GIỚI THIỆU NAJWAN DARWISH
Sau khi dịch và giới thiệu trên litviet một số nhà thơ đương đại Palestine – trong đó có Najwan Darwish, tôi được thi sĩ gửi tặng thi tuyển Je me lèverai un jour/ Một ngày kia tôi sẽ đứng lên (do Antoine Jockey dịch sang Pháp ngữ, editions Al-Feel, Jérusalem,2012).
Gần đây, vào mùa sinh nhật của tôi, Najwan tặng thêm tâp thơ của Yves Berger, Destinez-moi la Palestine, do chính ông và Kamal Boullata dịch sang tiếng ả-rập; kèm với một tấm card chúc mừng.
Dưới đây là một số bài thơ tôi chọn dịch từ tuyển tập nói trên, không chỉ v́ t́nh bạn văn nghệ. Najwan Darwish, ngoài tư cách chứng nhân, c̣n là một tiếng thơ trữ t́nh tranh đấu đầy phẫn nộ, đam mê vừa giàu chất thẩm mỹ. Đây không những là bằng chứng sinh động khẳng định phẩm giá của vùng đất bị quân thù chà đạp mà c̣n là thông điệp của một tâm hồn cao quí vươn lên từ nỗi khổ đau của các dân tộc bị áp bức ở Trung Đông và trên thế giới ngày nay.
CHÂN PHƯƠNG
*
BẠN
T́m thấy mộ của hai bạn là một phút lặng nghỉ
đầy vinh quang và ánh sáng
Chúng tôi nhắc lại nhau hai bạn
đă chiến đấu ra sao đến viên đạn sau cùng
Đến hơi thở cuối
Trước khi chúng cán nát ngôi nhà
bằng chiến xa
Trên đầu ḿnh cả hai
Lúc ấy dưới mắt tôi đất đá cũng
cao quí bội phần…
Bạn ơi,
Trên trái đất này, tôi chỉ ganh tị với
hai nấm mồ của bạn.
(Amis,35)
EARL GREY
Những phụ nữ đă trồng và hái loại trà
chứa trong các hộp Earl Grey,
họ có tha thứ cho tôi chăng khi tôi uống
trong một chén trà ba thế kỷ nhọc nhằn?
Có tha thứ cho tôi các chị em của tôi
bị bán với giá hai trăm đô cho những thành thị muối?
Earl Grey
Không ai biết tên họ những đàn bà đă
bỏ xác trên nương ruộng
Earl Grey
Không ai biết tên họ đám con gái bị bán
cho các phố thị đầy kho muối
Đàn hải thuyền to, chứa đầy nỗi đau các thuộc địa,
lướt trên nước mắt của Chúa Trời
Trà này là trà của các con gái Á đông, hỡi Earl
tên cướp kia
Đồ hải tặc!
(Earl Grey,65)
CẤT CÁNH
Mi cất cánh rời quả Đất
Nhưng chẳng có cách đào thoát nào ngoài sự rơi.
Mi sẽ rơi xuống
Trên đôi chân hay giập mặt, nhưng mi sẽ rơi
Dù cho phi cơ nổ tung
Thành tro bụi hoặc mảnh vụn mi sẽ rơi
Mi bị đóng đinh vào quả Đất:
Đó là thập giá của mi.
(Décollage,79)
KÉO TẤM MÀN
Kéo tấm màn nh́n trời
Thấy các ngọn cây tranh thủ đón tṛ đùa nghịch
của làn gió
Với ư nghĩ rằng nơi đây mi là nhân vật tiểu thuyết
hoặc một giai điệu bị đám ca sĩ phí phạm…
Cái giường tốt đáng giá bầu trời
Buổi sáng ngủ nướng đáng giá một năm trong đời
Rồi từ căn pḥng khách sạn tầng cao mi nh́n
ra những mái nhà, lũ ăng ten truyền h́nh
cùng các ngọn cây
Và mi tự nhủ: Đâu là ư nghĩa cho các ngọn cây
đu đưa giữa những kiến trúc bê tông kia?
Cho dù mấy ngọn cây là niềm vui nhỏ
c̣n sót cho mi
Sự an ủi độc nhất của mi.
Lên đường đi, đă đúng ngọ rồi,
mười hai giờ trưa - buổi sáng của mi, kẻ ngủ hoài không dậy!-
Cuộc sống đợi chờ mi
(Tirer un Rideau,91)
RÉSERVÉ
Có lần tôi ngồi thử xuống
Một trong các băng ghế trống của hi vọng
Nhưng cái từ réservé
Đă cười gằn như một con linh cẩu
(Tôi đă không ngồi xuống. Cũng chẳng ai được ngồi)
Các băng ghế của hi vọng luôn luôn có người đặt trước rồi!
(Réservé,107)
GIỮA HAI CÁNH CỬA
Giữa cánh cửa có viết chữ: Địa Ngục
Và cánh cửa có chữ: Thiên Đàng
Có khối kẻ trú ngụ mà chẳng bị tra tấn
Hay được hoan nghênh
Và không thể tả được nỗi hoang mang của họ.
Tôi từng thuộc vào một nhóm quanh quẩn
giữa hai cánh cửa và bọn tôi đă nghe
những điều bàn tán bất tận về đám người ấy.
Cho đến khi bước chân tôi nhập vào
con đường khác mà các thiên thần già nua đều kinh sợ:
Con đường của những ai bị đuổi khỏi quê nhà
Và cam phận quên đứt chuyện hồi hương.
(Entre deux portes,121)