MỘT VỆT SAO MỜ
CHÂN PHƯƠNG
Đầu thập niên 90 lúc mới dọn về ở Cambridge (Boston) tôi rất siêng lui tới thư viện Harvard-Yenching để sưu tầm thơ văn miền Nam trước 1975 trong mớ báo chí Sàig̣n cũ. T́nh cờ một hôm khi lục lọi mấy chồng bán nguyệt san VĂN, giữa vô số những câu vần điệu phần nhiều là lục bát tôi khám phá một bài thơ tự do của Nh. Tay Ngàn đăng trong VĂN số 25 (15-2-1965). Vừa bàng hoàng vừa thú vị tôi chép ngay vào sổ tay bài Đơn khúc của Liễu với tâm trạng của kẻ đang khát bỗng được uống từng ngụm suối mát. Đó cũng là lần đầu tôi hạnh ngộ với sáng tác của thi sĩ này. Cái bút hiệu nửa mộc mạc nửa bí ẩn kia trở thành dấu hỏi ám ảnh tôi. Nh. Tay Ngàn, người là ai? Đang lưu lạc góc trời nào? C̣n sống hay đă mất?
Tôi ḍ hỏi trong đám bạn hữu văn nghệ và ít lâu sau có người gửi cho tờ Quê Mẹ, (Xuân Canh Ngọ 1990), trong đó có nhiều trang văn xuôi Nh. Tay Ngàn và một tùy bút-tự sự của Phạm Công Thiện thuật lại cuộc gặp gỡ của họ ở Paris “trong thời gian cả hai đều nghèo đói và chỉ biết sống hết ḿnh với thơ văn nghệ thuật; cả hai thường lang thang suốt đêm trên những đường phố Paris, lúc nào có chút ít tiền th́ la cà ngày đêm trong những quán café ở Montparnasse hoặc ở Montmartre. Cả hai đều say sưa viết, mộng và mơ bất tận. … Có lúc dắt nhau ra bờ sông Seine, tḥng mấy chai rượu đỏ xuống nước sông, uống rượu say lướt khướt, ngâm thơ Lư Bạch và Nguyễn Du, đọc thơ Apollinaire ngay nơi chỗ ở xưa của thi nhân, ngó những cụm mây trắng ngập ngừng trên tháp chuông nhà nguyện Saint Germain-des-Prés, ngồi quán café ở Montparnasse vui cười ngó nh́n Jean-Paul Sartre dẫn cô đầm trẻ tóc vàng bước qua vỉa hè. …”
Rất có thể Đơn khúc của Liễu cũng như một số ít bài thơ khác đăng trên báo VĂN vài năm sau đó đă được tác giả chúng sáng tác trong thời gian nói trên v́ chúng mang khá đậm không khí của thơ hiện đại Paris, đặc biệt là chất trữ t́nh b́nh dân Prévert và âm vang thời gian siêu h́nh Apollinaire như mấy câu sau:
Ba giờ trưa một khúc nhạc sầu
Un jour sans toi
…
Liễu ơi Liễu
Un jour sans toi
tiếng hát cuối cùng nhỏ xuống
gạch ngói hoang tàn hồn anh
…
Đơn khúc của Liễu
Dù chưa t́m ra tài liệu hay nhân chứng nào để hỏi cho biết ngày sinh tháng đẻ tôi đoán rằng thi sĩ lúc ấy khoảng 23-25 tuổi, cái thuở thanh xuân tràn trề hoài bảo của chàng sinh viên VN say mê văn nghệ lại được đặt chân lên thánh địa của thơ văn quốc tế. Bị ma lực của thủ đô ánh sáng réo mời, tâm hồn tài hoa nhưng non bản lĩnh ấy đă hóa làm thiêu thân…”Nh. Tay Ngàn bỏ học kỹ sư không gian ở Paris, sống nghèo đói cả chục năm hoang liêu, suốt ngày chỉ làm thơ và chẳng bận tâm xuất bản.Rất ít nói và khiêm tốn, không bao giờ tự nhận là thi sĩ, dù đă làm cả ngàn bài thơ tuyệt diệu. …Nh. Tay Ngàn… dám sống cho tới nơi trọn cả nỗi đời nghệ sĩ hiu quạnh, từ chối đời sống khoa cử trường ốc, …,vợ con, việc làm, nhà cửa ấm êm, cô độc đói rét lao cả thân mệnh ḿnh vào thơ, và chỉ biết có thơ và thơ mà thôi.” Người Pháp có hai chữ POÈTE MAUDIT ngắn gọn để tôn vinh những kẻ chấp nhận mọi nguyền rủa của đời đổi lấy sự thủy chung với Nàng Thơ. Hơn cả Hàn Mặc Tử, Bùi Giáng … c̣n có thân nhân, đồng bào khi hoạn nạn, Nh. Tay Ngàn hoàn toàn tứ cố vô thân ở Pháp trong những năm tháng túng thiếu, nghiện ngập, lao phổi, điên khùng … Không hiểu những bóng h́nh phụ nữ (gái Việt, đầm Pháp, đàn bà Tây ban nha) trong những trang bản thảo của ông có an ủi, khỏa lấp được chút nào niềm tuyệt vọng và ám ảnh hư vô chủ nghĩa đă thấm vào máu thịt nhà thơ?
Rồi mùa thu rủ tôi đi xa
Tôi đi xa măi tôi rồi
Nhằm đêm hoa rụng như ánh trăng
Tan mù mù trên miệt hải ngạn
…
Ánh trăng không thành như cơn huyễn mộng
của tôi và Liên hôm nay
…
Một mùa thu trước Liên xa
Không c̣n ǵ nhớ lại nữa đâu
Những hàng sao im nguyên ngày ấy
của con đường Trà Vinh sớm hôm
Không c̣n ǵ ru nhớ làm chi
…
Mười hai năm thành điệu gió mùa
Thổi lưu lạc mỗi hôm mù mắt
Trên h́nh bóng Liên xa và xa
Như hiện thân tôi trôi và trôi
Măi măi với muôn ngàn ánh sao giá lạnh
…
Nỗi Liên đen tối vô cùng
Cũng nhờ bài viết nói trên của PCT tôi biết được hung tin trễ tràng: “Nh. Tay Ngàn đă chết từ lâu,…chết lúc mới ngoài ba mươi tuổi, tự tử. Người ta tung cửa pḥng anh và biết rằng anh đă chết bốn năm ngày. Ông bạn thi sĩ ở G. đă khổ công lắm mới t́m được cả ngàn trang văn thơ của Nh. Tay Ngàn. Cả một sự nghiệp thi văn vĩ đại hăy c̣n quạnh hiu đâu đó mà chưa có ai hay biết..”
Vài đoạn trích trong bài giới thiệu sơ lược này kèm theo mấy bài thơ dưới đây dĩ nhiên không thể đại diện cho sự nghiệp sáng tác của người quá cố . Hi vọng giới yêu thơ VN sẽ hợp tác để khôi phục lại tác phẩm, đặc biệt là thơ, của Nh. Tay Ngàn; đồng thời bổ túc cho một chương văn học sử VN hiện đại do những nhà thơ Việt từng sinh sống ở Pháp như Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Trần Hồng Châu, Nh. Tay Ngàn…tạo dựng nên và đang đứng trước nguy cơ bị phủ nhận hay quên lăng.
ĐƠN KHÚC CỦA LIỄU
ba giờ trưa một khúc nhạc sầu
Un jour sans toi
những chiếc lá tàn rơi không cần một làn gió
điếu thuốc đốt lên h́nh bóng
và chợt tắt bơ vơ
kỹ niệm xuống đêm
ở chót vót của tuyệt vọng
anh im ĺm ngắm hai tay không
Un jour sans toi
người thủy thủ già rời bỏ biển khơi
chiếc tàu đă ch́m
căn pḥng nhuộm đầy bóng tối
mền gối bắt đầu ră mục
Liễu ơi Liễu
Un jour sans toi
tiếng hát cuối cùng nhỏ xuống
gạch ngói hoang tàn hồn anh
cùng tiếc thương mọc lan trên đó
Un jour sans toi
một ngày người thủy thủ già
vô vọng chuyến ra khơi
Liễu ơi Liễu
BÀN TAY
trên cao xa kia nhớ nhung nàng chỉ c̣n mảng trời tím lạnh.
buổi chiều tắt dần tắt dần tiếng chuông,
cây lá sẩm.
nàng vuốt lấy mặt nàng,
thấy ngón tay nàng ướt đẫm.
những đớn đau lớn theo đời nàng
nàng đếm măi trên bàn tay
(ôi những ngón tay yếu ớt như côn trùng đơn chiếc)
c̣n thanh xuân nàng ư?
nàng hỏi sao mùa đông loài chim ủ rũ
ôi những chiều những chiều kéo nàng vào bóng tối
những xót đau khó hiểu của hồn chàng,
chàng đặt giữa vũng tay nàng,
chàng bỏ chàng đi;
rồi mặc t́nh cho con lốc bi thương cháy rực.
nàng vuốt lên thân thể nàng;
ôi bàn tay em đâu là cánh tay anh.
nàng hôn lấy hôn lấy từng chiếc móng.
ở cuối đêm khuôn mặt chàng xanh.
CHIM
một sáng thức dậy nàng biết nàng không c̣n tiếng hót
mặt trời nàng nh́n thẳng
cũng hóa đen
rồi mùa rét mang về nhớ nhung
ḷng nàng mướt xanh
vết thương tự đấy mưng lên
nàng muốn bay vào miền ấm áp của ḷng chàng
nhưng cánh nàng đă mỏi
và bắt đầu nàng gọi
rừng chập chùng
căn lầu vườn cây bốc cháy
đêm ơi đêm anh ơi anh
CHÚ THÍCH
Giai phẩm Quê Mẹ ( Xuân Canh Ngọ 1990) với tùy bút của Phạm Công Thiện, Tuyết vẫn bay đêm cuối năm, 83-87; và truyện của Nh. Tay Ngàn, Ngồi như nỗi gió reo cuồng,88-94, là tư liệu cung cấp nhiều thông tin quí về đoạn đời ở Pháp của nhà thơ. Bài trường ca Nỗi Liên đen tối vô cùng trong Tạp chí Thơ 13 (Thu 1998), 17-23 bổ túc thêm vài chi tiết
tiểu sử về giai đoạn thiếu thời và mối t́nh đầu (?) của Nh. Tay Ngàn ở Trà Vinh. Cảm ơn Trần Hoài Thư & Phạm văn Nhàn đă sưu tập hai bài thơ Bàn Tay, và Chim, trong bộ tài liệu Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến, Thư Ấn Quán xb, 2006. (Bạn đọc nào có thêm tư liệu, thông tin ǵ về Nh. Tay Ngàn xin vui ḷng liên lạc với tôi.) CP