I N É D I T S
CHÂN PHƯƠNG
Bên cạnh tiếng Việt mẹ đẻ tôi may mắn được học tiếng Pháp từ nhỏ. Khi bắt đầu tập tành làm thơ tôi cũng sử dụng song song hai thứ tiếng và dần dà hiểu ra các nét đặc thù của mỗi ngôn ngữ về ngữ điệu và văn hóa mà ai làm công việc dịch thuật, nhất là dịch thơ, lắm lúc phải bị bó tay trong cố gắng truyền đạt. Đối với người yêu quí thơ khó có cách nào khác hơn là đọc thẳng nguyên tác để thưởng thức và chụp bắt cái thần của từng chữ từng câu. Bởi thế tôi mạo muội đưa ra chùm thơ tiếng Pháp sau đây,kèm phần dịch thơ của nhà văn Nam Dao. CP
Nam Dao dịch Chân Phương, đọc thơ mà ngỡ gặp Apollinaire, đang ….uống vin de table nhà họ Phan ăn mày ! ND.
Chân Phương hiệu đính.
la pierre renait son coeur bat la mer a soif le feu a froid
en chute libre la lumière se laisse rattraper
ivre d’éternité je vais franchir les horizons de la créativité
quand s’amène
ce papillon de papier
tout redevient fumée
|
Đá sống lại tim đập biển nổi cơn khát lửa ớn lạnh
Buông rơi theo sức hút ánh sáng bị đuổi bắt
Say vĩnh cửu tôi sắp vượt những chân trời sáng tạo
Khi ấy lượn qua
cánh bướm giấy
tất cả trở thành khói bay |
la pierre qui a su enfin vaincre la pesanteur
s’est posée sur la main
tandis que brille l’astre inconnu au zénith du poème
funambule sans corde
vers le vide se creusant en toi
tu fais ton premier pas
|
Hòn đá cuối cùng thắng được sức hút đã bay đậu trên tay
trong lúc ngôi sao lạ sáng rực nơi thiên đỉnh của bài thơ
Kẻ làm xiếc đi dây không đợi sợi dây căng
nhắm vào khoảng trống cõi lòng
bước đầu mi chập chững |
une paire de chaussures
une terrasse de café
le soleil en coma
*
quoique le regard soit maintenant plus vide
il faut longtemps le contempler
pour le voir saturé
de cette grande toile sans portrait
signé Buddha
|
Một đôi giầy
ngoài sân quán café
Mặt trời ngất xỉu
*
mặc cho ánh mắt trở mầu hoang vắng vẫn cứ nhìn
thật lâu cho đến độ nó bão hòa
khung vải rộng vắng chân dung
ký Phật
|
ne t’apprête pas davantage
viens t’allonger là contre l’herbe
bientôt l’insecte viendra
oublie religion et philosophie
il n’en a guère besoin
observe sa facon calme de régner en ce monde d’oubli
ce sera ta première lecon de survie
|
Thôi đừng cố hảy cứ trải mình trên thảm cỏ
Chút nữa sâu bọ sẽ kéo đến
Quên, quên đi những giáo điều và những câu triết lý chẳng mấy cần
Hãy nhìn với cách thế lắng trầm chúng ngự trị thế giới của lãng quên
Đó là bài học đầu tiên để víu vào tồn tại.
|
le double sens instauré surgissent les lunes du chaos
à reculons s’envolent les oiseaux
décapité en songe un homme se retrouve sans tête au réveil
un autre incrédule recommence l’expérience
dégringole cette fois-ci dans un trou et n’apparait plus quand on l’éveille
seul dort tranquille le poète
ayant sur lui tous les masques nécessaires
|
Chập chùng trăng hỗn mang ngữ nghĩa nước đôi
chim bay lui
Cổ cắt trong mơ một kẻ thức giấc mất đầu
Một kẻ khác hàm hồ thử nghiệm lại Rơi, rơi tụt lần này xuống hố thật sâu đến mất tích khi có người đánh thức
Chỉ nhà thơ ngủ bình yên Mặt che đủ thứ mặt nạ cần thiết
|
les images passent
l’éternité se dé-calque
miroir après miroir traduction bâclée
ligne après ligne villes et femmes s’éparpillent
où te camoufler? |
Bóng/ qua đi Vĩnh cửu/ đọng lại
Gương tiếp gương Dịch/ hỏng/ Dòng nối tiếp dòng thành phố với đàn bà vương vãi
Mi còn trốn/ ở đâu ?
|
longtemps j’ai planté des cactus autour de mon silence
suspendu des cages vides en ma mémoire
dans mes rêves je vais fermer à clef portes et armoires
le jour de mon anniversaire je me déclare absent
…c’est alors que s’amène la femme nue du printemps sans désir
que faire ? |
Lâu rồi tôi trồng hoa sa mạc chung quanh im lìm
Lồng chim trống tênh móc vào trí nhớ trong mơ tôi khóa thật chặt cửa, tủ
vào ngày sinh nhật tôi, tôi gào lên tôi vắng mặt
…thì người đàn bà trần truồng với mùa xuân không còn ham muốn bước vào
Tôi hỏi tôi Ơ, giờ đây làm sao?
|
s’en vont les oies sauvages et les saisons d’orage
O clapotis du temps qui use la mort en moi
j’ai vécu en sursis grâce à la poésie
comme une oie sauvage parmi des songes d’orage
|
Ngỗng trời bay đi những mùa giông bão
Tiếng vỗ thời gian bào mòn một đời
Ngỗng bay lạc lối mù sa, xa tít Ta bám vào thơ để sống, thơ ơi…
|
le néant ne m’est plus étranger
nu comme l’océan je déferle sur cendres et pierres
comme une vierge jouit la terre dans mes bras de titan
mon désir est un héliotrope géant
éternité battant sa propre mesure
je m’accouple au néant
|
Hư vô ư, đâu có gì lạ
Trần truồng như biển tôi giong buồm trên tro tàn và đá sắc
Như đứa gái đồng trinh ứ tràn nhục cảm vòng tay khổng lồ ôm tròn trái đất
Ham muốn là đóa hướng dương quá to
thiên thu mãi mãi đánh nhịp
Tôi tiến hành chuyện đôi lứa …cứ thế,
với hư vô.
|
de lambeaux en lambeaux
ta chair se dissipe
sur le bucher des mots
en accéléré
ma mémoire part en fumée
entre le proche et le lointain
la nuit bifurque
|
Từ mảnh này sang mảnh kia
thịt da em tan tác
Trên đống lửa con chữ dướn lên
trí nhớ tôi bốc thành khói
Giữa xa và gần đêm chẻ làm đôi
|
solstices et équinoxes sauts de crapauds dans le noir
comme clef et serrure le réel s’emboite en son miroir
tout est en place
serpent à lunettes promenade en solo grève déserte
avec le poids du corps jeté d’un plateau à l’autre de la balance pour perpétuer les vaines oscillations
tout est déjà en place
|
Đánh dấu bốn mùa với cái nhẩy những con cóc trong bóng đen
Khóa và ổ, hiện thực đóng khuôn trong bóng gương
Ồ nơi nào, thì chốn nấy.
Con rắn mang bành bò một mình trên ghềnh đá hoang,
Sức nặng trì nửa bàn cân làm chao đảo những tuần hoàn vô vọng
khi mọi sự đã an bài.
|
chaque fois que la porte se dédouble
et qu’une ombre s’agenouille entre deux voyages
chaque fois que le jour claque dans un coin sans soleil
et qu’un vol de mémoire s’éparpille
je veille
mine de rien un pied en moi un pied ailleurs j’imite
le compas tracant le cercle imparfait du désespoir
|
Mỗi lần cửa xập lại và cái bóng quì giữa hai chuyến đi
Mỗi lần ngày sụp xuống nơi một góc không còn ánh mặt trời
với trí nhớ bị đánh cắp văng ra
Thì, tôi bừng mắt
rất vô tư một chân trong một chân ngoài tôi bắt chước
cái com-pa vẽ một vòng tròn không tròn trĩnh lắm của niềm tuyệt vọng.
|