ThienQuanVaThiPhapAGinsbergHoangHung

THIỀN QUÁN VÀ THI PHÁP

(Trích đoạn văn bản ghi lại một bài diễn giảng của Ginsberg ở Vienna năm 1994)

 

Điều mà tôi khởi sự bây giờ là mô tả "con đường từng bước dẫn tới Thi sơn" bằng cách sử dụng những khẩu hiệu theo kiểu Mao hay h́nh thức Tây Tạng. Tư tưởng phương Đông dược dạy bằng những khẩu hiệu có vẻ như móc xích từ cái này tới cái kia một cách hợp luận lư, dẫn tới kết thúc là ḷng trắc ẩn, đó là kết quả tối hậu của việc ngồi lại với bản thân, chịu đựng cái thực tế là ḿnh đang tồn tại trong một thân xác, biết rằng ḿnh sẽ chết và ai ai cũng vậy, rằng gan ruột ḿnh đang cuộn réo, chân ḿnh đau, xương ḿnh nhức và ḿnh đang già đi hoặc đang tiến vào tuổi dậy th́ - cái này hay cái nọ.

T́nh huống của chúng ta là có cái đầu miên man sản sinh các ư nghĩ, kư ức, dự phóng tương lai, tiên tri.

Vậy th́ anh làm việc cách nào với một sự hỗn mang, sự phức tạp hay cái ḍng liên tục những ư nghĩ không phân tách, những ư nghĩ khác nhau ấy?

Shakespeare, cũng như Đức Phật, gợi ư rằng điều thú vị mà ta khám phá ra là ư thức không liên tục. Đó không phải là một ḍng ư thức liên tục, trong đó, ư nghĩ nọ đi theo ư nghĩ kia. Có một khoảng cách giữa các ư nghĩ và chúng ta thật sự không biết được các ư nghĩ từ đâu tới hoặc chúng liên kết với nhau ra sao.

Trong ư nghĩa dó, có một loại hỗn mang. Trong phút này, chúng ta có thể nghĩ đến xúc xích Đức, phút sau ta có thể nghĩ đến Renaldo và Clara[1] và phút sau nữa ta có thể nghĩ đến đi tiểu.

Vậy khi viết, thay v́ t́m cách áp đặt ư tưởng Mac-xit hay Công giáo hay Hegel lên các ư nghĩ của bạn, có lẽ bạn có thể chỉ việc bắt lấy những ư nghĩ khi chúng tới và viết chúng ra khi chúng tới theo đúng trật tự chúng tới.

Vậy th́ khẩu hiệu đầu tiên là: ư nghĩ đầu tiên là ư nghĩ hay nhất! Đó là lời vị lạt ma Tây Tạng Chogyam Trungpa Rinpoche[2], và ông cũng nói trong việc thiền quán: "Hăy có một thái độ thân thiện với ư nghĩ của ḿnh". Cho dù nó có liên quan đến chuyện ngủ với mẹ ḿnh. Chỉ việc quan sát mà thôi! Anh không phải thực hiện việc ấy, nhưng anh phải quan sát ư nghĩ ấy.

 Một vị tổng thống Hoa Kỳ (John Adams) có lần nói: "Đầu óc phải thả lỏng" hơn là cố định hay củng cố. Cho nên nhà thơ Mỹ Charles Olson[3] nói trong luận văn Thơ Dự phóng (Projective Verse): "Một tri giác phải tức thời và trực tiếp dẫn tới một tri giác xa hơn". Một ư nghĩ dẫn tới một ư nghĩ khác. Và như Shakespeare bảo: "Mọi ư nghĩ thứ ba sẽ là nấm mồ của tôi". Shakespeare nhận thức đuợc " ư nghĩ số một, ư nghĩ số hai, ư nghĩ số ba". Đó là trong một trong những vở kịch cuối cùng của ông, một câu nói của Prospero trong vở Băo biển.

Philip Whalen, một nhà thơ Mỹ, nay là một Thiền sư ở San Francisco, bảo: "Cái tôi viết ra là một bức h́nh của tâm trí chuyển động".

Như vậy ta có khái niệm "Trí Bất Ngờ", bởi v́ chúng ta không bao giờ biết được ḿnh sẽ nghĩ ǵ trong một phút. Cho nên Chogyam Trungpa Rinpoche người sáng lập Viện Naropa[4] mới nói: "Thần kỳ là sự hoàn toàn tán thưởng cơ duyên". Thần kỳ là hoàn toàn hân hoan trong ngẫu nhiên, hoàn toàn vui thú trong trí bất ngờ, hoàn toàn tán thưởng cái thực tế là tâm trí biến đổi, rằng một tri giác dẫn tới một tri giác khác, và tự thân nó là một vở kịch lớn của tâm trí. Để sáng tạo một công tŕnh nghệ thuật bạn đâu cần phải đi xa hơn.

Nhưng rồi lại có vấn đề là tâm trí có thể rất mâu thuẫn. Trong một phút có lẽ bạn muốn ngủ với mẹ bạn, rồi phút kế tiếp, bạn có thể muốn ngủ với anh bạn. Whitman bảo rằng điều đó có thể được phép: "Tôi mâu thuẫn với chính ḿnh ư? Được lắm, th́ tôi mâu thuẫn với chính ḿnh. Tôi rộng lớn, tôi chứa đựng vô số thứ" - là bởi ông có một đầu óc dân chủ!

Và John Keats[5] cũng nói một điều tương tự trong lá thư gửi cho người em trai, ông dẫn một khái niệm nổi tiếng đối với nhiều nhà thơ Anh: "Năng lực tiêu cực".

Đang ăn tối với một nhóm các nhà thơ kinh viện chán ngắt, ông bỗng nghĩ: Điều ǵ khiến cho một người trở thành thiên tài như Shakespeare? Và ông viết: "Phẩm chất ǵ đă tạo nên một con người thành công, đặc biệt là trong văn chương? 'Năng lực tiêu cực'. Đó là: Khi một con người có năng lực tồn tại trong những bất định, những bí mật, những hoài nghi, không chút nhức nhối chạy theo sự thật và lư lẽ". Không khăng khăng đen hay trắng mà có cả hai: Đen trắng! Hay như nhà thơ Gregory Corso nói: "Nếu anh phải chọn lựa giữa hai thứ, hăy lấy cả hai".

V́ tâm trí là không liên tục và một ư nghĩ tiếp theo ư nghĩ khác, nếu h́nh thức bài thơ của bạn đi theo h́nh thức của tâm trí th́ như vậy bạn có một bài thơ "hợp thức". Một cái ǵ đó giống như Cantos của Ezra Pound[6] hay văn xuôi của Kerouac. Một số bài thơ, như Đất Hoang[7], theo một nghĩa nào đó, là bức tranh xé dán hay tấm thảm dệt của những ư nghĩ khác nhau.

Ư nghĩ này chuyển qua ư nghĩ khác, thế là bạn có một loại h́nh thức hiện đại. Nhà thơ Robert Creeley nói trong một lá thư gửi Charles Olson: "H́nh thức chẳng bao giờ có ǵ hơn là một sự nối dài của nội dung". Nếu nội dung hay chủ đề của một bài thơ - nếu cốt truyện hay đề tài của bài thơ - là bản chất của tâm trí và chuyển động của tâm trí, vậy th́ bạn có một địa bàn mở cho thơ, trong đó ư nghĩ nào cũng sẽ theo sau ư nghĩ kia một cách đúng đắn. Một cái ǵ đó giống như bài nói bột phát hay một cái ǵ đó giống như tranh xé dán.

Kiến trúc sư Frank Lloyd Wright nói: "H́nh thức đi theo công năng".

Ở đây tôi định nghĩa nội dung và công năng - hay đề tài của một loại thơ và phim ảnh hiện đại - như một tấm gương phản chiếu hoạt động của tâm trí thực sự diễn ra trong thời gian viết. Đó là ư tưởng của Kerouac. Cho nên văn xuôi hay thơ phải chứa đựng tất cả những ǵ tiếp diễn trong tâm trí người viết trong khoảng thời gian ng̣i bút của anh ta chạm vào giấy, cho đến khi nó rời khỏi trang giấy.

Làm sao anh có thể đưa hết những ư nghĩ ấy vào? Phải, anh không thể đưa vào hết mọi thứ. Anh chỉ có thể đưa vào những ǵ mà anh viết được lên trang giấy. Như vậy tiến tŕnh là tự chọn lọc!

Có thể những ư niệm này quá "phù du" hay tạm bợ, nhưng có một phương châm thú vị trong hai câu thơ của Louis Zukofsky: "Tồn tại vĩnh hằng th́ cũng chẳng hơn ǵ/ trắng như màu trắng đang chết đi của một ngày". Đó cũng là một kiểu ngạn ngữ Yiddish - ông là một nhà thơ Do Thái: "Tồn tại vĩnh hằng th́ cũng chẳng hơn ǵ/ trắng như màu trắng đang chết đi của một ngày."

À…, từ quan điểm ấy, các bạn có thể cũng ghi nhận rằng: "Tâm b́nh thường chứa đựng những tri giác vĩnh hằng." Những tri giác sống động nhất có thể đến, không phải bằng cách đi t́m tri giác, mà đơn giản bằng cách quan sát tâm trí của chính ḿnh.

Vậy th́ tiến tŕnh cho thơ sẽ là "Ghi nhận những ǵ anh ghi nhận!", đúng y như anh ghi nhận hơi thở của ḿnh - cực kỳ mẫn cảm ghi nhận những ǵ anh thấy nghe ngửi cảm. Tương đồng với ư ấy có câu nói của người Anh: "Hăy bắt chợt chính ḿnh đang nghĩ!" Đó là một câu thành ngữ. Tôi không nghĩ là trong tiếng Đức có một thành ngữ tương đồng, giống như: "Hăy tỉnh giác với tâm trí của ḿnh và bắt chợt (hay ghi nhận) bản thân ḿnh đang nghĩ."

Tiếp theo, đối với nhà thơ: "Hăy quan sát cái ǵ sống động". Thế th́ nổi lên câu hỏi: "Làm sao ta biết được cái ǵ sống động?". Và câu trả lời là: "Nếu nó sống động th́ nó sống động. Nếu nó không sống động th́ nó không sống động!"… Cho nên khẩu hiệu là: "Sự sống động là tự lựa chọn." Điều này dễ như húp cháo! Bạn không cần phải làm việc vất vả để t́m cái ǵ sống động. Nếu nó sống động th́ nó ở đấy. Nếu nó không sống động th́ dù thế nào bạn cũng sẽ không nhớ.

Cho nên ta có ư niệm của William Wordsworth[8] "Những đốm thời gian". Những thời điểm loé sáng hay những thời điểm "Hiển linh", những thời điểm đáng nhớ và sẽ trở đi trở lại trong kư ức. Và vị lạt ma Tây Tạng Gelek Rinpoche (Thầy tôi hiện nay) có một câu rất lư thú: "Tâm trí tôi mở đối với chính nó".

Vậy th́ không có vấn đề trong việc vét lên vài biểu tượng lớn lao từ vô thức của bạn, tất cả chúng ta đều miên man nghĩ ngợi và nói chuyện với chính ḿnh. (Đặc biệt ban đêm khi chúng ta đi ngủ trong bóng tối. Nằm đấy hai mắt nhắm nghiền trong sương mù đen dày của im lặng. "Mỗi người trên giường nói một ḿnh với chính ḿnh, không gây tiếng động"). Đó là nền tảng.

Hoàng Hưng dịch



[1] Phim ca nhạc của Bob Dylan (1958) trong đó ông dóng vai Renaldo và Sara Dylan vợ ông đóng  vai Clara (các chú thích đều của ND)

[2] Đạo sư đầu tiên của Allen Ginsberg về Phật giáo

83 Người tạo lập trường thơ Black Mountain, trong đó có Rebert Creeley

[4] Viện Nghiên cứu Phật giáo ở Boulder, bang Colorado

[5] Nhà thơ Anh (1795-1821)

[6] Tác phẩm lớn nhất của Ezra Pound viết rải rác trong thời gian 1915 - 1962, được coi là có ư nghĩa nhất trong thơ hiện đại chủ nghĩa của Mỹ TK XX

[7] Trường ca (1922) của Thomas Sterns Elliot, một tác phẩm quan trọng khác của thơ hiện đại Mỹ

[8] Nhà thơ Anh (1770-1659)