẻ. Con người có cuốn lịch thần kinh hệ (calendrier neurophysiologique) của ḿnh và phải biết tôn trọng nó.
Ông từng viết: “Không phải là điều ngẫu nhiên nếu các nhà thơ ưa ca tụng bọn lănh tụ độc tài “. Phải chăng ông có ư bảo rằng thể chế dân chủ không tạo được một bối cảnh thuận lợi cho thiên tài văn chương cũng như cho thể loại bi kịch?
Khi đảng phái của Péron (có xu hướng độc tài) giành lại quyền hành ở Argentina, đại sứ Hoa Kỳ đă đề nghị với Jorge Luis Borges (lúc ấy đang cai quản thư viện thủ đô Buenos Aires) nên qua Mỹ để nhận cái ghế giáo sư Harvard mang tên nhà thơ Charles Eliot Norton. Borges đă mỉm một nụ cười chỉ thấy ở người mù và đáp:” Ngài đại sứ ạ, ngài không thể hiểu rằng tra tấn là mẹ của ẩn dụ.” Một câu nói kinh khiếp nhưng mà đúng. Nhà thơ lớn, người cầm bút là kẻ đối kháng đúng nghĩa nhất. Ông dựa vào điều khả dĩ chống lại cái có thật (Il oppose ce qui pourrait être à ce qui est). Nhưng trong một xă hội mà “anything goes” ( muốn làm ǵ cũng được) theo cách dùng chữ của triết gia Mỹ Richard Rorty, thi sĩ khó mà sáng tạo một phản thế giới (contre-monde).
Do đó mà ông quan tâm đến những kẻ bị nguyền rủa trong văn học như Céline, Rebatet, Heidegger, từng thỏa hiệp với chủ nghĩa phát xít hoặc nazi ?
Tôi từng là một trong số ít người đầu tiên đă nói: “Buổi chiều họ hát nhạc Schubert và buổi sáng họ tra khảo tù nhân.” Tôi muốn hiểu cho ra lẽ nhưng chưa bao giờ tôi t́m được câu trả lời. Anh biết là tôi đă khảo cứu không ảo tưởng về Heidegger như thế nào. Tôi chỉ được một giải thích tuyệt vời duy nhất từ người môn đồ của ông ta là triết gia Hans-Georg Gadamer (1900-2002) : “Steiner ơi Steiner! tại sao anh phải đập đầu bóp trán? Martin Heidegger từng là nhà tư tưởng vĩ đại nhất, vừa là con người ti tiện nhất.” Có thể có mối liên hệ giữa nghệ thuật và tính phi nhân. Như Benjamin có nói, mọi tác phẩm lớn đều cắm neo vào sự dă man (barbarie). Tuy nhiên nỗi bí ẩn vẫn c̣n đó. Không thể hiểu là tuyệt diệu. Đặt ra những câu hỏi là dưỡng khí cho hữu thể.
(Tọa đàm ngày thứ Bảy, 11-5-2013, ở Cambridge)