GIAI THOẠI CỦA THI SĨ, PHẦN 3
Tôi sinh ra đời nhằm một ngôi sao… quậy, rất thích ứng với thời đại bất ổn. Bốn câu thơ đầu trong bài NGĂ HÀNH đủ nói lên điều đó :
Ta sinh ra gặp buổi nhiễu nhương
Bất lương bàn luận chuyện hiền lương
Kẻ sĩ cúi đầu làm binh sĩ
Thơ quốc doanh cười cợt thơ Đường…
Hầu như anh em văn nghệ đều thuộc ḷng bốn câu thơ trên và truyền khẩu cho nhau, truyền khẩu sâu đậm đến mức nhà báo Vơ Đắc Danh trong một bài viết tranh luận giáo dục với Trần Mạnh Hảo, nhân đó bàn về một số chủ trương chính sách sai lầm của nhà nước trong việc cải tạo đất đai thổ nhưỡng đồng bằng sơng Cửu Long đă lấy bốn câu thơ của tôi để làm phần kết bài đăng báo và phổ biến rộng răi trong một phiên họp quốc hội toàn quốc ở Hà Nội. Hậu quả của đợt phổ biến đầy nhiệt huyết , đầy tinh thần ái quốc ấy là đương sự Vơ Đắc Danh bị thu hồi thẻ nhà báo, bị miễn phận sự đại diện báo Người Lao Động ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long và phải bắt đầu kiếp mưu sinh kiếm sống như bất cứ kẻ sĩ nào bị tước quyền ăn nói. Vừa rồi đọc tin trên báo thấy Vơ Đắc Danh hiện cơng tác tại báo Sài Gịn Tiếp Thị đoạt giải nhất cuộc thi bút kư phĩng sự năm 2008 của báo Văn Nghệ TW nghĩ cũng mừng cho anh. Như vậy là nhà nước bây giờ ít ra cũng tiến bộ hơn thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, bớt thù dai và hành hạ kẻ sĩ bị khoanh vùng.
Trước đó lùi lại thời gian khoảng vào trung tuần tháng 5- 1995 nhân kỷ niệm lần thứ 179 ngày sinh cụ Nguyễn Đ́nh Chiểu, một đợt bút chiến cũng đă diễn ra chung quanh bài báo của nhà báo Đỗ Quang Hạnh viết về tôi trên tạp chí Diễn Đàn Văn Nghệ Việt Nam. Bài báo mang tựa “MỘT CHÚT RÔNG DÀI VỀ THƠ QUẬY CỦA BÙI CHÍ VINH” trong đó Đỗ Quang Hạnh cố t́nh ví von lối thơ dân gian hiện đại đượm nét giang hồ du đăng của Bùi Chí Vinh ngang tàng nhưng tương tự như thơ Lục Vân Tiên b́nh dân cổ điển của cụ Nguyễn Đ́nh Chiểu thời trước. Bài báo thẳng thắn đầy bản năng chủ quan của người viết đă tạo nên phản ứng dữ dội của một số “cây đa cây đề” vốn được coi là ngự sử văn đàn của văn chương Nam Bộ, khiến Đỗ Quang Hạnh sinh trưởng ngoài Bắc vốn chưa nếm mùi sông rạch miền Nam bị bao vây suưt… chết đuối.
Nói tóm tắt, tôi sinh ra đời từ một ngôi sao “quậy” chứ không phải một ngôi sao được đánh bóng ở các bàn tṛn, chính v́ thế hăy cho tôi khước từ mọi sự so sánh của bàn dân thiên hạ về đời sống và thơ của ḿnh. Thơ tôi chắc chắn không “từ chương bác học” như cụ Nguyễn Du nhưng cũng không “thật thà dân dă” như cụ Đồ Chiểu. Thơ tôi khó chịu đến mức nhiều đồng nghiệp phải nhăn nhó bởi phong cách không giống ai. Tôi c̣n nhớ năm 1990, đúng một năm sau khi tập THƠ T̀NH BÙI CHÍ VINH xuất bản lần đầu, trên báo Lao Động đă có cuộc thảo luận của nhiều nhà thơ, nhà lư luận, nhà phê b́nh văn học xoay quanh chủ đề “PHẢI CHĂNG LÀ MỘT NGÔI SAO LẠ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH” với phần mở đầu như sau “Tập THƠ T̀NH BÙI CHÍ VINH ra đời từ năm ngoái đă gây xôn xao như sự xuất hiện của một ngôi sao lạ. Sự đánh giá th́ lại trái ngược nhau rất nhiều. Có bạn trẻ chữa vào trang đầu :”TẬP THƠ ĐÁNG ĐỌC NHẤT THẾ Kỷ”, có nhà thơ lại hạ một câu :”THƠ VĨA HÈ”. Có điều chắc chắn thơ Bùi Chí Vinh đă có nhiều người đọc, nói theo kiểu bây giờ là bán được. Chúng tôi xin giới thiệu bốn bài phát biểu của các nhà thơ, nhà phê b́nh có tên tuổi đánh giá tập thơ này”. Bốn bài phát biểu đó là của các vị Nguyễn Văn Lưu, Anh Ngọc, Lê Quang Trang, Lại Nguyên Aân Nhân đây tôi cũng xin cám ơn nhà văn nữ Phạm Thị Hoài trong một lần vào Sài G̣n năm 1989 gặp tôi đă gom 100 tập thơ Bùi Chí Vinh ra Bắc và phân phối đến những địa chỉ cần thiết của sĩ phu Bắc Hà. Hiệu quả của đợt phân phối ấy là bài phê b́nh đầy thiện ư của Vương Trí Nhàn trên báo Thể Thao Văn Hóa “Thơ T́nh Bùi Chí Vinh xanh vỏ đỏ ḷng”. Là bài viết của cố nhà văn nhà phê b́nh Xuân Tửu trên báo Công GiáoVà Dân Tộc so sánh “Thơ t́nh yêu Bùi Chí Vinh có thể là một cái mốc trên con đường phát triển thơ ca… Yêu thương và Chúa và Phật là đồng nhất. Điều thánh thiện không phân chia đạo này hay đạo khác. Như thế mới đích thực là người”. Là bài tựa của nhà văn Vũ Quần Phương cho tập thơ Bùi Chí Vinh của Nhà Xuất Bản Kim Đồng “Những bài thơ trong ruột sách, bài nào cũng nghịch. Nhận xét là nghịch th́ không bao quát được đặc điểm thơ ông. Nhưng phải tạm dùng để nói cái khác thường, cái bất ngờ, cái không thuận… tai của thơ Bùi Chí Vinh. Không thuận tai nhưng lại thuận lư, thuận t́nh, nghĩa là có tính thơ. Là thơ thực sự mà bề ngoài, thoáng đọc thoáng nh́n lại ngỡ không thơ. Hóa ra đây là một thủ pháp, một biệt tài, một bản lĩnh. Người đọc ít lịch lăm hoặc thiếu trân trọng nhiều khi không thâm nhập được…”. Là sự đồng cảm của Huỳnh Dũng Nhân trên một tờ báo “Tôi khoái nhất cách xưng ta của chàng thi sĩ tuổi con ngựa này. Cái ta ấy là sự cao ngạo, là ư thức coi thường khách thể, vượt qua những rào chắn tập quán, chỉ c̣n biết cái tôi đang được nâng lên thành cái ta, cao hơn, ngang tàng hơn và quân tử hơn”. Là Nguyễn Thái Sơn nhận xét trên báo Văn Nghệ TP “Tôi muốn ví dụ Thơ T́nh Bùi Chí Vinh như thứ cà phê quán cóc, pha bằng túi vải, uống bằng ly đất nung, không sang trọng nhưng là cà phê thứ thiệt, pha đặc, người uống lần đầu có thể thấy đắng, bỏng miệng nên nhíu trán thôi…”. Là Nguyễn Quốc Chánh viết trên báo Thanh Niên “Thơ Bùi Chí Vinh thuộc loại mạnh, ngang và tàng. Nó như một con ngựa sợ yên cương, khoái tung bờm hí rền trên thảo nguyên, nó háo hức đ̣i được trao thân để trở nên chính nó, dù chỉ trong khoảnh khắc… “ Đại khái là như vậy. Riêng tôi có thể tự đánh giá một cách ngẫu hứng về ḿnh qua bài thơ NGÓ LẠI TIỀN NHÂN :
NGÓ LẠI TIỀN NHÂN
Với trí nhớ của Lê Quư Đôn
Cái đầu đội trời của Cao Bá Quát
Lại thêm Tú Xương chút mùi khinh bạc
Ta đem thân ta đùa giỡn với công hầu
Ta cấm “bể xanh hóa thành ruộng dâu”
Cho người có muối và cho tằm có lá
Ta cấm cửa những nhà thơ đon đă
Nguyễn Công Trứ làm quan chỉ đáng mặt vi thần
Ta cấm cửa những nhà thơ kẻ cả
Nguyễn Khuyến về già chưa đủ lộc để chăn dân
“Trường giang như kiếm lập thanh thiên”
Ta thương Cao Chu Thần nên tuốt gươm làm giặc
Ta thương mặt trời bị chôn xuống đất
Cho lũ hủ nho nhà Nguyễn mặc hoàng bào
Ta thương mặt trăng gặp phải thời nguyệt thực
Cho lũ nịnh thần lấm tấm mọc như sao
Ta thương anh hùng “ở phố Hàng Nâu”
Giả làm “phỗng sành” mặt mày lơ láo
Ta thương Tú Xương giả say bên chén rượu
Không dám ngâm thơ sợ lộ cốt rồng
Ta thương bậc Tú tài quân tử
Mượn áo giang hồ đùa lũ Trạng tiểu nhân
Ta có lời xin lỗi Trần Tử Ngang
Hà tất phải “độc sảng nhiên nhi thế hạ”
“Niệm thiên địa chi du du” bạn niệm một ḿnh th́ phí quá
Ta chẻ đầu ta chia hết thảy mọi người
Thế gian này những kẻ b́nh thiên hạ
Có c̣n gan lớn mật để rong chơi
Có giống Quát chép thơ vào vách đá
Có như Xương nhét chữ xuống mông ngồi
Và có dám như ta : đọc những lời khí phách
Rồi rủ Hồ Xuân Hương chơi cờ tướng tay đôi !
Tôi bước vào ngôi trường tiểu học chậm mất hai năm so với bạn bè cùng lứa tuổi v́ một lư do bất đắc dĩ. Ba tôi là ông Bùi Văn Tŕnh, đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam thời kháng Pháp, ông từng sang Paris học nghề thợ giày dành cho người tàn tật và gia nhập đảng viên Đảng Cộng Sản Pháp. Lúc về nước ông tiếp tục hoạt động và bị bắt giam dưới chế độ Ngô Đ́nh Diệm, bị tịch thu cửa hiệu mặt tiền “Tiệm giày tàn tật Bùi Văn Tŕnh” trên đường Yên Đổ (tức đường Lư Chính Thắng bây giờ). Mẹ tôi, bà Nguyễn Thị Mùi cũng tương tự như vậy, bà cũng là đảng viên Đảng Lao Động (tiền thân của Đảng Cộng Sản) nhưng thời gian ở tù ít hơn chồng. Bà thường tự hào nói với con cái rằng “Gia đ́nh ḿnh là gia đ́nh Công Giáo yêu nước”. Bà từng bị giam ở bót Hoàng Hùng, bót Catina… và có thời gian ở chiến khu. Trong tù bà bị nhốt chung với vài nhân vật lịch sử như bà Nguyễn Thị B́nh, Đỗ Duy Liên, Lan Mê Linh… như lời bà kể. C̣n trong chiến khu bà từng mô tả về cách sinh hoạt đặc biệt của ông Lê Duẩn thuở hàn vi, đầy lam lũ và khôi hài không thua ǵ ông Lưu Bang lúc chưa lập nên nhà Hán. Những chuyện kể của bà loáng thoáng như món rau muống luộc chấm nước tương trong bữa ăn nhà nghèo khiến tôi không mấy quan tâm. Điều tôi quan tâm là bà đă thay mặt người chồng nằm trong ṿng lao lư, dạy dỗ ba đứa con nên người bằng nghề thợ may thuê cực khổ.
Năm 1961 ba tôi được chế độ Ngô Đ́nh Diệm thả về, trên lưng và ngực đầy những vết thương tím bầm do bị tra tấn bằng roi điện, roi cá sấu. Ngày ông xuất hiện trước cửa căn nhà sàn vách ván lềnh bềnh trên mặt sông với bộ đồ bà ba đen, thằng con trai đầu ḷng mới 7 tuổi là tôi đă từ chối ông. Từ trước đến giờ tôi quên mất ḿnh có cha và chỉ được học đánh vần bởi người mẹ bằng cuốn “Nhị Thập Tứ Hiếu”. Tôi đă quay lưng với ông suốt một tuần lễ mặc kệ đêm nào ông cũng rơi nước mắt khi nằm bên cạnh các con. Ấy thế mà chỉ trong ṿng một năm tập làm quen t́nh phụ tử với nhau, tôi đă được ông dạy gần hết chương tŕnh tiểu học. Tôi đă học giỏi đến mức có thể đi biểu diễn ở các trường công và trường tư lúc mới vừa…8 tuổi. Tại trường tiểu học tư thục Sao Mai dưới chân cầu Công Lư, các thầy giáo nhà ḍng đă dẫn tôi đến tất cả mọi lớp từ lớp năm đến lớp nhất (tức lớp 1 đến lớp 5) để đọc bảng cửu chương từ 2 cho đến 9 đọc xuôi rồi đọc ngược, sau đó làm toán chia bốn con lẫn toán phân số của bậc trung học. Tôi biến thành tấm gương hiếu học một cách kỳ lạ. Tại trường tiểu học công lập con trai Tân Định (giờ là trường tiểu học Nguyễn Thái Sơn) tôi đă được thầy hiệu trưởng đặc cách nhận vô học lớp tư (tức lớp 2) sau khi trắc nghiệm năng lực về văn và toán.
Kể từ đó tôi luôn luôn lănh phần thưởng hạng nhất cuối năm học từ lớp tư cho đến lớp nhất. Chỉ cần đứng hạng nh́ trong một tam cá nguyệt (học kỳ) là tôi đă bị trừng phạt bằng những ngọn roi da giày của ba tôi quất tới tấp vào mông. Những lần bị đ̣n như thế tôi rất oán hận và nguyền rủa ba tôi nhưng bây giờ ngồi nghĩ lại mới thấy ông có cách giáo dục và thương con cực kỳ đặc biệt. Ông có cách giáo dục như bà mẹ thầy Mạnh Tử dạy con lúc c̣n thơ trong sách Cổ Học Tinh Hoa. Tôi lại may mắn thụ giáo những bậc thầy giỏi ngay từ tiểu học. Lớp Tư 1 học thầy Nhạ. Lớp Ba1 học cô Cổ Tấn Mỹ Loan. Lớp Nh́ A học cô Phan Thị Mai. Lớp Nhất A học bà Giáo. Thi Đệ Thất vô trường trung học công lập Trần Lục năm đó chỉ lấy 170 người trên hơn 10.000 thí sinh ứng thí, tôi thi đậu hạng 7 và được nhận học bổng suốt những năm trung học đệ nhất cấp. Số điểm hạng 7 của tôi so với hạng nhất thủ khoa chỉ cách 1 điểm rưỡi. Ba tôi bằng cách nào đó đă xem phiếu điểm thi và rất hài ḷng khi thấy bài văn tôi đạt điểm cao nhất, c̣n bài toán được tôi giải theo kiểu phân số của bậc trung học và bị trừ 2 điểm dù đáp số y chang của Bộ Giáo Dục.
Trong phạm vi bài viết này thiết tưởng cũng cần nói lên sự ưu việt của nền giáo dục thời đó dành cho trẻ em nghèo. Tuy đất nước trong thời chiến, nhưng những đứa trẻ con chúng tôi mỗi buổi sáng đến trường không cần phải lấy tiền của cha mẹ, bởi trước khi vào lớp đều được nhận một phần ăn bánh ḿ phô mai và ly sữa bột nóng miễn phí. Đến cuối năm đứa nào nghèo quá th́ được lănh phần thưởng “CÂY MÙA XUÂN” gồm quần áo sách vở, không hề phân biệt gia đ́nh có hoạt động chống lại chế độ hay không. Cụ thể là gia đ́nh “tù chính trị” nghèo mạt hạng của tôi luôn có thêm phần thưởng ấy. Chưa kể học tiểu học được dạy môn Đức Dục, lên trung học có môn Công Dân đều là những môn dạy căn bản đạo lư làm người. Chính nhờ đạo lư làm người ấy mà tôi biết được cô Phan Thị Mai c̣n có bút hiệu là Nhất Chi Mai, cô giáo lớp nh́ trường Tân Định hiền lành dễ thương của chúng tôi nhà ở xóm Nhà Đèn, là một nữ anh hùng dám tử đạo v́ lư tưởng ái quốc. Tại miền Nam vào những năm 1965 – 1968 mức độ phát triển và cường độ chiến tranh ngày càng ác liệt và tàn khốc. Cô giáo Nhất Chi Mai của tôi noi gương Morisson tự thiêu trước Ṭa Bạch Ốc để phản đối chiến tranh. Ngày 16 – 5 – 1967 cô tự tưới 10 lít xăng lên người rồi châm lửa, biến thân ḿnh thành đuốc tại chùa Từ Nghiêm, đường Bà Hạt gây chấn động dư luận trong nước và thế giới. Lúc đó tôi đang học Đệ Lục (tức lớp 7) trường trung học công lập Trần Lục. Tôi bàng hoàng không phải v́ ḿnh là đứa học tṛ giỏi nhất được cô cưng nhất , mà bàng hoàng trước bài thơ “CHẮP TAY TÔI QUỳ XUỐNG” do cô để lại như một di chúc :
CHẮP TAY TÔI QUỲ XUỐNG
Sao người Mỹ tự thiêu ?
Sao thế giới biểu t́nh ?
Sao Việt Nam im tiếng
Không dám nói Ḥa B́nh
Tôi thấy ḿnh hèn yếu
Tôi nghe ḷng đắng cay
Sống ḿnh không thể nói
Chết mới được ra lời
Ḥa B́nh là có tội !
Ḥa B́nh là cộng sản !
Tôi v́ ḷng nhân bản
Mà muốn nói Ḥa B́nh !
Chắp tay tôi quỳ xuống
Chịu đau đớn thân này
Mong thoát lời thống thiết !
Dừng tay lại người ơi !
Dừng tay lại người ơi !
Hai mươi năm nay rồi
Nhiều máu xương đă đổ
Đừng diệt chủng dân tôi !
Chắp tay tôi quỳ xuống…
Bài thơ chỉ đơn giản như thế. Nhưng đối với tôi nó là ngọn đuốc sống. Ngọn đuốc ấy hừng hực và trường cửu hơn bất kỳ một thứ hào quang nào đă dẫn dắt và kích động tôi bước vào con đường làm cách mạng. Một con đường chông gai, nguy hiểm mà tôi đă trả giá bằng tuổi trẻ cho tới tận tuổi trung niên ẩn sĩ bây giờ.
Năm 11 tuổi tôi bắt đầu có thơ in báo ở các trang thiếu nhi của các nhật báo, tuần báo thời đó. Tôi đọc ngốn ngấu cổ văn kim văn, nhai nuốt và tiêu hóa hết kho sách cũ của ba tôi và cậu tôi giấu kín dưới gầm giường. Ở trường dạy loại thơ ǵ là tôi thực hành ngay loại thơ đó, kể cả thể loại thơ khó nhất là thơ Đường Luật. Tôi làm thơ Đường bảo đảm có đủ “mạo, thực, luận, kết” với cặp thực và cặp luận đối nhau chan chát. Số lượng thơ đăng báo của tôi cho đến 15 tuổi không dưới vài trăm bài thơ được cắt dán trong sổ hẳn hoi. Năm học Đệ Lục trường Trần Lục tôi và hai người bạn cùng lớp là Vũ Hào Hiệp, Ngô Đ́nh Hải dám thành lập “Nhóm Thơ Hồn Trẻ” với những tôn chỉ, mục tiêu, thủ tục kết nạp nhóm viên đăng lên các báo. Chúng tôi có quỹ riêng tích lũy bằng sự đóng góp của các tân nhóm viên và đăng đàn sáng tác thơ, truyện y chang những ng̣i bút chuyên nghiệp. Hai thành tích của tôi trong giai đoạn này là đoạt giải thưởng Hội Họa Thiếu Nhi Châu Á lúc mới 9 tuổi đang học lớp Ba1 trường Tân Định với bức tranh màu nước mang tựa “Quang Trung Hành Quân” và giải thưởng truyện ngắn Viết Trên Quê Hương Điêu Tàn của một nhật báo đối lập lúc 15 tuổi với truyện “Trái Đầu Lâu”. Trong bức Quang Trung Hành Quân tôi vẽ cuộc tiến công thần tốc của Hoàng Đế Quang Trung ra Bắc bằng cuộc chuyển quân trên vơng, cảnh tượng cứ hai nghĩa quân Tây Sơn đi như chạy cáng vơng một người nằm quả là h́nh ảnh đặc sản chỉ có ở con người Việt Nam và ở sự sáng tạo thần kỳ của Nguyễn Huệ. C̣n trong truyện Trái Đầu Lâu tôi nói về sự tích trái bă đậu thường rơi rụng trên vĩa hè đường Tú Xương mà tôi hay đi qua. Trái bă đậu chín khô có h́nh dạng như cái sọ người. Trong số tuổi 15 non nớt tôi tưởng tượng cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn Nam Bắc đang lan dần trên thành phố qua những “trái đầu lâu” mỗi ngày rơi lộp độp.
Tại trường Trần Lục tôi được dạy dỗ bởi những giáo sư tận tâm, nhưng người gây dấu ấn mạnh nhất đối với chúng tôi có lẽ là thầy Đỗ Quư Toàn. Thầy Đỗ Quư Toàn là một thi sĩ thành danh thời bấy giờ với trường phái thơ tự do hiện đại. Sáng tác của thầy xuất hiện trên nhiều tạp chí giá trị. Thầy Toàn luôn là niềm ngưỡng mộ của chúng tôi khi đứng trên bục giảng và là người phụ trách mục giới thiệu sáng tác văn học trên Đài Truyền H́nh Sài G̣n với giọng Bắc trầm ấm, dáng người nho nhă, ống píp ph́ phà khói ngậm trên môi. Thầy đă dạy tôi hai năm liên tiếp Đệ Lục lẫn Đệ Ngũ và cũng chính thầy trong hai năm đó trao cho tôi giải thưởng Văn Chương Liên Lớp. Có một điều mà thầy không hề ngờ đến là cái tên tôi đăng thơ cùng chung một cột báo với nhà thơ Đỗ Quư Toàn trên tạp chí Đời. Bài thơ phản chiến tựa GĂ MỘT CHÂN đăng năm 14 tuổi dưới bài thơ của thầy được tôi kư bút hiệu là Chính Vi. Cái tên Chính Vi (là tiếng lái Chí Vinh) không biết có làm thầy ngờ ngợ…
Tôi chỉ học hết năm Đệ Tứ (lớp 9) ở trường Trần Lục là phải chuyển qua trường trung học công lập Nguyễn Trăi ở tuốt quận 4 v́ một lư do giản dị : Tôi chọn ban A và trường Trần Lục không có lớp 10A. Tại ngôi trường Nguyễn Trăi mới mẻ này trong suốt hai niên khóa trung học đệ nhị cấp tôi vẫn là một trong những học sinh xuất sắc nhất lớp. Trường Nguyễn Trăi nằm ở ngoại ô Sài G̣n với đa số học tṛ xuất thân từ giai cấp công nhân hoặc lao động nghèo thành thị, một môi trường hoàn toàn phù hợp với sự nổi loạn và khuynh hướng phản chiến của tôi. Một bài thơ tiêu biểu trong thời kỳ này mang tên là SIÊU THỊ CHIẾN TRANH được tôi đăng báo Chí Linh năm 1971 dưới bút hiệu Bùi Thăng Long như sau :
SIÊU THỊ CHIẾN TRANH
Chị em ơi mau mau bày hàng
Những món đồ chơi dành cho giày ống
Thịt da dân tộc bốn ngàn năm phơi nắng
Một sớm một chiều thành đồ lót, cọt- xê
Tuổi mười sáu đến vũ trường chân đô thị, chân quê
Em khập khiểng bán hàng chào nón sắt
Mẹ cha ngồi vĩa hè chén cơm chan nước mắt
Đồng đô- la ôm thân phận Thúy Kiều
Những con mắt hỏa châu hậm hực sợ t́nh yêu
Tiếng đại bác lơa lồ đêm tao loạn
Anh em ơi mau mau bày bán
Siêu thị chiến tranh hàng PX ồn ào
Gian đầu buôn đạn bom, gian giữa chứa gươm đao
Những gian kế tiếp là hơi cay, mặt nạ
Gian kế nữa là đồng khô sỏi đá
Nương rẫy ma tru, cây cỏ cụt đầu
Anh c̣n ǵ cho những gian sau
Chị ơi, anh ơi… chúng ta ở đâu ?
Ổ khóa siêu thị có mùi bơ ngoại tộc
Hăy phá cửa cho trái tim ̣a khóc
Cho bốn ngàn năm đội mũ xuống đường
Rào kẽm gai nào ngăn được Quang Trung
Hàng song sắt nào cản đường Lê Lợi
Bước chúng ta đi cổng trường băo nổi
Măi măi không c̣n siêu thị chiến tranh !
Năng khiếu văn chương của tôi ngay lập tức lọt vào mắt xanh của những kẻ hoạt động bí mật trong và ngoài trường học. Tại trường Nguyễn Trăi tôi giao du với Nguyễn Văn Tâm học thua tôi một lớp và hai đứa cùng thành lập nhóm Văn Nghệ Chí Linh có một tờ báo in roneo hẳn hoi. Bên cạnh đó tôi được Nguyễn Văn Vĩnh, trưởng khối báo chí của trường, học hơn tôi hai lớp, giới thiệu tôi vào Tổng Đoàn Học Sinh Sài G̣n trụ sở trên đường Hồng Bàng, Chợ Lớn. Kể từ giây phút ấy tôi biến thành một thành viên bất ngờ trên mặt trận báo chí, văn nghệ của phong trào tranh đấu sinh viên học sinh thành phố. Tôi tham gia những cuộc xuống đường, những cuộc băi khóa đ̣i hỏi dân quyền dân sinh, sáng tác thơ, văn, xă luận đăng trên các báo chí phong trào sinh viên học sinh và các nhật báo đối lập với các bút hiệu Bùi Chí Vinh, Chính Vi, Lê Đại Nam, Trần Đại Việt, Bùi Thăng Long… Tôi c̣n nhớ vở kịch thơ NGƯỜI LÀM LỊCH SỬ của tôi nói về cuộc chia tay của hai cha con Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trăi ở ải Nam Quan đăng trên báo Xuân trường Nguyễn Trăi năm 1971 cùng những bài viết trên các báo học sinh sinh viên tranh đấu đă khiến tôi bị đuổi học một tuần lễ. Lần đuổi học ấy kéo theo cả một đợt băi khóa lớn toàn trường và tôi bị thầy giám học Tạ Quang Khôi kêu lên làm việc. Thầy Tạ Quang Khôi đối với tôi không hề xa lạ, thầy chính là nhà văn từng phụ trách mục VÙNG CỎ NON dành cho tuổi mới lớn trên nhật báo Thời Thế. Hồi c̣n học ở Trần Lục, tôi và Nhóm Thơ Hồn Trẻ thường xuyên đăng bài trong mục của thầy. Thầy chỉ khuyên tôi đúng một câu “Em là người có năng khiếu văn chương hơn là năng khiếu chính trị. Tôi yêu mến những bài thơ của em hơn là thấy em làm nắm đấm trong tay người khác”.
Trời đất, tôi mới 17 tuổi như con ngựa chứng không cương làm sao hiểu hết những ẩn ư của thầy. Thuở đó tôi lồng lộn sải vó cố t́m ra ánh sáng cuối đường hầm trên con đường sạn đạo của ḿnh. Tôi từng trần thuyết về đề tài Tam Dân Chủ Nghĩa trước thầy Huỳnh Thành Tâm tức nhà văn Huỳnh Phan Anh nổi tiếng dạy tôi năm lớp 10A và được thầy cho điểm tuyệt đối về sự hùng biện táo bạo. Khác với hai thầy Đỗ Quư Toàn , Tạ Quang Khôi mà tôi không lần nào gặp lại, riêng thầy Huỳnh Phan Anh sau giải phóng tôi được hân hạnh tái ngộ và trở thành một đồng nghiệp nhỏ thân thiết của thầy. Tôi c̣n nhớ cuối năm 1975 trên báo Văn Nghệ Giải Phóng xuất hiện hai bài tùy bút nổi tiếng một của Trịnh Công Sơn và một của Huỳnh Phan Anh. Hai bài viết thuộc dạng sắc sảo trong cách nh́n của mỗi người về những biến thiên của thời cuộc, nhưng tùy bút NH̀N LẠI của Huỳnh Phan Anh được dư luận đánh giá cao hơn. Tôi không coi đó là sự giác ngộ cách mạng hoặc sám hối nghề nghiệp của Huỳnh Phan Anh như sự chụp mũ ác ư của một số người cầm bút. Tôi hiểu tâm trạng của một nhà văn tự trọng kiêm một nhà giáo lương thiện và ủng hộ con đường đi của thầy. Hai thầy tṛ chúng tôi đă nhiều lần cụng ly, nhiều lần lăn lóc, nhiều lần ngổn ngang tâm sự với nhau cho dù Huỳnh Phan Anh hầu như không nhớ ǵ tên học tṛ Nguyễn Trăi ngày xưa được ông cho điểm cao nhất môn trần thuyết. Có lần ông kể với tôi trong một đêm say khướt ngồi xe xích lô về nhà trên đường Vơ Văn Tần (đường Trần Quư Cáp cũ) ông đă được tay tài xế xích lô xa lạ đọc cho nghe bài thơ XÍCH LÔ HÀNH của tôi, sau đó c̣n hát nghêu ngao ca khúc phổ nhạc bài thơ đó. Ông xúc động nói với tôi rằng :”Như vậy là mày đă tồn tại.Nhà thơ cả đời chỉ cần một sáng tác được truyền khẩu, thế mà bài thơ Xích Lô của mày được phổ biến khắp nơi. Tao hănh diện được làm thầy của một thi sĩ nhân dân kiểu đó”. Khi tôi viết những ḍng này th́ vị thầy giáo đáng kính đă lưu lạc giang hồ bên Mỹ quốc, trước khi đi tôi đă cố gắng cùng thầy gơ cửa đủ mọi cơ quan, báo chí để nộp từng chồng hồ sơ khiếu nại khiếu tố dày cộm về đám cường hào ác bá tỉnh Tây Ninh cướp đất hương hỏa của gia đ́nh thầy, nhưng tất cả nỗ lực
đều thất bại bởi “con cóc không thể kiện ông trời” khi không c̣n thượng đế. Chẳng biết thầy c̣n nhớ những kỷ niệm bụi đời của chúng tôi không?
Tại Tổng Đoàn Học Sinh Sài G̣n tôi có dịp giao du với nhiều cây bút tranh đấu khác trong giới học sinh như Lê Văn Nuôi, Trương Minh Nhựt… và quan trọng hơn cả là làm quen với Nguyễn Sĩ Hiền, một nhà thơ đàn anh đang hoạt động cách mạng rủ rê tôi tham gia biên tập tờ Làm Báo do anh phụ trách. Hồi đó Nguyễn Sĩ Hiền với các bút hiệu Hữu Đạo, Ba Đ́nh, Rạch Gầm, Yên Thao, Đồng Tháp, Hồ Trường… lừng danh trong phong trào học sinh đấu tranh đô thị không thua ǵ Trần Quang Long bên cánh sinh viên. Đối với tôi, được chơi với anh là một sự hân hạnh. Có lần anh gơ cửa nhà tôi, căn nhà sàn tồi tàn nhất Xóm Lách trong một chiều mưa sùi sụt. Căn nhà chỉ có cha tôi làm thợ giày, mẹ tôi làm thợ may, cậu tôi biệt danh Tám Ruby làm thợ đệm và những đứa em nhỏ. Tất cả đều nh́n Nguyễn Sĩ Hiền đầy nghi ngại dù gia đ́nh tôi đều âm thầm hoạt động cách mạng. Trên căn gác xép, Nguyễn Sĩ Hiền tâm sự với tôi rằng anh đang bị chính quyền Thiệu Kỳ truy nă và chỉ muốn tá túc một đêm. Trong đêm đó anh đă trao đổi biết bao nhiêu chuyện với tôi, từ thơ văn cho đến lư tưởng, hoài băo của thanh niên trong thời chiến. Anh đă đọc một bài thơ mang tựa là HẠNH PHÚC mà tôi c̣n nhớ măi :
HẠNH PHÚC
Sớm mai con ra phố
Thấy người nằm chết co ro trên vĩa hè
Giữa chợ đời lấn chen
Má ơi
Nếu con vất được trái tim
Và bôi bùn lên óc
Th́ đời con hạnh phúc biết bao nhiêu
Bài thơ “Hạnh Phúc “ đọc năm 1971 ấy đến giờ này thiết tưởng vẫn c̣n hiệu quả nhăn tiền. Năm 1971 anh “dụ khị” tôi vào con đường cách mạng bằng bài thơ đau đớn nói về ước mơ tuyệt vọng của những kẻ bên lề bị xă hội ruồng rẫy, th́ hôm nay năm 2008 cuốn phim bi kịch ấy lại lồ lộ ra trước mắt, có khi c̣n thảm hại hơn bởi mức độ ngụy quân tử và bội tín của những kẻ quyết định số phận của người khác cao hơn. Năm 2008 với báo cáo GDP không ngừng tăng và con số gái đứng đường, gái lấy Đài Loan, gái làm điếm ở Trung Quốc, sinh viên ra trường thất nghiệp, công nhân thợ thuyền xuất khẩu lao động như nô lệ, trẻ mồ côi không nơi nương tựa đầy vĩa hè, xăng dầu điện nước tăng giá vùn vụt, ô nhiễm từ lô cốt trên đường đi cho đến rác rưỡi đen ng̣m chất thải ngập mặt nước cũng tăng theo tỷ lệ thuận cùng con số ảo của GDP. Cũng may mà Nguyễn Sĩ Hiền đă chết ngay năm đầu sau giải phóng, chấm dứt luôn tài tiên tri của một nhà thơ lớn. Nếu không th́ có khi anh lại nổi cơn thịnh nộ của một thi sĩ tâm huyết và có khi lại bị khoanh vùng, quản thúc tại gia như một số nhà văn hóa yêu nước dám ăn dám nói…
Qua Nguyễn Sĩ Hiền, tôi trở thành một nhóm với Nguyễn Văn Tâm và hai học sinh bí mật khác. Chúng tôi thường hẹn ḥ nhau uống cà phê trước cửa trường Nguyễn Trăi trước khi xuống đường hoạt động đấu tranh. Một hôm Tâm cắt một mớ giấy thủ công gồm 3 màu xanh, đỏ, vàng rồi xếp thành h́nh lá cờ Mặt Trận bày lên bàn nước. Tâm nói tôi nên lấy bí danh là “Hai Long” với ư nghĩa tôi là anh Hai trong gia đ́nh có bút hiệu Bùi Thăng Long, rồi dùng quẹt diêm đốt lá cờ bằng giấy. Thế là xong. Thế là xem như tôi đă là một thành viên của Đoàn Thanh Niên Nhân Dân Cách Mạng Sài G̣n Gia Định như sau này Nguyễn Văn Tâm với bí danh là Sáu An tháng 5 – 1975 từ rừng ra khẳng định điều đó với tôi.
Thời tuổi trẻ quả thật hào hùng. Làm trai thời loạn ở Tổng Đoàn Học Sinh Sài G̣n giao du với nhiều bạn bè cùng chí hướng thương nhau như ruột thịt, dám đứng mũi chịu sào mỗi người phụ trách phong trào đấu tranh một trường học. Như Nguyễn Văn Phúc tự Út Tâm, Lê Văn Nuôi, Lê Văn Triều ở trường Cao Thắng. Như Tiết Hồng Quân, Nguyễn Văn Vĩnh tự Tư Thuyết ở trường Nguyễn Trăi. Như Lê Văn Nghĩa, Ba Đông ở trường Petrus Kư. Như Hứa Thị Tuyết Hoa, Nguyễn Lương Ngọc ở trường Đức Trí. Như Trương Minh Nhựt tự Ba Vũ ở trường Vương Gia Cần. Như Lê Hoàng ở trường Văn Học. Như Trần Thị Mỹ Thành ở trường Gia Long. Như Đặng Thị Thục Trinh ở trường Lê Văn Duyệt… Aáy thế mà chỉ sau một cuộc bể dâu, vật chưa đổi sao chưa dời bao nhiêu, mà sau giải phóng con đường đi của mỗi người tách ra nhiều hướng theo kiểu “mạnh ai nấy sống mạnh ai nấy chết”. Ai làm quan, làm vương tướng th́ thân thích bộ hạ được nhờ. Ai dám ăn dám nói dám đề kháng lại tổ chức th́ chết ráng chịu. Mỗi năm một lần tôi lại được mời họp truyền thống Thành Đoàn, đến vài lần để thấy t́nh nghĩa ngày xưa lạt như nước ốc. Tay giả bộ bắt, mặt giả bộ mừng nhưng bằng mặt khác hẳn bằng ḷng chứ sao. Nghĩ đến câu “Lính già ngồi kể chuyện Nguyên Phong” của vua tôi thời nhà Trần sau khi đánh thắng giặc Nguyên Mông càng thêm ngậm ngùi vô tận.
Năm 1971 cha tôi là ông Bùi Văn Tŕnh chết v́ hậu quả những vết thương do bị tra tấn trong nhà tù khi hoạt động cách mạng. Ông chết như một liệt sĩ hy sinh cả đời ḿnh cho tổ quốc nhưng thủ tục giấy tờ để công nhận là một liệt sĩ quá rắc rối khiến mẹ tôi bực ḿnh dẹp qua một bên. Bà cũng dẹp luôn tờ giấy chứng nhận “Gia đ́nh có công với cách mạng” và các huy chương cho vào rương khóa kín. Bà nói sau giải phóng chừng vài năm : “Tụi nó làm trật rồi. Hồi đó nói một đằng bây giờ làm một nẻo. Người nghèo vẫn hoàn nghèo. Chỉ là sự thay đổi của đám nhà giàu mới. “ . Tuy nhiên đó là chuyện hạ hồi phân giải sau này.
Đầu tháng 5 – 1975 Nguyễn Văn Vĩnh với bộ bà ba đen, khăn rằn mang dép râu gơ cửa căn nhà sàn tồi tàn nhất Xóm Lách dưới chân cầu Công Lư t́m tôi. Không phải ai khác mà chính Nguyễn Văn Vĩnh hai lần đưa tôi vào con đường cách mạng. Vĩnh xuất thân từ một gia đ́nh sản xuất nón ở quận 4, toàn bộ nhà đều tham gia hoạt động. Hồi ở phong trào và c̣n làm báo Học Sinh, anh nổi tiếng là một nhà hùng biện với những bài xă luận nảy lửa định hướng những chủ trương then chốt của phong trào. Bây giờ anh trở nên thâm trầm mộng mơ hơn khi xách xe đạp chở tôi dạo một ṿng Sài G̣n và đọc cho tôi nghe những bài thơ của các thi sĩ miền Bắc. Sau cuộc tái ngộ đó, anh giới thiệu tôi với Ban Tuyên Huấn Thành Đoàn để làm Bản Tin Ban Tuyên Huấn. Dù trong Ban có sẵn những khuôn mặt quen biết từng hoạt động chung ở Tổng Đoàn Học Sinh Sài G̣n nhưng tôi cũng bị “test” khá kỹ về chuyên môn và lư lịch sau một thời gian đứt liên lạc với nhau.
Bản Tin Ban Tuyên Huấn Thành Đoàn lúc đó chính là tiền thân của báo Tuổi Trẻ bây giờ. Tôi thoát ly gia đ́nh ở hẳn số 55 Duy Tân (giờ là đường Phạm Ngọc Thạch) trở thành cây bút chủ lực của bản tin trong tất cả mọi đề tài nóng bỏng từ thời sự, chính trị, văn hóa đến thể thao. Ngày 2- 9 – 1975 báo Tuổi Trẻ ra mắt số đầu tiên và tôi nằm trong Ban Biên Tập của tờ báo cùng với anh Hoàng Nghĩa tức Đôi Nạng Xứ Dừa phụ trách trang văn hóa văn nghệ. Công việc chủ yếu của tôi là chọn đăng sáng tác của bạn đọc và mỗi tuần viết một bài thơ theo chủ đề. Trong thời buổi cách mạng c̣n chân ướt chân ráo, thơ văn là thứ thức ăn tinh thần dễ đến với người đọc nhất. Thời buổi ấy đừng ḥng có loại thơ t́nh sướt mướt hoặc loại thơ @ đồi trụy phi nhân tính như bây giờ. Thời buổi ấy tôi dùng thơ như một cây chổi để quét rác rưởi. Tôi trong sáng đến mức độ làm những bài tương tự như bài thơ dưới đây :
HẠNH PHÚC CÓ THẬT
Trả lại thành phố những ngày ngồi gác chân rũ rượi không biết làm chuyện ǵ
Ngoài việc kêu một vài chai bia và nh́n con gái
Trả lại thành phố một thời gian suưt làm chó dại
Với nhiều tiếng sủa rất cầu kỳ
Thưa mẹ, con đi
Mọi người hăy tin tôi, chưa muộn, rằng chưa muộn
Mẹ hăy tin con, rằng con đang lớn
Cùng quê hương
Trả lại thành phố những ngày so đủa cạnh bát cơm
Quên mất ai cho tôi ăn, quên bẵng người gieo hạt
Quên mồ hôi, quên nước mắt
Chỉ biết ngấu nghiến và thèm thuồng
Thưa mẹ, con lên đường
Mọi người hăy tin tôi, c̣n sớm, rằng c̣n sớm
Mẹ hăy tin con, rằng con đang lớn
Cùng quê hương
Trả lại thành phố những ngày mũ áo xênh xang
Quên mất ai dệt cho tôi, ai se từng sợi chỉ
Tôi đối chất với những điều phi lư
Rồi lạc mất ḿnh
Thưa mẹ, thưa cha, thưa chị, thưa em
Trả lại thành phố đang thay da đổi thịt
Thu về tôi hạnh phúc mỏi mắt t́m
Nhưng luôn luôn có thật
Suốt hơn 2 năm tôi đă ở tới 3 trụ sở của báo Tuổi Trẻ. Từ 55 Duy Tân đến 62 Trương Tấn Bửu rồi 12 Duy Tân… chịu đủ thứ nạn dịch, từ dịch “ghẻ ngứa” sau giải phóng đến dịch xếp hàng chờ tem phiếu. Từ việc đụng độ với quan điểm “chọn bài soi lư lịch” của cấp trên có thành kiến đến việc chia sẻ từng tách cà phê “bo bo rang” với các cộng tác viên xuất thân từ văn nghệ sĩ Sài G̣n cũ ghé đến gửi bài mà không biết có được sử dụng hay không. Cũng cần mở ngoặc đơn chỗ này, trong thời gian trên tôi quan hệ và giao du với hầu hết giới văn nghệ từ Nam chí Bắc trên đủ mọi lănh vực thơ văn, nhạc, họa, điện ảnh, sân khấu… trong đó có Nguyễn Nhật Aùnh vừa đạp xích lô vừa đi học Đại Học Sư Phạm. Tôi mến Nguyễn Nhật Ánh về nghị lực và tài thơ nên thường dắt luôn vào cơ quan và thậm chí cho ngủ ở pḥng riêng của tôi sau ṭa soạn số 12 Duy Tân. Chuyện chỉ có vậy, thế mà tôi bị tổ chức kiểm điểm, bị một vài cán bộ quy chụp là “bảo kê” cho nhà thơ “ngụy”, từng đăng bài trên tạp chí Văn của chính quyền Sài G̣n. Không riêng ǵ Nguyễn Nhật Aùnh, tôi c̣n bị dèm pha soi mói về việc đăng thơ, truyện của nhiều nhà văn, nhà thơ “chế độ cũ” bằng cách thay bút hiệu của họ. Chuyện đó mất vệ sinh đến nỗi tôi không muốn liệt kê danh sách các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ… đó ở đây. Bởi họ cũng như Nguyễn Nhật Anh hiện nay đều đang được nhà nước trọng dụng, dùng tích cực và PR hết cỡ…
Y chang như thơ của Cao Bá Quát khi nói về Mặc Vân Thi Xă của Tùng Thiện Vương, Tuy Lư Vương. Thơ rằng “Ngán cho cái mũi vô duyên – Câu thơ Thi Xă, con thuyền Nghệ An”. Thuở đó tôi đă làm một bản tự kiểm bằng thơ khạc ra tại chỗ sau khi thượng cẳng chân hạ cẳng tay với một nhân vật đáng ghét có quyền lực trong ṭa soạn:
BẢN TỰ KIỂM
Bọn chó đẻ bắt đầu tấn công
Những con lợn sủa ra ồng ộc :
“Không được đánh nhau trong cơ quan
Chúng tôi cảnh cáo đồng chí Vinh nghiêm khắc”
Bọn hưởng ứng mặt vênh thách thức :
“Rằng nghe ngôn ngữ lănh đạo chưa
Rằng biết điều th́ nên tự giác
Rằng làm người chớ quên nịnh hót
Làm cơ quan th́ phải khù khờ”
Tội nghiệp chàng thi sĩ chúng ta
Không thích thói ḷn trôn kiếm chác
Lẻ loi giữa thời đại bọn hèn
Chàng chống kiếm hét “Đông Ki Sốt”
Bài thơ làm năm 1977 và tôi bị “ghim” từ đó. Cuối năm 1977 tôi được Thành Đoàn biệt phái xuống hai trường Thanh Niên Xây Dựng Cuộc Sống Mới Xuyên Mộc và Vĩnh An để xâm nhập thực tế, vừa “tu chỉnh” bản thân vừa có thêm vốn sống của dân giang hồ anh chị đang làm học viên cải tạo tại trường. Tại địa bàn mới mẻ này, tôi có dịp làm quen chia bùi sẻ ngọt qua cương vị cán bộ tuyên huấn bất đắc dĩ với những nhân vật trong tương lai của vở kịch thơ THÀNH TABERD của ḿnh. Đó là Trần Vĩnh Thành tự Thành Taberd con trai một ông quan chế độ cũ, xem chuyện vào tù ra khám như một chỗ nghỉ chân. Đó là Hiếu Hercule c̣n có các biệt danh Ngọc Pallmall, Hoàng Salem, Hương Xa Lộ… nữ quái khét tiếng trong giới chém thuê xă hội đen. Đó là Thái Gorki tay anh chị mê truyện Gorki như mê phi vụ. Đó là Hạnh Angiêlic nữ hoàng ăn chơi của các sàn nhảy về đêm. Đó là Tâm Luxiphe tướng cướp chuyên chặt tay người tḥ ra khỏi thành xe đ̣ để cướp lắc, nhẫn vàng và vô t́nh chém cụt bàn tay của người mẹ quê lên Sài G̣n thăm ḿnh… Tất cả bi hài kịch hỉ nộ ái ố của cuộc đời thực đó được tôi triển khai thành kịch thơ THÀNH TABERD dầy ngang một cuốn tiểu thuyết với sự hỗ trợ của hai nhà thơ, nhà văn tiền bối là Kiên Giang và Sơn Nam. Tuy nhiên đó là chuyện sau này, khi THÀNH TABERD đoạt giải đặc biệt của Lực Lượng Thanh Niên Xung Phong Thành Phố. C̣n bây giờ xin trích ra một đoạn trong vở kịch thơ cho các bạn thưởng lăm :
TRÍCH KỊCH THƠ THÀNH TABERD, NHỮNG KẺ ĐÀO NGŨ :
Tôi phải đào ngũ, tôi phải đào ngũ
Tôi đào ngũ v́ tôi mặc cảm
Tôi muốn trở thành một người vô sản
Tôi muốn hát ca, tôi muốn yêu đời
Nhưng tôi hát ca thua cán bộ mất rồi
Thua tổ chức cả âm thanh và sức mạnh
Tôi yêu đời thua những người ngu đang kiêu hănh
Oâi ở đây tôi thấp bé đến chừng nào
Đồng đội quanh tôi có những quá khứ tự hào
Cộng một tương lai ít nhiều hy vọng
Tôi có mặt như một khoảng trống ?
Tôi cũng đào ngũ như anh v́ tôi bất lực
Không phải tư tưởng tôi đang xuống dốc
Nhưng trước bất công tôi không dám phê b́nh
Tôi biết một cán bộ chánh văn pḥng nhận tiền đút lót của học viên
Rồi đóng dấu thả về qua mặt Ban Giám Hiệu
C̣n sử dụng học viên làm tay chân khéo léo
Đi đứng nghênh ngang ra dáng cai tù
Tôi không dám đấu tranh v́ tôi sợ bị trả thù
Tôi chỉ là một nhân viên nghiên cứu
Tôi cũng đào ngũ như hai anh v́ thành tích xấu
Phụ trách kho nhưng kho rỗng tuếch rồi
Hóa đơn, giấy tờ nằm ở bụng tôi
Bột ngọt, sữa, đường… đă vào bao tử
Tôi không c̣n con đường nào khác cả
Nhưng em đào ngũ khác ba anh, v́ Sài G̣n đẹp quá
Đêm ở Huyền Trân hấp dẫn vô cùng
Người ta gọi em là “gái ăn sương”
Nên thỉnh thoảng ngựa vẫn quen đường cũ
Em thích uống bia, em mê khiêu vũ
Em khoái đàn ông và em quư bạc tiền
C̣n ở đây th́ em rất… vô duyên
Riêng tôi tầm thường hơn bốn người, tôi đào ngũ v́ “vă” đời quá cỡ
Ở Sài G̣n tôi luôn luôn có “thớ”
Làm đàn anh khu xe lửa Nguyễn Thông
Ban ngày đi thu thuế con buôn
Ban đêm tổ chức ṣng xập xám
C̣n ở đây th́… bỏ qua đi Tám
Mặt mũi ai ngó thấy cũng cô hồn
Tôi chưa làm điều ǵ đáng gọi… chơi ngon
Ê, vậy là riêng tôi dù mát thần kinh, tôi cũng đào ngũ luôn
Tôi đào ngũ v́… nhiều người đào ngũ quá
Ngoài ra không có lư do ǵ khác cả…
Kịch thơ THÀNH TABERD được khai bút tại nhà của thi sĩ Kiên Giang Hà Huy Hà trên đường Phạm Thế Hiển, quận 8 lúc ông đề nghị tôi khôi phục truyền thống kịch thơ đă bị mất tích từ thời tiền chiến. Hôm đó có mặt cả nhà văn Sơn Nam, người bạn già lừng danh của thi sĩ Kiên Giang từ thời kháng Pháp. Chú Kiên Giang nói “Sau thời Tự Lực Văn Đoàn coi như thất truyền luôn kịch thơ, một thể loại độc đáo có thể đưa lên sân khấu tŕnh diễn thành ca nhạc kịch hoặc giao hưởng hợp xướng. Chú mày có nhiệm vụ khôi phục nó”. Để ra đời được THÀNH TABERD hai vị tiền bối Sơn Nam và Kiên Giang đă nuôi cơm tôi bằng lon guigô hơn nửa tháng trời tại chùa Phụng Sơn Tự tức chùa G̣ tọa lạc trên đường Ba Tháng Hai (tức đường Trần Quốc Toản nối dài). Tại chùa G̣, ngoài chú Kiên Giang đưa đón, cứ vài ngày bố già Sơn Nam lại đến thăm tôi động viên ủy lạo t́nh thần. Và chưa hết, khi bản thảo THÀNH TABERD hoàn thành bằng… bút ch́ (v́ chú Kiên Giang quá nghèo không có bút nguyên tử) hai tiền bối lại đưa tôi đến gơ cửa giám đốc Sở Văn Hóa Thông Tin Dương Đ́nh Thảo để chú Sáu Thảo hỗ trợ phần đánh máy cho vở kịch được lịch sự hơn.
Như nhiều người đă biết, nhà thơ Kiên Giang nổi tiếng trong thi đàn Việt Nam với bài thơ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím – Từ ngày binh lửa ngập quê hương…” được phổ nhạc. Tuy nhiên tôi yêu mến nhất bài thơ TIỀN VÀ LÁ của ông, bài thơ hay đến nỗi một tờ báo ngoài Bắc ngộ nhận là thơ của thi sĩ Nguyễn Bính. Bằng trí nhớ lơm bơm, tôi xin chép ra đây bài thơ đó của ông, nếu sai chữ nào mong chú Kiên Giang lượng thứ :
TIỀN VÀ LÁ
Ngày xưa hớt tóc miểng vùa
Ngày xưa mẹ bắt đeo bùa cầu Ông
Đôi ta cùng học vỡ ḷng
Dắt tay qua những cánh đồng lúa xanh
Đôi nhà cùng một sắc tranh
Chia nhau từng một trái chanh trái đào
Đêm vàng soi bóng trăng cao
Ngồi bên bờ giếng đếm sao trên trời
Anh moi đất nắn tượng người
Em tha thẩn nhặt lá rơi làm tiền
Mỗi ngày chợ họp mười phiên
Anh đem tượng đất đổi tiền lá rơi
Nào ngờ mai mỉa cho tôi
Lớn lên em đă bị người ta mua
Kiếp tôi là kiếp nhà thơ
Vốn riêng chỉ có một mùa lá rơi
Tiền không là lá em ơi
Tiền là giấy bạc của đời in ra
Người ta giấy bạc đầy nhà
Cho nên mới được gọi là chồng em
Bây giờ những buổi chiều êm
Tôi đem lá đốt khói lên tận trời
Người mua đă bị mua rồi
Chợ đời họp một ḿnh tôi. Vui ǵ…
Riêng với chú Sơn Nam th́ tôi có mối giao du đặc biệt hơn. Tôi và bố già Sơn Nam đă gắn bó với nhau suốt hai thập niên 1980 – 2000 từ thời nhiều vị mạnh thường quân giúp đỡ chúng tôi c̣n sống. Trên chiếc xe đạp cọc cạch và sau này trên chiếc xe gắn máy thổ tả, tôi đă chở bố già Sơn Nam đi gơ cửa t́m kiếm niềm vui hoặc hứng chịu nỗi buồn thê thảm từ những cái lắc đầu. Nhớ những lần đến nhà ông Vơ Văn Kiệt, một người đồng chí cũ của Sơn Nam cùng hoạt động trong tỉnh ủy Long Châu Hà ngày xưa, tôi thấy mắt bố Sơn Nam sáng lên khi khoe tôi một cái b́ thư dẹp lép hoặc năm món “căm đùm săm dĩa lốp” phụ tùng xe đạp mới toanh có thể đi bán chợ trời kiếm tiền nhậu lai rai. Rồi những lần ghé báo Công An TP thăm Huỳnh Bá Thành, lúc trở ra bố vừa hạnh phúc vừa ngậm ngùi trước chút ḷng hào kiệt đối với kẻ sĩ mạt lộ. Mới đây ngày 13 – 4 – 2008 được tin bố già mất, tự nhiên tôi sực nhớ một câu nói bất hủ của Sơn Nam khi luận về văn chương : “Văn học Việt Nam sau giải phóng trống trơn như nước đổ xuống rá”. Bố già ơi, câu nói bố hoàn toàn chính xác đối với thành phần sáng tác… quốc doanh. Đất nước chúng ta nghèo quá, ai giàu đâu chẳng biết nhưng chỉ thấy muôn đời kẻ sĩ có ḷng tự trọng lại quá nghèo. Viết đến đây tôi không thể không chép lại bài thơ hiếm hoi của bố in trong trang đầu cuốn HƯƠNG RỪNG CÀ MAU nổi tiếng. Bài thơ như một nén nhang ngưỡng mộ hương hồn bậc dị sĩ kỳ nhân :
THƠ SƠN NAM
Trong khói sóng mênh mông
Có bóng người vô danh
Từ bên này sông Tiền
Qua bên kia sông Hậu
Mang theo chiếc độc huyền
Điệu thơ Lục Vân Tiên
Vài câu chữ :
Kiến nghĩa bất vi vô dỏng giă
Từ Cà Mau, Rạch Giá
Cất cḥi đốt lửa giữa rừng thiêng
Muỗi, vắt nhiều hơn cỏ
Chướng khí mù như sương
Thân không là lính thú
Sao chưa về cố hương ?
Chiều chiều nghe vượn hú
Hoa lá rụng buồn buồn
Tiễn đưa về cửa biển
Những giọt nước ĺa nguồn
Đôi tâm hồn cô tịch
Nghe lắng sầu cô thôn
Dưới trời mây heo hút
Hơi vọng cổ nương bờ tre bay vút
Điệu ḥ ơ theo nước chảy chan ḥa
Năm tháng đă trôi qua
Ray rứt măi đời ta
Nắng mưa miền cố thổ
Phong sương mấy độ qua đường phố
Hạt bụi nghiêng ḿnh nhớ đất quê…
Trở lại chuyện cuối năm 1977 chiến tranh biên giới nổ ra. Thằng em ruột tôi là Bùi Chí Quang là sĩ quan từ Trung Đoàn Củ Chi Đất Thép chuyển qua Trung Đoàn 2 Công An Vũ Trang Biên Pḥng đóng quân ở mặt trận Tây Nam đă tử chiến với bọn chư hầu Khờ Me Đỏ Pôn Pốt dưới quyền điều khiển của thiên triều Trung Quốc. Những trận tử chiến triền miên ngay sau giải phóng, thế mà báo chí lẫn truyền thanh truyền h́nh đều câm như hến, im như thóc. Măi đến khi xác người chết bay về hậu phương dồn dập, những cuộc thảm sát người Việt ở biên giới diễn ra th́ nghị quyết bảo vệ tổ quốc mới được triển khai. Lúc này tôi không c̣n hào hứng ǵ với giải thưởng văn học thành phố Hồ Chí Minh năm 1976 – 1977 qua tập thơ HẠNH PHÚC CÓ THẬT vừa trúng giải. Lúc này đối với tôi chỉ c̣n hai phe : một phe gồm những người trẻ tuổi quả cảm dám ra chiến trường đánh giặc, phe c̣n lại là lũ mị dân ngồi trong pḥng tiện nghi mồm loa mép dăi ḥ hét tiến công nhưng dậm chân tại chỗ để bảo vệ cái ghế, dại ǵ cầm súng chết uổng mạng. Tôi đă làm ngay một bài thơ thời sự để mô tả sự phản ứng của ḿnh :
BIÊN GIỚI SALÔNG
Tôi căm thù sự bất công và rảnh rỗi
Thường được trá h́nh bằng những dạng âm thanh nổi
Hăy nghe chúng bàn biên giới ở đâu
Trên chiếc ghế vẹc- ni : nhân vật và những ly kem dâu
Tôi căm thù tiếng động ồn ào
Tiếng huưt sáo, tiếng của kẻ thích làm t́nh, tiếng nói tục
Hăy nghe chúng bàn biên giới ở đâu
Qua tiếng động thời trang xuất sắc
Biên giới nếu chỉ là đáp số của ngôi nhà b́nh yên rào kẽm gai, nuôi chó Nhật
Tích trữ tiện nghi, phụ nữ, dạ dày
Th́ hăy để miệng tôi nhổ đờm và đầu tôi biết lắc
Để làm một người chiến sĩ thơ ngây
Biên giới Salông không ở hướng Tây…
Năm 1978 sau ba lá đơn t́nh nguyện, tôi lên đường đi bộ đội trong đợt Hồng Binh rầm rộ của các cán bộ công nhân viên Thành Đoàn. Năm ấy tôi đă 24 tuổi, có vẻ là một “lính già” lăo luyện so với đám non tơ tuổi 18 đôi mươi mới lần đầu sờ ngón trỏ đến c̣ súng. Trên tư thế một nhà thơ trẻ vừa đoạt giải thưởng văn học thành phố đầu tiên sau giải phóng, tôi được Nhà Văn Hóa Thanh Niên tổ chức một buổi đọc thơ trong đêm thơ nhạc đặc biệt tại số 4 Duy Tân dành cho hàng ngàn thanh niên vừa trúng tuyển nghĩa vụ quân sự. Đêm đó trước sự cổ vũ của đám đông cuồng nhiệt, tôi đă đọc khá nhiều bài thơ, trong đó có bài thơ sau đây mà tôi c̣n nhớ :
KHI ANH CẦM SÚNG
Buộc vào ba lô sách Lỗ Tấn
Ca hát như một chàng di- gan
Ta vừa nghịch ngợm vừa đứng đắn
Khi đă quàng vai khẩu súng trường
Rừng nhờ người đi mà thành đường
Ta nhờ tự do mà thành lính
Đường, áp tai nghe mùi quê hương
Lính, áp má thấy ṇng thép lạnh
Biên giới như người đau mới mạnh
Giặc sang truyền dịch sốt rét rừng
Lẽ nào ta ngồi ôm ảo ảnh
Nhấp ngụm trà luận chuyện văn chương
Em có thể bàn về thiên đường
Với môi hồng cắn lên trái táo
Riêng ta chỉ biết kể chiến trường
Qua đôi mắt kẻ thù hung bạo
Hăy hát bài t́nh ca nhân đạo
Thay cho câu “bất khứ” tầm thường
Và hăy tin rằng sau cơn băo
Mặt trời lại mọc hướng Tây Nam
Bài thơ như một lời tiên tri. Ngay mùa xuân năm 1979 bộ đội Việt Nam đă giải phóng Tà Keo sau đó quét sạch bọn chư hầu Khờ Me Đỏ khỏi đất Campuchea trong ṿng một tuần lễ. Ở mặt trận phía Bắc, thiên triều Trung Quốc cũng bị đánh không c̣n manh giáp phải cuốn xéo về nước sau chiến dịch tấn công cổ điển theo kiểu biển người. Chúng tôi gồm ba thằng Thành Đoàn chơi thân với nhau, cùng lên đường một lượt là tôi, Sáu Quốc, Bảy Dũng th́ Sáu Quốc đă nằm lại vĩnh viễn trên đất nước Chùa Tháp xa lạ.
Tôi mặc áo lính không hề êm thắm. Hồi ở pḥng chính trị Bộ Tư Lệnh Thành làm báo Quyết Thắng chiều chiều trong doanh trại thấy các cô bộ đội tuổi mới lớn háo hức nh́n lên cây me nuốt nước miếng. Môi các cô đỏ mọng, mắt lồi ra, bao nhiêu cử chỉ xấu khác đều tập trung vào sự thèm muốn lúc đó. Tôi và thằng Bảy Dũng bên bộ đội thiết giáp cầm ḷng không được nên hai đứa thoăn thoắt trèo lên cây và rung cành tha hồ cho trái rụng. Kết quả Bảy Dũng đẩy một chiếc xe ba bánh đầy me ra khỏi cổng để đổi lấy chút hơi men đàn ông lai rai ba sợi, c̣n các cô bộ đội th́ thu gom các ba lô ăm ắp me dốt. Tất nhiên là chúng tôi bị kỷ luật. Tôi có làm bài thơ kỷ niệm về điều đó :
TÊN CÔ DẮC TÊN THỔ PHỈ
Cũng có thể v́ anh ba gai
Và nheo mắt trái được mười lăm phút
Nên các em thường hất mặt nhún vai
Trước khi nói : ê, tên cô – dắc
Tên cô-dắc từng làm em khóc ngất
Hắn thảy con sâu lên chiếc ghế em ngồi
Tên cô-dắc từng làm em cười khúc khích
Hắn nhảy hàng rào Bộ Tư Lệnh đi chơi
Cũng có thể v́ anh đen thui
Nhậu nhẹt đánh nhau nhiều hơn suy nghĩ
Nên các em thường chớp mắt cong môi
Trước khi nói : ê, tên thổ phỉ
Tên thổ phỉ từng làm em say lúy túy
Hắn đổ chai “rum” lên mái tóc em mà
Tên thổ phỉ từng làm em thành bác sĩ
Hắn rên hừ hừ dù sốt rét sơ sơ
Mới đây khoảng năm 2004 lúc được nữ đạo diễn Mỹ Khanh mời đóng vai người đào huyệt Hai Màu trong phim XÓM CÀO CÀO tôi bất ngờ gặp lại một trong những cô bộ đội thèm me chua ngày ấy. Cô nàng bây giờ đă là một diễn viên sân khấu và điện ảnh tên tuổi. Cô cũng đóng một vai chủ quán rượu trong phim. Cô nói với tôi tại trường quay : “Hồi đó chiều nào anh cũng đứng dựa bờ tường Bộ Tư Lệnh Thành với đôi mắt buồn hiu. Tụi em đều biết anh là nhà thơ nhưng chưa thấy nhà thơ nào có đôi mắt buồn như vậy. Có lần nh́n anh, em đă khóc”.
Sau một vài đợt bị khuyến cáo ở Bộ Tư Lệnh Thành, tôi được đáp ứng nguyện vọng là ra đơn vị chiến đấu, nhưng không phải chiến đấu với kẻ thù xâm lược mà lên đảo Long Sơn thuộc Trung Đoàn 10 Rừng Sát. Ở đây tôi sống bằng những giai thoại truyền khẩu về đặc công thủy, về cách đối phó với cá sấu dưới nước, về sự tích lưu lạc hào hùng của những người B́nh Xuyên chạy Ngô Đ́nh Diệm trốn ra hải đảo. Tôi tập cách săn kỳ nhông, cách bắt rắn và lột da rắn. Các bạn phải biết là rắn ở đảo Long Sơn nhiều vô kể. Cứ mùa mưa đi trên đường ṃn là phải khua gậy để xua chúng. Ngủ trên bộ ván thọc chân xuống giày bố là coi chừng rắn chàm quạp chui ra mổ chết ngắt. Thưởng thức trà buổi sáng nên cảnh giác bởi rắn lục xanh có thể từ trong ṿi chui ra. Ngay trên xà nhà nh́n xuống đầu giường nơi tôi nằm ngủ, nhiều lần chứng kiến rắn rồng đu đua phát khiếp. Ông bà nói “Ở nhà rắn rồng, ra đồng hổ ngựa” quả thật chí lư, lúc chúng rời khỏi nhà là biến thành rắn hổ ngựa ngóc đầu rượt lại bộ đội như chơi. Nói là nói vậy nhưng sống chung với rắn riết rồi cũng quen. Tôi quen thuộc với chúng đến mức cùng đồng đội ŕnh bắt những con rắn hổ đất khổng lồ trốn trong bụi hoặc dưới giếng, để moi ruột phơi khô. Tôi dùng đá dần xương rắn ra cho mềm nhũn rồi cứ thế mà phơi dưới nắng mặt trời. Có lần về phép ghé thăm đồng chí Vơ Ngọc An tức Bảy Câu từng là sếp đầu tiên của báo Tuổi Trẻ, tôi đă lôi từ ba lô ra mớ khô rắn vằn vện khổng lồ bày trước mặt ông. Tôi thấy sếp cũ nh́n tôi như nh́n một con khủng long thời tiền sử. Tất nhiên là ông nhét túi tôi một ít tiền để tôi chuồn đi đâu đó nhậu cho lẹ.
Năm 1980 tôi vĩnh biệt Trung Đoàn Rừng Sát sau một cuộc xô xát bằng tinh thần lẫn bạo lực với cấp chỉ huy tiểu đoàn. Những tay chỉ huy có máu phân biệt địa phương cục bộ đă gọi chúng tôi, những chiến sĩ trẻ tuổi t́nh nguyện của thành phố là “những kẻ cần được cải tạo xứng đáng hơn là được cầm súng”. Những chiến sĩ trẻ người Sài G̣n trong đơn vị đặc công thường xuyên bị đàn áp bởi họ từ gốc Thanh Niên Xung Phong chuyển qua. Những lúc ấy anh em thường cầu cứu tôi v́ tôi là người giỏi chữ nghĩa giỏi ăn nói, có quá tŕnh tham gia cách mạng. Tôi buộc phải thay mặt họ đương đầu với quyền lực độc đoán trong quân đội.Hậu quả là tôi bị nhốt ở quân lao Nhà Bè và sau đó bị áp giải về quân lao H39 của Bộ Tư Lệnh Thành Phố. Cuộc đời quả là một ṿng tṛn luân hồi tàn nhẫn. Tại quân lao H39 tôi bị biệt giam trong một căn pḥng chỉ có một lỗ nhỏ như mắt cáo vừa đủ tḥ mũi ra thở, muốn nói chuyện với người bên cạnh phải dùng ngón tay gơ morse theo kiểu hướng đạo sinh. Nhờ vậy tôi biết được pḥng biệt giam kế bên là một sĩ quan Huyện đội trưởng chuyên tổ chức đánh băi cho người vượt biên. Thượng bất chính hạ tắc loạn, mầm móng của thời đại suy đồi vô lư tưởng đă bắt đầu xuất hiện. Tôi bị đối xử như một kẻ sắp lănh án tử h́nh, bữa ăn gồm nước trà pha muối thay nước mắm với một chén bo bo đầy sạn, cát. Mỗi lần được ra ngoài lao động tắm heo chừng 10 phút là tôi phải giành giựt với lũ heo mọi những cọng rau muống cải thiện dai như đĩa trồng trên đám đất bùn śnh. Chỉ cần nuốt mấy cọng rau muống bẩn thỉu ấy là tôi như được hồi sinh. Có lần tôi đă gầm lên với gă thượng sĩ giám thị quân lao rằng tôi sẽ dùng lưỡi lam hoặc răng cắn đứt mạch máu cổ tay tự sát khiến gă hoảng sợ. Gă biết tôi làm thật nên đổi thái độ. Gần đến ngày Tết đột nhiên gă nổi máu “văn hóa” gơ cửa pḥng biệt giam xin thơ tôi như viên cai ngục trong truyện ngắn Nguyễn Tuân xin “Chữ Người Tử Tù”. Tôi viết ngay cho gă hai câu đối của Cao Bá Quát khi bi triều Nguyễn giam cầm : “Một chiếc cùm lim chân có Đế – Ba hàng xích sắt bước th́ Vương”…
Không biết có phép lạ không mà sau Tết tôi được chuyển qua trại giam dân sự của công an Quận 3. Lư do chuyển thật đơn giản, coi như tôi bị loại ngũ chuyển về địa phương quản lư và trước khi về địa phương th́ phải qua trại giam dân sự. Pḥng số 7 nơi tôi bị giam bao gồm khoảng 30 người đàn ông trong một diện tích chật hẹp, hẹp đến mức hai hàng người nằm châu đít xếp lớp với nhau, mỗi người bề ngang “1 viên gạch bông” bề dài “4 viên gạch bông”. Tất cả hầu như lơa lồ, trên người chỉ độc chiếc quần xà lỏn hoặc x́ líp. Bệnh rận lông có dịp hoành hành, chỉ cần một người bị bệnh hoa liễu hoặc rận lông là lây lan tập thể cực nhanh. Vừa bước vào pḥng giam tôi đă phải làm lễ chào Trưởng pḥng. Trưởng pḥng là một gă đầu hói bụng phệ ngồi chễm chệ trên chiếc chiếu rách duy nhất với hai tên đầu gấu bự con hộ tống. Tôi lầm ĺ kể sơ về thành tích từ quân lao chuyển qua khiến chúng ái ngại và thất vọng. Chúng chỉ tôi xuống nằm cuối pḥng ôm bô nước tiểu tập thể. Tội nghiệp hai thằng tù “con so” vừa mới làm lễ chào sau tôi bị chúng đánh hội đồng tới tấp rồi moi từ ruột dép sa – pô của họ ra miếng vàng Kim Thành dẹp lép nhét vào quần lót Trưởng pḥng như một thứ chiến lợi phẩm sung công. Tôi kiên tŕ chịu đựng đủ loại nước tiểu của bọn du đăng lưu manh trộm cướp đái văng văi khỏi miệng bô rơi xuống người tôi trong hai ngày. Ngày thứ ba trong lúc hai tên đầu gấu làm “trật tự” chia cơm, tôi bật dậy hét lớn “Ai trong đây từng là bộ đội đứng lên. ĐM, lính mà bị đám trốn lính ăn hiếp là nhục”. Vừa dứt lời tôi đá thốc vào mặt một thằng trật tự, lúc xoay người định “tấp pi” tiếp thằng thứ hai th́ hai tên tù “con so” đă thay tôi kết liễu nó nhanh chóng. Tôi nhào tới gă Trưởng pḥng mặt mày xanh lét tuyên bố : “Hôm nay đảo chánh Trưởng pḥng”. Gă im thin thít cho đến lúc công an trực pḥng giam thấy lộn xộn bước vô. Tôi điều đ́nh với viên công an trẻ tuổi rằng pḥng 7 mới thay Trưởng pḥng và mọi chuyện quan hệ với “bên ngoài” vẫn như cũ.
Tôi sống như “vua” suốt một tháng. Trong thời gian bị giam có phái đoàn của Hội Trí Thức Yêu Nước do anh Huỳnh Kim Báu làm trưởng đoàn tới thăm, định bảo lănh tôi nhưng thất bại bởi tôi không phải là nhà trí thức của Hội. Tiếp đó cũng có vài vị chức sắc ở Thành Ủy, Thành Đoàn đến coi hồ sơ tôi với nhiệm vụ tương tự. Ngày thứ 31 ân nhân cứu mạng tôi là một sĩ quan công an quận 3, sau này tôi mới biết là em của anh Tám Nhân, một cán bộ báo Sài G̣n Giải Phóng từng yêu mến tài nghệ làm thơ của tôi lúc tôi c̣n ở Thành Đoàn. Tại văn pḥng viên sĩ quan mà tôi xin miễn nêu tên ở đây, anh cho tôi xem hồ sơ từ bên Trung Đoàn 10 Rừng Sát chuyển qua, trong đó quy chụp tôi bằng những từ ngữ khủng khiếp :“mưu sát cán bộ, cướp đoạt chính quyền” . Anh cười buồn bă “Thật ra chỉ là một cuộc xô xát nội bộ trong đơn vị có thể giải quyết như hành vi dân sự. Hồ sơ này mà lọt vào tay những người muốn hăm hại nhà thơ là nhà thơ tới số”. Tôi cám ơn anh và từ giă trại giam quay trở về mái nhà xưa của mẹ hiền dưới chân cầu Công Lư trong bộ đồ bộ đội xác xơ đầy miếng vá. Từ tư thế một thanh niên đầy nhiệt huyết dám nói dám viết dám sống dám cầm súng và dám chết, tôi trở thành kẻ không hộ khẩu, ngoài ṿng pháp luật. Bài thơ HỘ KHẨU HÀNH ra đời từ đó :
HỘ KHẨU HÀNH
Thiên hạ đẩy ta về một phía
Phía ngàn năm không có mái nhà
Lạy Chúa, đất trời đâu có chật
Lẽ nào thiếu thốn chỗ dung ta
B́nh sinh ghét nhà cao cửa rộng
Ai đẻ ra lại thích chửi thề
Nhưng thiên hạ ưa tṛ lều chơng
Thôi th́ nói tục chỉ ta nghe
Thôi th́ ở ẩn như là Chúa
Chẳng cần hộ khẩu để chứng minh
Ta dù phản đạo quên xem lễ
Cũng phục Giêsu gan cùng ḿnh
Giêsu luân lạc, ta lưu lạc
Chúa sống trong hang, ta chợ trời
Thiên hạ c̣n dăm thằng lác đác
Mang thiên tài đi nói dóc chơi
Có nói dóc cũng đừng uốn lưỡi
Uốn bảy lần chi cho thiệt thân
Để đó mà xây chừng mới khoái
Rượu ép phê làm mặt đỏ rần
Rượu ép phê là trời nhỏ xíu
Chụp, bỏ vào bàn tay lắc chơi
Thiên hạ muôn đời thèm Văn Miếu
Ta chỉ cần chỗ ngả lưng thôi
Viết đến đây tự nhiên tôi muốn sụp lạy mẹ của ḿnh. Bà ngày xưa là một thiếu nữ có nhan sắc, có thể gọi là mỹ nhân qua những tấm ảnh chụp c̣n lưu giữ. Bà hát rất hay, thuộc nhiều ca dao ḥ vè và cổ tích. Tôi không thể hiểu v́ sao một mỹ nhân sùng đạo như bà lại cống hiến hết tuổi thanh xuân lẫn đời ḿnh cho cách mạng dù sự thu hoạch hoàn toàn trừu tượng. Thế mà mẹ tôi bây giờ vẫn không ân hận, bà giống như Đức Mẹ Maria hay Quan Thế Âm, bà tiếp tục mở cửa đón bất kỳ người bạn giang hồ nào của tôi, từ chính khách, văn nghệ sĩ nổi tiếng cho đến các thành phần hạ lưu mạt hạng. Căn nhà sàn tồi tàn 235/ 95/44 bis Công Lư và căn nhà ngập nước cống 134/109/261 Lư Chính Thắng trước và sau giải phóng từng chứa và nuôi biết bao nhiêu người. Tôi không thể liệt kê hết những kẻ đang làm quan, đang thành đạt hiện nay đă từng leo lên giường bà ngoại tôi ngủ ké. Tôi cũng không cần kể những người bạn say rượu quá chén được mẹ tôi bôi vôi vào gót chân để ngừa trúng gió đột tử. Tôi chỉ nhớ hoài một câu nói của bà lúc tôi trở về từ quân lao. Mẹ tôi nói : “Theo cách mạng bỏ Chúa như thế đủ rồi. Con người không thể vô thần măi. Chủ Nhật nhớ đi nhà thờ con nhé”. Thưa mẹ, khi viết bài thơ này con vẫn chưa thường xuyên đi nhà thờ, nhưng mỗi lần đọc bài thơ MẸ VÀ CON trong đám đông, con đă làm không ít người rơi nước mắt. Xin chép bài thơ về mẹ của tôi cho các bạn thưởng lăm :
MẸ VÀ CON
Như thế này đă bao nhiêu lần
Con trở về nhà thân thể đầy nam tính
Mùi rượu, mùi mồ hôi đàn bà, mùi định mệnh
Bàn tay níu lấy ngôi nhà
Ngôi nhà thuở ấy mẹ trồng hoa
Con gái đi qua thành ư tứ
Con gái đi qua thành tâm sự
Con gái đi qua thành nhạc thành thơ
Con thả diều bay cho hết ước mơ
Ước mơ hết năm 18 tuổi
Mẹ không c̣n xoa đầu con nổi
Mẹ muốn đầu con thờ phượng ông bà
Mẹ muốn chân con đi đất như cha
Mẹ muốn bụng con thực thà như mẹ
Mẹ muốn trái tim con khỏe
Để yêu thật nhiều người
Và dạ dày con khỏe
Để ăn được bầu trời
Nhưng mẹ ơi để có bầu trời
Con thụt lùi dưới đất
Người lớn đội cho con nón sắt
Thay bàn thờ ông bà
Người lớn dạy con hái hoa
Bằng cách siết tay c̣ súng
Người lớn phát giày ống
Không để chân con trần
V́ đất không mọc cỏ
Đất nở toàn đạn bom
Con đi lính Cộng Ḥa ba năm
Ở tù không đếm lượt
Đầu và chân tay chết
Chỉ c̣n sống dạ dày
Dạ dày chứa ngô khoai
V́ mẹ muốn con ăn khỏe
Và v́ mẹ muốn con yêu khỏe
Nên trái tim con măi măi c̣n
Con mang dạ dày nghèo và trái tim son
Tháng 4 năm 1975 về gơ cửa
21 tuổi con giấu hết bao nhiêu binh lửa
Vào đôi mắt sắp già
Gặp mẹ con chỉ chừa ra
Cái bụng thực thà son trẻ
Cái bụng thực thà giống mẹ
Nhưng bụng mẹ bụng con th́ khác ḷng người
Ḷng người như sông ng̣i
Quanh co theo đồi núi
Lịch sử dạy ông Nguyễn Trăi
Hết vi thần th́ ở ẩn mà làm thơ
Lịch sử dạy ông Nguyễn Du
Chưa làm quan th́ làm chúng sinh thập loại
Lịch sử dạy đi dạy măi
Mà con không học thuộc ḷng
Trong khi mọi người đổ xô làm cách mạng ở… văn pḥng
Con ngu ngốc thuộc thơ Cao Bá Quát
“Mặt trời đỏ đi đằng nào “
Để dân đen rơi nước mắt
Đầu con thay nón sắt
Bằng mũ cối triều đ́nh
Chân con đổi giày đinh
Bằng những đôi dép lốp
Ngay ngón tay con cũng chẳng thuộc về con được
Ngón tay siết c̣ súng Nga
Ngón tay từng siết c̣ súng Mỹ
Oâi ngón tay nào do mẹ sinh ra ?
Con đi theo giải phóng tám năm
Nổi lo sợ ở tù không đếm lượt
Đầu và chân tay hai lần bị chết
Phải kể thêm sự tắt thở của dạ dày
Con đem năng khiếu đi mua bán
Thơ trúng giải mà không hay
Thơ rẻ hơn cơm gạo
Thơ mỗi ngày ăn chay
Tráng sĩ bẻ gươm thành thi sĩ
Sao mẹ cười con hoài ?
Sao mẹ cười con hoài
Để con bông lơn như trẻ nít
Trong bàn tiệc con làm thơ thích khách
Chém đầu 18 nịnh quan
Thời buổi này ai cũng giống công an
Không đánh xẻng th́ đánh giá
Mẹ vẫn cười con và mỗi ngày may vá
Tiền công áo 50 đồng
Tiền công quần 60 đồng
Trong khi áo quần các em con không đủ mặc
Mẹ vẫn cười con và mỗi ngày tóc bạc
Lưng c̣ng theo chủ trương
Mắt mờ theo nghị quyết
Tay run theo lập trường
Mẹ ơi nhớ năm 1984
Tuổi ba mươi con chưa dám lập gia đ́nh
Vợ không rơ thành phần lư lịch
Bạn bè thường tụ tập bất ḿnh
Nhưng mẹ không bao giờ ban lệnh giới nghiêm
Mẹ không bao giờ xét giấy
Mẹ sợ đôi tay con run rẩy
Rút không ra khỏi túi quần
Mẹ vẫn nấu cơm và vẫn để dành phần
Cho bất cứ thằng bạn nghèo nào của con gơ cửa
Mẹ không cần khuyên con chó sủa
Con chó sủa biết lựa mặt con người
Chỉ có con người sủa không lựa mặt
Con người săn nhau mẹ ơi !
Bài thơ MẸ VÀ CON trên đây xem như tạm thời kết thúc phần 3 GIAI THOẠI CỦA THI SĨ…
Tháng 10 – 2008
GIAI THOẠI CỦA THI SĨ, PHẦN 4
Thời kỳ đầu sau giải phóng người Việt Nam gần như chỉ có hai toa thuốc để điều trị dạ dày và sức khỏe. Toa thuốc thứ nhất chính là bo bo tràn ngập trong mỗi bữa ăn. Bo bo vốn dĩ không phải là thứ thức ăn cho người nhưng trong t́nh trạng đất nước vừa thống nhất lại thiếu lương thực trầm trọng, nên ai nấy đều cố gắng chế biến bo bo bằng đủ mọi công thức luộc, hấp, chiên, xào… đủ kiểu để có thể nuốt trôi vào cuống họng. Ngoài ra những kẻ có năng khiếu ẩm thực có thể hô biến bo bo thành một loại bột giống như bột ḿ để làm thành ḿ sợi, bánh bao, nui… với điều kiện vừa nấu chín xong phải xơi tại chỗ, bởi chỉ cần để lâu chừng nửa tiếng là các thành phẩm sáng tạo sẽ cứng như đá. Ở trường Thanh Niên Xây Dựng Cuộc Sống Mới Xuyên Mộc năm 1977 tôi đă từng được nếm thứ bánh bao cứng như đá có thể găy răng nanh như chơi từ nhà bếp hậu cần :
SIÊU THỰC PHẨM
Ở một thời kỳ mà ngay cả bột ḿ
Cũng hóa thành thức ăn tân kỳ nhất
Bóp nhẹ đôi tay thành bánh bao lúc lắc
Thêm vài cọng hành húp được bữa canh nui
Bóp thật nhanh v́ bao tử ră rời
Dù được trang bị một bồ lư luận
Húp thật chậm v́ dạ dày trống rỗng
Dù được nhai xong quan điểm lập trường…
Toa thuốc thứ hai chính là xuyên tâm liên. Xuyên tâm liên là những viên thuốc tṛn màu đen ngó như cứt chuột được các viện bào chế nội địa tung ra để trị bá bệnh. Hồi đó các bạn chỉ cần gơ cửa các trạm y tế phường xă là sẽ được bác sĩ lẫn y tá cung cấp ngay một lô đại trà xuyên tâm liên cho dù bệnh các bạn có là cảm mạo thông thường hoặc xuất huyết bao tử, sưng gan, ung thư, giang mai hay cùi hủi. Đặc biệt xuyên tâm liên được điều trị cho cả trẻ con lẫn người già. Yêu cầu duy nhất là miễn giải thích bởi khả năng ngành y không thể có được thuốc kháng sinh. Trong t́nh thế cơm không có ăn, áo không đủ mặc như thế nhưng Việt Nam vẫn lập được chiến công vĩ đại là đưa người vào không gian. Tôi c̣n nhớ chuyến bay “mănh long quá giang” của Phạm Tuân trên tàu vũ trụ Liên Xô được giới văn nghệ giang hồ truyền khẩu bằng hai câu ca dao như sau : “Hoan hô đồng chí Phạm Tuân – Đang ở dưới đất bỗng tưng lên trời”. Sự kiện hài hước ấy đă giúp tôi làm một bài thơ kỷ niệm sau khi phỏng vấn bà ngoại 70 tuổi của ḿnh :
ĐÓI
Tôi mang cơn đói về nhà
Các em tôi đứng chờ với cái bụng ḷ xo
Đôi mắt các em tôi chảy nước miếng
Giá tôi biến thành cục thịt ḅ màu tím
Được ram cẩn thận ở nhà hàng quốc doanh Lê Lai
Tôi nắn lên những đốt xương sườn có giá trị ngang những khúc cây
Nơi lồng ngực người yêu tôi hô hấp
Cặp vú của nàng xa lạ với chữ “mập”
Như đứa hiếp dâm xa lạ với nhà chùa
Nếu trời cho tôi có bùa
Tôi sẽ “thư” hết những kẻ ăn cơm một ngày ba buổi
Cơn đói không biết nói dối
Má tôi không biết đánh bài cào
Bà ngoại tôi không biết Phạm Tuân bay ở hướng nào
Nhưng biết khoai ḿ thiếu phân sẽ sượng
Biết mỗi tiếng c̣i giao thông là mười đồng to tướng
Mỗi ngày tôi lại ra đi
Mặt ngửa tay xin nhiều kiểu cầu kỳ
Sân khấu hóa trang đứng ngồi chồm hổm
Tôi thấy văn học đục tường ăn trộm
Hội họa, âm thanh ghé tiệm cầm đồ
Tôi thấy xe hơi cầm lái là ḅ
Biệt thự mở vào khép ra đầy chó
Heo mặc áo vest cười rung cửa sổ
Mệnh phụ tụt quần đứng ngóng ngă tư
Thấy mắt tôi đui, màng nhĩ tôi ù
Thấy tôi trở về mang theo cơn đói
Ả điếm trở về mang theo hơi thối
Ả điếm được no nhờ bước hai hàng
Tôi được làm người nhờ đói quanh năm
Một trong những kẻ sĩ ngoài Bắc đầu tiên mà tôi tiếp xúc sau giải phóng là Lưu Trọng Văn, con trai thi sĩ tiền chiến Lưu Trọng Lư. Qua Lưu Trọng Văn, tôi có dịp làm quen với cặp vợ chồng nhà thơ nổi tiếng ngoài đó là Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh. Tôi có một kỷ niệm riêng đặc biệt với Lưu Quang Vũ một đêm ở Hồ Con Rùa mà không tiện kể ra đây. Chỉ biết lúc đó anh đă kể với tôi về thời gian tuyệt vọng không lối thoát khi B52 dội bom miền Bắc, thậm chí anh đă có ư định tự sát dưới mưa bom (nhưng bất thành) khi tổ chức và đồng nghiệp tỏ ra nghi ngờ ḷng yêu nước của ḿnh. Cuối năm 1977 Lưu Quang Vũ là một trong vài người ngăn cản tôi đi bộ đội khi tôi cho anh xem những lá đơn t́nh nguyện ra biên giới chiến đấu. Bằng kinh nghiệm cá nhân của một người cầm súng phía Bắc, có lẽ anh hiểu rằng tôi không thích hợp với tṛ chơi phe nhóm của chiến tranh. Kỷ niệm văn nghệ của chúng tôi được ghi nhận bằng tuyển tập thơ NH̀N NHAU VÀ NÓI do tôi và anh Tôn Thất Mạnh Tường phụ trách tập hợp, đặt tên và biên tập. Trong tuyển tập thơ NH̀N NHAU VÀ NÓI ra đời cuối năm 1975 mang ư nghĩa thống nhất thơ ba miền do Thành Đoàn xuất bản này, tôi đă chọn một bài thơ của Lưu Quang Vũ dù lúc đó chưa quen biết anh. Bài thơ nói lên tâm trạng trống rỗng của người lính sau khi đất nước thống nhất, bài thơ độc đáo đối với độc giả phương Nam bởi không nằm trong ḍng chảy của thơ minh họa và thơ đồng phục. Bài thơ ăm ắp tính người. Đáng tiếc đến giờ này kho sách của tôi đă bị mất tuyển tập đầu tiên ấy.
Ngay từ hồi mới quen, Lưu Trọng Văn đề nghị tôi nên viết hồi ức về những ǵ mà chính tôi nếm trải trong chiến tranh. Tôi trích từ tự truyện HAI HÀNG DỌC, TRƯỚC THẲNG vừa hoàn thành trong tháng 5 – 1975 ra một chương gần cuối đặt tựa là “LOÀI CHIM ĐI BIỂN” và gửi Lưu Trọng Văn đăng báo Văn Nghệ Trung Ương ngoài Bắc. Các bạn nên biết bốn chữ LOÀI CHIM ĐI BIỂN thoạt nghe có vẻ cực kỳ thơ mộng, nhưng thực chất đó là tên gọi triển khai một cách hài hước của bốn từ “LAO CÔNG ĐÀO BINH” gọi tắt là “LCĐB”, là tên gọi chung những sĩ quan binh lính Việt Nam Cộng Ḥa đào ngũ, bỏ ngũ, phản chiến, bị giam ở quân lao, cuối cùng gom lại tập trung đưa đi làm lao công chiến trường như một thứ “bia đỡ đạn” . LCĐB c̣n được gọi nôm na là “Lũ Chó Đái Bậy” hoặc “Lính Chiến Đồng Bằng”… Ngay khi vừa xuất hiện trên mặt báo, truyện ngắn LOÀI CHIM ĐI BIỂN đă gây tiếng vang và được dư luận ngoài đó nhận xét như một thứ bút pháp lạ. Sau này có dịp tôi sẽ cho ra mắt tự truyện trên. Tôi c̣n nhiều lần gặp lại Lưu Trọng Văn ở ṭa soạn báo Lao Động trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa lúc anh về làm báo cùng với nhóm các anh Lư Quư Chung, Hoàng Thoại Châu, Trần Trọng Thức… Nhà thơ Hoàng Thoại Châu vừa là đàn anh vừa là đồng nghiệp cũ của tôi thời kỳ đầu làm báo Tuổi Trẻ, anh từng đoạt giải nhất thơ miền Nam thời Nguyễn Văn Thiệu và sau đó ở tù Côn Đảo v́ hoạt động chính trị. Nhà báo Trần Trọng Thức thường đặt bài tôi viết về mảng phóng sự của những con người dưới đáy xă hội như những người bán vé số hát rong, bán ve chai, xích lô xe kéo vĩa hè, đám giang hồ anh chị sống ngoài ṿng pháp luật…Riêng ông Lư Quư Chung, cựu dân biểu Sài G̣n kiêm nhà báo thể thao dưới bút hiệu Chánh Trinh, là người hỗ trợ tôi về tài chánh tích cực nhất. Mỗi lần xảy ra sự kiện bóng đá Euro hoặc World Cup ông thường đặt hàng tôi những bài thơ thời sự bóng đá nóng hổi, nhuận bút mỗi bài thơ tương đương “một chỉ vàng”. Trong tư thế của một người cầm bút tự do không hề lănh lương bất cứ nơi đâu, thú thật là tôi rất cảm kích điều đó. Với khoản thu nhập sau mỗi sự kiện thể thao, tôi góp phần bảo vệ sự sống gia đ́nh mà không phải hạ ḿnh trước áp lực nào. Tôi c̣n nhớ bài thơ THI HÀNH đọc cho Lư Quư Chung nghe ở nhà hàng Thanh Niên khi ông mở quán. Hôm đó có mặt cả anh Huỳnh Bá Thành và vài thân hữu…
THI HÀNH
Thi ca cũng hệt như bóng đá
Hạng A thưa mà hạng B dày
Làm thơ cả nước 50 triệu
Trở thành thi sĩ đếm đầu tay
Trở thành thi sĩ đều thê thảm
Đứa bán ve chai, đứa chợ trời
Đứa nào cũng mánh đồ quốc cấm
Chỉ trừ thơ chẳng quốc doanh thôi
Thơ quốc doanh sơ sơ ngàn đứa
Chen chúc nhau mà đấu vơ đài
Mánh mung chôm chĩa nghề buôn chữ
Nghị quyết chuyền nhau giắt lỗ tai
Nghị quyết chuyền nhau thơ cổ động
Mặc sức mà đi khách niêm vần
Chai mặt c̣n hơn nghề nằm ngửa
Lấy chồng chẳng để một phương không
Đă thế c̣n học đ̣i viết lách
Đội trên đạp dưới, bợ triều đ́nh
Ḿnh ta đủ chấp ngàn pho sách
Ngứa mồm chửi đổng cũng thành kinh
Điểm danh thấy tủi cho văn học
Ngửa hết bàn tay muốn khóc thầm
Hạng A chưa kín trên mười ngón
Vậy mà quá nửa phụ nhân dân
Vậy mà quá nửa lo kiếm chác
Thuở nhiễu nhương, Phật phải xa chùa
Chúa ngừng giảng đạo v́ chiên đói
Chữ nghĩa làm sao khỏi muối dưa
Chữ nghĩa làm sao không chay tịnh
Vũ Hữu Định say chết giữa trời
Lên núi Nguyễn Đức Sơn mài kiếm
Xuống đường Bùi Giáng giả điên chơi
Nói chung thi phú chờ thi bá
Hạng A c̣n chừng ấy giang hồ
Những thằng ḷn cúi ta khai tử
Sợ đói làm sao trí tuệ no
Sợ đói cho nên thơ tiền chiến
Khom lưng mà an phận kéo cày
Bao danh sĩ, danh không liêm sĩ
Từ hạng A rớt xuống B ngay
Thi ca cũng hệt như bóng đá
Hạng A thưa mà hạng B dày
Riêng ta tên tuổi t́m không có
Hay chờ ngoại hạng mới kê khai…
Nói về chuyện bị áp lực của dư luận, tôi là thằng thường xuyên bị “Đảng nghi ngờ, nhân dân chú ư”. Trong hai năm 2007, 2008 hai đài phát thanh là BBC và RFA mỗi đài phỏng vấn tôi khoảng 4 lần, mỗi lần từ vài phút cho đến cả tiếng đồng hồ. Những cuộc phỏng vấn xoay quanh chuyện làm báo trong nước và chuyện hành nghề cầm bút. Những cuộc phỏng vấn trực tiếp và bất ngờ đó không hề có thù lao cho người được phỏng vấn dù có người tưởng rằng tôi được trả rất nhiều tiền. Tất nhiên là trước khi thực hiện phỏng vấn, bằng phép lịch sự của nghề báo quốc tế thừa nghiệp vụ và đầy kinh nghiệm, họ thường hỏi tôi rằng có đồng ư trả lời những câu hỏi hóc búa của họ hay không… Mới đây nhất sau bài trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 13 – 5 – 2008 về vụ hai nhà báo trong nước bị bắt v́ những bài báo liên quan đến PMU 18, tôi lập tức bị một vài blog cá nhân nặc danh xuất phát từ báo Tuổi Trẻ và vây cánh của họ tấn công chụp mũ trên mạng. Trong đó đ̣n tấn công bẩn thỉu, ti tiện , trắng trợn nhất là vu cáo tôi “rời khỏi báo Tuổi Trẻ v́ ăn cắp xe đạp”… Nếu các bạn đă từng đọc qua loạt hồi kư GIAI THOẠI CỦA THI SĨ nhất là GIAI THOẠI CỦA THI SĨ, PHẦN 3 mà tôi từng tiết lộ cách tôi rời khỏi báo Tuổi Trẻ như thế nào, sau ba lá đơn t́nh nguyện đi bộ đội trong đợt Hồng Binh của Thành Đoàn, sau đêm đọc thơ long trọng rầm rộ ở Nhà Văn Hóa Thanh Niên năm 1978 dưới sự chứng kiến của các cấp lănh đạo Thành Ủy, Thành Đoàn và hàng ngàn công chúng trẻ th́ mới thấy việc vu cáo trên đúng là “trét cứt” vào mặt chính cấp trên của chúng đă đưa tiễn tôi lên đường. Hôm đó anh Lê Công Giàu, đang đương nhiệm phó bí thư Thành Đoàn kiêm chỉ đạo trực tiếp báo Tuổi Trẻ đă ngậm ngùi bắt tay tôi sau buổi đọc thơ nói rằng : “Thơ ông hay lắm, Chỉ tiếc rằng ông sinh bất phùng thời, không có đất dụng vơ”.
Tôi có làm hai bài thơ sau đây để trả lời bọn tiểu nhân ném đá giấu tay sau vụ trả lời đài BBC. Bài đầu tiên “đấm” thẳng vào một blog cá nhân đ̣i “tát vào mặt Bùi Chí Vinh” :
PHẢN ỨNG CỦA THI SĨ
Chúng tát vào má phải của Giê Su
Giê Su ch́a má trái
Chúng tát vào má ta bên phải
Ta không làm Giê Su
Ta tập trung một thế hệ căm thù
Để ch́a ra… quả đấm !
Bài thứ hai mang tựa SÁU MẶT CON XÚC XẮC vạch trần chân tướng lũ cơ hội trong giới làm báo và cầm bút ở Việt Nam đang lăm le thu hoạch địa vị và lợi nhuận lần thứ hai nhờ những đảng viên cầm quyền biến chất và suy thoái :
SÁU MẶT CON XÚC XẮC
Khi các ngươi đua nhau xu nịnh Đảng
Để hằng mong kiếm địa vị cho ḿnh
Th́ ta lưu lạc trong ḷng cách mạng
Làm thơ khuyên người nghèo KHOAN nói chuyện tiếu lâm
Bây giờ các ngươi lại đua nhau dè bỉu Đảng
Để lần thứ hai kiếm lợi nhuận cho ḿnh
Th́ ta tiếp tục lưu lạc trong ḷng cách mạng
Làm thơ khuyên người nghèo NÊN nói chuyện tiếu lâm
Trở lại chuyện “ăn cắp xe đạp” vớ vẩn, có lần dự liên hoan sinh nhật cuối năm của báo Mực Tím tôi đă ngồi cùng bàn với đồng chí Phan Xuân Biên (Trưởng Ban Tuyên Giáo Thành Ủy) và nhiều văn nghệ sĩ khác, t́nh cờ được nghe chính ông Phan Xuân Biên kể về giai thoại tôi “cầm nhầm xế điếc” của vợ ông tại nhà xe chung cư 190 Nam Kỳ Khởi Nghĩa (đường Công Lư cũ) thuộc Hội Văn Nghệ Giải Phóng phía Nam. Câu chuyện của ông đă làm mọi người cười bể bụng. Cần mở ngoặc đơn chỗ này, Phan Xuân Biên không hề xa lạ ǵ với gia đ́nh tôi, ông cùng chung đơn vị với cậu ruột Tám Ruby của tôi tại Biệt Động Thành Đội. Cậu Tám Ruby thuở c̣n sống có nói với tôi rằng ông Biên làm trợ lư cho Thiếu Tướng Tư Lệnh Biệt Động Thành Trần Hải Phụng (tức ông Ba Đặng). Câu chuyện mà ông Biên kể đại khái như sau : Khoảng năm 1977 tôi đến chung cư 190 Nam Kỳ Khởi Nghĩa chơi với các nhà văn Trang Thế Hy, Chim Trắng và chiều tối có ghé thăm nhà thơ Trần Nhật Thu ăn cơm rồi mượn chiếc xe đạp mini của Trần Nhật Thu để đi công chuyện vài ngày. Dĩ nhiên là anh Thu đồng ư và chỉ tôi xuống nhà xe tập thể để lấy “xế điếc”. Trong cơn say xỉn kèm theo bóng tối nhập nhoạng, tôi đă lấy lộn một chiếc xe đạp mini khác dựng kế xế điếc của Trần Nhật Thu. Và tôi đă chạy luôn một mạch ba ngày mới quay trở lại nhà xe để trả cho khổ chủ. Tôi không hề biết rằng trong thời gian đó khu tập thể văn nghệ sĩ giải phóng náo loạn v́ bà vợ của đồng chí Phan Xuân Biên tri hô bị… mất xe. Khách khứa đến chung cư ba ngày trước đều bị khoanh vùng, trong đó có tôi, và tất nhiên bộ dạng giang hồ của tôi đáng bị nghi ngờ nhất. Anh Biên kết luận sau câu chuyện hài hước đó tại báo Mực Tím : “Bùi Chí Vinh sinh ra để ăn cắp cái ǵ khác lớn hơn chớ đâu phải chiếc xe đạp”.
Đó là câu chuyện xảy ra ở một chế độ mà ai cũng có thể nghi kỵ lẫn nhau từ người trên xuống kẻ dưới, từ kẻ có quyền lực quyết định sinh mạng người khác đến dân đen vốn như cá nằm trên thớt. V́ vậy khi xuất hiện hoặc ăn nói trước đám đông, ai nấy đều phải tự đề pḥng. Tôi là thằng ít chịu đề pḥng nên thường biến thành miếng mồi ngon cho bọn bất tài đội trên đạp dưới khoái dèm pha nịnh hót. Chúng hay ŕnh ṃ những văn nghệ sĩ, chính khách, những nhà trí thức nổi tiếng để ghi âm, báo cáo lấy điểm ḥng thăng quan tiến chức. Chính v́ thế có một chuyện khôi hài xảy ra sau đây khi tôi được Nhà Xuất Bản Kim Đồng mời dự bữa tiệc mừng huy chương lao động của NXB cách đây vài năm. Trong tiệc, tôi và vợ tôi ngồi cùng bàn với ông Nguyễn Thắng Vu, nguyên giám đốc NXB kiêm Chủ Tịch hội đồng xuất bản hiện thời. Sau màn tay bắt mặt mừng, ông Nguyễn Thắng Vu mời bà Phạm Phương Thảo, Chủ Tịch HĐND Thành Phố đến gặp tôi tại bàn. Qua vài câu chào hỏi xă giao, ông Vu nói thẳng với bà trước mặt nhiều người : “Bà bảo Bùi Chí Vinh là thằng có tư tưởng phản động không có lợi cho Nhà Xuất Bản. Bà không cho phép tôi được sử dụng Bùi Chí Vinh. Qua những ǵ Bùi Chí Vinh đă làm việc và tự vươn lên để nổi tiếng th́ tôi thấy Bùi Chí Vinh không phải như những ǵ bà đă áp đặt cho chúng tôi. Bùi Chí Vinh không có Nhà Xuất Bản Kim Đồng vẫn tiếp tục lừng danh với hàng loạt kịch bản phim nhựa ra mắt toàn quốc và quốc tế, được công chúng lẫn dư luận trong và ngoài nước thừa nhận. Vậy bà nghĩ sao?”. Trước phát biểu của ông Vu, bà Thảo quay sang tôi đánh trống lảng : “Bùi Chí Vinh cứ tiếp tục viết truyện thiếu nhi, và chỉ nên viết truyện thiếu nhi thôi, đừng nên viết những ǵ khác”.
Trời đất, tôi sinh ra đời từ một ngôi sao “quậy” làm thiên chức của kẻ sĩ sáng tác đủ thể loại văn học ghi nhận mọi biến thiên của thời đại, trong đó chuyện viết cho lứa tuổi mới lớn hoặc thiếu nhi chỉ là một bộ phận nhỏ trong sự nghiệp. Tôi không ôm mộng viết SỬ Kư như Tư Mă Thiên để bị thiến… dái, nhưng tôi cũng không hèn hạ biến thành một loại bồi bút, gia nô cho lănh đạo xoa đầu, chỉ đâu đánh đó. V́ thế xin lỗi bà Phạm Phương Thảo , cựu Bí Thư Thành Đoàn thời tôi đi bộ đội năm 1978. Năm ấy cũng chính bà đến Nhà Văn Hóa Thanh Niên nghe tôi đọc thơ và đưa tiễn quân t́nh nguyện Hồng Binh. Tôi nghĩ rằng có thể tự thâm tâm bà không hề ác cảm với tôi, nhưng cái nh́n lệch lạc của bà khi nghe những báo cáo tâu hót của cấp dưới vô t́nh làm khốn đốn biết bao nhiêu kẻ sĩ. Ngay cả những bí thư tiền nhiệm trước đó của Thành Đoàn là ông Phạm Chánh Trực tức Năm Nghị và ông Nguyễn Chơn Trung tức Sáu Quang cho dù không dám “dùng” tôi cũng chưa bao giờ mở lời xúc phạm một thi sĩ của phong trào đấu tranh đô thị như vậy. Nhân đây cũng xin nhắc lại khoảng đầu thập niên 80 tôi cũng từng bị ông Vơ Văn Kiệt ngộ nhận qua những kiểu báo cáo “lấy điểm” như thế và tôi cũng đă có dịp đọc thơ trực tiếp tại nhà ông Kiệt khi ông mời tôi và nhóm sáng tác của Thành Đoàn lại tư gia dùng bữa cơm thân mật. Điều quan trọng là tôi đă đọc những bài thơ “nổi loạn”, “phê phán bất công xă hội” mà ông Kiệt muốn nghe là XÍCH LÔ HÀNH, VE CHAI HÀNH…và chứng kiến vị Bí Thư Thành Ủy lúc đó vỗ tay cười cực kỳ thoải mái. Riêng cố Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh lại càng đáng quư trọng hơn, hồi c̣n sinh tiền chính ông bảo vệ những bài thơ từ tập THƠ ĐỜI của tôi khi đám nịnh thần xum xoe chụp mũ. Hơn ai hết, ông là tác giả tiết mục NHỮNG VIỆC CẦN LÀM NGAY nên quá biết những ǵ bất công thối tha của xă hội cần phải phê phán và lên án triệt để.
Cũng may tôi xuất thân từ gia đ́nh cách mạng thứ thiệt và bản thân từng tham gia hoạt động cách mạng ngay từ 15 tuổi nên ba cái chuyện chụp mũ ruồi bu vớ vẩn coi như sự tích Hứa Do xuống suối rửa tai, Sào Phủ dắt trâu lên bờ sợ trâu uống nhầm nước bẩn. Chỉ tội nghiệp cho giới văn nghệ sĩ cầm bút “sĩ khí rụt rè gà phải cáo” trong thơ Tú Xương lỡ bị những kẻ lănh đạo như bà thành kiến th́ chỉ có nước bỏ nghề, bán thân ḿnh đi xuất khẩu lao động hải ngoại… Bài thơ MẠT LỘ của tôi phần nào đă nói lên điều đó :
MẠT LỘ
Không c̣n chút hy vọng
Trong sự trở lại bờ
Những chiếc phao tưởng tượng
Hành tội người nằm mơ
Bao nhiêu đợt sóng xô
Nhấn ta ch́m dưới đáy
Ta chẳng hề mơ hồ
Trước cánh buồm đă găy
Thơ ta là hoa trái
Không kiếm được mảnh vườn
Thơ ta là máu chảy
Dính trên đầu mũi gươm
Đừng v́ nỗi héo hon
Mà đầu hàng số phận
Ta thiết ǵ mồi ngon
Chiếc cần câu danh vọng
Trước mặt là khoảng trống
Sau lưng là vũng lầy
Ta như là trái đất
Quay. Một ḿnh tự quay !
Nói lên chuyện này để thấy theo ḍng thời gian gột rửa đá vẫn là đá, vàng vẫn là vàng. Tôi c̣n nhớ hai câu ca từ trong một bài hát của nhạc sĩ Miên Đức Thắng : “Một mai qua cơn giông tố, nắng lên soi rơ mặt nhau” . Ngày 20 – 9 – 2007 hai tập THƠ T̀NH BÙI CHÍ VINH và THƠ ĐỜI BÙI CHÍ VINH họp báo ra mắt trang trọng tại trụ sở Hội Nhà Báo TP. Riêng tập THƠ ĐỜI sau bao nhiêu năm rúc trong ngăn kéo, tồn tại bằng sự truyền khẩu, đă được Nhà Xuất Bản Thanh Niên ấn hành. Trước đó bản thảo của tập THƠ ĐỜI từng được gửi đến 3 Nhà Xuất Bản khác nhưng đều bị từ chối v́ những lư do miễn bàn. Buổi họp báo có mặt các thân hữu chọn lọc thuộc hai phe Hắc, Bạch giang hồ gồm đủ mọi môn phái thơ văn nhạc họa điện ảnh sân khấu… Các phát biểu chân thành của các đạo diễn Nguyễn Chánh Tín, Đào Bá Sơn, diễn viên điện ảnh Hiền Mai, của các nhạc sĩ Trần Tiến, Miên Đức Thắng, Lă Văn Cường, của các nhà văn nhà thơ Đoàn Thạch Biền, Đỗ Trung Quân, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Quốc Chánh …đều chia sẻ những nỗi niềm cay đắng mà tác giả đă một thời gian dài gánh chịu. Hôm đó phát biểu của nhà thơ Trần Mạnh Hảo đă được báo Phụ Nữ thành phố ghi lại như sau : “Là người làm thơ hơn 40 năm nay, đây là lần đầu tiên tôi được chứng kiến một buổi ra mắt thơ sang trọng như hôm nay. Tôi rất vui khi thấy thơ được tôn vinh như thế này…”. Tôi thiết nghĩ thành công của buổi ra mắt qua những bài viết trên báo chí là câu trả lời đích đáng nhất cho những phe nhóm hay quyền lực nào muốn đẩy tôi đến đường cùng không c̣n đất sống.
Cuối năm 1980 tôi bắt đầu đạp xích lô qua trung gian của đồng chí Nguyễn Tŕ, một cán bộ Thành Đoàn bất đắc chí. Nguyễn Tŕ giới thiệu tôi làm quen đám giang hồ hảo hớn khu vực Tân Kỳ Tân Quư miệt Bà Quẹo và tôi được một chiến hữu cho trưng dụng chiếc xích lô bửu bối kiếm cơm những lúc chiến hữu kẹt công chuyện khác. Tôi đạp xích lô như làm thơ, hứng th́ chạy ṿng ṿng Sài G̣n đón khách, chán th́ “tấp” vào biệt thự các sếp lớn trên đường Phùng Khắc Khoan, quận 1 bấm chuông hoặc gơ các trạm gác bảo vệ yêu cầu cho gặp thủ trưởng. Phải thú thật tôi chưa bao giờ lấy tiền người già, phụ nữ, trẻ con, ngay cả gái ăn sương. Tôi chở họ miễn phí nhưng với bọn công tử ăn chơi th́ lấy tiền đích đáng. Nguồn thu nhập chủ yếu trong thời gian giả dạng “xích lô hành” của tôi là những b́ thư của các sếp lớn nhét vô túi áo túi quần mỗi khi họ thấy chiếc xích lô quen thuộc nằm ch́nh ́nh trước các biệt thự. Nhiều thân hữu văn nghệ giang hồ đă từng chứng kiến tôi thu nhập kiểu đó để có lệ phí lai rai ba sợi như Bảy Dũng, Hồ Lê Thuần, Ba Lê, Chiêu Anh Hải, Vũ Ngọc Giao, Đoàn Vị Thượng… Có lần tôi chở đôi t́nh nhân sinh viên nghèo thuê xe một đêm để được yêu nhau một cách rất con người. Đơn giản là họ không có tiền để thuê nhà trọ hoặc thuê một băng ghế đá ngồi âu yếm. Cảnh tượng năo ḷng và phổ biến đó khiến tôi bật thành bài thơ mang tựa THỜI CỦA NGƯỜI GIÀ. Xin chép ra đây cho các bạn thưởng thức :
THỜI CỦA NGƯỜI GIÀ
Không có một chỗ trú cho chúng ta
Đây là thời đại của những người già cả
Anh muốn đi chơi buổi chiều với em quá xá
T́m không sao thấy một chỗ ngồi
Anh đă thử ra công viên lựa một chỗ khá tồi
Nhưng vừa đứng dậy lại bị người chiếm mất
Anh đă mua vé hung hăng đi lùng trong rạp hát
Chỉ thấy toàn những bộ phim câm
Cuối cùng chúng ta đành âm thầm
Yêu nhau bằng cách khoanh tay bó gối
Không có một chỗ trú cho chúng ta, anh không nói dối
Đây là thời đại của ông già
Ông già vắt chân chữ ngũ triết gia
Luận Tam Quốc bằng bảy lần uốn lưỡi
Ông già cởi trần khoe xương sườn như củi
Hippy mà múa Thái Cực Quyền
Ông già ban ngày, ông già về đêm
Chai rượu đế cạn bên bàn cờ tướng
Thành phố giống như một ông già hổ lốn
Sĩ tốt tựa cháu con, sĩ tốt tựa khoai ḿ
Ông già đến rồi ông già đi
Để lại những nếp nhăn trên thời kỳ tuổi tác
Không có một chỗ trú cho chúng ta, anh không nói khoác
Đây là thời đại của bà già
Bà già nhai trầu và bơm bẽm đơn ca
Những bài hát sáu câu về cơm áo
Bà già làm đủ nghề, kể cả nghề đi dạo
Lên bục đọc diễn văn, xuống bục ngủ vĩa hè
Bà già disco mở cửa hàng nhậu nhẹt
Chăn gối thừa trong các pḥng khuê
Hoàn toàn không có một chỗ trú cho chúng ta
Đây là thời đại của những người già cả
Tuổi 40 nghĩa là nhà thơ trẻ
Khoảng 60 làm thi sĩ là vừa
Từ 70 trở đi là tuổi của nhà vua
Quan lại mới ăn lộc bằng năm tháng
Trong khi tuổi của t́nh yêu chỉ cần vài cơn nắng
Một chút mưa đủ cảm thấy ḿnh già
Chúng ta yêu nhau ngày một ngày ba
Sợi tóc bạc phếch trong trái tim mới lớn
Cứ thêm một ngày là t́nh thêm chết sớm
Thế mà không có chỗ trú cho chúng ta
Thành phố tróc da trên cây me già
Rớt vẩy xuống sư sinh sôi của cỏ
Chúng ta nhỏ nhoi trong từng hơi thở
Thiếu oxy v́ xăng nhớt v́ dầu
Chúng ta rang ái t́nh trong từng tóp mỡ
Không cần miếng thịt nạc sống dài lâu
C̣n mở mắt là biết ḿnh c̣n thọ
Nhưng có chỗ nào anh trú với em đâu ?
Bài thơ THỜI CỦA NGƯỜI GIÀ sau này được tôi “chuyển thể” thành truyện ngắn BỐN THÍ NGHIỆM TRONG ĐÊM TÂN HÔN đăng tải trên nhiều báo trong và ngoài nước. Truyện ngắn BỐN THÍ NGHIỆM TRONG ĐÊM TÂN HÔN một lần nữa lại được tôi “chuyển thể” thành kịch bản phim nhựa 45 phút của hăng Chánh Tín do Nguyễn Chánh Tín làm đạo diễn, vừa công chiếu các rạp trên toàn quốc tháng 6 - 2008 cùng với phim CHẾT LÚC NỬA ĐÊM.
Đạp xích lô vài tháng, một lănh đạo Thành Đoàn “chịu không thấu” nên gửi tôi vào làm Xưởng Huy Hiệu Thành Đoàn nằm trên đường Lê Lợi. Tại đây tôi biến thành công nhân máy dập kim loại bất đắc dĩ và tạo uy tín cá nhân bằng những tờ báo tường cho cơ quan. Tôi tự vẽ và viết đủ mọi thể loại thơ, truyện, tùy bút, vui cười, truyện tranh, chuyện phiếm… kư dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Không khí như sôi lên khi tôi cùng anh Quế (anh ruột của chị Quỳnh Hoa và anh Năm Bằng, cán bộ Thành Đoàn) đặt biệt danh mọi người trong cơ quan thích ứng với thế giới động vật và thực vật trong Sở Thú. Chẳng hạn các cô gái ở bộ phận sơn huy hiệu có các biệt danh Con Mèo, Con Thỏ, Con Nhím, Con Voi, Con Muỗi, Con Cầy Hương, Con Thiên Nga… tùy theo nhan sắc và trọng lượng thân thể của các cô. Chẳng hạn các ông cai ở các bộ phận văn pḥng, bộ phận chỉ huy, bộ phận hậu cần th́ có các biệt danh Tre Miễu, Cây Si, Cây Măng Cụt, Trái Sầu Riêng, Chôm Chôm. Riêng chiến hữu giang hồ trắng trẻo khu Tân Định là Lâm Cầu Kiệu làm bảo vệ cơ quan được anh Quế phong tặng biệt danh “Thợ Săn” c̣n tôi th́ là “ông chủ Thảo Cầm Viên” lăng mạn…
Chính nhờ giai đoạn lao động “thơ mộng” này mà tôi thai nghén tiểu thuyết học tṛ mang tên TÓC TIÊN. Tiểu thuyết TÓC TIÊN xuất hiện qua h́nh thức đăng feuilleton nhiều kỳ trên báo Mực Tím năm 1991 và cuối năm đó được độc giả tuổi mới lớn bầu chọn là truyện dài hay nhất trong năm. Không một ai hay biết những nhân vật trong truyện TÓC TIÊN có một số mang biệt danh các đồng nghiệp của tôi từ thời làm ở Xưởng Huy Hiệu.
Trong thời gian làm ở Xưởng Huy Hiệu tôi có dịp làm quen với nhà thơ, nhà văn kiêm kịch tác gia bụi đời Mặc Tuyền. Làm quen một cách khơi khơi. Trước cửa xưởng 66 Ter Lê Lợi, quận 1 là mặt tiền một đại lộ lớn với vỉa hè rộng là “phao cứu sinh” đối với rất nhiều người buôn bán nhỏ, trong đó có anh Mặc Tuyền. Mặc Tuyền vốn là “đại đệ tử” của nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà, anh có một thời lăn lóc giang hồ với đủ nghề nghiệp mưu sinh kiếm sống, và đang kiếm sống bằng cách bán đủ các loại ống tiêu, ống sáo ngay trước cơ quan tôi. Trước đó tôi đă biết anh khi anh đoạt giải nhất truyện ngắn của báo Văn Nghệ TP cùng với đạo diễn Lê Văn Duy. Anh hoàn toàn bất ngờ khi hay tin tôi cởi áo lính làm công nhân máy dập Xưởng Huy Hiệu. Đêm đầu tiên hạnh ngộ, hai anh em ngồi quán cóc vỉa hè, anh thổi sáo ngâm thơ cho tôi nghe và kể rằng chỗ buôn bán của anh hiện nay cũng chính là chỗ thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên (một thi sĩ tài hoa trước 1975 có nhiều bài thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc) từng đứng bán chợ trời trước khi vượt biên sang Mỹ. Hôm đó tôi đă đọc cho Mặc Tuyền nghe bài thơ ĐÓI LIÊN TỤC của một gia đ́nh cách mạng khiến anh thẫn thờ:
ĐÓI LIÊN TỤC
Nhà hết gạo
Chung quanh một nồi cháo
Mười cái chén gục đầu
Bốn người thất nghiệp, một người đau
Nồi cháo bốc hơi cán bộ
Năm công nhân viên làm toán đố
Đáp số không qua giới hạn cộng trừ :
“45 kư trong lu
600 phần ăn một tháng”
Lúa miền Nam gặp hạn
B́nh Trị Thiên băo về
Đồng bằng Sông Hồng hồi hộp vỡ đê
Sao đọc báo chỉ thấy bội thu lương thực
Sao nghe đài thấy gạo Việt thành cơm Tây cơm Nhật
Sao xem ti vi thấy thóc nở đầy h́nh
Thóc đă tràn vào ngân khố vô danh
Đất nước được mùa công trái
Cho lănh tụ rộng mồm ăn nói
Diễn văn đầy ngũ vị hương
Ôâi, hoa màu thần tiên trên các bích chương
Thứ hoa màu trên giấy báo
Đương nhiên
Nhà hết gạo
Và mười người hết máu…
Hai anh em không cần cắt máu ăn thề như tích Tam Quốc Chí, chỉ cần hiểu nhau theo kiểu “kiến nghĩa bất vi vô dơng giă – lâm nguy bất cứu mạt anh hùng” là đủ đặt niềm tin vào nhau. Chính v́ thế khi Mặc Tuyền rủ tôi về Bến Tre là tôi đi theo anh một mạch. Tại đất Bến Tre không hiểu anh xoay xở ra sao mà mới vừa hành nghề bán sáo dạo lề đường bỗng biến thành ủy viên ban chấp hành Hội Văn Nghệ Nguyễn Đ́nh Chiểu. Anh giới thiệu tôi với anh Bảy Dân, cháu cô Ba tức nữ tướng Nguyễn Thị Định. Anh Bảy Dân lúc đó đương nhiệm chủ tịch Hội Văn Nghệ hoàn toàn tin cậy Mặc Tuyền trong việc làm kinh tế cải thiện đời sống cho Hội. Trong ṿng vài tháng ở Bến Tre, có lần anh Mặc Tuyền và tôi ngồi xe hơi của Hội chạy về Sài G̣n làm việc với Hội Văn Nghệ TP của đồng chí Viễn Phương khiến ai nấy há hốc mồm kinh dị. Họ không thể hiểu nổi lư do ǵ một kẻ bán chợ trời, một kẻ sửa xe vỉa hè bỗng hô biến thành hai “nghệ sĩ đại gia” chớp nhoáng. Tôi có ghi nhận thời gian vàng son ấy trong bài thơ NGÀY TR̀NH DIỆN BẾN TRE trích đoạn như sau :
NGÀY TR̀NH DIỆN BẾN TRE
Một trái tim, một ba lô con cóc
Tôi đến Bến Tre như thể trở về nhà
Tôi đến Bến Tre như là tôi có lỗi
Vụng về không biết chào thưa
Tôi đến Bến Tre như là tôi bối rối
Hai tay bóp lại dư thừa
Tuổi 26 chưa sửa soạn già nua
Mà trước đó ngỡ tóc ḿnh sắp bạc
Tôi đă sống một thời mê nhạc
Cây guitar biết thở như người
Tôi đă sống một thời đánh giặc
Lựu đạn tṛn khoen lách vành môi…
Cuộc đời vốn dĩ là… cá ăn kiến, kiến ăn cá. Mặc Tuyền mau chóng “bạo phát bạo tàn”. Những lúc không có anh ở Bến Tre, tôi lưu linh lạc địa cùng anh em văn nghệ nghèo trong Hội chia nhau từng phiếu ăn tập thể thê thảm. Tôi c̣n nhớ thuở đó Kim Ba đă làm thơ có triển vọng ngay trong tuổi học sinh, đôi vợ chồng trẻ Nguyên Tùng, Ngọc Điệp đă có những tác phẩm ấn tượng, rồi Hồ Trường (hiện giờ là chủ tịch Hội Văn Nghệ Nguyễn Đ́nh Chiểu) thuở đó phải chạy đôn chạy đáo kiếm từng giọt rượu hiếu khách cho tôi uống. Tôi tập đi qua cầu khỉ về Mỏ Cày trợn trượt té xuống sông liên tục. Và tôi đă tập bước trên thân cây dừa đầy bùn śnh trơn trượt ấy cho đến lúc đi khoan thai như một ảo thuật gia.
Đầu năm 1981 Mặc Tuyền từ giă Bến Tre lôi tôi quy hồi cố xứ mở xưởng làm đồ chơi tại Xóm Chùa đường Trần Quang Khải, quận 1. Xưởng đồ chơi tọa lạc trong khuôn viên một ngôi chùa nằm cạnh ḍng sông đen. Ở đây tôi có ngay hai đồng nghiệp là Bảy Dũng (một cán bộ Thành Đoàn từng là một trong vài sếp lực lượng Thanh Niên Xung Phong và từng đi bộ đội cùng đợt với tôi) và Trương Hùng Dũng, em ruột nữ ca sĩ Kim Khánh bên văn công Quân Khu 7. Ba đứa tôi là ba thợ chủ lực sản xuất những bộ phận đồ chơi gia công cho một đơn vị mà anh Mặc Tuyền cung cấp theo hợp đồng kinh tế. Nếu các bạn có mặt ở Xóm Chùa lúc ấy chắc chắn sẽ h́nh dung chúng tôi như ba gă cô – dắc trong phim SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM. Ba đứa tôi tóc dài lê thê và bộ dạng rất ngầu chứ c̣n phải hỏi. Khoảng thời gian này cũng là khoảng đời thơ mộng nhất của tôi, khi tôi tái ngộ lại người con gái mà sau này trở thành hiền thê măi măi. Ngày đầu tiên gặp Hương Lan ở quán nước dưới chân cầu Công Lư, tôi đă có ngay một bài thơ ghẹo em :
CHIỀU CÓ LAN
Chỉ cần ngón tay đưa lên môi
Ngàn năm nhan sắc ở em rồi
Ngàn năm trời đất thành thơ nhạc
Cây cỏ chào nhau kể lứa đôi
Chỉ cần chiếc muỗng em trong ly
Là tim anh chết rất nhu ḿ
Là thằng du đăng bay đâu mất
Một chút t́nh anh lẻn trốn đi
Chỉ cần em cứ ngồi như thế
Yên lặng nh́n anh suốt buổi chiều
Là anh trôi sạch bao dâu bể
Mở hết ḷng ra đợi tiếng… yêu !
Tôi c̣n nhớ sinh nhật tôi ngày 23 – 10, đêm ấy ở khu giang hồ đầy anh chị Xóm Chùa, em và một người bạn gái đă đem quà và một cành hoa cho ngày sinh nhật thằng con trai lăng tử :
SINH NHẬT
Hôm nay là sinh nhật của anh
Hai mươi bảy tuổi cháy ngon lành
Anh x̣e diêm đốt mà cay mắt
Diêm tàn, riêng sọi khói mong manh
Sinh nhật anh không có đèn cầy
Hoa hồng mang đến cánh c̣n gai
Em cong môi thổi như công chúa
Hơi thở thơm mùi hương trái cây
Sinh nhật anh không có rượu vang
Ly quên chén dĩa, ghế quên bàn
Anh quên đời sống như quên tuổi
Bó gối nghe đùi thương gót chân
Sinh nhật anh không có đàn bà
Tháng mười Chúa chẳng kịp sinh ra
Dang tay anh đứng làm thập tự
Mơ một nàng Madalêna
Sinh nhật anh không có đàn ông
Tháng mười Phật giác ngộ chưa xong
Ṿng tay anh khép làm tràng hạt
Mơ nàng Thị Kính cắt râu chồng
Sinh nhật anh mà sinh nguyệt em
Có nàng con gái rất thuyền quyên
Lách qua khe cửa như hơi gió
Uïp xuống đời anh cơn băo đêm
Sinh nhật anh. Ừ, sinh nguyệt em
Trăng lên soi rỗng túi không tiền
Mẹ anh sinh nở con cầu tự
Nên suốt đời anh ngủ mái hiên
Hùm thiêng khi đă sa cơ… chẳng hèn. Xưởng đồ chơi của chúng tôi ở Xóm Chùa bị vị sư trụ tŕ giải tán sau một cuộc đánh lộn với đám anh chị bảo kê khu vực quanh Xóm Mười Căn. Mèo lại hoàn mèo, tôi lang thang qua khu Chợ Cá, Trần Quốc Toản, quận 10 giao du với anh em nhà Long Gỗ. Long Gỗ sau 1975 làm công tác Phường Đoàn rồi đi bộ đội đánh nhau ở biên giới, xuất ngũ chuyển qua nghề buôn củi. Tại địa phương, Long Gỗ sống như một đại ca với các em út thầu giữ xe cho khách khứa các quán xá. Chúng tôi đến với nhau trên nguyên tắc “trọng nghĩa khinh tài”. Trên băi đất trống trước bệnh viện Nhi Đồng đường Lư Thái Tổ, hàng ngày tôi, Long Gỗ, Bảy Dũng vừa đốn củi vừa tiếp thị khách đi đường những khối thước củi chất cao nghệu với giá rẻ rề. Chúng tôi đă sống trong những ngày tháng đó bằng cách đổ mồ hôi sôi nước mắt cật lực như vậy để tồn tại. Kỷ niệm ngày gặp Long Gỗ được tôi ghi lại như sau :
Bạn ta ở thành phố
Chứ không phải ở rừng
Sao lần này thăm bạn
Thấy cây nằm ngổn ngang
T́m trong lửa thấy vàng
T́m trong cây thấy bạn
Bạn ta thành Thạch Sanh
Trước khi ra ngồi quán
Tay bạn x̣e mười ngón
Khép lại thành núi đồi
Mở ra thành sông rạch
Chốn giang hồ rong chơi
Cũng trong năm 1981 ông Dương Đ́nh Thảo tức Sáu Thảo, giám đốc Sở Văn Hóa Thông Tin kéo tôi khỏi kiếp “tiều phu” về làm việc tại Pḥng Bảo Tàng Lịch Sử thành phố trên đường Pasteur. Tại đây tôi ăn lương hợp đồng ở Pḥng Tổ Chức Sở và làm nhiệm vụ ghi chép các địa chí văn hóa nội ngoại thành, những lúc cần thiết chú Sáu Thảo trưng dụng tay nghề “xuất khẩu thành thi” của tôi trong phái đoàn lưu diễn. Phái đoàn của chú Sáu Thảo là một phái đoàn văn nghệ tạp lục kiểu như “đại nhạc hội Hoàng Thi Thơ” trước giải phóng. Nhờ vậy tôi có dịp làm quen với nhiều nghệ sĩ sân khấu, ca nhạc trong đó có anh Trần Quang Minh tự Minh Ḅ. Anh Trần Quang Minh là con trai thứ của giáo sư tiến sĩ Trần Văn Khê, một nhà văn hóa lỗi lạc của Việt Nam tại hải ngoại. Năng lực của Minh Ḅ có khuynh hướng nghiêng về người chú ruột là quái kiệt Trần Văn Trạch. Minh Ḅ có thể vừa hát rất độc những bài nhạc Pháp cổ điển, vừa hát biến thể thành nhạc Rap những hành khúc rộn ràng như “Tiểu Đoàn 307” rất có duyên trước công chúng. Anh c̣n hát bài thơ CHÙA HƯƠNG của thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp được Trần Văn Khê phổ nhạc theo kiểu tái chế riêng của ḿnh cực “phê”. C̣n tại sao gọi là Minh Ḅ th́ quá dễ hiểu : anh chuyên môn mặc bộ đồ jeans của cao bồi chăn ḅ và mỗi lần lấy giọng th́ hụ hụ trong cuống họng như ḅ rống. Tại Pḥng Bảo Tàng anh là một bạn già thân thiết luôn yêu cầu tôi đọc thơ giang hồ mỗi khi đối ẩm. Đầu năm 1982 Sở Văn Hóa Thông Tin điều động tôi và Nguyễn Đức Thành tức Sáu Du (một cán bộ biên tập thời kỳ đầu tiên của báo Tuổi Trẻ) theo đồng chí Vơ Ngọc An tự Bảy Câu ra huyện Duyên Hải (Cần Giờ) khi Bảy Câu được cấp trên thử lửa bằng chức Trưởng Pḥng Văn Hóa Thông Tin của vùng đất mệnh danh là “Sibêri” thành phố.
Tại Duyên Hải tôi được anh Bảy Câu phân công làm Nhà Văn Hóa c̣n Sáu Du phụ trách bản tin huyện. Tất nhiên phân công là một chuyện c̣n lúc làm việc chúng tôi luôn choàng gánh cho nhau, bởi Nhà Văn Hóa huyện thực chất chỉ là một cái đ́nh bỏ hoang không có mấy người ở, c̣n bản tin hầu như chỉ có “bộ tam sên” của chúng tôi tự biên tự diễn. Thế mà chúng tôi cũng cho ra mắt bản tin hàng tuần như một tờ báo long trọng làm nức ḷng cư dân xứ biển. Tôi c̣n nhớ bài thơ xuất hiện trên tờ báo huyện số ra mắt mang tên PHẢN TỐNG BIỆT HÀNH của tôi được anh em người Sài G̣n và cán bộ người bản xứ học thuộc làu. Bài thơ “nhái” giọng điệu thi sĩ Thâm Tâm khi làm TỐNG BIỆT HÀNH trở thành một dạng “t́nh ca đặc sản địa phương” được mọi người hát lên mỗi lần cụng ly rôm rả. Hầu như giới lănh đạo cấp huyện đều biết hát bài thơ do Lă Văn Cường phổ nhạc đó. Phải nói là anh Chung, phó chủ tịch phụ trách du lịch và xuất khẩu ôm đàn guitar chơi “bốc” nhất. Những năm sau này mỗi lần họp mặt truyền thống Duyên Hải vào dịp cận Tết Nguyên Đán, những “lính già ngày xưa” như Hồ Văn Ngon cựu Bí Thư Huyện Ủy, như anh Tư T́nh bên xây dựng, ông Vui bên ṭa án, anh Dương Độc Lập bên giáo dục, anh Hợp bên văn hóa, các vị khác bên các ngành khác… trong cơn say chếnh choáng thường bất chợt nổi hứng cất giọng đồng ca bài PHẢN TỐNG BIỆT HÀNH để kỷ niệm những ngày gian khổ cùng nhau…
PHẢN TỐNG BIỆT HÀNH
Đi đến với những người hiếu khách
Ngoài ba lô c̣n một cây đàn
Ba lô để nhớ thời chân đất
Cây đàn nghe sóng vỗ thênh thang
Đưa người ta cứ đưa sang sông
Không sợ tiếng sóng ở trong ḷng
Thâm Tâm lên núi thèm Tống Biệt
Ta về biển mặn hóa ḍng sông
Nhích lại gần nhau nghe ngày xưa
Chàng An Tiêm lăng mạn trồng dưa
Có cô công chúa đi làm rẫy
Con mắt to giống như em vậy
Con mắt to thành mắt con thuyền
Có người kéo lưới đợi thuyền lên
Có người kéo lưới thương con mắt
Mắt con thuyền… A, con mắt em
Người biết bơi nhớ mùa nước nổi
Lặn làm chi sặc sụa tâm hồn
Quả dưa xẻ đặt trên đầu gối
Em một đầu, ta một đầu : hôn
Ừ thôi về biển ta về biển
Con cá ra khơi, con chim liệng
Chỉ e con sóng sớm bạc đầu
Sợ hăi v́ người xanh tóc đến
Đă bảo trong ba lô có biển
Không, sao cây sác mọc thành rừng
Đă bảo trong cây đàn có biển
Không, sao âm nhạc thở t́nh nhân
Đừng hàm hồ nói : đất không chân
Khi ngón mỗi người đều có móng
Tóc biết bay và tay biết ôm
Gió biết biển lúc nào xúc động
Em có thể khóc chiều nay lắm
Nếu ta vờ đánh mất cây đàn
Ta có thể khóc chiều nay lắm
Nếu biển vờ quên mất gịng sông
Bài thơ PHẢN TỐNG BIỆT HÀNH không chỉ phổ biến ở đất Cần Giờ, nó c̣n được truyền khẩu trong giới văn nghệ trong nước lẫn giang hồ hải ngoại. Tôi đă có dịp được nghe một số ca sĩ Việt Kiều, trong đó có Duy Quang hát dù họ không hề biết tác giả và xuất xứ của bài thơ.
Trong thời gian ở huyện đảo, tôi có lần âm thầm “cứu bồ” Nguyễn Thái Dương trong chuyến tham gia phái đoàn ủy ban huyện trên chuyến ghe đi kinh lư 7 xă. Số là Nguyễn Thái Dương lúc đó đang dạy học ở xă B́nh Khánh, một xă thiếu tiện nghi về mặt giáo dục đến mức độ thầy giáo Nguyễn Thái Dương phải làm bài thơ nói về “một cô giáo phải cởi áo dài gói lại để bơi qua sông” dạy học. Hoàn cảnh cô giáo giữ bộ đồ khô ráo để bảo vệ tư cách sư phạm khi đứng trên bục giảng làm cảm động người đọc, nhưng không ai lưu tâm đến số phận nhà thơ sáng tác ra nó. Khi ghe ủy ban ghé lại xă B́nh Khánh, tôi có nói với anh Bảy Câu mời Nguyễn Thái Dương lên chơi. Trên ghe có mặt anh Năm Cương bí thư huyện, anh Sáu Đông chủ tịch huyện, anh Dương Độc Lập trưởng pḥng giáo dục huyện và nhiều đầu ngành chóp bu khác. Chúng tôi đă tổ chức một đêm thơ nhạc bụi đời dưới ánh trăng huyền hoặc và trong cuộc trà dư tửu hậu, tôi có nhắc anh Dương Độc Lập tạo điều kiện để Nguyễn Thái Dương trở về thành phố hầu phát huy năng lực chuyên môn của ḿnh. Dĩ nhiên là ông trưởng pḥng giáo dục đồng ư cái rụp.
Ở Duyên Hải không chỉ có niềm vui mà c̣n quá nhiều những nỗi buồn. Nỗi buồn không phải từ chuyện thiếu thốn nước ngọt, chuyện ăn cơm tập thể thóc sạn nhiều hơn gạo trắng, chuyện đồn đại về xă đảo Thạnh An như một xă đảo “Ra Đô” bởi ngư dân trên đảo ai cũng đeo đồng hồ cao cấp Ra Đô nhờ “bán băi” cho những kẻ vượt biên từ khắp nơi đổ đến. Nỗi buồn c̣n đến từ những buổi chiều lang thang ngoài hàng dương chứng kiến vô số xác người từ phao số 0 trôi dạt vào bờ. Trên băi cát màu đen đặc sản của Duyên Hải, lần đầu tiên tôi biết được đàn ông chết trôi luôn nằm sấp c̣n đàn bà chết trôi luôn nằm ngửa, ngay cả cái chết cũng mang quy luật âm dương. Những cái chết của những chiếc ghe chở người vượt biên do bị lừa đảo, do bị sóng lớn nhấn ch́m đă làm trái tim thơ của tôi chảy máu. Năm 1983 tôi chia tay vùng đất Cần Giờ qua bài thơ PHỐ ĐỘNG sau đây :
PHỐ ĐỘNG
Từ giă biển một năm văn xuôi
12 tháng thi ca, 365 ngày kịch nói
Ở đó ta làm diễn viên hay đến nỗi
Mọi con cua đều mọc đủ hai càng
Mọi con chim đều x̣e ra đôi cánh
Mọi con cá đều thở với hai mang
Ta làm diễn viên sân khấu b́nh dân
Người xem kịch chỉ cần mua chung rượu
Với ông già, ta đóng vai nhập tửu
Với trẻ con th́ ta giả thánh hiền
Với phụ nữ th́ ta làm ǵ vậy
Sao lại chàng ràng như gă Lă Phụng Tiên ?
Từ giă biển một năm Điêu Thuyền
12 tháng Thúy Kiều, 365 ngày Angiêlic
Làm anh hùng c̣n có thời thấm mệt
Huống chi ta làm đĩ đă rạc dài
Về thành phố mà mua thêm son phấn
Để thơ c̣n ḿnh hạc với xương mai
Về phố mà xem chữ mọc như cây
Vườn mẫu giáo thành vườn ươm dũng sĩ
Kế hoạch nhỏ c̣n hơn làm anh chị
Tội chi xưng du đăng với biển ḱa
Về phố phen này đi t́m giấy vụn
Aét hẳn được bằng dũng sĩ về khuya
Về phố mà xem chữ lạnh như bia
Khà một hớp là được khen tiên tiến
Gái đẹp kinh thành đi đông như kiến
Dí gót chân trên chiếc Cub mà lùa
Về phố phen này lên đồ chững chạc
Aét hẳn được quyền bán chúa buôn vua
Về phố mà xem bạn cũ te tua
Tụ tập bất minh bàn toàn chuyện mánh
Đứa chơi nhạc, đứa vẽ tranh, đứa rảnh
Kể tiếu lâm bậy bạ sống qua ngày
Ta mang chút sóng ḷng về cho phố
Chưa như nhà thơ mà đă như thằng say
Oâi khi ta về đến phố phen này
Là kiếp đĩ lại trở về với động…
Trở về Sài G̣n tôi ngồi sửa xe vĩa hè với ông bạn giang hồ Phan Văn Bồng mà tôi đặt cho biệt danh là “Bế Văn Bồng” ngay ngă tư Trần Quốc Thảo – Điện Biên Phủ. Anh Bồng gốc con nhà vơ Tây Sơn B́nh Định trước 1975 tham gia các lực lượng yêu nước xuống đường đấu tranh cho dân chủ ḥa b́nh. Anh rất mê bốn câu thơ xuất phát từ phong trào : “Hàng loạt đứng lên – Bạo tàn sụp đổ – Thế mới biết chuyện vang lừng kim cổ – Là của đám người không tuổi không tên”. Một con người mê sức mạnh của nhân dân là như thế nhưng sau 1975 cũng chính anh ngao ngán thốt lên hai câu thơ : “Khi nguy th́ gọi công thần – Lúc lên chín bệ xa dân trùng trùng”. Tôi chơi thân với anh từ chí khí đó. Tại điểm sửa xe mỗi ngày tôi chứng kiến biết bao nhiêu chuyện khổ đau của kiếp người. Chỉ cần một tai nạn giao thông xảy ra trên đường là đủ thấy hậu quả nhăn tiền của một xă hội duy vật thực dụng. Mọi người hầu như bỏ mặc nạn nhân hấp hối để lo tiếp thị thu hoạch lợi tức cá nhân. Bài thơ như một sự cảnh báo tiên tri về hiểm họa mà ông Phan Văn Khải gọi là sự “vô cảm” của con người sau này :
THỜI CỦA THÚ
Ở một thời kỳ mà xe đụng ngoài đường
Xác người chết được đem lên bàn mổ
Mọi người xúm nhau như ong vỡ tổ
Chợ trời lăng xăng quảng cáo thuốc Tây
Gă sửa xe chuẩn bị túi đồ nghề
Chiếc mỏ lết há hàm răng chó sói
Xe xích lô nối đuôi cười khiêu gợi
Chiếc nệm ăn mày thủng cả ḷ xo
Những con thú đói bu quanh con thú không no
Húp lẫn nhau chút bơ thừa sữa cặn
Ở một thời kỳ mà trái tim đi vắng
Nợ áo cơm làm thủng mắt con người…
Tại ngă tư nghiệp chướng này tôi đă tái ngộ vô số bạn hiền. Có lần gặp lại Lưu Ngũ (tác giả cuốn VŨNG LẦY) đoạt giải thưởng Văn Học Thành Phố cùng với tôi, Trần Mạnh Hảo, Lê Văn Vọng, Vũ Quần Phương, Lương Minh Cừ, Nguyễn Mạnh Tuấn, Đào Hiếu, Lê Duy Hạnh, Trương Quốc Khánh… một giải thưởng danh giá nhất thời đó. Khi gặp nhau Lưu Ngũ liền rủ tôi về khu Ông Tạ làm kẹo bán kiếm tiền độ nhật. Lưu Ngũ tên thật là Luật có biệt danh Sáu Vạng không phải dân anh chị chuyên nghiệp như đám anh em Sơn Đảo, nhưng về mặt đụng độ giang hồ cũng thuộc diện đáng gờm bởi thiên hạ đồn là anh “Vạng” đủ sáu cái cho địch thủ đo ván mới ngưng. Qua anh, tôi giao du thêm với Ba Đen, đại ca thứ dữ từ vùng Hải Sơn, Bà Rịa Vũng Tàu. Ba Đen tướng tá hộ pháp như Lư Quỳ trong Lương Sơn Bạc là con người trọng nghĩa khinh tài, làm phi vụ được đồng nào là bay xuống Sài G̣n chơi hết với anh em đồng đó. Chính anh đă tài trợ cho đám anh em văn nghệ sĩ mạt lộ chúng tôi thành h́nh một xưởng kẹo. Xưởng kẹo được đặt ở sau nhà Lưu Ngũ. Công đoạn làm kẹo khá rắc rối tôi không tham gia, chỉ thấy đạo diễn Hồ Ngọc Xum và thi sĩ Trần Mạnh Hảo xỏ bao nilông bảo vệ hai bàn chân, nhảy lên đống kẹo khổng lồ dùng chân nhào nặn liên tục. Khi kẹo thành phẩm Lưu Ngũ phân công tôi và hai nhạc sĩ Nguyễn Hải, Lă Văn Cường đi bán bỏ mối. Thuở ấy anh em thương nhau đẹp đến nỗi trong cuộc chơi lúc tôi quá đuối không c̣n sức đọc thơ th́ đàn anh Mặc Tuyền hoặc thi sĩ đàn em Đoàn Vị Thượng thế vai. Phải nói rằng Mặc Tuyền ngâm bài thơ QUÁN BÊN ĐƯỜNG của Minh Phẩm (tức Trang Thế Hy) và bài thơ TIỀN VÀ LÁ của Kiên Giang làm chúng tôi “phê” tới bến. C̣n Đoàn Vị Thượng th́ lém lỉnh vàsắc sảo. Thượng được nhiều người biết với bài thơ BỤI PHẤN tuy nhiên họ Đoàn lại thành công trong bàn rượu với bài ĐẤT VÀ NƯỚC được anh em vỗ tay khen ngợi. Hồi đó bằng uy tín cá nhân, tôi là người thu hoạch tài chánh cao nhất từ nghề bỏ mối kẹo. Tôi xông đến tất cả những cơ sở kinh tế của Thành Đoàn chào hàng và hầu như được các chủ quầy thực phẩm ôkê nhận kẹo trước, trả tiền sau. Tiền kẹo đem về Lưu Ngũ chỉ nhận tuợng trưng, thông thường cho tôi xài thả cửa. Bài thơ BÁN KẸO ra đời trong khoảng thời gian ấy. Bài thơ viết về cảnh ngộ của vợ chồng Lưu Ngũ :
THƠ BÁN KẸO
Ta sinh ra chưa hề hảo ngọt
Quen đắng cay hơn uống nước đường
Chắc tại đời ta như giấy bóng
Nên lâu lâu gói kẹo đỡ buồn
Hăy ngậm vào mồm đi các em
Kẹo ta bán vốn chẳng cần nhăn hiệu
Kẹo c̣n trinh tiết ta gọi là kẹo kéo
Ngắt một ngón tay chỉ tốn có 5 hào
Khi hút thuốc lào và nói chuyện tào lao
Mời các em mua ngay phong mè xửng
Kẹo dành lai rai là kẹo nhiều đậu phụng
Ta chưa quốc doanh nên giá cả rẻ tiền
Kẹo chuối, kẹo dừa ngọt lắm đó các em
Ngậm cho chặt để lưỡi đừng lắt léo
Bạn bè ta và vợ ta bán kẹo
Chỉ ḿnh ta thích hợp với “kẹo đồng “
Chính v́ thế các em nên mua kẹo
Để mỗi ngày gỡ bựa dưới chân răng…
Không xa nhà Lưu Ngũ là nhà Bùi Đại Bằng, một đàn anh bất phùng thời ở khu Ông Tạ. Mỗi lần nhậu nhẹt chúng tôi thường kéo qua nhà anh chơi tít cung mây. Bùi Đại Bằng mới lấy vợ là một hiền thê có chữ nghĩa hằng ngày cùng với anh ra chợ ngồi bán cá. Hai vợ chồng bán đủ các loại cá đồng, cá biển nhưng mỗi khi tôi xuất hiện là họ để dành một đống ruột cá lóc làm mồi nhậu đăi nhà thơ. Dân có máu Thủy Hử cụng ly nhau nhiều khi nước mắt ứa ra v́ thời thế. Tôi có làm bài thơ BÁN CÁ an ủi vợ chồng họ như Hàn Tín an ủi bữa cơm Phiếu Mẫu :
THƠ BÁN CÁ
Đến nhà gặp bạn hiền bán cá
Cá rô, cá sặc, cá tḥi ḷi
Mà ta th́ vốn thằng láu cá
Thấy cá là chỉ muốn nướng trui
Thấy cá là lại thèm một xị
Ít ly y lít với bạn hiền
Cuộc sống chẳng qua toàn mộng mị
Ma quỷ c̣n đá cá thần tiên
Vậy th́ ta chính là ma quỷ
Bắt cá hai tay thú lẫn người
Vậy th́ bạn chính là tiên thánh
Bán cá cần chi sợ hổ ngươi
Trên thớt, cá thách người dám cá
Vây giương mắt trợn nhớ ao hồ
Nếu ta nằm thớt như tôm cá
Đă chắc ǵ dám nhớ tự do
Tự do bị đắm ngay trên cạn
Bạn ta thành cá mắm chợ đời
Vua quan sắm giỏ đi mua bán
Mắt bạn buồn như mắt cá tươi
Mắt bạn buồn như bầy cá lóc
Nhớ kênh thuơng rạch đến bao giờ
Mắt vua chúa như bầy cá mập
Phơi nắng bao giờ mới hết khô
Tại bạn lắm nghề nên lắm nghiệp
Hết bán gạo xong đến bán nhà
Bán nhà đâu sướng bằng bán cá
Xưa Thúy Kiều c̣n phải bán “bar”
Bán bar th́ vốn ṇi con gái
Gà trống nuôi con bán cái ǵ
Chẳng thà bán cá hơn bán nước
Bán lỗ dư mồi nhậu mới nguy
Đói bụng ca ngay bài con cá
Sẽ được no hơi cá hóa rồng
Mấy ai đă dám xưng vương bá
Nếu thiếu thời không vượt vũ môn
Tôi làm nghề ǵ cũng tài tử. Bán kẹo chừng nửa năm th́ gia nhập vào thế giới ve chai. Hồi đó ở Sài G̣n tụ điểm bia nổi tiếng nhất là công viên Tao Đàn, nơi những chiếc xe x́ tẹc phun ṿi bắn bia như suối. Hai chữ “Tao Đàn” xuất xứ từ nhóm thơ quư tộc “Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú” của ông vua thi sĩ Lê Thánh Tôn sau 1975 biến thành nơi quy tụ giới vơ lâm hắc bạch y chang như Quang Minh Đỉnh trong Tiếu Ngạo Giang Hồ của Kim Dung. Bá tánh tha hồ xếp hàng hoặc tan hàng dành từng phiếu tích kê, cự nự làm quen, nh́n mặt bắt h́nh dong kết nghĩa giang hồ. Những kẻ có ḍng máu chịu chơi Lư Bạch tha hồ cụng ly chan chát với vô số đồng nghiệp từ Nam chí Bắc. Khó mà điểm danh hết các hiền sĩ c̣n sống hoặc ra người thiên cổ ở trung tâm bia bọt Tao Đàn. Chỉ biết rằng tại Tao Đàn tức “Tan Đào” hễ tan trận là đào tẩu một mạch. Thiên hạ đào tẩu với đủ mọi lư do của họ : Người lộng ngôn bừa băi, kẻ coi trời bằng vung lỡ mượn rượu phát ngôn rút lời không kịp. Ở trung tâm luôn có sẵn các Mạnh Thường Quân yêu mến văn nghệ túi tiền rủng rỉnh sẵn sàng ngây người nghe lời vàng ngọc từ những nhà thơ giang hồ bất đắc chí xuất khẩu thành thi, những nhạc sĩ coi “tứ xứ là nhà” búng guitar, hát nhạc dân gian điệu nghệ hơn xa tỉ ca sĩ trên sân khấu. Một trong những tửu khách xuất hiện thường xuyên là chủ quán Trống Đồng kiêm thi sĩ Vũ Trọng Quang hay nhái B́nh Ngô Đại Cáo một cách hào sảng : “Dẫu tiền bạc lúc có lúc không – Song dân nhậu thời nào cũng có”. Quán Trống Đồng hiện giờ không c̣n nữa nhưng thuở đó tọa lạc ở góc Lư Tự Trọng – Cách Mạng Tháng Tám về sau chuyển về số 5 Lê Quư Đôn. Một trong bốn chủ quán là Vũ Trọng Quang biệt danh Điền Bá Quang, kẻ mê ni cô Nghi Lâm trong Tiếu Ngạo Giang Hồ nhưng không “ngâm ly” mà biết dụ khị tửu khách ghé quán bằng hai câu thơ tiếp thị do chính anh sáng tác :
Mời người và rượu cùng nhau
Bốn phương là chỗ rót vào đầy ly
Những lúc ấy tôi chỉ biết đáp lễ bằng một bài thơ “điệp ngữ” như sau :
Lít đầu chỉ thấy sương sương
Lít hai thấy lửa táp sườn riu riu
Khơi khơi chục lít sáng chiều
Đến khuya đứng dậy chân xiêu tà tà
“Xiêu tà tà” có nghĩa là “ta x́u x́u” quắc cần câu chứ c̣n phải hỏi. Tại Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú không chỉ có 28 ngôi sao mà có đủ 108 tửu khách Lương Sơn Bạc lừng danh. Tại đây dân nhậu có thể chứng kiến Trần Quang Lộc say xỉn đội xô đá trên đầu xông đến bàn Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Miên Đức Thắng, Rừng, Nguyễn Trọng Khôi… quậy tá lả. Tại đây những cuộc xô xát xảy ra như cơm bữa giữa văn nghệ sĩ hai miền bằng nước bọt lẫn nắm đấm. Tôi khó mà kể hết những lần can thiệp hoặc tham dự của chính tôi vào những cuộc dâu bể đó. Thực ra tôi đến Tao Đàn dưới sự chi viện của nhiều băng nhóm khác nhau. Lúc th́ đi với băng họa sĩ Khánh Trường, lúc th́ đi với anh em Long Gỗ, lúc th́ đi với anh em Lâm Cầu Kiệu, lúc th́ đi với băng Bến Tre của Mặc Tuyền, băng điện ảnh giang hồ của Lư Huỳnh, Hồ Ngọc Xum, Lê Chánh, Robert Hải, lúc th́ đi với các triết sĩ Đông Phương Huệ, Trụ Vũ, Nguyễn Tôn Nhan, Hoàng Ngọc Tuấn, có lúc gầy ṣng với đám xích lô, sửa xe vĩa hè bụi bặm… Nói chung sự có mặt của tôi như là một niềm vui thi ca truyền khẩu không thể thiếu của anh em. Tại đây tôi quen với Sơn Quăn, một họa sĩ ẩn dật kiêm Đầu Lĩnh giới ve chai và Nguyễn Ước, nhà nghị luận phê b́nh nghiên cứu văn học kiêm Thừa Tướng ve chai có một con mắt giả bịt miếng da đen như hải tặc. Sở dĩ tôi phải kể tên Sơn Quăn và Nguyễn Ứớc v́ hai anh có bụng “lân tài” nghĩa khí. Hai anh mỗi lần trúng mánh bất cứ phi vụ “phân kim” hoặc “đồ cổ” đều hú tôi một cách trân trọng. Tôi chỉ có thể tạ ơn hai anh bằng bài thơ HÀNH VE CHAI rất phổ biến lúc đó qua một nhạc sĩ giang hồ phổ nhạc.
HÀNH VE CHAI
Anh em ta đi bán ve chai
Thằng th́ chột mắt, đứa cụt tay
Râu tóc để lâu thành vơ hiệp
Tráng sĩ mà ưa nhắm thịt cầy
Thực ra anh em ta đẹp trai
Không đẹp trai sao bán ve chai
Cái nh́n giá trị ngang vàng xịn
Con mắt nheo là hốt tiền xài
Ê, vua quan cũng đói dài dài
Bởi v́ không biết bán ve chai
Tô Tần miệng lưỡi xem c̣n kém
Gă Kissinger cũng ớn tài
Mà thiên tài hay họa thiên tai
Tiếng gào mưa nắng chợ ve chai
Buổi trưa gân cổ dường như đắng
Cốc rượu chửa vơi đă rót đầy
Nước mắt ứa ra cơ hồ cay
Nước cay thành đế nhậu lai rai
Anh em ta đọc thơ sang sảng
Bài thơ buồn như đời ve chai
Anh em ta tiếp tục ve chai
Thằng th́ cởi gió, đứa đạp mây
Chân không mà ngỡ đi xe đạp
Áo măo đầy hai túi xách tay
“Tiền cổ, tiền xưa, tiền cắc đây”
Tiền nhiều ắt nặng cả hai vai
Thương Cao Bá Quát đời luân lạc
Mượn giang hồ mà tởm cân đai
Gặp nhau không cần coi lịch ngày
Ai đội mũ rơm chân mang hài
Lại đây cùng uống quốc doanh tửu
Gặm đậu phụng rang mà nghe say
Liêm sĩ nằm trong túi xách này
C̣n tiền, du đăng cũng bô trai
Đàn bà con gái c̣n… đi ngựa
Thế th́ ta tiếp tục ve chai !
Mà đời ve chai đáng buồn thật. Lên voi trong bàn nhậu nhưng xuống chó ngay trong cuộc đời. Tôi đă từng ăn dầm ở dề ngôi nhà trọ trong Xóm Nhà Đèn của cặp vợ chồng nghệ sĩ ve chai Trịnh Nghĩa và cô Hiền. Trong thế giới ve chai, Trịnh Nghĩa chỉ là thần dân không có vai vế, nhưng anh là một nhạc sĩ tài hoa từng phổ nhạc một bài thơ rất thành công của một thần dân ve chai khác là Trần Dzạ Lữ. Anh cụt một ngón tay trỏ do tự hủy hoại để trốn lính mà búng guitar vẫn điệu nghệ. Phu nhân anh là cô Hiền một người đẹp thủy chung dám bỏ gia đ́nh dấn thân cùng anh và đặc biệt hát rất hay. Tôi biết được những bài hát thất truyền từ thời tiền chiến chính là nhờ cặp vợ chồng Nghĩa, Hiền biểu diễn. Đến giờ này tiếng hát khàn đục đặc biệt của cô Hiền vẫn c̣n ám ảnh tôi. Tôi có làm một bài thơ nói về cảnh ngộ không hộ khẩu sống rày đây mai đó của gia đ́nh họ. Xin chép ra đây cho các bạn thưởng lăm :
CĂN NHÀ NẰM MƠ
Anh sẽ lợp căn nhà
Đơn sơ vài vật liệu
Kèo cột không đi tiểu
Lên trí tuệ con người
Anh cần chiếc giường đôi
Hai đứa ḿnh cùng thở
Chia nhau nỗi xấu hổ
Mà ông bà cắn răng
Đất nước bốn ngàn năm
Rộng dài như văn hiến
Đêm anh đi thấy điếm
Lợp nhà cạnh gốc cây
Ngày thấy lũ con lai
Căng lều nơi xó chợ
Vợ chồng mướn nhà trọ
Yêu nhau như ngoại t́nh
Căn nhà vừa tượng h́nh
Đă tan theo cơn đói
Anh dẫn em lên núi
Không đủ giấy tờ về
Anh dắt em thăm quê
Định làm chàng Tô Vũ
Định làm một gă hề
Ngôi nhà không bảng số
Anh lợp hoài trong mê
Trời sinh anh yêu em
Mà không sinh hộ khẩu
Con chim có chỗ đậu
Con chó có nơi nằm
Anh và em lưu vong
Như người không quốc tịch
Đất nước giàu diện tích
Cho châu chấu cào cào
Có đâu nghèo lư lịch
Với những người yêu nhau ?
Kỷ niệm về vợ chồng Nghĩa, Hiền và những cặp vợ chồng nghệ sĩ khác như họa sĩ Rừng tức nhà văn Kinh Dương Vương đă khiến tôi bị “sốc” nặng. Tôi c̣n nhớ lúc Hiền sinh đứa con thứ hai trong nhà không có sữa ḅ để uống cũng như lúc chị Vân vợ của học sĩ Rừng sinh xong rồi không biết gửi con học Mẫu Giáo ở đâu bởi v́ một lư do đơn giản : Không hộ khẩu. Trong khi hàng ngày trên báo chí không ngừng đưa tin về những ông to bà lớn, những con ông cháu cha thế hệ kế thừa đua nhau vào vũ trường, nhà hàng, tụ điểm cờ bạc ăn chơi. Bước sang năm 2008 c̣n t́m cách tống khứ dân nghèo lẫn thiên nhiên đi chỗ khác để xây dựng những sân gôn cho đám nhà giàu giải trí, những cung điện dành cho các cuộc thi Hoa Hậu của lũ quư tộc mới. Bao h́nh ảnh nhức nhối đó đập vào mắt khiến tôi bật thành thơ như sau :
HẾT ư KIẾN
Các ngươi ăn ở sao khôn vậy
Bóc lột ngay từ lúc cởi truồng
Bốn hộp sữa mỗi lần sinh đẻ
Thảo nào con nít bệnh c̣i xương
Thảo nào con nít quen moi rác
Tập ngửi mùi hôi để trưởng thành
Lỡ sau khôn lớn làm thủ trưởng
Cũng quen mùi thum thủm công danh
Thảo nào con nít quen dắt mối
Tập bán trôn nuôi miệng kiếm lời
Lỡ sau khôn lớn làm lănh đạo
Cũng rành “ba mươi sáu kiểu chơi”
Thảo nào con nít quen nói láo
Tập giống bề trên cách uốn mồm
Lỡ sau khôn lớn làm nhà báo
Viết đói thành no dễ kiếm cơm
Tiền ? Ngươi nói “Ngân Hàng Nhà Nước”
Tù ? Ngươi cho “Ṭa Aùn Nhân Dân”
Chao ơi, tiền bạc dành ông lớn
C̣n cùm gông tặng kẻ rách quần
Suốt năm 1984 tôi đi khắp bốn vùng chiến thuật. Lưu diễn Bảo Lộc với đạo diễn sân khấu Trần Văn Hưng khi Hưng kéo đội tinh binh văn nghệ lên cao nguyên phục vụ Công Ty Chè của ông Năm Lửa. Trong phái đoàn bao giờ tôi cũng lănh nhiệm vụ đọc thơ tiên phuông. Tôi biến thành một thứ gạch nối cần thiết gom bạn bè tứ xứ. Tại Blao tôi được Trung Họa Sĩ người địa phương dẫn đường lên núi Đại Lào thăm kẻ sĩ Nguyễn Đức Sơn ở ẩn. Như đă đề cập từ phần đầu GIAI THOẠI CỦA THI SĨ, nhà thơ Nguyễn Đức Sơn theo tôi là một trong “tứ trụ thi ca” của miền Nam trước giải phóng. Ba vị kia là Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên. Thực ra ngoài bộ tứ vừa nêu, c̣n một nhân vật kiệt hiệt khác mà tôi rất hâm mộ, đó là Phạm Công Thiện, một triết gia kiêm thi sĩ từng là thần tượng của thế hệ sinh viên học sinh theo chủ thuyết hiện sinh tại Sài G̣n trước năm 1975. Triết gia Phạm Công Thiện nghe đồn từng đi tu và sau năm 1975 chu du khắp thế giới, chơi với văn hào Hy Lạp Nikos Kazanzaki tác giả ALEXIS ZORBA, CON NGƯỜI CHỊU CHƠI. Ông c̣n gặp Đạt Lai Lạt Ma và có thời gian ẩn sĩ ở Aán Độ, Tây Tạng. Chung quanh con người họ Phạm có quá nhiều giai thoại, riêng tôi chỉ biết ông qua tác phẩm NGÀY SINH CỦA RẮN. Chỉ cần qua NGÀY SINH CỦA RẮN tôi đă liệt ông như Trung Nguyên Vương Trùng Dương giữa bốn vị Bắc Cái Bùi Giáng, Nam Đế Thanh Tâm Tuyền, Đông Tà Tô Thùy Yên và Tây Độc Nguyễn Đức Sơn y chang như truyện chưởng Kim Dung VƠ LÂM NGŨ BÁ. Là một ng̣i bút phong trào tranh đấu cho một lư tưởng hoàn toàn khác, tôi quyết định “ấn chứng vơ công” với Phạm Công Thiện tiên sinh bằng bài thơ NGÀY SINH CỦA NGỰA, đơn giản v́ tôi tuổi Giáp Ngọ. Tôi đă đọc bài thơ này cho Phạm Trung Cang (em trai Phạm Công Thiện) những năm đầu giải phóng tại một điểm sách dạo dọc đường Lê Lợi, khi ông Cang bán sách chợ trời ở đó. Xin mạn phép chép bài thơ ấn chứng ấy ra đây cho bạn đọc thưởng lăm. Cũng cần nhắc lại là bài thơ NGÀY SINH CỦA NGỰA bất ngờ được đăng trên báo Văn Nghệ Trung Ương như là một trong vài bài thơ phá lệ hiếm hoi của Ban Biên Tập thời đó:
NGÀY SINH CỦA NGỰA
Ngày ta sinh ra Nguyễn Huệ đă băng hà
Nên con ngựa tử vi không người cưỡi
Ta sút chuồng phá bỏ yên cương
Lặng lẽ ruỗi đời ḿnh lên núi
Ngày ta sinh ra rừng không ai biết tới
Chỉ có cỏ cây hoa lá tầm thường
Ta đi đến đâu, chỗ ấy thành đại thụ
Đại thụ sinh rừng, rừng sinh nở mùi hương
Ngày ta sinh ra bầy rắn đă rung chuông
Định lấy nọc để phân ranh trời đất
Khí hạo nhiên ta dựng cứng bờm
Lấy nhân nghĩa để phân ranh lành, độc
Chỉ có cô đơn mới đủ làm ta khóc
Tiếng khóc của ta là tiếng hí của người
Ta không biết ta là người hay ngựa
Chỉ một ḿnh Nguyễn Huệ hiểu ta thôi !
Lên Đại Lào ngoài việc thù tạc thi ca với nhau, Nguyễn Đức Sơn c̣n giới thiệu tôi rừng thông ngút ngàn phủ kín khu đồi trọc liên hoàn mà ông trồng thí nghiệm. Công việc trồng thông của ông nặng nhọc và bị trả giá đắt đến nỗi phải mang thương tích đầy người bởi băng nhóm Hà Sơn B́nh tranh giành đất đai ám hại. Bi kịch trên sau này được tôi đưa vô tiểu thuyết YỂU ĐIỆU THỤC NỮ và đổi bút hiệu ngày xưa của ông là “Sao Trên Rừng” thành nhân vật “Thông Trên Núi”. Thời gian ngắn ngủi ở Bảo Lộc giúp tôi sáng tác bài thơ BLAO đăng trên báo Văn Nghệ Thành Phố và đoạt giải Thơ Hay ngay năm đó :
BLAO
Em có giống Blao không em ?
Đón anh đừng đóng cửa cài then
Bằng không anh biến thành bông giấy
Mọc tỉnh bơ ngay phía trước thềm
Em có giống Blao không em ?
Ngắt anh đừng nỡ ngắt trong đêm
Bằng không anh biến thành trái bắp
Cắn vào răng em để bắt đền
Em có giống Blao không em ?
Vất anh đừng vất ở ngoài hiên
Bằng không anh biến thành con muỗi
Chờ dịp giường em bị hở mền
Em có giống Blao không em ?
Đập anh đừng đập bẩn tay tiên
Bằng không anh sẽ nằm huưt sáo
Suốt mùa thu như chú dế mèn
Là phải giống Blao nghe em
Chiều, mưa một chút để anh thèm
Tối, sương một chút cho anh nhớ
Một chút ǵ như thể áo len
Là phải giống Blao nghe em
Làm duyên một chút để anh hiền
Dịu dàng một chút cho anh sợ
Một chút ǵ anh sẽ buốt tim…
Trên thực tế bài thơ BLAO không phải là bài thơ t́nh thích nhất của tôi. Một bài thơ khác phổ biến hơn là bài thơ mang tên THIẾU NỮ. Bài thơ THIẾU NỮ gây tiếng vang mạnh đến nỗi tôi đi đến bất cứ đêm thơ của trường đại học, trường trung học, đơn vị quân đội, nông trường thanh niên xung phong, công trường lao động tập thể nào cũng đều được công chúng trẻ tuổi yêu cầu phải đọc bài thơ đó. Trong một cuộc thăm ḍ đột ngột của các thầy cô dạy văn một trường điểm cấp ba ở Tân B́nh, hầu như trong sổ tay hoặc nhật kư của học sinh đều có chép bài thơ THIẾU NỮ. Bài thơ được lan tỏa trong nước lẫn hải ngoại nhờ sự cộng hưởng của các nhạc sĩ phổ nhạc. Trong nước tôi chỉ được biết nhạc sĩ Nguyễn Hiệp và một nhạc sĩ không quen biết ở Pleiku phổ rất có duyên. C̣n ở nước ngoài, qua những băng đĩa bán lụi mang tên “HỀ XUÂN” phát hành lậu trong nước vào dịp Tết, bài nhạc phổ thơ được hát một cách nghịch ngợm bởi một nam ca sĩ trẻ mà tôi không biết tên biết mặt. Cả tên nhạc sĩ cũng không ghi.
THIẾU NỮ
Cô gái ơi, anh nhớ em
Như con nít nhớ cà- rem vậy mà
Như con dế trống đi xa
Một hôm nhớ đến quê nhà gáy chơi
Con dế th́ gáy một hơi
Riêng anh gáy hết một thời con trai
Tiếng gáy ḅ lên lỗ tai
Làm em nhột suốt một ngày một đêm
Cô gái ơi, anh nhớ em
Như má lúm nhớ đồng tiền đúng chưa ?
Như cà chớn nhớ cà chua
Như da em nhớ da- ua ngọt ngào
Cái nhớ nhảy qua hàng rào
Không thèm đăng kí cứ nhào vô anh
Xô ra th́ thấy không đành
Nên anh ôm lấy rồi canh giữ hoài
Con kiến c̣n nhớ củ khoai
Huống chi tóc ngắn tóc dài nhớ nhau
Nhớ nhau không biết để đâu
Nếu để trên đầu sợ tóc che đi
Để trong túi áo cũng kỳ
Lỡ đi đường rớt lấy ǵ chứng minh
Chi bằng giả bộ làm thinh
Hét lên “nhớ quá” một ḿnh nghe chơi !
Rời cao nguyên xuống đồng bằng bất ngờ tôi được linh mục Hiền, một linh mục trẻ có cái nh́n cấp tiến mời đọc thơ và nói chuyện về thơ t́nh trong Mùa Chay tại nhà thờ Tân Định. Trước khi biết linh mục Hiền, ngay từ tháng 5 – 1975 tôi đă viết bài trên báo Công Giáo Và Dân Tộc và thân thiết với nhiều anh em trong ṭa soạn, trong đó có hai linh mục tranh đấu nổi tiếng là Trương Bá Cần và Huỳnh Công Minh. Linh mục Trương Bá Cần tác giả loạt bài “Hai mươi năm xây dựng xă hội chủ nghĩa ở miền Bắc” đăng trên tạp chí Đối Diện trước giải phóng được tôi thân mật gọi là “bố “, c̣n linh mục Huỳnh Công Minh có khuôn mặt hơi giống Che Guevara lúc để râu được tôi gọi là “anh Ba Râu”. Mỗi lần ghé ṭa soạn, tôi thường được Bố Cần và anh Ba Râu ủy lạo tinh thần lẫn vật chất bằng phong b́ dằn túi cho những ngày lang bạt sắp tới. Thực ra tôi c̣n vài lần tiếp xúc với một linh mục nổi tiếng khác là linh mục Nguyễn Ngọc Lan tác giả loạt bài “Cho cây rừng c̣n xanh lá” trên các nhật báo đối lập thời chính quyền cũ. Tuy nhiên t́nh thân không thể bằng hai linh mục Huỳnh Công Minh và Trương Bá Cần..
Trở lại chuyện linh mục Hiền mời đọc thơ tại nhà thờ Tân Định trước hàng trăm thanh niên nam nữ vốn quen thuộc với kinh nhật tụng và thánh ca. Lần đầu tiên tôi đă làm một chuyện động trời là kể chuyện cuộc đời giang hồ lăng tử “xa Chúa gần ma quỷ” của tôi và minh họa bằng những bài thơ t́nh. Cuộc nói chuyện thành công đến mức mọi người quên hết giờ giấc. Tôi c̣n nhớ bài thơ ĐIỀU RĂN THỨ 11 đọc kết thúc trong đêm đó :
ĐIỀU RĂN THỨ 11
Em đă thờ phượng bầu trời
Bằng điều răn thứ nhất
Tôi cũng đă yêu thương mặt đất
Bằng chín điều răn sau cùng
Chúng ta cũng đă đợi nhau gần 30 năm
Để bày tỏ t́nh yêu khác giống
Trong khi nhân loại đă đợi nhau 1984 năm
Tiến về hang đá Bêlem để làm người gác cổng
Chúa không muốn tôi thành con lừa
Người cho tôi chân tay, mặt mũi
Chúa rất muốn em là con gái
Để sau này có nhẫn cưới đeo tay
Tôi đă yêu em một cách rất con trai
Như Adam yêu Eva lịch sự
Có thể toàn bộ xương sườn tôi cứng chứ
Nhưng phần xương cụt mất đi lại mềm mại hiền lành
Phần xương ấy mang nỗi buồn Đức Mẹ
Tan lễ nhà thờ, môi biết gọi : anh, anh…
Chúa không trực tiếp dạy chúng ta đọc kinh
Nhưng tôi và em đă thành lời cầu nguyện
Chúng ta yêu nhau nhỏ như hai con kiến
Lớn như hai con voi và vừa phải cỡ… con người
Em đă dám thờ phượng bầu trời
Bằng điều răn thứ nhất
Th́ làm sao tôi chẳng biết yêu thương mặt đất
Bằng chín điều răn sau cùng
Và tất nhiên chúng ta yêu nhau
Chúng ta yêu nhau ở một góc địa cầu
Thành phố ta ở chỉ lớn bằng dấu chấm
Bên trong dấu chấm, năm triệu người đang sống
Mới hai người yêu nhau, c̣n lại mấy triệu người
Oâi tôi hứa măi yêu thương mặt đất
Cho ḷng em hằng nhớ tới bầu trời
Đầu thập niên 2000 một linh mục khác là linh mục Siêu ( một huynh trưởng ngày xưa của tôi thời đi Thiếu Nhi Thánh Thể) cũng mời tôi đến nhà thờ Martino trên đường Nguyễn Thị Minh Khai quận 1 để nói chuyện và đọc thơ với công chúng trẻ họ đạo trong Mùa Chay. Tôi c̣n được “huynh trưởng” Siêu mời với nhiệm vụ tương tự tại nhà nguyện thuộc nhà thờ Ḍng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng, quận 3. Tại hai nơi đó tôi đă làm đúng chức năng tông đồ lẫn thi sĩ dù bị đẩy vào hoàn cảnh bất khả kháng Cũng cần mở ngoặc đơn chỗ này, trên thực tế kể từ ngày lang bạt giang hồ, tôi giao du và chơi thân với các thượng tọa, đại đức bên Phật Giáo nhiều hơn bên Công Giáo. Tôi không hiểu tại sao nữa, chỉ biết rằng những bài thơ tôi đọc ra được một số vị chức sắc tôn giáo coi như một loại “công án” chứa dụ ngôn đạo lư răn đời. Trong phạm vi bài viết này tôi không thể kể hết những mối duyên kỳ ngộ của tôi với các bậc cao tăng ẩn sĩ khi cùng họ đàm đạo triết thuyết và thi ca thâu đêm. Chỉ đơn cử mối giao t́nh với thượng tọa Thích Tâm Khai, sư trụ tŕ chùa Diệu Pháp, ngôi chùa nằm cạnh con sông Đồng Nai được tôi đưa vô tiểu thuyết YỂU ĐIỆU THỤC NỮ với tên gọi là chùa Diệu Đế. Trong truyện, tôi đă cho họa sĩ kiêm người hùng ve chai Robert Bá học vơ công nhà chùa. C̣n ngoài đời thật, tôi và các anh Nguyễn Xuân Thượng, Trịnh Thanh Tùng, Tôn Thất Mạnh Tường, Nguyễn Hải, Sáu Đầu Rồng, Tư Đồng… rất nhiều lần gơ cửa chùa Diệu Pháp để được thượng tọa Thích Tâm Khai chiêu đăi. Thầy Thích Tâm Khai chính là người bảo trợ phong trào tranh đấu sinh viên học sinh đô thị trước giải phóng, tương tự như ni sư Huỳnh Liên. Các bạn thử tưởng tượng trăng th́ sáng, mặt nước th́ lung linh, t́nh nghĩa th́ đầy tràn như men rượu. Sư trụ tŕ Tâm Khai ôm guitar hát ca khúc Da Vàng của Trịnh Công Sơn phục vụ anh em, c̣n tôi thay mặt huynh đệ giang hồ đọc thơ đáp lễ. Những bài thơ tứ tuyệt xuất khẩu thành thi ấy được tôi chép ngay trên vách tường nhà chùa bằng muội than kỷ niệm. Hiện giờ thượng tọa Thích Tâm Khai đă viên tịch, các anh Tôn Thất Mạnh Tường, Sáu Đầu Rồng, Tư Đồng cũng đă mất, không biết những bài thơ bút tích c̣n được các vị trụ tŕ đời sau lưu lại hay không ?
TỨ TUYỆT DIỆU PHÁP TỰ
Chúng sinh vô lượng kiếp
Trần gian một chén đầy
Đến thiền môn đổ hết
Mở ḷng làm… Tâm Khai !
Năm 1985, chị Đỗ Thị Nghĩa tức Chín Ngân (vợ anh Năm Nghị) đang làm sếp Liên Hiệp Hợp Tác Xă Tiêu Thụ Mua Bán TP (tiền thân của hệ thống Coop Mart bây giờ) giới thiệu tôi xuống Cửa Hàng Tổng Hợp Thương Nghiệp Hợp Tác Xă TP tại 32 – 34 Tháp Mười, quận 6 làm việc v́ không chịu nổi cảnh bấp bênh ch́m nổi của tôi. Cửa hàng trên là một đơn vị kinh tế đang ăn nên làm ra trực thuộc dưới quyền chị. Tại đây tôi bắt đầu nghề nghiệp tréo cẳng ngỗng. Hết làm giám sát thi công coi xây dựng đến làm áp tải hàng hóa đường dài, thậm chí có lúc trực tiếp làm bốc xếp khuân vác nặng. Những công việc thuần túy máy móc đều đặn cho dù sinh ra tiền bạc nhưng hoàn toàn dị ứng với trái tim ngựa chứng bất kham của tôi. Nhiều người chỉ cần làm giám sát thi công chừng vài công tŕnh là kiếm tiền bỏ ống như chơi nhưng tôi dù có được thả vô hủ gạo cũng không thể làm một con chuột gặm nhấm tài lộc được. Tôi không có năng khiếu tước đoạt của cải người khác. Lúc đó tôi có làm bài thơ ĐẰNG SAU NHỮNG QUẦY ĐỔI TIỀN nhân đợt đổi tiền toàn quốc thời điểm đó :
ĐẰNG SAU NHỮNG QUẦY ĐỔI TIỀN
Giữa thời kỳ mà tiền bạc chưa yên
Giấy thiếu trữ kim bỗng biến thành giấy lộn
Giữa thời kỳ mà thiên hạ đổi tiền
Như đổi một hầu bao thiếu vốn
Em đă đến cực kỳ khiêm tốn
Mắt mở to cho túi của anh đầy
Em đă đến không người đưa kẻ đón
Nhoẻn miệng cười ngang giá trị “trăm cây”
Vàng trong anh có từ lúc sơ khai
Đợi em đến là trồi lên thành quặng
Ngọc trong anh có từ lúc chào đời
Đợi em đến là gia công thành nhẫn
Hăy x̣e hết cả bàn tay năm ngón
Chỉ cho anh ngón áp út vợ chồng
Để vàng ngọc của anh c̣n ư nghĩa
Hơn những tờ bạc mới số 500
Em đến làm anh trong suốt kim cương
Mọi bá hộ trần gian đều khánh kiệt
T́nh yêu anh mở ngay tiệm kim hoàn
Chứa một triệu cara dành em hết
Giữa thời kỳ không lằn ranh thiện ác
Đang đói meo anh chợt biết ḿnh giàu
Em rách vẫn thơm, anh nghèo vẫn sạch
Thiên hạ đổi tiền, ta đổi đời nhau
Tôi chia tay nghề “phi thương bất phú” v́ một lư do lăng nhách. Một hôm trong giờ hành chánh tôi bị giám đốc Cửa Hàng là Bảy Định triệu tập lên văn pḥng để gặp đồng chí Sáu Khôi, Trưởng Pḥng Bảo Vệ An Ninh Văn Hóa (tức PA 25) của Sở Công An TP. Anh Sáu Khôi th́ tôi chẳng xa lạ ǵ, cũng từ gốc Thành Đoàn như tôi, thuộc thế hệ đàn anh và chuyển qua ngành công an từ rất sớm. Anh làm việc với tôi bằng khuôn mặt khá trầm trọng. Đại khái anh cho tôi biết thơ tôi được đăng trên báo chí hải ngoại hơi bị nhiều và “công an văn hóa” phát hiện tôi vừa lănh một thùng quà thuốc Tây của nước ngoài nhằm mục đích “trả công” cho những bài thơ đă đăng. Coi, quả thật vừa qua tôi có nhận một gói bưu phẩm từ trên trời rớt xuống ghi tên người gửi là “Bùi Thị Chín gửi từ Cali, USA”, dĩ nhiên là tôi kư nhận ngay. Sau khi tham khảo với mẹ hiền vốn dĩ là bà mẹ “gia đ́nh có công cách mạng”, mẹ tôi đồng ư cho tôi ra chợ trời thuốc Tây Tân Định bán với giá một chỉ vàng, v́ bà nghĩ rất đơn giản rằng “đă là họ Bùi gửi th́ chắc là bà con với gia đ́nh tôi”. Chuyện chỉ có vậy. C̣n thơ ư ? Tôi là một thằng thi sĩ gần như trung tâm và chủ lực đọc thơ trong bàn nhậu trước đủ dạng quần hùng, trong đó có cán bộ lănh đạo lẫn nhân dân đủ kiểu. Gặp người tri âm hoặc kẻ tâm đầu ư hợp về thơ, tôi sẵn sàng chép tay bài thơ vừa đọc mà họ ưa thích. Qua truyền khẩu, họ có thể thuộc ḷng bằng trí nhớ hoặc bằng bản chép tay, và nếu họ vượt biên hay đi xuất cảnh hợp lệ th́ chuyện sử dụng những bài thơ của tôi đăng báo chí hải ngoại thiết nghĩ cũng là chuyện phổ biến b́nh thường. Có khi sự phổ biến ấy góp phần vinh danh và không làm thui chột các tài năng xuất chúng trong nước. Vậy hà cớ ǵ tôi phải lo lắng khi biến thành một dạng “tội phạm” trong con mắt đầy đa nghi của một vị đàn anh từng quá hiểu con người trung thực của tôi lúc ở Thành Đoàn ?
Tôi có nói với anh Sáu Khôi rằng “Nếu Việt Kiều Bùi Thị Chín gửi tiếp một thùng đồ nữa th́ tôi vẫn nhận bởi nhà nước chưa hề tặng quà hay trả lương hoặc bồi dưỡng cho một gia đ́nh công nhân nghèo khổ có tới 5 người làm cách mạng như gia đ́nh tôi”. Tôi đă phải làm bản tường tŕnh về những lần đọc thơ giang hồ, những bài thơ chống bất công xă hội đă làm, những mối quan hệ với các thi sĩ văn nhân trí thức. Bởi Sáu Khôi nói như đinh đóng cột : “Bùi Thị Chín không phải họ Bùi mà là Cao Thị Ngọc Phượng, vợ hay người t́nh ǵ đó của Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh. Nhiệm vụ Cao Thị Ngọc Phượng là chuyển lửa về quê nhà, đón thuyền nhân vượt biên. Việc chọn gửi gói thuốc Tây cho Bùi Chí Vinh và vài văn nghệ sĩ nổi tiếng khác là nhằm ly gián hoang mang nội bộ”. Bút sa th́ gà chết, nói năng th́ phải uốn lưỡi bảy lần. Tôi được biết Cao Thị Ngọc Phượng là em ruột của chị Cao Thị Quế Hương (vợ liệt sĩ Nguyễn Ngọc Phương một sinh viên tranh đấu nổi tiếng của Thành Đoàn). Chị Cao Thị Quế Hương thời điểm đó đang đương nhiệm Tỉnh ủy viên, chủ tịch Hội Phụ Nữ tỉnh Lâm Đồng không hiểu sao anh Sáu Khôi lại không “gơ cửa” đồng chí của ḿnh mà hỏi?
Khi viết những ḍng chữ này, trong thâm tâm tôi không hề hờn trách ǵ cử chỉ thái độ Sáu Khôi lúc đó. Anh làm Trưởng Pḥng PA25, làm một mắt xích trong một guồng máy an ninh hoàn hảo, anh đương nhiên phải bảo vệ chiếc ghế của ḿnh. Nhưng tôi chỉ giận anh lúc anh giao phó công việc viết bản tường tŕnh của tôi vào mỗi buổi sáng cho những người khác tại Sở Công An suốt một thời gian dài. Tôi nhớ rằng ḿnh bị “hỏi cung” tại căn pḥng trên lầu cao có cửa sổ nh́n xuống mặt đất sâu hun hút. Có lần tôi nổi cơn thịnh nộ đấm tay vào ngực th́nh thịch sau tiếng chửi thề : “Hồi trước giải phóng M16 bắn tôi không chết chẳng lẽ bây giờ bị AK bắn chết”. Tôi c̣n hét lớn : “Ép tôi khai những ǵ không có, coi chừng tôi nhảy qua cửa sổ tự tử là quư vị phải chịu trách nhiệm ”.
Thái độ liều lĩnh của tôi ít ra cũng có tác dụng. Những đợt thẩm vấn và triệu tập chấm dứt. Chấm dứt luôn công việc của tôi ở Cửa Hàng Thương Nghiệp HTXTP . Mà chấm dứt cũng phải, sau thời gian làm bốc xếp lao động quá nặng nhọc ở các kho của Cửa Hàng, tôi bị bệnh ho lao, mỗi ngày đều phải đến trạm y tế chích thuốc. Trong hoàn cảnh bệnh hiểm nghèo như vậy mà c̣n bị PA25 tra tấn tinh thần th́ sức chịu đựng của tôi quả là một phép lạ. Tôi được tay giám đốc cho nghỉ lănh lương dài hạn và tiếp tục chuỗi ngày lăng tử phiêu bồng. Sau này mấy lần tôi có gặp lại anh Sáu Khôi. Lần đầu tiên tái ngộ tại nhà Nguyễn Xuân Hàm, anh ruột Nguyễn Xuân Phổ tức nhà thơ phong trào Hàm Phố, bạn tôi. Lần đó nhân kỷ niệm sinh nhật Sáu Khôi, tôi có cao hứng đọc ghẹo anh hai câu :
SÁU KHÔI có một KHỐI SÂU
Ḅ ra lúc nhúc làm rầu nồi canh
Tục ngữ nói “con sâu làm rầu nồi canh” chẳng sai. Tôi không ám chỉ Sáu Khôi làm rầu nồi canh mà muốn cảnh báo các nhân viên của sếp. Rằng ở đất nước Việt Nam đầy đau khổ này không có “địch”. Những kẻ căm thù thề không đội trời chung với chế độ cộng sản đă “gô” hết rồi. Trong nước chỉ toàn văn nghệ sĩ “sĩ khí rụt rè gà phải cáo” nơm nớp uốn cong ng̣i bút v́ sợ vi phạm chủ trương đường lối. Báo chí truyền thanh truyền h́nh th́ nói cùng một giọng như được mặc đồng phục. T́m được người làm thơ viết văn viết báo dám ăn dám nói đếm trên đầu ngón tay. Đă không biết trân trọng giữ ǵn những kẻ sĩ “đối lập cuội” đó để làm “b́nh phong nhân quyền” mà lại c̣n sinh nghi theo dơi theo kiểu mật thám Gia-ve trong NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ của Victor Hugo th́ thật là tự vạch áo cho quốc tế xem lưng ghẻ chóc. Nếu có “địch” th́ đó chính là bọn tham nhũng hối mại quyền thế, bọn cơ hội chính trị tranh thủ mua quan bán tước, đội trên đạp dưới, luồn sâu leo cao... để hiếp đáp hăm hại nhân dân. Chính những kẻ làm ô danh Đảng đó mới là đối tượng, là địch để A25 và PA 25 theo dơi.
Hai câu vè tạm gọi là thơ làm ghẹo anh Sáu không hiểu sao được đồn đại rất nhanh trong giới giang hồ văn nghệ và được biến cải như sau : “Sáu Khôi là một Khối Sâu - Ḅ ra lúc nhúc làm rầu nhân dân”. Những lần tái ngộ kế tiếp th́ Sáu Khôi đă về hưu sau khi giữ chức Trưởng Công An quận 1. Thỉnh thoảng gặp nhau anh nh́n tôi với đôi mắt ngậm ngùi. Tôi không hiểu là anh thương tôi hay anh thương anh hay anh đang thương hai kẻ từng là cựu chiến binh Thành Đoàn lạc lỏng giữa cuộc đời duy vật do chính ḿnh gây ra đây ?
Hương Lan, người yêu tôi thường nói rằng “Anh là con cưng của Thượng Đế”. Thực vậy, mỗi lần bị đẩy đến chân tường là tự nhiên tôi “cùng tắc biến, biến tắc thông”. Trong thời gian rănh rỗi, tôi tha hồ ngao du sơn thủy. Tôi chở em xuống B́nh Dương chơi cùng với ông anh thi sĩ giang hồ bạt tụy Thùy Dương Tử và em ruột ông là ca sĩ bụi đời Nguyễn Hải. Có những lúc cặp Trần Mạnh Hảo và Tôn Nữ Giáng Tiên tháp tùng. Cũng cần mở ngoặc đơn chỗ này để nói về Nguyễn Hải. Hải dân gốc Quảng Nam nguyên là Ban Công Nhân Thành Đoàn xuống xí nghiệp dệt làm công tác văn nghệ phong trào, từng đoạt huy chương vàng đơn ca hội diễn toàn quốc những năm đầu 1975. Giai thoại về Nguyễn Hải cũng khá ly kỳ, người nhà kể rằng anh không học trường nhạc mà luyện giọng bằng cách rúc đầu vào lu nước gầm rống. Mỗi lần anh hát là kinh động hàng xóm trong ṿng bán kính 50 mét, mỗi lần anh ngâm thơ là mọi người im bặt có thể nghe được tiếng lá rơi. Nguyễn Hải yêu kính mẹ như yêu kính Quan Thế Aâm, anh hát bài “Có người mẹ đi t́m con – Trên đỉnh đồi hoang vắng…” của Phạm Duy xúc động đến nỗi tôi phải làm bài thơ tặng anh.
MẸ MIỀN TRUNG
“Có người mẹ đi t́m con
Trên đỉnh đồi hoang vắng”
Thằng bạn hát mà ngó về Đà Nẵng
Mây trắng bay lầu Hoàng Hạc đến bao giờ
Có phải mẹ ở miền Trung sợi tóc như tơ
Không cột được gót thằng con trai lêu lổng
Nên bạn cứ ôm guitar đi t́m giấc mộng
Thức trăm năm mà khóc với cây đàn
Tại B́nh Dương tôi có dịp tiếp xúc với Lê Vĩnh Thọ, một thầy giáo thất nghiệp kiêm nhà thơ bất đắc chí ngồi dựa lưng vào tường suốt 10 năm sau giải phóng như Đạt Ma Sư Tổ khiến vôi tường nứt nẻ thành h́nh cái bóng của một con người. Cái bóng ấy vừa phụ vợ con xay xe bán nước mía vừa đạp xe thồ hằng đêm chở bao tạ than lên Sài G̣n bỏ mối kiếm sống như danh tướng Trần Khánh Dư của nhà Trần thời xưa. Các bạn thử tưởng tượng đường B́nh Dương – Sài G̣n xa hun hút, đầy bảo kê thổ phỉ măi lộ dọc đường, thế mà Lê Vĩnh Thọ vẫn nghiến răng mỗi đêm leo dốc mà đạp. Sự đau khổ ấy của ông được trả giá bằng vô số bài thơ nhân t́nh thế thái cực hay. Tôi và ông rất nhiều lần thù tạc với nhau về thi ca ứng khẩu trong lời ca tiếng nhạc minh họa của Nguyễn Hải. Tôi có làm tặng ông một bài thơ kỷ niệm :
GÁC KIẾM Ở B̀NH DƯƠNG
Đúng là về đây nương thân
Rồng không gặp lúc phong vân, vẫn Rồng
Về đây vào rẫy ra đồng
Thấy mây thấy gió chạy cong đuôi nh́n
Thấy ta giống hệt b́nh minh
Mặt trời mọc tự trong ḿnh mọc ra
Mặt trời đỏ hết thịt da
B́nh Dương chưa chắc đă là Quốc Oai
B́nh Dương, Bồ Bản ơ hay
Tiếng con chó sủa đủ lay ngai vàng
May mà treo ấn từ quan
Dạy dăm đứa trẻ xiên quàng tích xưa
Tích xưa sáng nắng chiều mưa
Trang Chu thức giấc đổ thừa nồi kê
Bướm vàng chi khéo rủ rê
Mộng đi mà tỉnh quên về, thật sao ?
Giận là giận Chúa cường hào
Thương là thương nỗi lao đao Chu Thần
B́nh Dương, Bồ Bản hay chăng
Cờ Thang, Vũ dựng chẳng cần Thuấn, Nghiêu
Đúng là về muộn mới yêu
Về trung niên cũng đánh liều trái tim
Văn như Thánh Quát cũng ch́m
Thà làm viên sỏi nằm im đáy hồ
Thà là một chữ trong thơ
Đợi trang giấy đẹp bất ngờ ta reo
Chữ T́nh ai dám bảo nghèo
Không tin cứ hỏi Tháy Kiều lầu xanh…
Trời cao cuối cùng cũng có mắt. Sau này về Sài G̣n tôi nghe anh em văn nghệ B́nh Dương nói rằng thầy giáo Lê Vĩnh Thọ trúng vé số cặp độc đắc đủ để… đốt nhà lá xây nhà lầu. Không biết ông c̣n giữ cái bóng h́nh nhân trên tường của ḿnh trong suốt 10 năm ngồi dựa chờ thời hay không ?
Riêng Thùy Dương Tử th́ “cơi trên” hơn. Tôi từng nghe các anh Tư Đồng, Sáu Đầu Rồng, Tôn Thất Mạnh Tường kể về giai thoại lúc Thùy Dương Tử lănh giải nhất Thơ Tao Đàn Bạch Nga của tiên sinh Nguyễn Vỹ. Khi ôm cọc tiền thưởng từ cầu thang bước xuống trước ống kính máy quay của báo chí, Thùy Dương Tử không đi hết các bậc cầu thang mà bung cọc tiền “thùm lùm” tung tóe xuống phía dưới. Một trong những người thu hoạch tài chánh ĺ x́ bất ngờ của ông chính là nhà thơ châm biếm Cung Văn. Kể sơ sơ như thế để thấy sự ngông cuồng hào khí ngất trời của một thi sĩ tự do trọng nghĩa khinh tài thuở đó. Tôi c̣n nghe đồn rằng Thùy Dương Tử rất giỏi Kinh Dịch và bấm Nhâm Độn. Có lần tôi chở Hương Lan trên xe đạp ghé căn nhà đ́u hiu của ông trong tận cùng ngơ ngách khu Phú Nhuận. Trong cơn mơ màng, ông bật dậy chạy ra hét lớn “Thằng em thiên tài chở vợ tới”. Tôi hết hồn nh́n ông th́ ông trợn mắt khẳng định : “Chắc chắn chú mày sẽ lấy mỹ nhân này. Anh nh́n thấu kiếp trước lẫn kiếp sau của chú”. Mọi chuyện tưởng như giỡn chơi ai ngờ “linh ứng” vào năm sau. Đáng tiếc bây giờ Thùy Dương Tử đă quy tiên, nếu không tôi sẽ c̣n thẩm vấn ông về vận mệnh đất nước để nhờ ông đoán điềm giải mộng…
Tháng 8 – 1988 tôi và Hương Lan làm đám cưới tại khuôn viên Hội Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam. Chúng tôi chỉ có ái t́nh và hai bàn tay trắng. Anh Huỳnh Tấn Mẫm, Chủ tịch Hội lúc ấy và chị Giám hầu như lo cho tôi miễn phí hết mọi sự, từ mặt bằng đến lều bạt, âm thanh. Huỳnh Tấn Mẫm nguyên là Chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài G̣n thời tôi tham gia phong trào học sinh tranh đấu. Anh yêu mến thơ tôi, tôn trọng cá tính của tôi và sẵn sàng tâm sự với tôi những chuyện không thể kể cho nhiều người. Đám cưới được h́nh thành từ công sức của bạn bè. Thiệp do Nhă B́nh, Đỗ Trung Quân in tặng. Gửi thiệp tới quan khách do nhóm Trần Hữu Dũng đảm nhiệm. Bài “Oui Devant Dieu” nổi lên, bao nhiêu ân oán giang hồ rũ sạch, mọi nghi kỵ thù hận nhỏ nhen tan biến. Quan khách đến dự tiệc cưới có mặt từ lănh đạo trung ương, thành phố cho đến văn nghệ sĩ bụi đời. Bàn “các sếp” có ông Trần Bạch Đằng, Phạm Chánh Trực, Nguyễn Chơn Trung, Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, Lê Công Giàu, Bảy Câu, Bến Nghé, bà Chín Ngân, vợ chồng Vơ Như Lanh… Bàn nhạc sĩ có Miên Đức Thắng, Diệp Minh Tuyền, Phan Bá Chức, Nguyễn Duy… Bàn họa sĩ có vợ chồng diễn viên Lê Chánh, Hồ Hữu Thủ, Rừng, Hải Nguyễn, vợ chồng Hồ Thành Đức, Bé Kư…Bàn dịch giả có Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Phan Thịnh, Nguyễn Ngọc Trân… Bàn văn thi sĩ có vợ chồng ông Cung Tích Biền, Hà Nguyên Thạch, vợ chồng Lê Thị Kim, Trần Hữu Dũng, vợ chồng Đoàn Thạch Biền, vợ chồng Nguyễn Lương Vỵ… và rất nhiều anh em chiến hữu văn nghệ khác mà tôi không thể nhớ hết tên. Trong tiệc cưới, quan khách có cấp bậc cao nhất tham dự là ông Trần Bạch Đằng tức chú Tư Ánh đương nhiên đóng vai cương vị chủ hôn. Về việc này tôi có nói sơ trong GIAI THOAI CỦA THI SĨ các phần trước. Lúc lên phát biểu chú Trần Bạch Đằng có khuyến cáo vợ tôi rằng “Lấy thằng Vinh là con phải trang bị một khẩu súng để bóp c̣ lúc cần thiết”.
Câu nói của ông làm vợ tôi hoảng hồn. Tôi phải xoa dịu em bằng bài thơ dịu dàng khạc ra tại chỗ :
ĐÊM OUI DEVANT DIEU
Ḱa Oui Devant Dieu
Mau quỳ xuống trước bàn thờ đi em
Đừng cắn tay, đừng ngó lên
Trước khi chớp mắt đừng quên liếc chàng
Lát chàng nâng ngón tay ngoan
Nhớ hôn mặt nhẫn nói thầm : anh ơi
Lát môi chàng chạm vào môi
Nhớ suỵt khe khẽ : suốt đời nghe anh !
Lời khuyên hữu ích của chú Tư Áùnh đă khiến đời tôi rẽ qua một bước ngoặc khác. Ông Trần Bạch Đằng như nhiều người biết từng là Đệ Nhất Công Thần của cách mạng miền Nam trong hai thời kỳ kháng chiến, ông tuy mang tiếng về hưu nhưng cương vị chính trị trong hậu trường c̣n lớn hơn thời c̣n tại vị. Vai tṛ ông quan trọng đến mức tôi thường gọi đùa ông là “quân sư Nguyễn Trăi” thiếu minh chúa Lê Lợi để pḥ tá. Đến chơi nhà ông nhiều lần, tôi được biết và chứng kiến không ít các vị lănh đạo tối cao của nhà nước vừa nhậm chức đến gơ cửa ông nhờ tư vấn. Nhưng cho dù ông có làm đến “ông trời” đi nữa th́ tôi vẫn yêu mến và kính trọng ông như bậc cha chú, như một người làm thơ đàn anh có tâm huyết thật sự với đất nước. Ông có hai câu thơ hào khí ngất trời khiến tôi rất thích :
Dưới hầm đọc Lục Vân Tiên
Bỗng nghe vó ngựa b́nh Phiên thuở nào
Trong thời kỳ cánh cửa “bế quan tỏa cảng” vừa hé mở, không ai khác mà chính Trần Bạch Đằng mở toang cánh cửa văn hóa ra thế giới bên ngoài qua bộ phim nhựa chiếu trên đài truyền h́nh nhiều tập đầu tiên VƠ TẮC THIÊN do ông mang về. Bộ phim đă gây sóng gió với nhiều dư luận khác nhau từ giới chính trị bảo thủ. Nếu kẻ phổ biến bộ phim trên là một nhân vật khác không phải Trần Bạch Đằng th́ ắt đă nằm trong tầm ngắm của công an văn hóa. Kỷ niệm của gia đ́nh tôi và ông càng sâu đậm thêm vào mỗi dịp Tết. Cứ cuối năm lần nào đến thăm ông, tôi cũng được ông dành sẵn cặp rượu XO hiệu Martell hoặc Hennessy thượng hạng kèm theo một phong bao ĺ x́ cho thằng nhóc con Bùi Vương của tôi tương đương một tháng lương. Đặc biệt đến thăm Trần Bạch Đằng mà không có Hương Lan vợ tôi là ông sa sầm nét mặt. Có lần vợ tôi bận bịu công việc, chỉ có hai cha con tôi xông đất th́ ông nhăn nhó :”Sao mày không dẫn con Lan đến, nó là con gái nuôi của tao. Tao gửi nó cho mày để nó làm mày thuần tính. Nhớ đó”… Một lần khác gần đây trước khi ông mất, ông c̣n viết một bài nhận định tổng kết khá dài trên báo Tuổi Trẻ để nói về những người làm nên diện mạo văn hóa chữ nghĩa cho thành phố, cho miền Nam đang bị nền báo chí thực dụng cố t́nh lăng quên. Trong bài báo ông có nhắc tên Sơn Nam… như nhà văn hóa lớn, và nhắc tên tôi như một thi sĩ dân gian đặc sản của Nam Bộ. Con người ông đại khái là vậy, ai nói ǵ ai xầm x́ ǵ mặc kệ, ông đă vượt ra ngoài tầm mọi “thủ đoạn chính trị” của các phe nhóm để cuối cuộc đời sống như một con người. Những chuyến đi nước ngoài ông kể lại cho tôi làm tôi nhớ đến bài thơ ĐI SỨ SINGAPORE của thi hào Cao Bá Quát khi bị lưu đày theo sứ bộ Phạm Phú Thứ ngày xưa. Xin mạn phép chép lại để các bạn nghiền ngẫm :
THƠ CAO BÁ QUÁT
Tân Gia từ vượt con tàu
Mới hay vũ trụ một bầu bao la
Giật ḿnh khi ở xó nhà
Văn chương chữ nghĩa khéo là tṛ chơi
Không đi khắp bốn phương trời
Vùi đầu án sách uổng đời làm trai
Rơ ràng cái chết của chú Tư Ánh tức ông Trần Bạch Đằng là một mất mát quá lớn đối với đất nước. Không c̣n ông tư vấn về mặt nhân tâm và đạo lư, t́nh h́nh xă hội trở nên rối như mớ ḅng bong. Những bế tắc vừa qua trong việc giải quyết tham nhũng từ trên xuống dưới đă chứng thực điều ấy.
Bước ngoặc đời tôi xảy ra sau đám cưới khoảng vài tháng. Một hôm ông Lê Thanh Hải tức Mười Hải, giám đốc Sở Nhà Đất thành phố mời tôi và nhạc sĩ giang hồ Nguyễn Hải đến dự tiệc tại tư gia. Ông Mười Hải trước kia là một trong những lănh đạo Thành Đoàn thời bí mật, từng ở tù Côn Đảo và rất có máu mê văn nghệ. Ông nghe các phụ tá đồn đại về khả năng xuất khẩu thành thơ cay đắng của tôi nên muốn được thưởng thức cụ thể. Hôm đó Nguyễn Hải hát và ngâm bài thơ HỒ TRƯỜNG của Nguyễn Bá Trác cùng bài thơ PHẢN TỐNG BIỆT HÀNH của tôi xuất thần đến nỗi ông Mười Hải lặng người. Và tôi đọc tiếp bài ÔNG GIÀ BẮT RẮN làm ông chết điếng. Bài thơ ÔNG GIÀ BẮT RẮN ra đời khi tôi và Hồ Lê Thuần (con trai cố bí thư Thành Đoàn Hồ Hảo Hớn) ngồi nhậu tại một quán rượu chiều mưa trên đường Trần Quang Khải. Đang nhậu bỗng một người đàn ông trung niên tiều tụy đeo bị gậy tiến lại. Hai thằng mời vị hành khất ngồi vào bàn. Rượu vào lời ra mới biết người hành khất khắc khổ từng là cựu sĩ quan chế độ cũ sau khi học tập cải tạo về phải hành nghề bắt rắn để nuôi thân…
ÔNG GIÀ BẮT RẮN
Đột nhiên uống rượu gặp ông già
Hai thằng đều thuộc loại không cha
Cha ta ngày trước chưa hành khất
Sao ông già xách bị thăm ta ?
Quá may chai rượu c̣n phân nửa
Ta nâng ly thù tạc bạn già
Đêm nay không xỉn mà như xỉn
Tiếng cười theo giọt lệ lăn ra
Không gặp nói chi, bằng đă gặp
Chiến tranh dứt, sao mô c̣n đắp ?
Mời bố cạn ly rồi cười khà
Chồm hổm coi đời thua con mắt
Ông già, thằng nhỏ cụng ly “túc”
Khè khè không kém rắn hổ mang
Thiên hạ cao tay bằng ngón út
Giang sơn thu lại vất trên bàn
Ông già kể : “Nếu ưng nhậu rắn
Mời mấy em lên núi một lần
Khô hổ, khô trăn “qua” chất đống
Gọi là có dịp ngộ tri âm
“Qua” bắt rắn bằng dây tḥng lọng
Khác thầy mo bắt rắn bằng bùa
Măng xà cắt cổ “qua” làm tiết
Xực vào là khoái chuyện mây mưa
Chưa hết, mới xong màn tiết rắn
C̣n sáu món chờ anh hùng ẩm
Luộc, xào, lẩu, nướng, gỏi, cà ri
Anh hùng ẩm tửu, anh hùng tận
Nhưng mấy em ơi, “qua” đă già
Cháu chắt th́ đang thời khát sữa
Đành nửa đêm băng núi đi xa
Nói dóc xuống Sài G̣n đ̣i nợ
Mà xuống đồng bằng, “qua” là hổ
Con thú làm sao có mái nhà
Trời thương cho ngủ ngoài xó chợ
Đêm về nước mắt tưởng sương sa
May mà gặp chú ḍng hảo hớn
Mời cụng ly không sợ dơ bàn
Chỉ tiếc thiếu một khoanh khô rắn
Cắn vào quên nỗi sợ công an”
Ông già xách bị chào mấy đứa
Bố ơi, đất nước lắm ăn mày
Tụi con trúng mánh nhờ phụ nữ
Thời này con gái dễ đưa cay
Thời này con gái như con rắn
Đem nướng phơi khô nhậu đă đời
Tụi con giống bố thân hành khất
Thường xin tiền phụ nữ mua vui
C̣n hơn ăn trộm bằng ng̣i bút
Vua quan trăm kiểu hái ra tiền
Tụi con tính trời cho háo sắc
Ra phố thường ăn trộm trái tim
Mưa xuống, ba người không chỗ ở
Ông già bắt rắn đă đi xa
Riêng ta đi kiếm dây tḥng lọng
Đợi nàng rắn cái lén đi qua !
Sau khi hỏi thăm cụ thể về quá tŕnh công tác, ông Mười Hải dặn tôi và Nguyễn Hải làm ngay hai hồ sơ cá nhân để ông thu xếp công việc phù hợp với chuyên môn từng người tại Sở Nhà Đất TP. Tôi và Hải cùng nộp hồ sơ theo yêu cầu nhưng không hiểu sao chỉ ḿnh tôi được nhận về Ban Nghiên Cứu của Sở. Ngày đầu tiên đến cơ quan tŕnh diện, Mười Hải khẳng định với tôi “Em về chỗ anh là để phát huy khả năng làm báo. Sở Nhà Đất đang xin phép ra một tờ báo hằng tuần. Không sử dụng tài nghệ viết lách của em là rất uổng”. Như vậy trong khi chờ đợi tờ báo ra đời, tôi tạm thời sinh hoạt tại bộ phận tham mưu cho giám đốc được mệnh danh là Ban Nghiên Cứu. Đó là một ban quy tụ các anh hào tứ xứ từ các nguồn khác nhau đổ về. Dân tập kết có, dân học sinh miền Nam có, dân hoạt động nội thành có và dân chính quyền cũ lưu dụng lại cũng có nốt. Đó là các chuyên viên tài năng trên các mặt ngân hàng, tài chánh, địa ốc, văn hóa dân tộc. Tại đây tôi cùng các anh Lộc, Tiếp, Trí, Lân… soạn thảo một cuốn sách văn bản pháp quy giải đáp những thắc mắc của mọi người về phương diện tranh chấp đất đai, quyền sở hữu nhà cửa và các thứ linh tinh khác. Cuốn sách như một thứ cẩm nang được tôi biên soạn hành văn một cách linh động và dí dỏm. Tôi c̣n được Mười Hải tín nhiệm giao cho việc ngoại giao báo chí khiến nhiều đồng nghiệp cũ trong giới làm báo đến Sở Nhà Đất gặp tôi ngỡ ngàng. Trong đó có cả anh Huỳnh Bá Thành. Đáng tiếc duyên nợ của tôi với Sở Nhà Đất khá ngắn ngủi. Tôi rơi vào hoàn cảnh “rất uổng” như sếp Mười Hải vô t́nh dự đoán trước. Bởi một lẽ giản dị cuối cùng không có giấy phép ra tờ báo và Mười Hải nhận quyết định về hưu. Trong một buổi gặp gỡ riêng vị sếp mê văn nghệ nói với tôi : “Huỳnh Bá Thành bên báo Công An TP đánh tiếng với anh muốn xin em về làm báo. Bên đó phù hợp với em hơn ở đây. Ở đây không có tờ báo mà anh lại sắp về hưu th́ ai lo cho em ?”.
Thế là xong. Một năm hương lửa đang nồng, trượng phu chưa muốn động ḷng xuất chinh th́… tôi đă phải từ giă Sở Nhà Đất. Đúng là tôi không có lộc ở cơ quan được đồn là “xịn” nhất trong các cơ quan làm ra của cải tiền bạc cho thành phố. Tôi chưa vội vă gặp họa sĩ Ớt tức anh Huỳnh Bá Thành. Tôi quyết định phiêu lưu xuống miền Tây theo đề nghị của báo Văn Nghệ TP để viết loạt phóng sự giang hồ về các cây bút lừng danh miền sông nước. Nhân sự chuyến đi gồm có Kim Tuấn, Trần Hữu Dũng, Vũ Ngọc Giao và tôi. Bốn người làm thành một phái đoàn mà thiên hạ gọi là Tây Du Kư. C̣n phải hỏi, nhà thơ Kim Tuấn vốn tính t́nh điềm đạm nho nhă lại lớn tuổi nhất, là tác giả các bài thơ phổ nhạc nổi tiếng trước giải phóng như ANH CHO EM MÙA XUÂN, NHỮNG BƯỚC CHÂN ÂM THẦM… xứng đáng làm thầy chùa Tam Tạng thỉnh kinh. Nhạc sĩ guitar cổ điển Vũ Ngọc Giao vốn dĩ háo sắc, mê các em và mê nhậu hơn mê âm nhạc nên tục gọi Trư Bát Giới là phải đạo trời. Nhà thơ Trần Hữu Dũng th́ lúc nào cũng ậm ừ, tịnh khẩu một cách bí ẩn thành thử được mệnh danh là Sa Tăng. C̣n tôi tính khí ngang tàng, thấy việc ngứa mắt là phát biểu, giao tiếp rộng răi cả hai phe chánh tà nên anh em phong làm Tề Thiên Đại Thánh. Phái đoàn chúng tôi lên đường chu du đủ lục tỉnh, làm nên loạt phóng sự nhiều kỳ HẢO HỚN MIỀN TÂY vang dội. Vũ khí duy nhất của tôi trong chuyến Tây Du Kư vẫn là những bài thơ t́nh đặc sản Nam bộ mà đồng nghiệp và công chúng yêu cầu đọc lên trong những đêm thơ. Xin giới thiệu bài thơ CON GÁI BA MIỀN đọc trong chuyến đi lưu diễn :
GÁI BẮC
Con gái Bắc rất chịu chơi
Ta dân Nam bộ ngỏ lời cầu hôn
Chịu chơi v́ lắm hồi môn
Chẳng hạn răng khểnh, má tṛn đồng xu
Chưa kể con mắt tiểu thư
Dáng đi công chúa, lởi ru thiên thần
Ta thường dễ động ḷng trần
Thấy con gái Bắc manh tâm ngó hoài
Các em ḿnh hạc xương mai
Thấp cao vẫn nhớ, mập gầy vẫn thương
Chanh chua vẫn ngọt như đường
Nói xạo cách mấy vẫn tương tư hoài
Nhớ em lồi hết lỗ tai
Lơm hai con mắt, lồi mười ngón chân
Em tên Bích, Thảo, Thu, Vân
Hay Kim, Oanh, Yến có lần chịu chơi
Từng yêu khi mới chào đời
Đêm nay gọi các em ơi, ta buồn
Hà Nội băm sáu phố phường
Ngó môi em hết nhớ đường về Nam
GÁI HUẾ
Con gái Huế rất khó chơi
Ta dân Nam bộ thốt lời vũ phu
Khó chơi v́ hát như ru
Nói như chim hót, bước như rắn trườn
Cộng lại th́ thành văn chương
Trừ ra th́ dễ bất thường động tâm
Sơn bất tận, thủy bất thâm
Lên núi Ngự mới ớn thầm sông Hương
Ta từ xưa thích du dương
Ưa trèo núi, khoái bơi xuồng lội sông
Giang hồ một phút yếu ḷng
Kêu lên hai tiếng mặn nồng : Huế ơi
Dù các em rất khó chơi
Nhưng ta cũng thử ngỏ lời bướm ong
Các cô gái Huế nghe không
Kêu thêm phụ nữ đến c̣ng ta đi
GÁI NAM
Con gái Nam rất ham chơi
Ta dân cùng xứ ngỏ lời biểu dương
Ham chơi đến lúc lên giường
Em c̣n xuống giọng cải lương rất mùi
Sáng đèn nhớ lúc tối thui
Giàu sang nhớ củ khoai lùi dính tro
Các em như miếng cá kho
Ngó vô thấy đă, cắn vô thấy bà
Cắn vô xương gỡ không ra
Trừ khi tŕnh diện ông già của em
Lên Đồng Nai, xuống Long Xuyên
Các em má lúm đồng tiền bắt ham
Chỉ người ngu mới không tham
Ta chưa ngốc muốn gỡ làm vốn riêng
Kệ đồng tiền trắng hay đen
Ngày ta bỏ túi, đợi đêm bỏ mùng
Các em mới liếc đă khùng
Hèn chi thi sĩ, anh hùng phải tiêu
Mỹ nhân nghĩ thiệt trớ trêu
Xưa nay danh tướng biết điều dưới cơ
Ṿng Bến Tre, bọc Cần Thơ
Ở đâu ta cũng choán giờ cơ quan
Nước dừa em tắm thả giàn
Ta vốn đàng hoàng cũng lén ŕnh coi
Ŕnh coi con quạ kêu rồi
Quạ kêu “nam đáo” nữ ơi đề pḥng
Phải không Đào, Cúc, Thu, Hồng
Anh trai khác họ đem ḷng nhớ thương !
Trong chuyến đi tôi có dịp làm quen với Trịnh Bửu Hoài, Phù Sa Lộc, Nguyễn Văn Bổn, Vơ Minh Đường, Trúc Linh Lan, Nguyễn Lập Em, Phạm Hữu Quang, Huỳnh Duy Lộc, Trần Thế Vinh, Hồ Thanh Điền, Thiện Chiến, Trần Thanh Phong, Trương Công Thuốt, Ngô Khắc Tài, Song Hảo… Đáng tiếc là lộ tŕnh lưu diễn không đi qua Bến Tre và Long An để gặp bạn bè cũ là anh Mặc Tuyền, Đinh Thị Thu Vân, Hồ Trường, Bảy Dân, Nguyên Tùng, Kim Ba, Ngọc Điệp… Tôi cũng không gặp các huynh đệ quen thuộc Nguyễn Trọng Tín, Vơ Đắc Danh, Vơ Đắc Dự…v́ họ không c̣n ở chỗ cũ. Chuyến đi đọng lại hai h́nh ảnh anh hùng hảo hớn cả văn lẫn vơ. Đó là Phạm Hữu Quang và Huỳnh Duy Lộc, một kẻ vai bạn, một người vai em.
Phạm Hữu Quang râu quai nón như Lỗ Trí Thâm, tướng tá kềnh càng như con gấu nhưng có ánh mắt và nụ cười thật dễ thương. Phạm Hữu Quang ăn ư với tôi ở chất Lục Vân Tiên, tại Long Xuyên hễ gặp chuyện bất b́nh là anh sẵn sàng ra tay can thiệp nên thường “xa huy chương mà gần tù tội”. Anh lập gia đ́nh có một vợ hai con, hồi học đại học Sư Phạm trên Sài G̣n cùng lớp với Nguyễn Nhật Ánh. Thơ Phạm Hữu Quang phải nói là độc đáo và có cá tính. Đọc những bài thơ phiêu bạt, khinh mạn của anh làm tôi liên tưởng đến thi sĩ Hà Thúc Sinh thời vàng son trước 1975. Hai anh em có một đêm nằm tâm sự với nhau và anh dúi vào tay tôi bài thơ mới làm từ chuyến viễn du miền Trung chống stress. Bài thơ được tôi đưa cho Tổng Biên Tập báo Văn Nghệ TP là anh Chim Trắng đăng ngay lúc phái đoàn Tây Du Kư trở về. Bài thơ nổi tiếng đến mức hai câu cuối cùng tới bây giờ vẫn c̣n lưu truyền trên mạng internet :
Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt
Nghe tiếng cơm sôi đă nhớ nhà
Khi tôi viết những ḍng chữ này th́ họ Phạm đă vĩnh biệt cơi đời sau một cơn bạo bệnh. Những ḍng chữ xem như nén nhang thương tiếc một con người tài hoa sinh bất phùng thời.
Ngược lại với Phạm Hữu Quang, xuống Cần Thơ tôi đụng độ một hiền đệ gặp lúc thời vận ăn nên làm ra nhưng vẫn giữ nguyên tắc hảo hớn miền Tây “kiến nghĩa bất vi vô dơng giă”.Đó là Huỳnh Duy Lộc, giám đốc khách sạn Hào Hoa kiêm thi sĩ kiêm vơ sĩ Thần quyền. Cuộc gặp mặt có cả Vũ Ngọc Giao như một chứng nhân. Xét về thơ th́ Huỳnh Duy Lộc ăn nói cực kỳ khiêm tốn. Xét về vơ th́ họ Huỳnh khởi sự bằng cách nhai ly rôm rốp và nuốt chửng. Chuyện đó tôi cũng làm được, tôi ghé răng hất ly xây chừng vào miệng rồi nhai như bánh tráng đáp lễ. Huỳnh Duy Lộc chuyển sang vơ bí mật. Hiền đệ họ Huỳnh đặt một trái quưt lên đỉnh đầu con người cao tới 1m74 là tôi, sau đó hiền đệ tung một cú gị lái từ thân thể cao chưa tới 1m60. Trái quưt bị đá văng khỏi đầu tôi như một luồng gió thốc. Sẵn đà cao hứng, hiền đệ xách con dao chặt dừa ra chẻ phăng một trái dừa xiêm. Cũng con dao đó, họ Huỳnh chém vào ngực trần của ḿnh b́nh bịch. Màn biểu diễn vơ gồng chấm dứt mà da thịt Huỳnh Duy Lộc không hề trầy trụa hay sứt mẻ. Được biết trước khi trở thành thi sĩ, Huỳnh Duy Lộc từng bôn ba sóng gió giang hồ. Lộc từng thành danh đại ca bên đất nước chùa Tháp, từng hỗ trợ tích cực chính quyền địa phương trong việc săn bắt tội phạm h́nh sự.
Năm 1989 tôi làm việc tại Lăng Ông Lê Văn Duyệt. Trong một lần họp mặt truyền thống Thành Đoàn tại nhà anh Sáu Quang, tôi được Sáu Quang tức Nguyễn Chơn Trung (bí thư Thành Đoàn thứ nh́ sau anh Năm Nghị) kêu về B́nh Thạnh, nơi anh đương chức Bí thư Quận Ủy. Anh và Tư Phương tức Nguyễn Xuân Thượng phụ trách kinh doanh du lịch đang rất cần một đảng viên có năng lực để điều hành và vực dậy di tích Lăng Ông Lê Văn Duyệt trong t́nh trạng xuống cấp. Anh Sáu Quang từng chỉ đạo trực tiếp báo Tuổi Trẻ từ ngày mới thành lập và tương đối am hiểu con người nổi loạn của tôi, bởi anh cũng là một người làm thơ phong trào dưới bút hiệu Thiên Lư và là Chủ tịch Tổng Đoàn Học Sinh Sài G̣n trước cả Lê Văn Nuôi. Chỉ đáng tiếc tôi chưa hề là đảng viên nên tôi quyết định giới thiệu Lă Văn Cường, một nhạc sĩ đảng viên bên lực lượng TNXP cho anh v́ Cường cũng chưa có việc làm, đang chờ chuyển ngành. Thế là hai đứa tôi cùng về pḥng Văn Hóa Quận một lượt. Lă Văn Cường được bổ nhiệm làm giám đốc Lăng Ông. Trong GIAI THOẠI CỦA THI SĨ những phần trước, tôi đă nói sơ sơ về Cường. Đại khái tôi và Lă Văn Cường là cặp bài trùng một thơ một nhạc đi đến đâu tạo niềm vui cho đám đông ở đó. V́ vậy thoạt đầu nhận chức ở Lăng Ông, Cường và tôi đă quy tụ anh em hào kiệt tứ xứ khắp nơi. Ṇi t́nh đồng điệu gặp nhau, khu di tích Lăng Ông thuở ấy khá hùng mạnh với bố già Sơn Nam làm cố vấn, với đạo diễn Trần Văn Hưng phụ trách nhà hát vừa xây dựng xong, với Đoàn Vị Thượng làm chánh văn pḥng, với Nguyễn Hải làm quản lư Lăng… và vơ thuật do Hồ Hoàng Khánh, huấn luyện viên Không Thủ Đạo, con trai cố vơ sư lừng danh Hồ Cẩm Ngạc đảm nhiệm. Cuộc đời tưởng xuôi chèo mát mái nhưng… tưởng vậy mà không phải vậy. Giống như 108 anh hùng Lương Sơn Bạc ngày xưa, thời từng anh hùng c̣n “solo” chơi với nhau thật t́nh nghĩa, chia cơm xẻ áo hết ḿnh, đến khi bị Tống Giang, Ngô Dụng gom ṣng lại th́ năm bè bảy mối, tan đàn xẻ nghé nghi kỵ lẫn nhau . Trong đạo Công Giáo có câu “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Ê kíp chúng tôi cũng không thoát khỏi định mệnh. Sau một thời gian “bạo phát” dưới h́nh thức kinh doanh mượn duy linh để làm duy vật, Lăng Ông “bạo tàn” nhanh chóng. Tôi không thể đấu tranh với chính bạn bè ḿnh nên đành chia tay trong sự ân hận. Duy nhất một kỷ niệm đẹp mà tôi c̣n giữ : đó là lần đầu tiên tôi và nhạc sĩ Trần Tiến kết hợp nhau làm Đêm thơ nhạc thu hút khá nhiều sự b́nh phẩm của giới chuyên môn ở Lăng Ông…
Nghỉ Lăng Ông tôi rơi vào t́nh thế chỉ mành treo chuông v́ gia đ́nh tôi sắp có con trai đầu ḷng. Đúng lúc đó chiếc đũa thần từ tay Huỳnh Bá Thành gơ xuống. Huỳnh Bá Thành tức họa sĩ Ớt bí danh Ba Trung, nổi tiếng với nét cọ châm biếm cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ bằng một nét vẽ mà giống cực kỳ. Anh hoạt động t́nh báo trong An Ninh T4 và là phụ tá báo chí của Đại tướng Dương Văn Minh (Tổng Thống cuối cùng của Việt Nam Cộng Ḥa). Tôi biết anh ngay từ thời tôi c̣n phụ trách trang văn nghệ báo Tuổi Trẻ. Thuở ấy anh bị “đ́” ná thở. Một trong những lư do bị thượng cấp nghi ngờ là tại sao anh làm t́nh báo mà không bị ở tù hoặc bị địch phát hiện, lại c̣n được Tổng Thống “ngụy” trọng dụng ? Thế là có lúc Huỳnh Bá Thành sa cơ phải công tác tại băi giữ xe trước cửa Sở Công An TP trên đường Trần Hưng Đạo. Có lúc nhà anh đói đến mức thi sĩ giang hồ Mặc Tuyền từ Long An lên phải viện trợ gạo. Cả họa sĩ Ngoéo, một đồng chí vẽ châm biếm tài hoa, cũng từng giúp đỡ vật chất cho anh. Chính từ những ngày hàn vi ấy mà Huỳnh Bá Thành thấm thía hết sự bất công. Anh nhạy cảm trong sự phân biệt chính tà thiện ác và dám đầu tư nhân sự cho tờ báo Công An TP theo ư riêng của ḿnh. Tại nhà hàng Continental (thời bia quốc doanh) anh, tôi, Ngụy Ngữ, Sáu Du, Hồ Ngọc Xum từng chia nhau từ miếng bánh ḿ cho đến ly bia hơi tem phiếu.
Tôi làm việc trong Ban cố vấn của tờ báo. Ban cố vấn là tên gọi một cách nôm na, thực chất đó là bộ phận tham mưu chiến lược cho Huỳnh Bá Thành bao gồm Ngụy Ngữ, Lưu Trọng Văn, Sơn Nam, Vũ Hạnh và tôi. Bằng kinh nghiệm lịch lăm của một người làm báo Sài G̣n cũ, Huỳnh Bá Thành đă đưa tờ Công An TP từ chỗ vô danh cho đến vị trí bán chạy nhất trong làng báo Việt Nam với con số phát hành kỷ lục. Mỗi ngày Huỳnh BáThành bắt tôi phải đến tờ báo vài tiếng đồng hồ buổi sáng để họp riêng với anh, chủ yếu là làm trang Văn Hóa Văn Nghệ, viết phóng sự hài hước, chuẩn bị những kịch bản phim viết chung cho hăng phim Người Bảo Vệ mới thành lập, và cả chuyện viết chung Feuilleton. Anh tin tôi đến mức có lần phát biểu trong một cuộc họp báo trà dư tửu hậu lúc ra mắt hăng phim : “Bùi Chí Vinh đại diện cho tôi, những ǵ Bùi Chí Vinh phát biểu là tôi phát biểu”.
Tôi đă không phụ ḷng tin của anh. Bất chấp sự đa nghi của một số kẻ bảo thủ trong tờ báo, tôi và anh đă hoàn thành truyện dài nhiều kỳ LUẬT NHÂN QUẢ đăng trên báo Văn Nghệ TP, truyện cũng được chuyển thể thành kịch bản phim chung hai người mang tên MÊNH MÔNG T̀NH BUỒN do Hồ Ngọc Xum làm đạo diễn, Nguyễn Aùnh 9 làm nhạc phim. Ngoài ra năm 1989 lần đầu tiên trong đời, một ông anh khác là Vũ Quang Hùng, phó Tổng biên tập báo Công An TP kiêm phụ trách Nhà in Nguyễn Minh Hoàng cũng hổ trợ cho tôi in thiếu tập THƠ T̀NH BÙI CHÍ VINH do NXB Trẻ cấp giấy phép với số lượng bước đầu 5.000 bản. Anh Vũ Quang Hùng vốn là dân ám sát thuộc An ninh T4 sau giải phóng chuyển qua làm báo đúng như niềm mơ ước thời sinh viên của anh. Cũng như họa sĩ Ba Ớt, anh Hùng rất “sính” kiểu cách làm thơ ngang tàng của tôi nên anh em tri ngộ nhau tương đắc. Tôi đôi khi đóng vai tṛ ḥa giải các ư kiến khác nhau giữa hai sếp bằng những bài thơ dụ ngôn. Nhờ sự trợ lực của Vũ Quang Hùng, tập THƠ T̀NH BÙI CHÍ VINH in ra gây tiếng vang lớn trên thi đàn cả nước và công chúng trẻ. Đă có những cuộc hội thảo về tập thơ “vĩa hè”, “đáng đọc nhất thế kỷ” trên báo chí lẫn các trường đại học mà tôi đă từng đề cập.
Huỳnh Bá Thành có những tham vọng riêng, tham vọng nào cũng đứng trên nền tảng quyền lợi của nhân dân hơn quyền lợi cá thể. Tuy nhiên cách hành xử luôn đi trước thời đại của anh khiến nhiều người ngộ nhận, trong đó có cả thượng cấp. Cũng may anh được ông Phạm Hùng (Phó Chủ tịch HĐBT phụ trách Bộ Nội Vụ lúc đó) ủng hộ nên nhiều vụ tai qua nạn khỏi. Trong một xă hội nhiễu nhương, con người tài năng cho dù đức độ vẫn luôn đầy dẫy kẻ thù, trường hợp Ba Ớt tức Huỳnh Bá Thành cũng như vậy. Có lần anh bị một số báo chí hùa nhau vây đánh về vụ che chở cho Việt kiều Nguyễn Quốc Bảo tức Bảo Sơn trong thương vụ điện ảnh. Anh phẫn nộ tâm sự với tôi, nhờ tôi viết loạt bài phản kích. Tôi chỉ hỏi anh một câu : “Tôi tin anh. Nhưng vụ Bảo Sơn với pháp luật là đúng hay sai. Nếu sai th́ tôi sẽ không làm”. Khi Huỳnh Bá Thành khẳng định rằng anh am tường pháp luật và việc bảo vệ chuyện làm ăn hợp pháp của Việt kiều là đúng, th́ tôi liền hoàn tất hồ sơ phản biện báo chí theo yêu cầu của anh. Kết quả hậu trường sau đó êm xuôi, lời ong tiếng ve cũng biến mất. Huỳnh Bá Thành tuyên bố một câu ngậm ngùi trong bữa nhậu tại nhà trước nhiều người : “Cháy nhà ra mặt chuột. Trải qua hoạn nạn mới biết đá biết vàng. Mới biết trong báo chí trong đồng hương xứ Quảng của ḿnh, ai là kẻ lừa thầy phản bạn”.
Huỳnh Bá Thành qua đời vào mùng 2 Tết, lúc anh thở phào nói với tôi : “49 bước qua, 53 bước lại, cụng ly với anh chúc mừng qua năm tuổi”. Đêm đó tại nhà anh, hai vợ chồng tôi và hai vợ chồng anh Nguyễn Đăng Trừng (là người em cột chèo với anh) là những kẻ ngồi lại khuya nhất. Khi tôi và Hương Lan về, chỉ c̣n luật sư Nguyễn Đăng Trừng và bà xă ở lại. Đến khoảng 2 giờ sáng th́ nhà văn Từ Kế Tường gọi điện thoại báo tin khẩn cấp cho tôi là anh Ba Ớt đă đột tử, xác quàng tại chùa Đại Giác, và các anh Vũ Quang Hùng, Hà Phi Long đề nghị tôi có mặt tại báo Công An TP suốt những ngày sau đó. Cái chết của Huỳnh Bá Thành gây chấn động làng báo trong và ngoài nước, anh chết cũng bất ngờ như vị lănh đạo từng che chở anh đă qua đời trước đó là ông Phạm Hùng, đều cùng một nguyên nhân được giải thích là “nhồi máu cơ tim”. Cái chết của Huỳnh Bá Thành đi vào kỷ lục quốc gia về số lượng người thắp nhang đưa tiễn. Kỷ lục Guiness đau buồn này ghi nhận cho đến giờ chỉ có 3 đám ma đông người đến viếng nhất. Đó là đám ma nữ nghệ sĩ Thanh Nga làm sập bờ tường do công chúng hâm mộ xô đẩy. Đó là đám ma diễn viên Lê Công Tuấn Anh với công chúng điện ảnh trẻ tràn ngập khắp Sài G̣n như một cuộc mít tinh. Đó là đám ma Huỳnh Bá Thành với thập loại chúng sinh đến viếng, từ lănh đạo trung ương địa phương đến bà con lao động nghèo khổ, giang hồ du đăng, bán vé số, đạp xích lô, đạp xe ba bánh, thương binh ngồi xe lăn cả hai chế độ. Phải nói rằng đám ma anh Ba Ớt là đám ma “nhân dân” đúng nghĩa nhất, con người suốt đời làm từ thiện cứu nhân độ thế như anh đă được đền đáp đích đáng bằng nước mắt của những người cô thế mà anh từng giúp đỡ…
Đêm đầu tiên quan tài anh Ba Ớt đặt tại ṭa soạn, tôi đă thức suốt một đêm với anh bên cạnh anh Ba Tung và Sáu Du. Đêm đó anh Ba Tung, người từng đánh ḿn thủy ngân sập cầu nổi chợ Bến Thành, người từng làm Trưởng pḥng h́nh sự Sở Công An TP, từng bị báo chí đánh tơi bời vụ Đường Sơn Quán khiến đứa con gái thân yêu nhất của anh phải tự tử v́ hổ thẹn. Đêm đó mắt Ba Tung rớm lệ. Tôi hiểu con người coi cái chết nhẹ tựa lông hồng như anh bị uất ức ra sao khi bó tay trước những kẻ ám hại ḿnh. Tôi cũng như anh, những lúc mạt lộ đều có sự hỗ trợ tinh thần cần thiết của anh Ba Ớt. Chính báo Công An TP là báo duy nhất đăng tin con gái Ba Tung tự tử chết v́ áp lực tàn khốc từ một vài tờ báo lớn của thành phố. Đêm đó dù Lưu Trọng Văn đă viết sẵn một bài điếu văn thương khóc Huỳnh Bá Thành nhưng hai phó Tổng Biên Tập Vũ Quang Hùng, Hà Phi Long vẫn yêu cầu tôi tức tốc làm một bài thơ tưởng niệm Huỳnh đại huynh để đăng báo ngay sáng hôm sau. Mùng 3 Tết Quư Dậu bài thơ KHÓC ANH HUỳNH BÁ THÀNH đăng báo và đến bây giờ vẫn c̣n nhiều anh em nhớ măi. Bài thơ sau này được in trong cuốn sách Kư SỰ NHÂN VẬT của cố Họa sĩ Ớt, tức Huỳnh Bá Thành do NXB Trẻ phát hành năm 2002 :
KHÓC ANH HUỲNH BÁ THÀNH
Cái chết đến thật bất ngờ
Người kỵ sĩ chưa hề thấm mệt
Con ngựa Quan Công nhắm mắt như mơ
Dây cương đứtt hai bờ nhật nguyệt
Năm tuổi của anh đi qua như gánh xiếc
Tiếng thị phi lẫn tiếng anh hùng
Anh không có đủ 72 phép thần thông bất diệt
Suốt đời ôm giấc mộng Tôn Ngộ Không
Khi trần gian chưa ṣng phẳng sự công bằng
Khi ma quỷ vẫn c̣n đeo mặt nạ
Cây cọ của anh vẽ từ nhân dân
Lật tẩy bọn vua quan ngụy trá
Khi máu đào c̣n tuôn như nước lă
Người nh́n nhau chưa hiểu được ḷng ḿnh
Ng̣i bút của anh có đường gân thớ lá
Lá rách lá lành đùm bọc nghĩa đệ huynh
Nho sĩ ngày xưa đợi Mạnh Thường Quân
Thế thiên hành đạo nuôi người khố rách
Buổi nhiễu nhương của đạo quân thần
Tâm nghiêng ngă giữa dơ và sạch
Anh đă sống hết giấc mơ kiếm khách
Cái chết giống như một lưỡi gươm cùn
Trái tim khép ngay thời mở cửa
Để nén nhang đời cháy đỏ rưng rưng
Oâi nghĩa tử củng là nghĩa tận
Ai khanh tướng công hầu, ai họa sĩ nhân dân ?
Chị Ninh (vợ anh Huỳnh Bá Thành) nói với tôi trong đám giỗ đầu : “Anh Ba hồi c̣n sống hay nói họ Bùi có hai kẻ chọc trời khuấy nước là Bùi Giáng và Bùi Chí Vinh. Ông Giáng ghé thắp nhang rồi, bây giờ Bùi Chí Vinh đốt cho anh Ba điếu thuốc đi”. Nhân nhắc đến Bùi Giáng, tôi sực nhớ khoảng đầu năm 1990 tôi có chở Hương Lan lúc đó mang bầu đứa con đầu ḷng ghé chơi nhà Nguyễn Lương Vỵ, thi sĩ kiêm Trưởng pḥng Văn Hóa Thông Tin quận Phú Nhuận. Tại pḥng khách có mặt sẵn hai dị nhân Bùi Giáng và Joseph Huỳnh Văn. Anh Huỳnh Văn th́ tôi không xa lạ ǵ, anh cùng đạo Công Giáo với tôi và là nhà thơ có hai câu thơ đau đớn đến tuyệt mỹ :
Một đêm ta uống hết sông đầy
Một đêm ta khóc hết thơ ngây
Tôi với anh Hiến tức Joseph Huỳnh Văn thân nhau như huynh đệ, nhưng với Bùi tiên sinh th́ khác. Sau khi làm thủ tục chào hỏi, Bùi tiên sinh hất hàm với tôi : “Phu nhân của Bùi hậu sinh có chữa hả, đặt tên ǵ chưa ?”. Tôi trả lời rằng chưa th́ Bùi Giáng vỗ bàn cái rầm : “Trẫm đề nghị đặt tên cho hậu duệ Bùi hậu sinh là Bùi Vương. Bởi họ Bùi chưa có ai làm vua cả”. Phát ngôn của Bùi Giáng làm cả bàn ph́ cười, lúc đó tôi giả tảng nhắc lại kỷ niệm cùng với Hồ Lê Thuần hội ngộ ông ở chùa Long Huê, G̣ Vấp. Kỷ niệm sâu sắc đến mức tôi ghi lại bằng bài thơ HỌ BÙI đọc ra trước mặt ông :
HỌ BÙI
Ta kiếm hoài một gă họ Bùi
Trong lịch sử từng làm hoàng đế
Chỉ thấy họ Đinh, Lê, Trần, Lư
Thay phiên nhau mặc áo long bào
Gượng cười ba tiếng mà rơi lệ
Bùi gia trang tuyệt giống rồi sao ?
Không xưng vương th́ ắt cường hào
Ta bỏ sử đi t́m kinh sách
Nguyễn Đ́nh Chiểu đui mà thấy hết
Gọi ngay ông Bùi Kiệm đến chào
Chao ôi thủy tổ nhà ta lạ
Khinh ngai vàng, mê gái thật sao ?
Không xưng vương th́ ắt xưng tao
Ta bỏ sách đi lùng tứ phía
Chùa Long Huê có người mũ tía
Trải chiếu rơm viết một chữ Bùi
Ta giả nhà sư đi ngắm nghía
Biết rằng Bùi Giáng ghé am chơi
Thế th́ ḍng dơi nhà ta quậy
Tửu sắc đều say đến bốc trời
Không lập đế v́ ưng rượu đế
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
Không lập chúa v́ ưng nữ chúa
Thà lên… Bùi măi, chẳng lên ngôi !
Bài thơ HỌ BÙI hiện giờ nằm trên mạng internet toàn cầu, là niềm tự hào của trang web “gia phả họ Bùi”. Bài thơ cũng được nhà báo kiêm nhà thơ trẻ Phan Hoàng in lại trong cuộc phỏng vấn tôi trên báo Người Đương Thời. Một lần trả lời phỏng vấn của Phan Hoàng trên báo Sài G̣n Giải Phóng tôi cũng đă giải thích về cái tên họ cụt ngủn của thằng con Bùi Vương do Bùi Giáng đặt. Bởi tôi là dân Sài G̣n gốc Nam Định, không phải dân miền Trung thường đặt tên con “hai chữ “. Phan Hoàng đă hỏi tôi thật cắc cớ về chuyện Bùi Giáng mất và bị khá nhiều câu lạc bộ kinh doanh thơ, thư pháp… lợi dụng, th́ tôi đă trả lời rơ ràng: Rằng sự nghiệp thơ Bùi Giáng không nằm trong sáng tác mà nằm trong chính cuộc đời của ông khi giả điên và dấn thân như một Hành giả. Những kẻ ăn theo cái chết Bùi Giáng có thể liệt kê vào thành phần ngụy quân tử, thiếu lương tâm và vô đạo đức. V́ lúc c̣n sống Bùi tiên sinh không hề quan tâm đến họ mà chỉ chơi với trẻ con, chuồn chuồn, châu chấu. Hôm quan tài Bùi Giáng quàng ở chùa Vĩnh Nghiêm có mặt chị Kim Cương, điêu khắc gia Phạm Cung, thân tộc họ Bùi là Bùi Bảy… tôi đă lập lại lời nói đó. Và được nghệ sĩ Kim Cương, người mà Bùi Giáng cực kỳ hâm mộ, người lo hậu sự cho ông, đă ủng hộ tôi tối đa. Chị Kim Cương hào hứng tới nỗi lôi tôi và hai ông Phạm Cung, Bùi Bảy lên xe hơi của chị chạy ra phở Pasteur làm một chầu lai rai bồi dưỡng. Cũng cần thiết mở ngoặc đơn chỗ này : nhà của Phạm Cung là tiền trạm ghé chân của khá nhiều danh sĩ như Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Phạm Duy, Phan Nhật Nam…trong nhà có tượng đồng bán thân Bùi Giáng, Phạm Duy và một bức tranh sơn dầu Phạm Cung phóng bút vẽ t́nh bạn của ba người Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư và ông. Xuất thân từ một điêu khắc gia nhưng tranh của ông vô cùng sắc sảo khi đề cập đến thân phận loài người dưới đáy xă hội. Hồi Huỳnh Bá Thành c̣n sống, chính anh Thành cùng tôi đến tận nhà Phạm Cung mời ông khai trương pḥng triễn lăm từ thiện đầu tiên tại báo Công An và cuộc triễn lăm đó đă thành công rực rỡ cả tài chánh lẫn nghệ thuật.
Nhiều người trong giới văn nghệ (ngay cả chị Ninh, vợ Huỳnh Bá Thành) đều nghĩ rằng anh Ba Ớt “đai” là tôi hết đất sống. Trong độ tuổi “tứ thập bất hoặc” bốn mươi không c̣n ǵ để nghi ngờ, tôi vẫn tiếp tục tự mưu sinh thoát hiểm chẳng cần ai đỡ đầu. Tôi c̣n nhiều chuyện không thể kể ra đây hết được đối với nhiều người v́ các lư do tế nhị khác nhau. Những chuyện thoạt nghe tưởng như giai thoại nhưng đều trả giá bằng đạo nghĩa ân oán phân minh. Nửa đêm trằn trọc nằm vắt tay lên trán nhớ lúc đói meo ra Đà Lạt gặp nhà thơ Bùi Minh Quốc, gặp bạn cũ Phan Minh rồi được nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự đánh xe hơi rước đi đọc thơ ở trường đại học Đà Lạt. Rồi lần nhậu dựa lưng cùng thi sĩ đàn anh Thu Bồn tại Hội Văn Nghệ bàn chuyện diệt bạo trừ gian, diệt bọn cầm bút vô lại và trừ đám gian thần nịnh hót. Rồi có lần cùng Nguyễn Trọng Tín, Trần Hữu Dũng, Vơ Đắc Danh thuê hai chiếc xích lô xuống trường Đảng ở Thủ Đức nhậu, trong lúc ai nấy đều say khướt tôi bất ngờ cứu mạng Vơ Đắc Danh khỏi một đường dao oan nghiệt, đến bây giờ bàn tay tôi c̣n thẹo. Rồi có lần cùng Nguyễn Quốc Chánh dẫn phái đoàn nho sĩ Bắc Hà đi chơi, cuối cùng nhà văn Nguyên Ngọc phải “bỏ dép chạy lấy người” tại Xóm Chùa. Rồi bỗng dưng nhớ lại hồi c̣n làm báo Công An với Huỳnh Bá Thành, tôi có dịp cứu cô cháu gái của nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm bỏ nhà vô Nam đi bụi qua bản tin đăng trên báo. Rồi nhớ lại những lần cụng ly với nhà doanh nghiệp xe lăn Tiến Toàn, mỗi lần đọc một bài thơ ứng khẩu là vị thương gia có máu Mạnh Thường Quân móc ra chi ngay cho tôi “một vé”. Rồi tiếp tục nhớ lần ra Bắc họp đại hội Nhà văn trẻ toàn quốc được sự đón tiếp bằng ḷng hiếu khách đặc biệt của thi sĩ Nguyễn Quang Thiều với “anh hai Sài G̣n” theo cách của Thiều màchỉ tôi mới hiểu. Rồi lần ra Bắc tiếp theo để nhận tặng thưởng đặc biệt của NXB Kim Đồng cho bộ truyện thiếu niên 5 Sài G̣n, gặp dịch đau mắt bị Nguyễn Quang Lập lây, lúc về Sài G̣n bế quan cả một tuần lễ. Tiếp tục nhớ thời bo bo xách súng cùng nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết, họa sĩ trịnh Thanh Tùng đi săn cải thiện nhưng không dám bắn chim cu đất v́ nó giống chim bồ câu biểu tượng cho ḥa b́nh. Nhớ lần chở Vũ Ngọc Giao ngồi trên sườn trước chiếc xe đạp bỏ mối kẹo, khi đổ dốc Cầu Kiệu xe đạp tự nhiên gảy làm đôi, mỗi thằng ôm một nửa cái xe, không biết làm sao bèn quăng luôn xuống sông Cầu Kiệu. Tôi lại nhớ lần cố gắng dùng văn hóa “cứu bồ” nhà hàng Điểm Hẹn Sài G̣n của sếp báo Tin Sáng kiêm cựu dân biểu Dương Văn Ba cách đây vài năm bằng một đêm thơ nhạc trong đêm Noel với ba người “Bùi Chí Vinh, Phan Vũ, Miên Đức Thắng”, nhưng mọi thứ đă muộn màng v́ nhà hàng có quyết định đóng cửa. Gần đây nhất nhớ lần lên Đà Lạt cùng đạo diễn Nguyễn Chánh Tín làm phim ma NGÔI NHÀ BÍ ẨN được nhiếp ảnh gia MPK Phước Khùng coi bói rằng ngôi nhà hoang ở Trại Mát đúng là có ma thật… Tất cả những hồi ức ấy loang loáng như một giấc mơ, như một kiếp nạn mà tôi bắt buộc phải trải qua. Trải qua để trở về CÁI CHUỒNG NGỰA của ḿnh, cái chuồng ngựa biểu trưng cho mái ấm gia đ́nh mà tôi đă từng xuất khẩu thành thi chép cho anh Nam Dao trước khi anh đi Mỹ. Bài thơ tam sao thất bổn mà Nam Dao đăng trên mạng như một kỷ niệm ngày tôi và anh quen nhau những năm đầu 75 :
CÁI CHUỒNG NGỰA
Tụi nó cưỡi lên lưng ta như cưỡi ngựa
Khiến mông ta có đuôi và sau gáy mọc ra bờm
Ta vừa hí vừa nặn ḿnh nôn mửa
Một đống lạ lùng nửa áo nửa cơm
Tụi nó c̣n đưa ra trước đầu ta một giỏ cỏ thơm
Có mùi văn chương, có hương nghệ thuật
Ta cắn răng nhai một cách cuống cuồng
Đến khi ợ mới hay mồm tàn tật
Tụi nó định vỗ tay mừng ta tự sát
Nhưng nước mắt của em đă đông lại thành chuồng
Ta sẽ cố sải dù bốn chân cà nhắc
Để nhớ rằng ḿnh c̣n có một quê hương
Có lần tôi tái ngộ Trần Tiến Dũng sau hơn 20 năm. 20 năm trước tôi cùng Hồ Lê Thuần xuống chợ B́nh Tây thăm gian hàng bán đồ chơi của đôi vợ chồng sắp cưới Trần Tiến Dũng. Lần ấy Dũng chưa trở thành nhà thơ trường phái tư do, Dũng nhà quê trong sáng như một “người nông dân nổi dậy” gặp tôi liền xin bài thơ chép tay mang tựa CÂY DƯƠNG ỐM sáng tác khi lên vùng đất Siberi Duyên Hải. Tôi không ngờ sau chừng ấy năm Trần Tiến Dũng c̣n giữ bài thơ đó và đọc lên cho tôi cùng giáo sư toán nổi tiếng Cù An Hưng nghe tại quán cà phê Bích Câu. Khoảnh khắc thiêng liêng của chữ thật cảm động. Xin giới thiệu kỷ niệm đó ở đây :
CÂY DƯƠNG ỐM
Sẽ t́m được một cây dương ốm nhất
Cởi áo ra ta đứng tựa trời trồng
Tiếp tục cởi hết quần dài quần cụt
Các em nh́n ta có giống cây không ?
Sẽ đứng vậy bởi v́ chiều lắm gió
Chiều im hơi ta sẽ duỗi chân nằm
Đàn ông nằm thô tục hơn thiếu nữ
Các em nh́n ta giống bóng cây không ?
Sẽ xuống biển nếu cây dương bật gốc
Cây dương quyên sinh, ta phải tự trầm
Kể từ đó sóng buồn như khóc
Các em nh́n ta giống rễ cây không ?
Sẽ không chết nữa nếu cây dương mập
Nếu các em cũng từ khước áo quần
Nếu các em đừng nh́n ta lén lút
Oâi biết biển c̣n nhớ đến cây không ?
Th́ ta cứ là cây dương ốm nhất
Cho các em nh́n suốt bốn ngàn năm …
Tháng vừa rồi gặp lại Hồ Thi Ca, con người muôn năm cũ, từ thời học đại học Sư Phạm sau Nguyễn Nhật Aùnh một khóa. Hồ Thi Ca cùng lớp với các nhà văn nữ Lư Lan, Lưu Thị Lương. Gặp lại để mà nhớ thuở ban đầu tôi đang làm báo Tuổi Trẻ và Hồ Thi Ca cũng như nhiều văn nghệ sĩ khác đang là cộng tác viên trang văn nghệ do tôi cùng anh Hoàng Nghĩa phụ trách. Lúc đó họ Hồ chưa làm thơ mà được chú ư nhờ viết truyện ngắn, truyện nào cũng có duyên và đầy triển vọng được kư dưới tên thật Hồ Bửu Trân. Họ Hồ chính là một trong những cơ sở hậu cần của tôi thời ấy trong những lúc lang bạt. Tôi và Nguyễn Nhật Aùnh thường xuống đường Ḥa Hảo ghé tiệm thuốc đông y nhà của cha mẹ Hồ Thi Ca lục cơm nguội và ngủ lại. Ngày tôi sắp đi bộ đội cũng chính Hồ Thi Ca cùng cô Vinh vợ tương lai tổ chức đêm họp mặt trên sân thượng có nhiều người đưa tiễn, trong đó có Lư Lan, Lưu Thị Lương và các bạn yêu thơ khác. Lần gặp lại này Hồ Thi Ca chỉ hỏi tôi một câu “Sao không thấy ông làm thơ nữa mà chuyển sang viết kịch bản phim cho Nguyễn Chánh Tín, chẳng lẽ ông hết yêu thơ rồi sao ?”. Trời ạ, làm sao có thể bỏ thơ được khi nó là nghiệp chướng của ḿnh. Tôi chỉ biết đọc cho Hồ Thi Ca bài THƠ GIẶT ĐỒ để lư giải :
THƠ GIẶT ĐỒ
Mới đầu ta định làm thơ
Sau cùng cảm thấy giặt đồ hay hơn
Sống như Hàn Tín ḷn trôn
Hăm bốn chữ cái nuôi mồm không xong
Ra đường sạch giữa đám đông
Về nhà đóng kín thư pḥng thấy dơ
Tắm nhiều lưng vẫn trơ trơ
Tốn bao nước rửa, bàn cờ vẫn xoay
Chi bằng sẵn áo quần đây
Ta dồn cái sạch bên ngoài vào trong
Sá ǵ một chút xà pḥng
Mà đi phản bội tấm ḷng chậu thau
Nắng lên, phơi áo công hầu
Đợi khô đóng kịch, biết đâu thành người
Ngoài Hồ Thi Ca, đầu năm 2008 tôi t́nh cờ tái ngộ lại một người bạn cố tri từ hồi c̣n học trung học công lập Trần Lục. Đó là Phương A, người bạn cận thị hiền lành ít nói nhà ở Xóm Bến Tắm Ngựa cạnh Xóm Lách của tôi. Phương A giờ đă là một thầy giáo giỏi chuyên môn dạy trường Nguyễn Thị Minh Khai, chủ nhân một blog có uy tín. Tôi không ngờ Phương A theo dơi con đường văn nghiệp gập ghềnh của tôi rất kỹ. Anh c̣n lưu giữ bài thơ tôi chép tay tặng anh năm học đệ lục (tức lớp 7). Anh “photo” tờ báo Xuân Trần Lục có bài viết của tôi để tặng tôi với nỗi ngậm ngùi. Hai đứa ngồi uống cà phê nhắc những thằng bạn nhà giàu giỏi giang đang lập nghiệp bên Mỹ như Đặng Quốc Thứ, Hoàng Quốc Quư… một cách bồi hồi. Coi, quen nhau năm 12 tuổi rồi bẵng đi hơn 40 năm mới gặp lại th́ cuộc đời hỏi sao chẳng như một cái nháy mắt. Phương A nháy mắt qua tṛng kính cận hỏi tôi về gia đ́nh, vợ con. Tôi chỉ biết đọc cho thằng bạn hành nghề “gơ đầu trẻ” bài thơ GIA HUẤN CA :
GIA HUẤN CA
Làm thơ tự do cuối năm
Làm thơ tự do trước khi rời thành phố
Thơ đắp mền cho phu nhân
Thơ lau mặt cho quư tử
Thơ có túi như con đại thử
Nhét nhân gian bốn cơi vào ḷng
Thơ cuồng nộ như cơn lũ
Móng vuốt thành trăm sông
Ái chà, ta làm thơ tự do
Tự do chữ, tự do vần tuyệt đối
Không câu nệ, chẳng từ chương
Đời te tua như hủi
Các triều đại thịnh suy v́ nói dối
Vua chúa sa cơ cũng giống ăn mày
Thơ ta nghèn nghẹn bảy món chay
Ca ngợi tự do trên thớt
Tự do của con cá bằm sả ớt
Cùi không sợ lở, hê hê
Khát vọng tương đương như tuyệt vọng
Con trai ḍng họ Kennedy lớn lên làm Tổng thống
Chuyện ngày xưa Lọ Lem xấu số hóa nữ hoàng
Ta đă từng nằm mơ đàm đạo với Quang Trung
Lúc thức dậy đất cắm dùi không có
Ai bảo sinh ra ở hóc bà tó
Mà mơ mộng ngai vàng
Thơ hay bá cháy con bọ chét
Cũng bèo như cóc ở trong hang
Con trai ta chịu chơi hơn ta
Nó có vương quốc riêng hết sảy
Vũ trụ chứa một tỷ người máy
Hành tinh gom một tỷ quân bài
Nó chơi game bằng một tỷ ngón tay
Ác thú, quái nhân đều nằm chỏng gọng
Nó trả thù trong trật tự riêng
Trật tự của một ngài Tổng thống
Đừng cười anh nghe em
Anh vẫn là gia trưởng
Đừng khi dễ ba nghe con
Ba vẫn là kẻ di truyền sự sống
Có làm cha thiên hạ vẫn muôn đời nói ngọng
Áo mặc không qua khỏi đầu
Sau này con lỡ làm thiên tử
Nhớ đừng quên gia phả chăn trâu
Trong cuộc đời đầy sóng gió của tôi có lẽ ông Nguyễn Thắng Vu là ân nhân cụ thể nhất. Nhiều người khác cũng có bụng “lân tài” giúp đỡ tôi nhưng kết quả thường huyền ảo hơn là hiện thực. Chính ông Nguyễn Thắng Vu, giám đốc NXB Kim Đồng mới là kẻ giao hẳn chiếc cần câu cho tôi câu miếng cơm. Nội vụ bắt đầu từ lúc Trần Đ́nh Nam, cán bộ biên tập NXB Kim Đồng vào miền Nam t́m tôi đặt hàng truyện dài HẢI ĐẠI BÀNG. Cuốn truyện phát hành thuở bao cấp xa xưa gây tiếng vang nhất định. Từ thành công bước đầu ấy, năm 1995 giám đốc Nguyễn Thắng Vu tin tưởng giao cho tôi phóng tác 70 cuốn TỨ QUÁI TKKG của Stefan Wolf qua bản dịch mộc của Vũ Hương Giang. Bằng kinh nghiệm giang hồ và văn phong không giống ai, tôi đă đẩy mỗi cuốn TỨ QUÁI TKKG phát hành hằng tuần lên con số trung b́nh 6 vạn bản, một con số mà đến giờ này chưa bộ sách nào phá nổi. Bộ TỨ QUÁI TKKG đă giúp tôi xây được một ngôi nhà khang trang đúng nghĩa tại Sài G̣n. Chưa dừng ở đó, năm 1997 giám đốc Nguyễn Thắng Vu tiếp tục đặt hàng tôi viết bộ truyện thiếu niên hành hiệp phiêu lưu mạo hiểm diệt bạo trừ gian hoàn toàn đặc sản Việt Nam mang tên 5 SÀI G̉N gồm 40 cuốn. Bộ truyện 5 SÀI G̉N cũng tạo được sự chú ư của dư luận với con số phát hành cao điểm mỗi cuốn lên tới 2 vạn bản mỗi tuần. Phải nói đây là lần đầu tiên 2 bộ truyện dành cho tuổi mới lớn trên được bày bán khắp các sạp báo, lẫn lộn và cạnh tranh với báo chí trên toàn quốc.
Xét về mặt năng lực, ngoài Huỳnh Bá Thành từng đưa tờ báo Công An TP từ trong bóng tối ra ánh sáng với con số phát hành kỷ lục gần một triệu số hằng tuần, th́ người thứ hai không ai khác chính là Nguyễn Thắng Vu, vị giám đốc tài ba và lăo luyện từng vực dậy NXB Kim Đồng cất cánh qua bộ truyện tranh ĐÔRÊMÔN, một bộ truyện nhập cảng từ Nhật Bản làm đảo lộn hết những cái nh́n mô phạm cứng ngắc trong kinh doanh của ngành xuất bản bao cấp nội địa. Ông Vu đối với gia đ́nh tôi có những t́nh cảm đặc biệt. Ông quan tâm đến tôi ngay cả lúc đă về hưu, chuyển sang làm chủ tịch hội đồng cố vấn cho NXB Kim Đồng. Tôi yêu quư và tôn trọng tâm huyết của ông về sự tự do cho trẻ con, sự công bằng cho người lớn khi ông nói về một thế giới mơ ước. Năm 2007 khi báo chí loan tin tôi về với hăng Chánh Tín Film của đạo diễn Nguyễn Chánh Tín để chuyên viết những kịch bản phim nhựa 45 phút đề tài kinh dị, hành động… Ông Nguyễn Thắng Vu đă gọi điện cho tôi nói rằng : “Xin chúc mừng em chuyển sang bước ngoặt mới. Theo anh th́ Bùi Chí Vinh có ba thời kỳ phất lớn trong sáng tác. Đó là thời kỳ làm thơ, thời kỳ viết truyện và bây giờ đến thời kỳ làm phim. Anh luôn tự hào và tin tưởng ở em”. Cuộc tṛ chuyện qua điện thoại rất dài và rất nhiều chuyện để nói giữa hai anh em ít khi gặp được nhau. Tôi không phản đối sự chúc mừng hồn nhiên của “lăo ngoan đồng” Nguyễn Thắng Vu, tuy nhiên trên thực tế tôi làm ǵ có thời nào cho ḿnh. Tôi sống bằng nổ lực tối đa để tự cứu ḿnh, cứu người thân, và cứu đồng loại. Chữ “thời” chỉ xảy ra với những kẻ liên minh quyền lực và tiền bạc trong khi tôi chỉ là một người cầm bút “solo”. Sau lưng tôi chỉ có nhân dân thấp cổ bé miệng, tôi đă bị “đóng đinh” không ít lần trong đời v́ chiến đấu cho số đông nhân dân bị quên lăng ấy.
Năm nay 2008 tôi đă bước vào tuổi “ngũ thập tri thiên mệnh”, người xưa nói số tuổi này nắm được mệnh trời. Tôi chẳng nắm ǵ cả, tôi ghê tởm bọn tham sân si và không thể đánh đu số mệnh giống chúng được. Tôi vẫn tiếp tục sống như một con người dù có lúc bị đẩy vào đường cùng như một con vật. Thậm chí tôi sẵn sàng đề tựa tập thơ NGỰA CŨNG BUỒN của thầy giáo Tiến sĩ dạy toán trường đại học Kinh Tế là Nguyễn Văn Nhân v́ tôi cảm thấy hạnh phúc khi đọc một tập thơ có những bài thơ hay. Bài tựa mang tên LỜI TRI Kỷ CHO NHÂN mà tôi phóng bút tại chỗ lúc ngồi với Phạm Hồng Danh, Nguyễn Văn Nhân trong một chiều mưa tầm tă. Xin trích bốn câu cuối cùng bài tựa mà tôi viết :
Đệ nh́n huynh như nh́n… con ngựa
Ngựa chứng nhiều khi cũng biết buồn
Ta nh́n đệ như nh́n đốm lửa
Cuối đường hầm leo lét mà thương
Phạm Hồng Danh, Thạc sĩ toán kiêm thi sĩ đại học Kinh Tế cũng là một chiến hữu từ trên trời rớt xuống. Danh biết tôi từ hồi hắn đi bộ đội nằm bệnh xá quân y nghe một sĩ quan Trung đoàn 10 Rừng Sát nằm giường kế bên kể về giai thoại cuộc đời tôi trong đơn vị của anh ta. Mối hảo cảm phát sinh nên khi gặp nhau dễ dàng trở nên huynh đệ. Qua Phạm Hồng Danh, tôi có dịp cụng ly với vô số thầy giáo dạy toán nhưng mê thơ như điếu đổ, các hiền đệ như Tuấn guitar chơi đàn ngọt xớt và hát không biết mệt. Quan niệm của tôi về thơ và đời nhẹ tênh như câu trả lời phỏng vấn cho một nhà báo báo Tin Tức Cuối Tuần. Khi được hỏi “Nhà thơ thời chiến tranh bảo vệ tổ quốc, nhà thơ thời thị trường và nhà thơ thời hội nhập trong suy nghĩ của ông ?” th́ tôi đă trả lời như sau : “Nhà thơ thời kỳ nào cũng phải giữ khí tiết và liêm sĩ. Thể chế chính trị có thể thay đổi theo thời gian dâu bể nhưng tác phẩm và tài năng măi măi trường tồn. Tôi c̣n nhớ sự tích Lư Bạch bắt Cao Lực Sĩ cởi giày, sau đó làm thơ ca tụng nhan sắc Dương Quư Phi, chọc giận Đường Minh Hoàng rồi bỏ triều đ́nh đi giang hồ lăng tử, cuối cùng ôm trăng mà chết. Sự tích đó thật đẹp. Hy vọng các nhà thơ chân tài lấy Lư Bạch làm tấm gương cho cuộc sống của ḿnh”.
Phát biểu trên thay cho lời khép lại GIAI THOẠI CỦA THI SĨ, PHẦN 4. Cái sự khép mang tính tiên tri trong một bài thơ mà tôi viết cách đây 10 năm, khi thế giới sắp bước vào năm 2000 với những lời sấm truyền về ngày tận thế. Bài thơ vượt qua giới hạn của mọi ràng buộc về quốc tịch, ngôn ngữ để nói lên tiếng cầu cứu của con người cô độc. Thiết nghĩ chép lại bài thơ DỰ BÁO NĂM 2000 ở đây để tạm kết thúc phần tự truyện này vẫn c̣n nguyên giá trị vượt thời gian:
DỰ BÁO NĂM 2000
Năm ấy ta 46 tuổi
Theo tử vi th́ bụng phệ má bầu
Biết làm t́nh sớm nên lưng đau
Biết làm ăn muộn nên răng rụng
Đừng vơ đoán về sự gầy sự thủng
V́ chưng mập ốm không do con người
V́ chưng trái đất không do bầu trời
Thời gian chia hai phần màu sắc
Ban đêm có màu đen súc vật
Ban ngày có màu vàng nhân sinh
Đứa trẻ sinh ra đă chết ngay không tăng thêm điêu linh
Thằng già hưởng thụ đă đời rồi nhăn răng không giảm phần khoái lạc
Con người nhún vai kiếp này rồi xuôi vai kiếp khác
Rồi vẫn mọc hai vai để gánh kiếp con người
Ta chưa hề bố thí kiếm lời
Nên Chúa Phật ban cho cái lỗ
Ta không mua bán với thiên cổ
Ta không đặt cọc với mai sau
Làm thơ như nói tục
Cục cứt không có đầu
Ta là một cục cứt năm 46 tuổi
Thối hoăng từ lúc mới sinh
Người ta cấy nhau trẻ con để được cường dương
Ta bị ăn cắp thân thể ngay khi mới đẻ
Những thằng người lớn v́ dục t́nh với nàng hầu, vợ bé
Đă lấy sự khỏe mạnh của ta gieo rắc trên giường
V́ gầy ốm ta thuở nhỏ bất lương
V́ bụng phệ ta lúc già thành Di Lặc
Con người ăn thịt lẫn nhau rồi biến mất
Cục cứt vẫn không có đầu
Đẻ ra đau
Ỉa ra khoái
Có ǵ khôi hài hơn khi cục cứt biết nói
Về sự thơm tho không tưởng của ḿnh
Rằng con người ta rất văn minh
Rằng con người ta không phải là một cây lau cây sậy
Rằng con người ta biết đái
Như biết thờ cúng ông bà
Tội nghiệp ông bà, trước khi ta được biết ta
Ta chỉ là một con sâu trong cái h́nh thù cương cứng
Cục cứt ơi đừng lúng túng
Nhà ngươi cứ phải thối hoăng dù trốn ở nhà lầu
Nhà ngươi nhăo nhẹt trong cao lâu
Lầy nhầy trong khách sạn
Nhà ngươi đẻ ra phát minh rồi trầm trồ tự thán
Coi chừng nguyên tử hủy diệt địa cầu
Nhà ngươi quên rằng ḿnh chẳng thể sống lâu
Trong cái phần thân thể thối
Bộ phận sinh dục của nhà ngươi lên tiếng nói
Công bằng, cơm áo, tự do
Hỡi những triết gia lừa dối
Trước sau ǵ mày cũng thành con ma
Ha ha
Ta là một con ma năm 46 tuổi
Một con ma đói
V́ ăn phải bă con người
Nguyễn Công Trứ chỉ muốn làm cây thông trên đồi
V́ ăn nhằm bỗng lộc
Nguyễn Khuyến về già mù mắt
V́ ngó phải công danh
Nguyễn Du vang tiếng lầu xanh
V́ dám nhận ḿnh bất lực
Nguyễn Trăi bị tru di tam tộc
V́ đẻ một lô con cháu chẳng ra ǵ
Trần Tế Xương nhậu nhẹt li b́
V́ sợ tỉnh ra là biết hết
Cao Bá Quát đâm đầu chết
Thiên tài kỳ cục vậy ta
Rơ ràng con người là một con ma
Lè lưỡi
Thằng giàu có nếm thức ăn giỏi
Lưỡi dài
Thằng nghèo túng quanh năm sắn khoai
Lưỡi ngắn
Lưỡi càng cong càng ma vô cùng tận
Ta có hồn ma có xác người
46 tuổi đời
2000 năm tuổi cứt
Không gian lắm chiều nên khi nằm dưới đất
Ta lúc nào cũng có thể bị văng ra
Trái đất tự xoay để tạo ngày giờ
Ta tự thối rửa để ḷi định mệnh
Thời gian giống như một con điếm
Truyền sida trên khắp màu cờ
Đừng tự hào v́ quốc kỳ mà chế tạo robo
Khi mọi thứ đều từ đất vụn
Nổ tung trái đất đi, hỡi các nhà vua xuất chúng
Các nút bấm tuyệt vời ở Nga, Mỹ, Nato
Không có lư do ǵ mùi cứt
2000 năm nay làm thối mũi các nhà thơ
Lịch sử sẽ mới nguyên nếu được bới từ tro
Các trái đất khác lại bắt đầu năm thứ nhất
Lẽ dĩ nhiên là bắt đầu thúi hoắc !
THÁNG 11 – 2008
BÙI CHÍ VINH