Trời xanh, gió mát, nắng cuối xuân lấp lánh trên vịnh trưa. Du khách từ nhiều nơi tụ về Boston tham quan Lễ hội Parade of Sail hoành tráng với nhiều chiếc thuyền buồm lừng danh tham dự. Nhưng Chúa Nhật hôm nay còn một ý nghĩa đặc biệt khác. Với người Mỹ đây là ngày lễ Father's Day - những buổi ăn gia đình đầm ấm, các bàn tiệc xum vầy trong các nhà hàng, những cuộc du ngoạn cuối xuân có cha mẹ con cái quây quần chụp ảnh bên nhau......
Nhìn trời nhìn biển với mấy ca nô, du thuyền lướt sóng trước nhà, tôi hình dung các quán ăn phố Tàu trên nước Mỹ đang bày dọn những món điểm tâm bốc khói cho các gia đình gốc Á đông hôm nay ăn mừng tuổi thọ cha với ông. Tôi nhớ cha nhớ mẹ, nghĩ ngợi bao chuyện xưa nay... Tôi may mắn còn mẹ già, giờ này trên 90 và đang sống với em gái tôi ở Chợ Lớn; nhưng không may đã mất cha năm tôi 33 tuổi. Hè này tôi đúng 66 - mấy con số đơn giản nhắc cho tôi nhớ khoảng thời gian mồ côi cha đã ngang bằng những năm tháng buồn vui sống bên cha. Ôi chớp mắt mà tôi đã sống thêm nữa đời thiếu vắng Người! Và niềm hối tiếc lớn nhất của tôi là chưa làm được bao nhiêu để đền đáp Ơn Cha mà ông đã vội ra đi bỏ vợ con lại giữa một Sàigòn ngột ngạt, túng thiếu đầu năm 1984!
Buồn quá tôi lục mớ hình ảnh thư từ gia đình trước đây xem lại, và tìm thấy bản thảo bài thơ KHÓC CHA tôi viết vào lúc cha con vĩnh biệt! C.P.
KHÓC CHA
đốt nén hương lòng con vĩnh biệt cha
trăng liềm vừa treo
chưa kịp nguyên tiêu
mùa xuân cuối cùng ngắn quá!
ngồi với từng phút còn lại
trong canh tàn mê mệt
vuốt lọn tóc muối tiêu
mấy vết bầm tĩnh mạch
nhìn con mắt hết thần
rình nghe nhịp tim thoi thóp
nắm từng lóng tay co lạnh
động cơ xe chạy về khuya
tiếng côn trùng rỉ rả
bệnh viện ngoại ô Sài gòn
con ngồi suốt đêm với cha
đêm trắng đầu tiên thiên cổ
còn ngỡ thời gian xoay ngược
chiều tan học
trên yên xe đạp
hồi hộp hy vọng chưa vội về nhà
cha con một vòng xuống phố
cùng ngồi nhai đậu phọng
xem trận đá banh khỏi mất tiền
thế mà
bánh xe khập khiễng băng ca
đã phân biệt rõ ràng
âm dương đôi ngã
dưới bóng đêm thượng tuần hiu hắt
cái xác được phủ đậy đó là
cha
mười bốn tháng nín câm
nửa thân già liệt bại
phủ tạng dắt díu nhau
trong cuộc di tản cuối cùng
hỡi kiếp sống phù du
ơi cõi trần tạm bợ
này phương Đông đoạ đày
mặt trời từ đây không mọc nữa
trên bờ trán ố vàng vĩnh cửu của cha
phương Nam cơ hàn hề
cơn gió bụa vẫn bủa vây
bầy con lưu lạc
kìa phương Tây khói sương
từ đây là buổi xế bóng của vợ goá mẹ già
phương Bắc xa xăm hề
tên thầy cúng làng sẽ leo nóc nhà gọi tên cha
cầm bút lông kết thúc một đời người trong tộc phả
trời đất mông lung
mịt mờ mây chó
còn đâu những ngày
Sài Gòn Nam Vang Quảng Châu Hương Cảng
đình công tranh đấu xếp chữ gánh than
chẳng phải anh hùng
chẳng phải thánh nhân
ngâm Lục Vân Tiên
khoái truyện Đào Viên
sáu mươi năm một kiếp bình thường
hỡi nhà xác trống không
lạnh buốt tàn canh khuya muộn
phút lâm chung - ba có nghe con gào hỏi:
Còn lại chi sau kinh nghiệm làm người ?
sao không tiếng trả lời
chỉ có nước mắt lăn ra
từ hai khóe hôn mê mòn mỏi
hạt lệ lăn ra từ kết toán cuộc đời
lăn qua hành lang bệnh viện tanh hôi
mấy sạp thuốc tây chó đói
lăn qua y thuật thế giới thứ ba còm cõi
lăn qua tấm thông hành vô dụng
sau khi xuyên thấm mọi sa mạc văn thư
lăn một vòng quanh quả đất tật nguyền
hành tinh của ngục tù công an cá mập diều hâu
lăn qua móng kên kên của bọn đạo tì
tan biến vào thớ áo quan chật chội
*
này phướn triện đèn lồng lư hương bài vị
cát bụi phải trở về cát bụi
lửa vô sinh vô diệt
hãy bùng lên
cho thuyền cha rời bến nghiệp
cho cha từ giã chim chóc cỏ cây
cho cha chia tay châu Á đọa đày
cho cha rời bỏ một thế kỷ máu xương
cho cha hoà nhập trời mây
Cha ơi
lần theo dấu tàn tro
vĩnh viễn từ đây
chỉ còn dấu chân con rướm máu
bước trở lại con đường nước mắt
CHÂN PHƯƠNG