I N É D I T S

 

                                                                       CHÂN  PHƯƠNG

 

 

Bên cạnh tiếng Việt mẹ đẻ tôi may mắn được học tiếng Pháp từ nhỏ. Khi bắt đầu tập  tành làm thơ tôi cũng sử dụng song song hai  thứ tiếng và dần dà hiểu ra các nét  đặc thù của mỗi ngôn ngữ về ngữ điệu và văn hóa mà ai làm công việc dịch thuật, nhất là dịch thơ, lắm lúc phải bị bó tay trong cố gắng truyền đạt. Đối với người yêu quí thơ khó có cách  nào khác hơn là đọc thẳng nguyên  tác  để thưởng thức và chụp bắt cái thần của từng chữ từng câu. Bởi thế  tôi  mạo muội đưa ra chùm thơ tiếng Pháp sau đây,kèm phần dịch thơ của nhà văn Nam Dao.  CP 

 

Nam Dao dịch Chân Phương, đọc thơ mà ngỡ gặp Apollinaire, đang  ….uống vin de table nhà họ Phan  ăn mày ! ND.

Chân Phương hiệu đính.

 

 

EXTASE  -  HOAN LẠC.. 1

ART POÉTIQUE  -  NGHỆ THUẬT THƠ.. 2

VAN  GOGH.. 2

APPRENTISSAGE  -  HỌC.. 3

HENRI  MICHAUX.. 3

QUOTIDIEN  -  HÀNG NGÀY.. 4

FEMME  -  ĐÀN BÀ.. 4

À  LI  PO  -  GỬI LÝ BẠCH.. 5

POSSÉDÉ  -  MÊ ÁM... 5

MÉTAMORPHOSE  -  HOÁ THÂN.. 6

BALANCE  -  CÂN BẰNG.. 6

CERCLE  -  VÒNG TRÒN.. 7

 

 

EXTASE  -  HOAN LẠC

 

la pierre renait

son coeur bat

la mer a soif

le feu a froid

 

en chute libre

la lumière se laisse rattraper

 

ivre d’éternité

je vais franchir

les horizons de la créativité

 

quand s’amène

 

          ce papillon de papier

 

tout redevient

fumée  

 

Đá sống lại

tim đập

biển  nổi cơn  khát

lửa  ớn  lạnh

 

Buông rơi theo sức hút

ánh  sáng bị đuổi bắt

 

Say vĩnh cửu

tôi  sắp vượt những chân trời sáng tạo

 

 

Khi ấy lượn qua

 

cánh bướm giấy

 

tất cả

trở thành khói

                   bay

 

 

ART POÉTIQUE  -  NGHỆ THUẬT THƠ

 

la pierre

qui a su enfin

vaincre la pesanteur

 

s’est posée

sur la main

 

tandis que brille

l’astre inconnu

au zénith du poème

 

funambule sans corde

 

vers le vide

se creusant en toi

 

tu fais

ton premier pas

 

Hòn đá

          cuối cùng thắng được sức hút

đã bay đậu trên tay

 

 

trong lúc ngôi sao lạ

                             sáng rực

nơi thiên đỉnh

                             của bài thơ

 

 

Kẻ  làm xiếc đi dây không đợi sợi dây căng

         

nhắm vào khoảng trng

cõi lòng

                                               

bước đầu

                                                          mi chập chững

 

 

VAN  GOGH

 

une paire de chaussures

 

une terrasse

de café

 

le soleil en coma

 

*

 

quoique le regard soit maintenant

plus vide

 

il faut longtemps

le contempler

 

pour le voir saturé

 

                   de cette grande toile

                              sans portrait

 

signé

Buddha

 

Một đôi giầy

 

          ngoài sân quán café

 

 

 

Mặt trời ngất xỉu

 

*

 

          mặc cho ánh mắt  trở mầu hoang vắng

vẫn cứ nhìn

 

                   thật lâu

cho đến độ  nó bão hòa

 

                    khung vải rng  vng chân dung

 

Phật

 

 

 

APPRENTISSAGE  -  HỌC

 

ne t’apprête pas davantage

 

viens t’allonger là

contre l’herbe

 

bientôt l’insecte

viendra

 

oublie

religion et philosophie

 

il n’en a guère besoin

 

observe sa facon calme

de régner

en ce monde d’oubli

 

ce sera ta première

lecon de survie

 

Thôi đừng cố

hảy cứ trải mình trên thảm cỏ

 

 

 

Chút nữa

          sâu bọ sẽ kéo đến

 

Quên,

          quên đi

những giáo điều và những câu triết  lý

chẳng mấy cần

 

Hãy nhìn với cách thế lắng trầm

          chúng ngự trị

                   thế giới của lãng quên

 

Đó là bài học đầu tiên

          để víu vào

                             tồn tại.

 

 

 

HENRI  MICHAUX

 

le double sens instauré

surgissent les lunes du chaos

 

à reculons

s’envolent les oiseaux

 

décapité en songe

un homme se retrouve sans tête au réveil

 

un autre incrédule

recommence l’expérience

 

dégringole cette fois-ci dans un trou

et n’apparait plus quand on l’éveille

 

 

 

seul dort tranquille

le poète

 

ayant sur lui

tous les masques nécessaires

 

Chập chùng trăng hỗn mang

          ngữ nghĩa nước đôi

                  

                             chim bay lui

 

 

Cổ cắt trong mơ

          một kẻ thức giấc mất đầu

 

Một kẻ khác

          hàm hồ

                   thử nghiệm lại

Rơi,

 rơi tụt

                   lần này xuống hố thật sâu

đến mất tích khi có người đánh thức

 

Chỉ nhà thơ

                   ngủ bình yên

Mặt che đủ thứ mặt nạ cần thiết

 

 

 

 

 

QUOTIDIEN  -  HÀNG NGÀY

 

les images passent

 

l’éternité

se dé-calque

 

miroir après miroir

traduction bâclée

 

ligne après ligne

villes et femmes s’éparpillent

 

te camoufler?

Bóng/

          qua đi

Vĩnh cửu/

          đọng lại

 

Gương tiếp  gương

Dịch/

          hỏng/

Dòng nối tiếp dòng

          thành phố với đàn bà vương vãi

 

Mi còn trốn/

                   ở đâu ?

 

 

 

 

FEMME  -  ĐÀN BÀ

 

longtemps

j’ai planté des cactus

autour de mon silence

 

suspendu des cages vides

en ma mémoire

 

dans mes rêves

je vais fermer à clef

portes et armoires

 

le jour de mon anniversaire

je me déclare absent

 

…c’est alors que s’amène

la femme nue

du printemps sans désir

 

que faire ?

Lâu rồi

          tôi trồng hoa sa mạc

chung quanh im lìm

 

Lồng chim trống tênh móc vào trí nhớ

trong mơ tôi khóa thật chặt

                                      cửa, tủ

 

 

 

vào ngày sinh nhật tôi,

tôi gào lên

tôi vắng mặt

 

…thì người đàn bà trần truồng

          với mùa xuân không còn ham muốn bước vào

 

 

Tôi hỏi tôi

Ơ, giờ đây

làm sao?

 

 

 

 

À  LI  PO  -  GỬI LÝ BẠCH

 

s’en vont les oies sauvages

                   et les saisons d’orage

 

O clapotis du temps

                   qui use la mort en moi

 

j’ai vécu en sursis

                   grâce à la poésie

 

comme une oie sauvage

                   parmi des songes d’orage

 

Ngỗng trời bay đi

                   những mùa giông bão

 

Tiếng vỗ thời gian bào mòn một đời

 

 

Ngỗng  bay lạc lối mù sa, xa tít

Ta bám vào thơ để sống, thơ ơi…

 

 

 

 

POSSÉDÉ  -  MÊ ÁM

 

le néant ne m’est plus étranger

 

nu comme l’océan

je déferle sur cendres et pierres

 

comme une vierge

jouit la terre

dans mes bras de titan

 

 

mon désir est un héliotrope géant

 

éternité battant

sa propre mesure

 

je m’accouple au néant

 

Hư vô ư, đâu có gì lạ

 

Trần truồng như biển

          tôi  giong buồm trên tro tàn và đá  sắc

 

Như đứa gái đồng trinh

          ứ tràn nhục cảm

vòng tay khổng lồ ôm tròn trái đất

 

Ham muốn

là đóa hướng dương quá to

 

          thiên thu mãi mãi đánh nhịp

 

Tôi tiến hành chuyện đôi lứa

                             …cứ thế, 

 

với hư vô.

 

 

 

 

MÉTAMORPHOSE  -  HOÁ THÂN

 

de lambeaux                   en lambeaux

 

ta chair

                   se dissipe

 

 

 

sur le bucher des mots

 

en accéléré

 

ma mémoire

                   part en fumée

 

 

entre le proche

et le lointain

 

 

la nuit

bifurque

 

Từ mảnh này sang mảnh kia

 

thịt da em tan tác

 

 

 

 

Trên đống lửa

          con chữ dướn lên

 

 

                trí nhớ tôi bốc thành khói

 

 

 

Giữa xa và gần

           đêm chẻ làm đôi

 

 

 

 

BALANCE  -  CÂN BẰNG

 

solstices et équinoxes

sauts de crapauds dans le noir

 

comme clef et serrure

le réel s’emboite en son miroir

 

tout est en place

 

 

serpent à lunettes

promenade en solo

grève déserte

 

avec le poids du corps

jeté d’un plateau

à l’autre de la balance

pour perpétuer

les vaines oscillations

 

tout

est déjà en place

 

Đánh dấu bốn mùa

          với cái nhẩy những con cóc trong bóng đen

 

Khóa  và ổ,

          hiện thực đóng khuôn trong bóng  gương

 

Ồ nơi nào,

thì chốn nấy.

 

 Con rắn mang bành

bò một mình trên ghềnh đá hoang,

 

 

Sức nặng trì nửa bàn cân làm chao đảo

                       những tuần hoàn   vô vọng

 

 

khi mọi sự

                   đã an bài.

 

 

 

 

CERCLE  -  VÒNG TRÒN

 

chaque fois que

          la porte se dédouble

 

et qu’une ombre s’agenouille

                   entre deux voyages

 

chaque fois que

          le jour claque

                   dans un coin sans soleil

 

et qu’un vol de mémoire

                   s’éparpille

 

                                      je veille

 

 

mine de rien

un pied en moi

un pied ailleurs

j’imite

 

le compas

tracant

le cercle

imparfait

du désespoir

 

Mỗi lần cửa xập lại

          và cái bóng quì giữa hai chuyến đi

 

Mỗi lần

          ngày sụp xuống

                   nơi một góc không còn  ánh mặt trời

 

với  trí nhớ bị đánh cắp văng ra

 

 

 

 

Thì,

          tôi bừng mắt

 

                   rất vô tư

                   một chân trong

                   một chân ngoài

          tôi bắt chước

 

 

                   cái com-pa

          vẽ một vòng tròn

                   không  tròn trĩnh lắm

                             của  niềm  tuyệt vọng.