ĐỌC THƠ ANNE HÉBERT
CHÂN PHƯƠNG
Anne Hébert (1916-2000) là một cây bút hàng đầu không chỉ của văn học hiện đại Canada mà của cả thế giới bao la thuộc khối văn chương Pháp ngữ. Nhờ sự hướng dẫn của cha và người anh họ, thi sĩ tài hoa St- Denys Garneau, độ 20 tuổi bà bắt đầu viết văn làm thơ. Sau thi phẩm đầu tay Les Songes en Equilibre (1942) với thi pháp trữ t́nh tượng trưng lấy nội tâm làm đối tượng chiêm nghiệm, bà thành công hơn và gây được sự chú ư trong giới phê b́nh khi tŕnh làng tập thơ kế tiếp Le Tombeau des Rois (1953) . Tài năng trẻ ấy đă được Paris công nhận khi nhà thơ Pierre Emmanuel và phê b́nh gia Albert Béguin trong chuyến viếng Canada năm 1954 được dự một buổi đọc thơ của Anne Hébert.
Sự chuyển hướng kín đáo trong sáng tác thơ của bà nằm trong xu thế đấu tranh chung của dân Québec ( Canada gốc Pháp) lúc ấy đang đ̣i lại chủ quyền chính trị và văn hóa. Ẩn dụ và ư tượng trong nhiều bài thơ bà viết vào giai đoạn ấy (đọc vài bài thơ được dịch theo đây) hàm chứa khát vọng chính trị của một vùng đất bị tước đoạt lịch sử hơn hai thế kỷ. Cùng với các thi sĩ trong hai nhóm parti pris và Hexagone như Grandbois, Hertel, Hénault, Anne Hébert đă góp tiếng vào công cuộc phục hưng văn hóa, giải thoát đồng bào khỏi mặc cảm vong quốc và giải phóng giới văn nghệ Québec khỏi tiểu ngă tù túng và hoài cổ.
Nhiều nhà nghiên cứu phê b́nh ở Pháp, Canada, Mỹ đă phân tích sâu thế giới thơ Anne Hébert, phát hiện các đặc tính thẩm mỹ chủ đạo như tính trong suốt, nỗi cô đơn, cái nh́n mộng mị, sự phân cực tối đa của tâm hồn sáng tạo…Nhờ một thi pháp siêu thực nhưng không lập dị, đời sống nh́n từ khoảng cách diệu vợi của những giấc mơ đă phần nào xoa dịu các nỗi đau của chủ thể không ngớt bị phân thân v́ lư do riêng tư hay v́ ngoại cảnh. Giữa im lặng và tiếng nói không hiểu nỗi cô đơn đă trầm tích như cát đá hoặc vụt bay như một cánh chim? Khi đọc đi đọc lại những bài thơ của bà để tuyển dịch, tôi cảm nghiệm được điều khó nói, tương tự như khi đọc thơ Emily Dickinson, Octavio Paz, Yves Bonnefoy… Điều mà chỉ những t́nh nhân ngoại lệ mới trao tặng được nhau; đó là cái hôn nồng nàn buốt giá của tao ngộ và vĩnh biệt!
CHẮC CHẮN CÓ NGƯỜI
Chắc chắn có ai đó
đă giết tôi
rồi nhón gót bỏ đi
trong vũ điệu toàn hảo
không hề gián đoạn của người
đă quên đặt tôi nằm xuống
mà lại trói gô
bỏ đứng trên đường
quả tim vẫn nằm trong hộp gỗ xưa
đôi ngươi tựa hai hạt nước
long lanh trong vắt
đă quên bôi xóa quanh tôi
vẻ đẹp trần gian
đă quên vuốt cặp mắt tôi đầy khao khát
khiến chúng cứ phải mở hoài
đắm đuối
bơ vơ.
GÁI GẦY
Ta là đứa gái gầy
Ta có xương xẩu đẹp.
Ta tận t́nh chăm sóc
và thương hại chúng một cách khác thường.
Ta liên tục đánh bóng
như thể chúng là kim loại cổ.
Châu ngọc với bông hoa
giờ đă trái mùa.
Một ngày kia ta sẽ gh́ chặt t́nh nhân
biến chàng thành cái án thờ chói bạc.
Ta sẽ tự treo ḿnh
vào nơi tim chàng vắng mặt.
Hỡi không gian được lấp đầy
Vị khách lạnh giá bất ngờ chiếm ngự mi
là ai vậy?
Mi đi đứng
Mi di động
Từng cử chỉ một của mi
trang hoàng cái chết tù hăm bằng nỗi sợ
Ta đón nhận sự run rẩy của mi
như một món quà
Và đôi lúc bị
khóa nhốt trong lồng ngực mi
ta mở hé
đôi mắt ta ướt lỏng
trong khi các mộng mị lạ lùng như của trẻ con tựa hồ nước biếc xoáy tṛn.
HAI BÀN TAY
Hai bàn tay này
bên phải nắm
hoặc mở ra;
Bên trái mở
hay nắm lại.
Và tay này
không mong ngóng
tay kia.
Hai bàn tay không gắn liền,
Hai bàn tay không thể gắn liền.
Một cho đi
Một giữ lại;
Một ta biết rơ
và cái kia không biết.
Này bàn tay đứa bé,
Này bàn tay phụ nữ.
Và đôi khi bàn tay lao động này
đơn sơ như một bàn tay đàn ông.
Thế là thành ba!
Và tôi khám phá trong tôi
vô số bàn tay
vươn ra t́m tôi
như bọn lạ mặt
người ta ghê sợ
Ḱa ai là người sẽ trả lại tôi
hai bàn tay như là một?
cùng bến bờ
chúng ta chạm được
với đôi tay,
lúc chuẩn bị cho chuyến lữ hành chung
khi đă gạt bỏ dọc theo đường
tất cả các bàn tay vô tích sự...
CÁC ĐÔ THỊ NHỎ
Tôi sẽ trao người các đô thị nhỏ
Chúng nhỏ nhoi buồn tẻ đáng thương,
Các đô thị nhỏ nằm gọn ḷng tay chúng ta
khó tính hơn mớ đồ chơi
nhưng bàn tay vẫn cầm nắm dễ dàng.
Tôi chơi với các đô thị nhỏ,
Tôi lật ngược chúng
Chẳng bao giờ có người trốn thoát khỏi chúng
Không đóa hoa, không đứa trẻ nào.
Nằm phó mặc trong những bàn tay
là các đô thị nhỏ trống không
Tôi lắng nghe,
tai áp sát
vào từng cánh cửa…
Ôi các ngôi nhà là những vỏ hến câm --
trong ṿng xoáy ốc
không c̣n nghe bất cứ
âm thanh nào của gió
âm thanh nào của nước.
Chết hết, công viên và vườn tược
Trong viện bảo tàng chết
Yên giấc những tṛ chơi.
Tôi không biết người ta cất đi đâu
mớ xác chim chết cứng.
Đường xá âm vang nỗi lặng câm
tiếng vọng của chúng là một trọng khối bằng ch́
hơn bất cứ một lời đe dọa hoặc thân ái nào
trơ ĺ tŕ độn
Và tôi đây
đến lượt tôi chối bỏ
các đô thị nhỏ của ḿnh thời thơ ấu
xin tặng lại cho người
trong nỗi hiu quạnh của chúng sâu thẳm không cùng
Người nắm chụp được chưa món quà nguy hiểm đó?
Tôi xin trao các đô thị nhỏ buồn đến lạ thường
mặc t́nh cho trí tưởng tượng của người.
MỘT THOÁNG TUYỆT VỌNG
Con sông đă lấy lại
những ḥn đảo tôi yêu thích
và tôi đă đánh mất
các ch́a khoá mở toang im lặng
kư ức thơm ngát măn đ́nh hồng
đă đánh lừa tôi
điệu hát của sóng nước
chỉ là lời hứa hảo
trái tim tôi ṃn mỏi
không c̣n xê dịch với ḍng đời
CHÚ THÍCH
Anne Hébert là tác giả năm tập thơ: Les Songes en Équilibre (1942), Le Tombeau des rois
(1953), Poèmes (1960), Le jour n’a d’égal que la nuit (1992), Poèmes pour la main gauche (1997). Bà c̣n sáng tác truyện, tiểu thuyết, làm phim. Có thể t́m hiểu về sự nghiệp phong phú của bà qua internet, www.anne-hebert.com.